Đề tài Vấn đề chất lượng quản lí chất lượng trong các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay

Có thể nói trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm là biện pháp quyết định đến chủ trương đa dạng hoa sản phẩm, đa phương hoá thị trường của mọi nghành kinh tế nói chung và doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định để đảm bảo sự hoà nhập là đảm bảo sự phù hợp giữa các tổ chức, các phương thức hoạt đọng và các hệ thống luật pháp giã sản suất và kinh doanh trong nước với phương thức tở chức hoạt động và luật pháp trong thương mại với các nước, các tổ chức trên thế giới. Bên cạnh vai trò hỗ trợ của nhà nước đối với vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng, các doanh nghiệp nhà nước cần có những nhận thức đúng đắn về chất lượng, cần được trao đổi và cung cấp thông tin, bầy tỏ quan điểm không chỉ trên phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế đồng thời tăng cường công tác đạo nhằm khắcphục những yếu kém trong chất lượng và quản lý chất lượng. Để phát huy được những thành công đã dành được đồng thời khắc phục những tồn tại trong công tác quản lí chất lượng, các doanh nghiệp cần nắm bắt được xu hướng phát triển của chất lượng và quản lí chất lượng của nước ngoài và trên thế giới, trên cơ sở đó xây dựng được chính sách chất lượng cũng như chiến lược kinh doanh phù hơp. Có như vậy hành hoá của các doanh nghiệp Việt Nam nói trung cũng như của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói riêng mới có sức cạnh tranh về chất lượng trên trường quốc tế và Việt Nam mới thu ngắn được khoảng cách với các nước trên thế giới.

doc52 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 951 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề chất lượng quản lí chất lượng trong các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý thuyết về quản lý chất lượng toàn diện (TQM). Ông đã nêu ra 40 nguyên tắc của đều khiểu chất lượng tổng hợp. Các nguyên tắc này nêu rõ là tất cả các yếu tố trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu đặt hàng đến khâu tiêu dùng cuối cùng đều ảnh hưởng tới chất lượng. Ông nhấn mạnh việc kiểm soát quá trình bằng công cụ thống kê ở mọi nơi cần thiết. Ông nhấn mạnh điều khiển chất lượng toàn diện nhằm đạt được sự thoả mãn của khách hàng và đạt được lòng tin với khách hàng. *Ishikawa: Là chuyên gia nổi tiếng về chất lượng của Nhật bản và thế giới. Với quan điểm “Chất lượng bắt đầu bằng đào tạo và cũng kết thúc bằng đào tạo” ông luôn chú trọng đến việc giáo dục đào tạo khi tiến hành quản lý chất lượng. Ông đã đưa ra sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá) dùng trong quản lý chất lượng và nó đã trở thành 1 trong 7 công cụ thống kê chuyền thống. Đồng thời với quan niệm để tăng cường cải tiến chất lượng, phải hoạt động theo tổ đội và tuân thủ các nguyên tắc tự nguyện, tự phát triển, mọi người đều tham gia công việc của nhóm có quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ nhau tiến bộ trong bầu không khí cởi mở và tiềm năng sáng tạo thì ông đã góp phần rất lớn trong việc truyền bá hình thành các nhóm chất lượng (QC: Quality cycle). Như vậy, có thể nói rằng, với các cách tiếp cận khác nhau nhưng các chuyên gia chất lượng đã tương đối thống nhất với nhau về một số quan điểm chất lượng. Đó là: -Quản lý chất lượng theo quá trình. -Nhấn mạnh yếu tố kiểm soát quá trình và cải tiến liên tục với việc phát triển giáo dục, đào tạo. -Nhấn mạnh sự tham gia của tất cả mọi người trong tổ chức. -Nêu cao vai trò của lãnh đạo và các nhà quản lý. -Chú ý đến việc sử dụng các công cụ thống kê trong quản trị chất lượng. 3. Một số hệ thông quản trị chất lượng: Hệ thống quản lý chất lượng là một tổ hợp cơ cấu tổ chức, trách nhiệm thủ tục, phương pháp và các nguồn lực cần thiết để thực hiện quản lý chất lượng. Sổ tay chất lượng Các thủ tục Hướng dẫn công việc Hệ thống chất lượng là hệ thống các yếu tố được văn bản hoá thành hồ sơ chất lượng của doanh nghiệp. Cấu tạo của nó gồm 3 phần: - Sổ tay chất lượng đó là một tài liệu công bố chính sách chất lượng, mô tả hệ thống chất lượng của tổ chức,của doanh nghiệp. Nó là tài liệu để hướng dẫn doanh nghiệp cách thức tổ chức chính sách chất lượng. - Các thủ tục: Là cách thức đã được xác định trước để thực hiện một số hoạt động, trách nhiệm các bước thực hiện tài liệu ghi chép lại để kiểm soát và lưu trữ. -Các hướng dẫn công việc: Là tài liệu hướng dẫn các thao tác cụ thể của một công việc. Hiện nay, có nhiều hệ thống quản trị chất lượng đang được áp dụng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét một số hệ thống chất lượng: 1)Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO- 9000. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 do tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO ban hành đầu tiên vào năm 1987 nhằm mục đích đưa ra một mô hình được chấp nhận ở cấp Quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Năm 1994, bộ tiêu chuẩn ISO – 9000 được soát xét lại lần I và năm 2000 là soát xét lần II. -Năm 1987: Bộ tiêu chuẩn có 5 tiêu chuẩn chính là: ISO9000, ISO9001, ISO9002, ISO9003 và ISO9004 trong đó: +Tiêu chuẩn ISO9000 là tiêu chuẩn chung về quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng giúp lựa chọn các tiêu chuẩn. +Tiêu chuẩn ISO9001 là đảm bảo chất lượng trong toàn bộ chu trình sống của sản phẩm từ khâu nghiên cứu, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. +Tiêu chuẩn ISO9002 là đảm bảo chất lượng trong sản xuất,lắp đặt và dịch vụ. +Tiêu chuẩn ISO9003 là tiêu chuẩn về mô hình đảm bảo chất lượng trong khâu thử nghiệm và kiểm tra. +Tiêu chuẩn ISO9004 là những tiêu chuẩn thuần tuý về quản lý chất lượng, không dùng để ký hợp đồng trong mối quan hệ mua bán mà do các công ty muốn quản lý chất lượng tốt thì tự nguyện nghiên cứu áp dụng. -Năm 1994: Bộ tiêu chuẩn được soát xét lần I và nội dung đã có sửa đổi. +Từ tiêu chuẩnISO9000 cũ có các điều khoản mới ISO9000.1, ISO9000.2, ISO9000.3 và ISO9000.4 Trong đó: 1) ISO 9000. 1 thay thế cho ISO9000 cũ nhưnng hướng dẫn chung cho quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng. 2) ISO 9000. 2: Tiêu chuẩn hướng dẫn áp dụng ISO9001 và các tiêu chuẩn ISO 9002, ISO 9003. 3) ISO 9000. 3: Hướng dẫn áp dụng ISO9001 phần mềm. 4) ISO 9000. 4: Hướng dẫn quản lý chương trình đảm bảo độ tin cậy. +Từ tiêu chuẩn ISO 9004 cũ có thêm các điều khoản mới: ISO 9004. 1, ISO 9004. 2, ISO 9004. 3 và ISO 9004. 4. ISO 9004. 1: Hướng dẫn về quản lýchất lượng và các yếu tố của hệ thống quản lý chất lượng. ISO 9004. 2: Tiêu chuẩn hướng dẫn về dịchvụ. ISO 9004. 3: Hướng dẫn về vật liệu chế biến. ISO 9004. 4: Hướng dẫn về cách cải tiến chất lượng. -Năm 2000: Hiện đang thảo luận lần cuối. Cơ cấu của bộ tiêu chuẩn mới là từ 5 tiêu chuẩn năm 1994 sẽ chuyển thành4 tiêu chuẩn là: ISO- 9000:2000, ISO9001:2000, ISO9004:2000, ISO19011:2000.ư Trong đó: +ISO 9000: 2000 quy định những điều cơ bản về hệ quản lý chất lượng và các thuật ngữ cơ bản. Thay cho ISO8402 và thay cho ISO9000.1:1994. +ISO 9001: 2000 quy định các yêu cầu của hệ quản lý chất lượng mà một tổ chức cần thể hiện khả năng của mình để cung cấp sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng và của các luật lệ tương ứng.Nó thay thế cho ISO 9001: 1994 ISO 9002: 1994 ISO 9003: 1994 +ISO 9004: 2000 đưa ra những hướng dẫn để thúc đẩy tính hiệu quả và hiệu suất của hệ thống quản lý chất lượng. Mục đíchcủa tiêu chuẩn này là cải tiến việc thực hiện của tổ chức và nâng cao sự thoả mãncủa khách hàng cũng như các bên liên quan khác. Thay thế cho ISO9004.1:1994. +ISO 10011: 2000 đưa ra những hướng dẫn “kiểm chứng” hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống quản lý môi trường. Dùng để thẩm định ISO9000 và ISO14000. Có thể nói, ISO 9000 là điều kiện cần thiết để tạo ra hệ thống “mua bán” tin cậy trên thị trường trong nước và Quốc tế. Vì thế mà từ khi ban hànhbộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã được nhiều nước áp dụng và rất thành công. Với sự đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng về sản phẩm có chất lượng, với giá cạnh tranh thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tạo ra chất lượng bằng việc xây dựng một chiến lược chất lượng hàng đầu công ty, trong đó có hướng tiến tới việc áp dụng mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. Sự ra đời của phiên bản ISO 9000: 2000 vừa tạo thuận lợi vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam do yêu cầu mới đòi hỏi cao hơn. Vì thế các doanh nghiệp Việt Nam cần cập nhật kiến thức, cải tiến hệ thống của mình theo ISO 9000: 2000. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu bền vững và lâu dài, các doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ dừng laị ở việc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn mà cần quan tâm đến việc thực hiện mô hình quản lý chất lượng toàn diện. *Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM: TQM (total quality management) đây là một phươngn pháp quản trị hữu hiệu, được thiết lập và hoàn thiện trong các doanh nghiệp Nhật bản. Hiện nay đang được các doanh nghiệp ở nhiều nước áp dụng. Có thể định nghĩa TQM theo ISO 8402: 1994 như sau: TQM là cách quản lý một tổ chức, một doanh nghiệp tập trung vào chất lượng,dựa vào sự tham gia của các thành viên của nó, nhằm đạt được sự thành công lâu dài nhờ việc thoả mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành viên của tổ chức và cho xã hội. Có thể nói, lựa chọn và áp dụng TQM là bước phát triển tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Chính TQM là điều rất cần cho các doanh nghiệp Việt Nam để họ áp dụng nâng cao trình độ quản lý. ISO 9000 chỉ có một mức độ nhưng TQM có thể có nhiều mức độ khác nhau. TQM theo phương cách Nhật bản có thể coi là đỉnh cao của phương thức quản lý chất lượng còn Việt Nam có thể áp dụng TQM ở mức thấp hơn và cũng có thể dùng giải thưởng chất lượng Việt Nam để thưởng cho các doanh nghiệp áp dụng tốt TQM. ISO 9000 chỉ có chúng ta biết cần phải làm gì để đảm bảo phù hợp ISO 9000 nhưng làm như thế nào để đạt tới mức đó thì ISO 9000 không nêu rõ. Như chúng ta đã biết không phải dễ dàng gì để được chứng nhận ISO 9000 vì ít nhất chúng ta phải có hệ thống chất lượng đáp ứng được ISO 9000. Còn TQM có thể thực hiện trong các doanh nghiệp nếu các doanh nghiệp muốn dù họ ở mức độ TQM nào. Nói về sự lựa chọn hệ thống chất lượng áp dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam, ta có thể nêu ta ý kiến. Hệ thông TQM nên được tuyên truyền và áp dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam ngay mà không cần phải có chứng chỉ ISO 9000 rồi mới áp dụng. TQM nếu được áp dụng đứng đắn sẽ tạo ra được nội lực thúc đẩy mạnh mẽ việc cải tiến liên tục chất lượng sản phẩm thoả mãn khách hàng. Vì thế, để tự tin bước vào thế kỷ 21, các doanh nghiệp Việt Nam không thể không áp dụng TQM, cho dù họ có hay không có ISO 9000. Hệ thống HCCP ( Hazard Analysis and Critical controlpoinl ). Đây là hệ thống quản lý chất lượng trong hệ thống doanh nghiệp công nghiệp chế biến thực phẩm. Phương pháp này mục đích nhằm phân tích mối nguy cơ liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm và thực hiện kiểm soát các mối nguy cơ đáng kể tại điểm tới hạn. Hiện nay ở Việt Nam cùng với quá trình hoà nhập nền kinh tế với thế giới, Ngành thuỷ sản đã và đang áp dungh rất thành công phương pháp này và đã đạt kết quat tốt đẹp khi nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ thuỷ sản vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật HACCP cần được áp dụng rộng rãi và phổ biến hơn nữ trong các doanh nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam. Hệ thống GMP (Gôd Mamyaturing Practices): thực hành sản xuất tốt trong các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm và thực phẩm. Hệ thống này được chấp nhận và áp dụng ở một số nước trên thế giới từ những năm 70. Tuy nhiên đến năm 1993, GMP là yêu cầu bắt buộc đối với các thành viên của CAC (Codex Alimentarius Commision) áp dụng hệ thống này. Vì nếu được chứng nhận GMP, cơ sở sản xuất sẽ được quyền công bố với người tiêu dùng về sự đảm bảo an toàn thực phẩm của mình. Ngoài ra với GMP, doanh nghiệp còn có đủ điều kiện cần thiết để tiến hành xây dựng hệ thống HACCP. Phần II : những quan điểm, nhận thức về chất lượng và thực trạng công tác quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp nhà nước việt nam Hiện nay ở nước ta, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp công nghiệp có vị trí rất quan trọng. Có thể nói, sự hình thành, phát triển và điều chỉnh để các doanh nghiệp công nghiệp hoạt động theo đúng quỹ đạo của nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ là “những chiếc cầu” để Việt Nam nhanh chóng vươn lên, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và trên thị trường thế giới. Những thách thức đối với công nghiệp nước ta hiện nay là trình độ phát triển còn thấp, chất lượng tăng trưởng kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, cộng với sức mua của dân còn thấp. Điều đó được thể hiện qua mặt hàng xuất khẩu hiện nay chủ yếu tập trung vào các sản phẩm có “giá trị gia tăng” thấp: các nguyên liệu thô, chưa chế biến hoặc các hàng sơ chế. Các mặt hàng trong nước được bảo vệ và nâng đỡ nhiều trong việc bảo trợ hàng nội. Ví dụ: cà phê, các sản phẩm làm từ sữa Vinamilk Vì thế để tạo ra môi trường hoạt động kinh doanh tăng trưởng toàn diện tốt nhất thì bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng cả phần cứng và phần mềm thì Nhà nước phải khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư vào các hệ thống quản trị chất lượng. Đồng thời, tự bản thân các doanh nghiệp cũng phải thấy rõ được vai trò quan trọng của chất lượng trong các cơsở sản xuất, trong đời sống xã hội và đặc biệt trong lĩnh vực cạnh tranh cả với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Vậy thực trạng công tác Quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp công nghiệp VN ra sao? 1. Thực trạng vấn đề chất lượng quản lý chất lượng của các DNNN VN giai đoạn trước năm 1990. Đây là giai đoạn mà nền kinh tế của ta bắt đầu có những chuyển đổi từ sản xuất theo kế hoạch Nhà nước sang cơ chế quản lý theo kinh tế thị trường. Công tác quản lý chất lượng cũng từ đó có những chuyển đổi nhưng vẫn chịu ảnh hưởng lớn của thời kỳ trước. 1.1. Những nhận thức và hệ thống quản lý chất lượng trong giai đoạn này. Trong thời kỳ này. với suy nghĩ, để đảm bảo cho sản phẩm có đủ tiêu chuẩn về chất lượng thì bên cạnh hệ thống quản lý sản điều hành kế hoạch, mỗi cơ sở sản xuất hình thành lên một tổ chức quản lý chất lượng -phòng KCS. Tổ chức này được đặt dưới sự điều hành và kiểm soát trực tiếp của giám đốc, hoạt động độc lập và hoàn toàn khách quan với hệ thống sản xuất trực tiếp. Nhưng mong muốn KSC sẽ đảm bảo chất lượng cho sản phẩm đã không hoàn toàn xảy ra trong thực tế. Thực tế thì hàng hoá vẫn kém chất lượng, mẫu mã xấu và không thay đổi trong một thời gian dài. Hơn nữa lại rất lãng phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công cho những phế phẩm vì KCS chỉ làm nhiệm vụ kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm ở khâu cuối cùng. Không những thế, quan điểm của hầu hết các cơ sở sản xuất trong giai đoạn này đều cho rằng chất lượng chỉ được quyết định bởi khâu sản xuất, còn trong lưu thông phân phối thì không có liên quan. Khi hỏi đến chất lượng sản phẩm, ta thường gặp 1 câu trả lời chung là: “Người ta sản xuất ra như vậy”. Nhiều khi việc vi phạm quy chế quản lý chất lượng lại do chính giám đốc gây ra. Bởi tính thúc bách của kế hoạch giao nộp sản phẩm, nhiều trường hợp, giám đốc đã ra quyết định làm nhanh, làm ẩu, làm dối để đối phó với hoàn cảnh trước mắt. Một quan điểm chất lượng nữa trong giai đoạn này là áp đặt người tiêu dùng, buộc người tiêu dùng phải mua, phải dùng những thứ đã sản xuất ra. Ngoài những thứ đã có và đang được sản xuất theo chỉ tiêu, những thứ còn lại chỉ là chờ đợi và đang được sản xuất theo chỉ tiêu, những thứ còn lại chỉ là chờ đợi và ước mơ của người tiêu dùng vào hy vọng kế hoạch sẽ thay đổi. Chính vì thế mà người tiêu dùng chọn mẫu mã, chất lượng theo mong muốn của mình. 1.2. Từ nhận thức về vấn đề quản lý chất lượng đã đưa đến thực trạng của công tác quản lý chất lượng trong sản xuất như sau: Trong sản xuất, việc bảo đảm chất lượng hầu như là trách nhiệm riêng của những ngườichịu trách nhiệm quản lý, những người sản xuất trực tiếp hầu như không có liên quan vì họ không quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm. Những người sản xuất trực tiếp chỉ quan tâm đến năng suất lao động và định mức. Họ sợ việc chú ý đến chất lượng hàng hóa giao nộp đúng kế hoạch đã có nhiều sự gian dối trong chất lượng sản xuất xảy ra. Đồng thời, sau khi giao nộp hàng hoá, người sản xuất dường như đã xong trách nhiệm của mình. Chất lượng của sản phẩm hàng hóa cũng chỉ được quan tâm bởi trách nhiệm của doanh nghiệp đến khi sản phẩm đã ra khỏi nhà máy. Việc lưu thông, phân phối đi đâu, cho ai, sử dụng như thế nào và thông tin phản hồi như thế nào thừ phía khách hàng, DN không cần quan tâm đến. 1.3. Những hạn chế: Nhận thức về vai trò, vị trí và nội dung của công tác quản lý chất lượng trong nền kinh tế chưa theo kịp sự đòi hỏi cuả tình hình mới. Về năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn thấp kém. Kiến thức và kinh nghiệp quản lý chất lượng trong cơ chế thị trường còn yếu. Hệ thống tổ chức và cơ sở vật chất của cơ quan quản lý chất lượng từ Trung ương đến Địa phương chưa được nâng cao về cả số lượng và chất lượng. Mục tiêu của người sản xuất và của người tiêu dùng không đồng nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Xã hội. Người sản xuất không biết thị hiếu của người tiêu dùng, người tiêu dùng không hiểu về người sản xuất. Vì thế mà nhu cầu của người tiêu dùng bị tách rời vời sản xuất. Tách rời trách nhiệm của mỗi người với công việc mình đã làm. Người sản xuất trực tiếp sau khi công việc thì không cần quan tâm đến trách nhiệm về chất lượng công việc mình vừa làm. Doanh nghiệp cũng vậy, chỉ cần hoàn thành kế hoạch về chỉ tiêu số lượng. Đồng thời không có sự đồng nhất trong một công việc chung. Không có sự kiểm tra kết quả lao động của mỗi người. Vì thế không có sự nhịp nhàng, cân đối và hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống quản lý chất lượng (chủ yếu là các phòng KCS trong các doanh nghiệp) làm việc một cách thụ động, gây nhiều lãng phí và ít hiệu quả vì cần nhiều nhân viên trong khâu kiểm tra sản phẩm cuối cùng nên phòng KCS rất cồng kềnh, chi phí cao. Đồng thời, nhận thức về vấn đề quản lý chất lượng còn nhiều hạn chế bởi tính cứng nhắc, không phản ánh tính trung thực, khoa học và không xuất phát từ thực tế của nền sản xuất, thực tế của công nghệ kỹ thuật cơ sở và những thực tế nhu cầu về chất lượng của thị trường. Vì thế, để có hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh nói riêng của các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế tầm vĩ mô, công tác quản lý chất lượng phải có những thay đổi. 2.Giai đoạn từ năm 1990 đến nay: 2.1. Tình hình kinh tế đất nước - những yêu cầu đổi mới công tác quản lý chất lượng để theo kịp sự đổi mới của nền kinh tế. 2.1.1. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá ở nước ta Từ những năm 1990, sự đòi hỏi của thị trường trong nước cũng như ngoài nước buộc sản xuất muốn thích ứng và tồn tại phải có những đổi mới về công nghệ và trang thiết bị kỹ thuật. Là nước đi sau, Việt Nam được thừa hưởng viện trợ và chuyển giao công nghệ. Vì thế mà đội ngũ lao động được đào tạo và được kiểm soát trong hệ thống quản lý mới làm việc hiệu quả hơn, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao hơn và tuân theo những yêu cầu nhất định của nền kinh tế thị trường. 2.1.2 Những thay đổi về nhận thức của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng cũng có nhiều thay đổi. Bước vào thời mở cửa, khi mà hàng hoá tràn ngập trên thị trường thì có thể dùng thu nhập của mình để mua những thứ họ cần chứ không phải những cái họ được phân phối. Đồng thời, việc mua hàng có thể ở bất kỳ đâu trong thị trường cạnh tranh, hàng hoá, sản phẩm thì được hướng dẫn, giới thiệu trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng thì tất cả sự mua hàng trở thành sự lựa chọn tuỳ ý. Vì thế mà các chỉ tiêu lựa chọn sản phẩm cũng được hình thành: hàng phải tốt (bền, hiệu năng sử dụng cao,), hàng phải đẹp (hình dáng, mẫu mã, mầu sắc, thời trang) và dịch vụ mua phải thuận lợi (bảo hành, vận chuyển, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng) Với những ưu điểm như trên nhưng hàng hoá còn phải có giá cả phải chăng tiết kiệm được nhiều chí phí trong quá trình sử dụng. Hàng hóa nhiều và phong phú nên những nhu cầu thị hiếu của người mua cũng luôn biến động. Vì vậy, muốn đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp vừa phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu khách hàng vừa phải nghiên cứu kỹ thị trường, đối thủ cạnh tranh và cải tiến trang thiết bị máy móc để có thiể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. 2.1.3. Những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam . Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tìm kiếm sự ủng hộ để gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và sẽ cạnh tranh một cách toàn diện trên thế giới trong vài năm tới. Đạt được tư cách thành viên không dễ dàng nhưng điều đó cho phép Việt Nam thụ hưởng được tất cả mọi lợi ích từ các thành viên khác đồng thời cũng đứng trước nhiều thách thức. Việt Nam đang phải đối đầu với những yêu cầu đòi hỏi càng cao của khách hàng, môi trường kinh doanh thay đổi cung thường xuyên vượt cầu. Tham gia vào WTO, hàng hoá Việt Nam có cơ hội thâm nhập vào thị trường các nước thành viên qua việc lợi dụng hàng rào nhập khẩu thấp. Nhưng ngược lại, cánh cửa của thị trường Việt Nam được mở rộng hơn đón nhận hàng hoá từ các nước đó vào. Khi có tư cách thành viên WTO, các loại thuế nhập khẩu được giảm thiểu hoặc xoá bỏ, vào năm 2005, WTO sẽ tìm cách huỷ bỏ tất cả mọi sự bảo trợ cho nông nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam. Vì thế để hàng hoá Việt Nam thâm nhập và giữ được thị trường nước bạn cũng như bảo vệ được nền sản xuất của mình thì điều đầu tiên là hàng hoá phải có sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng, trong đó chất lượng là yếu tố số một. 2.2. Những nhận thức và quan điểm quản trị chất lượng trong giai đoạn này. Từ những thay đổi của nền snả xuất hàng hoá trong nước, sự thay đổi về nhận thức của người tiêu dùng và sự hội nhập nền kinh tế thế giới của nước ta đã đặt ra yêu cầu bức thiết về vấn đề quản lý chất lượng. Nhận thức và quan điểm về quản lý chất lượng đã có nhiều thay đổi nhưng bên cạnh những quan điểm đúng đắn còn tồn tại một số quan điểm còn lệch lạc. 2.2.1 Những nhận thức đúng đắn: Công tác quản trị chất lượng được coi trọng và đã được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cùng với sự đổi mới về kỹ thuật và công nghệ, các nhà sản xuất cũng như các nhà quản lý đã thấy được vai trò của chất lượng trong nền kinh tế. Họ đã tìm cách tổ chức việc quản lý chất lượng theo đúng hướng thông qua những việc cụ thể. + Tìm hiểu thị trường - tìm hiểu nhu cầu, thay đổi nhận thức về khách hàng và người cung ứng. Các KH và người cung ứng cũng là những bộ phận quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Định ra các chính sách để điều hành quản lý chất lượng, tìm ra các phương thức thích hợp để quản lý chất lượng như: TQM, ISO, HACCP, GMP và số lượng các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 9000, GMP, HACCP ngày càng tăng, đặc biệt trong những năm gần đây. Năm 1999 đã lên đến 70 doanh nghiệp. + Hoạt động quản lý chất lượng hiện nay đã có được sự quan tâm thật sự của các cấp lãnh đạo doanh nghiệp vì thiế hoạt động chất lượng được tiến hành ở nhiều cấp bậc khác nhau trong doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không chỉ dựng lại ở việc tăng cường quản lý chất lượng thông qua áp dụng một mô hình quản lý chất lượng mà còn đi xa hơn là biến hoạt động chất lượng thành phương châm, triết lý kinh doanh của doanh nghiệp. + Việc nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đa phần được thông qua việc chú trọng đến đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp đã xác định trong hệ thống nâng cao chất lượng sản phẩm thì sau khi nắm bắt được nhu cầu thị trường thì đổi mới công nghệ nước ta còn thua kém nhiều so với thế giới, nên đề chất lượng nâng cao cùng mặt bằng với chất lượng một số nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta phải đổi mới công nghệ. Đi song song cùng với đổi mới công nghệ là các giải pháp quan trọng khác liên quan trực tiếp đến đảm bảo chất lượng sản phẩm như nghiên cứu thiết kế sản phẩm phù hợp với thị trường, nâng cao các thông số kỹ thuật, tăng giá trị sử dụng, đáp ứng tốt các yêu cầu của người sử dụng vì sự tiện lợi, an toàn, thẩm mỹ, xác định nâng cao trách nhiệm chất lượng là nhiệm vụ của mọi người do đó phân công công việc cụ thể phù hợp với khả năng để phát huy tối đa năng lực của người lao động. + Bên cạnh những doanh nghiệp lớn quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu mô hình ký thuật và phương thức quản lý chất lượng hiện đại, các doanh nghiệp tư nhân với quy mô sản xuất vừa và nhỏ cũng thực hiện cac công tác liên quan đến chất lượng qua các khâu mua bán nguyên liệu, kiẻm soát các sản phẩm trong quá trình sản xuất + Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp VN tham gia các hội thảo, hội nghị, tập huấn do Nhà nước hoặc các tổ chức các nước ngoài thực hiện ngày càng tăng. + Hoạt động quản lý chất lượng của Việt Nam đã hoà nhập bước đầu với Thế giới thông qua việc tiếp cận các hệ thống qunả lý chất lượng tiên tiến, quan niệm quản lý chất lượng toàn diện, chất lượng và trình độ quản lý, xu hướng quản lý chất lượng vì con người. Những sự thay đổi tích cực đó đã đưa đến những thành công ban đầu cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp lựa chọn và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. Sau đây là những ví dụ cụ thể: Công ty vật liệu xây dựng Bưu Điện với các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm Là một doanh nghiệp Nhà Nước thuộc Tổng công ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam, xí nghiệp bê tông và xây lắp Bưu Điện được thành lập năm 1959. Đến năm 1996, đổi tên thành công ty vật liệu xây dựng Bưu Điện và từng bước thực hiện hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mạng bưu chính viễn thông Việt Nam. - Những giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm mà công ty đề ra là: + Sắp xếp lao động phù hợp giữa năng lực và công việ, yêu cầu, tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng KHKT, cải tiến công nghệ, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình công cho công nhân. + Kiểm tra chặt chẽ quy trình công nghệ sản xuất, ghi mã số vào sản phẩm để quy kết trách nhiệm, xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với người vi phạm và có chế độ thưởng phạt rõ ràng. + Theo dõi chặt chẽ trang thiết bị máy móc, thực hiện nghiêm chỉnh nội quy vệ sinh công nghiệp. + Thực hiện tốt bảo hành sản phẩm, không cho phép xuất hàng khi sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn. Nếu khách hàng phản ánh, công ty cử cán bộ có trách nhiệm đến xem xét, xác định rõ trách nhiệm và có biện pháp giải quyết hợp lý, kịp thời. + Thực hiện chào hàng cạnh tranh để lựa chọn thiết bị vật tư, nguyên vật liệu trong nước thay thế nguyên vật liệu nhập khẩu. Đây là yếu tố giúp công ty thành công trong việc quyết định giá cạnh tranh đấu thầu của công ty. + Sản phẩm của công ty được sản xuất ra đều được bộ phận chất lượng kiểm tra theo tiêu chuẩn. Đồng thời công ty cũng thực hiện đăng ký chất lượng và thường xuyên đưa mẫu để phân tích thử nghiệm, và cấp dấu phù hợp tiêu chuẩn. Hiện nay công ty đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng và áp dụng hệ thống quản trị chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc Tế ISO 9002. Nhờ làm tốt công tác quản lý chất lượng, công ty đã đạt được những kết quả sau: + Ba năm liền tham gia Giải thưởng Chất lượng Việt Nam, công ty đều được Bộ KHCN và MT trao tặng giải bạc là các năm 97, 98, 99. + Hai năm 1998, 1999, công ty được tặng 5 huy chương vàng tại Hội chợ hàng công nghiệp Việt Nam. + Sản phẩm ống cáp DSF và HI-3P được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao, sản phẩm ống cáp PVC thông tin đã có mặt trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước Và chắc chắn, công ty vật liệu xây dựng Bưu Diện sẽ còn đạt được nhiều thành tựu lớn hơn nữa trong những năm tới do sự đúng đắn trong hướng đi của mình. 2.2.2 Những quan điểm còn lệch lạc dẫn tới thực trạng sau: Hoạt động quản lý chất lượng trong một số doanh nghiệp còn mang tính tự phát, thiếu sự nghiên cứu và định hướng khoa học. Một số doanh nghiệp lúng túng trong việc lựa chọn mô hình quản lý chất lượng. Việc tổ chức quản lý chất lượng trong một số doanh nghiệp còn mang tính dò dẫm, tự phát chưa có sự hướng dẫn và tư vấn của cơ quan quản lý chất lượng Nhà nướ hay các tổ chức, công ty nước ngoài. Sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về hệ thống chất lượng chưa đồng bộ. Trong đó: + Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và công ty liên doanh có sự hiều biết khá sâu sắc về các hệ thống TQM, HACCP, ISO, GMP... và phần lớn các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 9000 hiện nay đều thuộc loại này + Các doanh nghiệp Nhà nước có sự hiểu biết nhất định về các hệ thống chất lượng. Nhiều doanh nghiệp đang phấn đấu đạt ISO9000 hoặc triển khai TQM. Tuy nhiên còn nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến vấn đề này do đang có lợi thế độc quyền về sản xuất kinh doanh. + Các doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty TNHH với quy mô sản xuất vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ở địa phương xa còn rất hạn chế trong sự hiểu biết và áp dụng các hệ thống chất lượng. Một số doanh nghiệp chỉ coi trọng vấn đề được cấp chứng chỉ chất lượng mà áp dụng như một phong trào mang tính đối phó, không đi sâu vào bản chất của quản trị chất lượng. Do không đủ năng lực và trình độ, một số doanh nghiệp đã thực hiện làm hàng nhái, hàng bắt chước. Họ không tự tìm cho mình một đường đi thích hợp mà lợi dụng uy tín của người khác đánh lừa người tiêu dùng còn chất lượng thực sự của sản phẩm họ không quan tâm. 2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. Công tác quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu sau: + Về góc độ thị trường: Hàng hoá mẫu mã phong phú, chất lượng tốt hơn, đa dạng về chủng loại Bao bì đẹp, hấp dẫn. Khâu giới thiệu sản phẩm và dịch vụ sau bán tốt hơn Những mặt hàng công nghiệp phục vụ tiêu dùng đã đáp ứng được mong muốn của khách hàng. Đặc biệt một số mặt hàng như giầy dép, đồ may mặc, chế biến thuỷ sản đã được thị trường nước ngoài chấp nhận. Đẩy lùi được một số mặt hàng trước đây vẫn chiếm lĩnh thị trường nước ta như: Bánh kẹo, hàng điện tử, hàng may mặc... + Về góc độ doanh nghiệp: Nâng cao được nhận thức và phong cách làm việc của toàn bộ cán bộ quản lý và điều hành công nhân sản xuất. Quan hệ giữa các thành viên trong mỗi bộ phận, phòng ban, phân xưởng được tăng cường cùng nhau hướng tới mục tiêu chung là năng xuất, chất lượng của sản phẩm. Tăng lợi nhuận do giảm được chi phí phế phẩm, chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng. Tạo được lòng tin của khách hàng cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài. Bên cạnh đó còn có những tồn tại sau: Số lượng các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đang tăng lên song nếu so với tổng số thì vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Hoạt động quản trị chất lượng ở nước ta đã có những thay đổi nhưng nếu chúng ta xoá bỏ hàng rào nhập khẩu khi ra nhập AFTA thì chất lượng hàng hoá của ta đa phần vẫn chưa đủ khả năng cạnh tranh với nước bạn về chất lượng, giá cả. Công nghệ tuy đã đổi mới song vẫn chưa đồng bộ và vẫn còn kém các nước phát triển nhiều thế hệ. Vì thế sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam rất khó có thể có mặt bằng chất lượng ngang bằng các nước này. Trên thực tế, ở một số doanh nghiệp, vai trò thúc đẩy của lãnh đạo trong công tác QTCL vẫn chưa nổi bật, vẫn làm theo tính tự phát, không có sự hướng dẫn đầy đủ. Hàng nhái, hàng giả và hàng lậu lưu hành nhiều trên thị trường gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh công việc kinh doanh theo pháp luật. Đồng thời điều này cũng dẫn đến sự xâm phạm sở hữu bản quyền công nghiệp của một số doanh nghiệp có uy tín và lợi ích của người tiêu dùng. Trước tình hình trên, công tác quản lý chất lượng đòi hỏi phải có những biện pháp tích cực. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam Hiện nay. 1. Tại các doanh nghiệp. 1.1. Đổi mới và hoàn thiện nhận thức về vai trò của chất lượng và quản lý chất lượng. Đổi mới quan niệm coi chất lượng là vấn đề kỹ thuật đơn thuần. Các nhà sản xuất kinh doanh và các nhà quản lý nói chung phải thấy được: Chất lượng không chỉ là trách nhiệm của phòng chất lượng, là kiểm tra, thử nghiệm mà là trách nhiệm của tất cả mọi người và phải được thực hiện ở tất cả các cấp, các khâu trong quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp mà đặc biệt là trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp. Chất lượng không phải là vấn đề kỹ thuật đơn thuần mà là tổng hợp các vấn đề kinh tế – văn hoá - kỹ thuật. Vì thế QTCL phải là quá trình quản lý đồng bộ và toàn diện. Vai trò của lãnh đạo là hết sức quan trọng. Việc xác định trách nhiệm đảm bảo và nâng cao chất lượng là trách nhiệm của mọi người mọi thành viên nhưng trong đó 80% thuộc về người quản lý cao nhất. Đổi mới suy nghĩ chỉ coi trọng kiểm tra kết quả của sản phẩm chứ không chú ý đến các hệ thống, các nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chất lượng. Như vậy hàng hoá làm ra có phẩm chất kém sẽ giảm và chi phí kiểm tra, bảo hành, sửa chữa sẽ đỡ tốn kém hơn. Những kiến thức về chất lượng và phương pháp quản trị chất lượng phải được phổ cập cho các thành viên trong doanh nghiệp. Phải xây dựng quan điểm mới: Coi khách hàng và người cung ứng cũng là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thiết lập quan hệ bền vững với nhà cung ứng, tổ chức rộng rãi để người tiêu dùng tham gia đóng góp ý kiến về chất lượng của sản phẩm của doanh nghiệp. 1.2. Tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá và quản lý đo lường tại cơ sở. Xây dựng và thực hiện những tiêu chuẩn của doanh nghiệp và tiêu chuẩn quốc gia. Hoạt động tiêu chuẩn hoá đo lường và quản lý đo lường tốt là nền tảng cho hoạt động cho quản lý chất lượng tốt và là khâu quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm . Nội dung chính của hoạt động tiêu chuẩn hoá gồm: - Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, không chỉ cụ thể hoá tiêu chuẩn cấp trên mà còn phải mang tính cạnh tranh, giúp doanh nghiệp chiếm ưu thế so với các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. - Tổ chức triển khai áp dụng tiêu chuẩn doanh nghiệp và tiêu chuẩn cấp nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. - Thường xuyên cập nhật thông tin liên quan đến sản phẩm của doanh nghiệp nhằm soát xét tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Đảm bảo trang bị đầy đủ các thiết bị đo thử nghiệm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. - Tiến hành bảo dưỡng, hiệu chỉnh định kỳ các thiết bị và dụng cụ đo, đảm bảo hoạt động đúng đắn chính xác. Các tiêu chuẩn ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm và ngược lại, công tác nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm đã kích thích việc tạo ra các tiêu chuẩn chất lượng tốt hơn. Các doanh nghiệp nên áp dụng các tiêu chuẩn tự nguyện và thực hiện nghiêm chỉnh những tiêu chuẩn bắt buộc mà nhà nước đề ra. Vì thế, doanh nghiệp muốn nâng cao chất lượng sản phẩm và muốn có lòng của khách hàng thì phải gắn liền với tiêu chuẩn. 1.3. Tăng cường đổi mới công nghệ, chú trọng đào tạo nhân lực. Chất lượng sản phẩm được quyết định phần lớn bởi công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Vì vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm lên trình độ mới, không còn con đường nào khác là phải cải tiến đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị. Để cải tiến và đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp cần đề ra chính sách và chiến lược thực hiện. Chiến lược phải có mục tiêu phù hợp với nhu cầu thị trường tiêu dùng hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra. Có nhiều loại đầu tư cải tiến công nghệ như chuyển giao công nghệ tìm tòi, đầu tư mới đầu tư chiều sâu và phát huy sáng kiến cải tiến trong các đơn vị tập thể của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên chọn một hình thức phù hợp. Việc đào tạo nguồn nhân lực cũng rất quan trọng. Nó phải xuất phát từ định hướng quản lý về con người của chính doanh nghiệp. Việc đào tạo nhân lực không chỉ phục vụ cho yêu cầu trước mắt mà còn cho cả tương lai, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh doanh cũng như chất lượng của doanh nghiệp. 1.4. Lựa chọn mô hình quản lý chất lượng phù hợp. Điều quan trọng đối với doanh nghiệp trong vấn đề QLCL là phải lựa chọn được mô hình QLCL phù hợp. Bởi sự lựa chọn đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp phát huy hiệu quả mô hình quản lý, tích kiệm được thời gian và tiền bạc, đạt được chính sách và những nhiệm vụ kinh doanh đã đề ra. Tiêu chuẩn để lựa chọn hệ thống chất lượng: + Dựa vào quy mô, loại hình, tính chất sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Phải đảm bảo hiệu quả và lợi ích sau khi áp dụng. + Đối với mô hình 5S Phạm vi áp dụng: Trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đối tượng: phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ. 5S là một nội dung quan trọng của TQM. Là những bước đầu tiên trước khi áp dụng TQM và là nền tảng cho việc cải tiến chất lượng của một công ty.5S là chữ viết tắt của 5 chữ cái Nhật và được dịch sang tiếng Việt như sau: Seiri: Sàng lọc Seiso: Sạch sẽ Seiton: Sắp xếp Seiketsu: Săn sóc Shisuke: Sẵn sàng Đây là cơ sở của một quá trình quản lí có hệ thống khoa học và nề nếp. Mô hình này rất phù hợp với những cơ sở sản xuất có bộ máy quản lí nhỏ gọn, như hợp tác xã . *Mô hình 7S Mô hình này phù hợp với các doanh nghiệp vừa và tương đối lớn hoạt động trong lĩnh vực cơ khí ,điện tử ,dịch vụ viễn thông... 7S là chữ viết tắt của 7 chữ tiếng Anh mang nội dung cơ bản sau: Stretegy: Chiến lược Struture: Cơ cấu System: Hệ thống Staff: Nhân viên Styte: Tác phong Skills: Kĩ năng Super ordinate goals: Mục tiêu cao nhất Đây là mô hình rất thích hợp với các doanh nghiệp kiểu mới, điều hành mạnh mang tính hệ thống và mối quan hệ được xác lập chặt chẽ. *Mô hình GMP: Mô hình thực hành sản xuất tốt (GMP) áp dụng chung cho các cơ sở sản xuất thực phẩn và dược phẩm, mục đích của nó nhằm kiểm soát tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành chất lượng từ thiết kế, xây lắp nhà xưởng, thiết bị, dụng cụ chế biến, điều kiện phục vụ và điều kiện chế biến. GMP có thể được áp dụng đối với cả doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn. Nội dung của phương pháp như sau a>Điều kiện nhà xưởng và phương tiện chê biến bao gồm + Khu xử lí thực phẩm. + Phương tiện vệ sinh. + Phương tiện chiếu sáng, thông gió , đo đọ ẩm. + Thiết bị và dụng cụ. + Hệ thống an toàn. b> Kiểm soát vệ sinh nhà xưởng bao gồm: + Bảo quản hoá chất nguy hiểm. + Đồ dùng cá nhân. c> Kiểm soát quá trình chế biến đối với: + Nguyên vật liệu. + Hoạt động sản xuất. d> Về con người bao gồm: + Điều kiện sức khoẻ. + Các bệnh lây nhiễm. + Chế độ vệ sinh. + Giáo dục cho đào tạo và đầu tư cho đào tạo. e> Kiểm soát khâu phân phối: Việc kiểm soát khâu phân phối nhằm bảo đảm để chánh nhiễm bẩn thực phẩm bởi các tác nhân vật lí, hoá học, vi sinh . . . và không làm phân huỷ thực phẩm . Hiện nay ở Việt Nam nghành y tế và thuỷ sản đã có quyết định áp dụng hệ thống này đối với các xí nghiệp dược phẩm và thuỷ sản xuất khẩu. Việc thực hiện tốt GMP sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc triển khai mô hình quản lí chất lượng HACCP. Vì thế đây là một việc rất cần thiết. (* ) Hệ thống HACCP: xác định và kiểm soát các điểm có nguy cơ nhiễm bẩn trong quá trình chế biến thực phẩm. Mô hình này được áp dụng phù hợp với các doanh nghiệp quy mô có thể nhỏ vừa hoặc lớn hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến thực phẩm. Đặc biệt áp dụng HACCP hiện nay là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm thuỷ sản muốn xuất sang thi trường Mĩ và EU. Khi áp dụng HACCP phải bảo đảm 7 nguyên tắc sau: ( đây cũng chính là nội dung cơ bản của HACCP ). Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích các mối nguy hại. Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát giới hạn (CCPs). Nguyên tắc 3: Xác lập các ngưỡng tới hạn . Nguyên tắc 4: Thiết lập hệ thống giám sát các điểm tới hạn ( CCP) . Nguyên tắc 5: Xác định các hoạt động khắc phục cần phải tiến hành khi hệ thống giám sát cho thấy một điểm kiểm soát tới hạn không được kiểm soát. Nguyên tắc 6: Xác lập các thủ tục kiểm tra để khẳng định rằng hệ thống HACCP đang hoạt đọng có hiệu quả. Nguyên tắc 7: Thiết lập hệ thống tài liệu liên quan đến mọi thủ tục, hoạt động của chương trình HACCP phù hợp với nguyên tắc trên và việc áp dụng chúng. Hiện nay việc áp dụng hệ thống HACCP đang được một số bộ, nghành nghiên cứu tại Việt Nam và là một vấn đề cấp bách mà bộ thuỷ sản đang quan tâm. Việc áp dụng HACCP là cần thiết bởi nó không chỉ để an toàn vệ sinh đối với hàng hoá xuất khẩu mà còn phải an toàn đói với hàng hoá trong nước, đặc biệt là đối với doanh nghiệp sản xuất với sản lượng lớn. (*) Mô hình đảm bảo chất lượng QBase. Đây là mô hình do Newzeland phát triển dựa trên mô hình đảm bảo chất lượng theo ISO 9000, nhưng chỉ đẻ áp dụng riêng cho cá doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng Q_Base thì không được thông dụng và có uy tín như ISO 9000, nên các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay áp dụng rất ít. Nếu xét về bản chất chứng chỉ ISO 9000 chỉ như một loại giấy thông hành nên chưa đầy đủ đối một doanh nghiệp muốn có một sự thay đôỉ về chất trong hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, việc quản lí chưa hình thành một hệ thống. Vì vậy việc áp dụng ngay hệ thống đảm bảo chất lượng theo ISO 9000 thì quá sức và chưa phù hợp. Vì thế nếu trong điều kiện nhu cầu về chứng chỉ ISO 9000 chưa cấp bách, chúng ta có thể áp dụng mô hình quản lí Q_Base trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách nghiêm túc. Nội dung của Q_ Base là ISO 9000 rút gọn. (*) Mô hình đảm bảo chât lượng ISO 9000. Mô hình đảm bảo chât lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 là mô hình hệ chất lượng trong đó đề cập tới những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong phạm vi công ty, nhưng phương thức nhằm ngăn ngừa và loại trừ sự không phù hớp với những quy định đề ra. Sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn hoá và chất lượng trên thế giới nhờ nôị dung thiết thực và ở sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước trên thế giới đặc biệt là trong các nghành công nghiệp. Chính vì ISO 9000 ra đời đáp ứng được nhu cầu nóng hổi của thời đại nên trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang xúc tiến xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn này. Để áp dụng có hiệu quả hệ thống chất lượng theo ISO 9000, nên tiến hành theo các bước sau: 1. Đánh giá các nhu cầu. - Các nhu cầu của thị trường. - Các yêu cầu của khách hàng. - Các yêu cầu điều chỉnh. 2. Xác nhận những đặc thù của sự cải tiến một nhu cầu nào đó. 3. Nghiên cứu các tiêu chuẩn ISO 9000. 4. Làm theo hướng dẫn ISO 9000-1 ( năm 1997 ). 5. Xây dựng và áp dụng hệ quản lí chất lượng theo chỉ dẩn của ISO 9004-1( năm 1997 ). 6. Xác định các nhu cầu đánh giá chất lượng xem xét hệ thống có phù hợp với tiêu chuẩn không? 7. Chọn thực hiện mô hình ISO 9001, ISO 9002 hay ISO 9003( năm 1997 ). 8. Thẩm định ( thanh tra ) hệ chất lượng. 9. Lập kế hoạch cải tiến liên tục, ít nhất là hàng năm. Lợi ích của việc áp dụng ISO 9000: - ISO 9000 có thể coi là giấy thông hành trong các hợp đồng kinh tế vì thế tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở ra thị trương mới. Mối quan hệ thương mại trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. - Vì thực hiện theo nguyên tắc "làm đúng ngay từ đầu" nên tăng khả năng chánh lãng phí, doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí do sai hỏng, bồi thường khách hàng chi phí cho sửa chữa sản phẩm hỏng. . . vì thế giảm giá thành và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. - Khi một doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 chứng tỏ doanh nghiệp đó có một cơ cấu quản lí chất lượng nghiêm chỉnh. - Doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 sẽ được ghi trong danh sách các tổ chức được chứng nhận, có khả năng được EU công nhận. - Trong công tác xin thầu cũng có nhiều lợi thế hơn nhưng doanh nghiệp không áp dụng. - Nâng cao được nhận thức và phong cách làm việc của cán bộ. - Tạo môi trường làm việc thống nhất, khoa học. Nhưng chi phí để triển khai áp dụng ISO 9000 lớn nên đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi lựa chọn mô hình quản lí ISO 9000 cần xem xét các vấn đề sau: - Nhu cầu của việc có chứng chỉ hệ thống đảm bảo ISO 9000 có cấp bách và tiên quyết? điều này quyết định tới nhu cầu thâm nhập thị trường, việc cạnh tranh trong kinh doanh thương mại không? - Có thể thay thế ISO 9000 bằng một hệ thống quản lí chất lượng khác phù hợp hơn và lại có chí phí ít hơn không? (ví dụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên áp dụng Q-Base thay cho ISO 9000) (*) Mô hình quản lí chất lượng tổng hợp TQM. - Hệ thống TQM đưa ra các phương thức và biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ với đọ tin cây và ổn định cao, đònh thời nhằm đáp ứng nhu cầu luôn biến động của người tiêu dùng. So với các mô hình khác, TQM đặc biệt chú ý đén vấn đè cải tiến sản phẩm và phát triển sản phẩm mới. Việc áp dụng TQM đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm của doanh nghiệp. Nhưng TQM có nhiều mức độ khác nhau. Có thể là trình độ rất cao như ở các doanh nghiệp Nhật Bản nhưng nếu áp dụng ở Việt Nam có thể áp dụng ở trình độ quản lí thấp hơn kết hơp với các giải thưởng chất lượng Việt Nam. - Các nguyên tắc khi áp dụng TQM: + Nguyên tắc coi trọng vai trò con người. + Nguyên tắc chất lượng là trên hết. + Nguyên tắc toàn diện. + Nguyên tắc đồng bộ. + Nguyên tắc hồ sơ tài liệu. + Nguyên tắc kế hoạch. + Nguyên tắc kiểm tra. - Những nội dung cơ bản của TQM khi áp dụng cần chú ý + áp dụng phương pháp thống kê dung trong quản lí chất lượng. + Kiểm tra. + Quản lí đo lường. + Xác định yêu cầu kĩ thuật đối vơi chất lượng sản phẩm. + Quan hệ với người cung cấp nguyên vật liệu. + Quản lí qúa trình sản xuất. + Quan hệ vơi khách hàng. + Đánh giá chất lượng. + Thanh tra chất lượng. + Vấn đề kinh tế trong quản lí chất lượng. Trên đây là một số mô hình đảm bảo chất lượng mà các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam nên quan tâm và áp dụng. mỗi mô hình phù hợp với loại hình kinh doanh và quy mô sản suất riêng nhưng đều mang lại lợi ích nhất định. 2. Tầm vĩ mô. Trong giai đoạn hiệ nay, khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường thì vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, vai trò của nhà nước đối với quản lí chất lượng nói riêng là rất quan trọng. Để nâng cao công tác quản lí chất lượng trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay, nhà nướcd cần có các biện pháp sau: - Đẩy mạnh hơn việc thực hiện pháp lệnh về chất lượng: + Xây dựng và quy định các tiêu chuẩn bắt buộc đối với những mặt hàng phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, y tế, hoá chất. . . kết hợp đồng thời với việc khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn tự nguyện. + Thực hiện chặt chẽ hơn các quy định về nhãn mác, tên gọi để bảo vệ bản quyền, lợi ích của các doanh nghiệp cũng như lợi ích của người tiêu dùng khỏi hàng nhái, hàng bắt chước và hàng giả. + Thực hiện tiêu chuẩn, kiểm dịnh các phương tiện, dụng cụ đo dúng theo định kì đẻ đảm bảo sự công bằng thống nhất và chính xác. - Phổ cập kiến thức về chất lượng và quản lí chất lượng thông qua mở các lớp đào tạo cán bộ quản lí chất lươngj trong các doanh nghiêp. - Đẩy mạnh công tác hỗ trợ các doanh nghiệp trong vioệc áp dụng các mô hình và phương thức quản lí chất lượng. Hiện nay, vấn đề áp dụng hệ thống chất lượng là một vấn đè rất nhậy cảm, ảnh hưởng tới đảy nhanh tốc độ áp dụng mô hinh quản lí chât lượng ở Việt Nam, trong đó có các chi phí như tư vấn, chi phí chứng nhận. Việc đàu tư này có mang lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và sự kiên trì của doanh nghiệp. Vì thế phải có những chính sách mang tính khuyến khích và ưu đãi các doanh nghiệp trong việc áp dụng các hệ thống và mô hình quản lí chất lượng, co thể là những ưu đãi về thuế, tín dụng . . . đặc biệt là đói với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, nhà nước có thể là người gây dựng các phong trào chất lượng dưới nhiều hình thức như những giải thưởng chất lượng, các cuộc triển lãm, hội chợ, các đợt tuyên truỳen về chất lượng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nếu được sự quan tâm của nhà nước đúng lúc, đúng chỗ và hợp lí thì phong trào, quản lí chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được nâng cao. kết luận Có thể nói trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm là biện pháp quyết định đến chủ trương đa dạng hoa sản phẩm, đa phương hoá thị trường của mọi nghành kinh tế nói chung và doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định để đảm bảo sự hoà nhập là đảm bảo sự phù hợp giữa các tổ chức, các phương thức hoạt đọng và các hệ thống luật pháp giã sản suất và kinh doanh trong nước với phương thức tở chức hoạt động và luật pháp trong thương mại với các nước, các tổ chức trên thế giới. Bên cạnh vai trò hỗ trợ của nhà nước đối với vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng, các doanh nghiệp nhà nước cần có những nhận thức đúng đắn về chất lượng, cần được trao đổi và cung cấp thông tin, bầy tỏ quan điểm không chỉ trên phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế đồng thời tăng cường công tác đạo nhằm khắcphục những yếu kém trong chất lượng và quản lý chất lượng. Để phát huy được những thành công đã dành được đồng thời khắc phục những tồn tại trong công tác quản lí chất lượng, các doanh nghiệp cần nắm bắt được xu hướng phát triển của chất lượng và quản lí chất lượng của nước ngoài và trên thế giới, trên cơ sở đó xây dựng được chính sách chất lượng cũng như chiến lược kinh doanh phù hơp. Có như vậy hành hoá của các doanh nghiệp Việt Nam nói trung cũng như của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói riêng mới có sức cạnh tranh về chất lượng trên trường quốc tế và Việt Nam mới thu ngắn được khoảng cách với các nước trên thế giới. Như vậy trong bài viết tôi đã trình bầy được một số vấn đề cơ bản về công tác quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Hà nội ngày 12 tháng 12 năm 2000 Tài liệu tham khảo 1. Sách TQM và ISO 9000. - Nguyễn Quang Toản. 2. Quản trị chất lượng. - Nghuyễn Quang Toản. 3. Chất lượng năng suất và sức cạnh tranh - Phạm Huy Hân - Nguyễn Quang Hồng. 4. Đổi mới quản lí chất lượng trong thời kì mới. - Hoàng Mạnh Tuấn. 5. Quản trị chất lượng trong doanh nghiệp. - Đặng Minh Trang. 6. Quản lí chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam. -Nguyễn Quốc Cừ. 7. Quản lí chất lượng và dịch vụ. - Nguyễn Kim Định 8. Một số tạp chí kinh tế và phát triển. 9. Một số tạp chí công nghiêp. 10. Tạp chí hoạt động khoa học số 9- 1999. 11. Tạp chí tiêu chuẩn đo lường chấ lượng số 6, số 5, số 2 - 2000. 12. Tài liệu của ViNaTas t3/ 1998, t 6/ 1999, t8/1999, t4/2000. 13. Các bài giảng trên lớp của thầy Trương Đoàn Thể. Mục lục Trang đề cương chi tiết lời nói đầu. - trong xu thế toàn cầu hoá, là một quốc gia nằm trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có những cố gắng để nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới. - Trước sức ép to lớn của cạnh tranh các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam chỉ còn một con đường là áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như ISO, TQM,HACCP. phần I: những vấn đề chung về chất lượng và quản trị chất lượng. Những khái niệm cơ bản về chất lượng và quản trị chất lượng. 1.1. những quan niệm về chất lượng. chất lượng và quản lý chất lượng là một lĩnh vực còn khá mới đối với nước ta, nhất là khi nước ta chuyển hướng theo kinh tế thị trường. Trước hết xuất phát từ quan điểm triết học: chất lượng là sự đạt đến mức hoàn hoả. Quan điẻm thứ hai : theo quan điẻm của Walte.A.Shewart-một nhà quản lý ngườn mỹ: chất lượng sản phẩm trong sản xuất công nghiệp là một tập hợp những dậc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó. Quan điểm thứ ba: theo quan điểm xuất phát từ ngườn tiêu dung: chất lượng tà tring độ cao nhất mà một sản phẩm có được khi sản xuất. ngoài ra còn nhiều ddịnh nghĩa khác về chất lượng như quan điểm xuất phát từ mối quan hệ lợi ích với chi phí( chất lượng là sự cung cáp sản phẩm dịch vụ ở mức giá mà người tiêu dùng chấp nhận ). quan điểm chất lượng đúng trên nhiều góc độ khác nhau đèu có những nhược điểm của nó. Theo đing nghĩa của ISO chất lượng là môt tập hợp các tc và những đặc trương của sản phẩm và dịch vụ có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu và nhu cầu còn tiềm ản. 1.2. các loại chất lượng sản phẩm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV459.doc