Đề tài Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay

Một trong những tiêu chuẩn hàng đầu khi xây dựng một đạo luật là phải rõ ràng, cụ thể, đầy đủ và dễ hiểu giúp cho người đọc chỉ cần đọc điều luật đã hiểu một cách chính xác và yên tâm làm theo. Việc xác nhận vốn pháp định đối với ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định còn chưa được giải quyết kỹ càng. Cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận vốn của doanh nghiệp? Tính chính xác và trách nhiệm của cơ quan đó như thế nào? Thông tư số 03/2000/TT-BKH quy định việc xác nhận vốn pháp định là do cơ quan có thẩm quyền xác định trong luật, pháp lệnh và nghị định quy định về vốn pháp định đó. Tuy nhiên, các văn bản quy định về vốn pháp định đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể về xác nhận vốn pháp định. Do vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp nào có ý định hoạt động trong ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định sẽ chưa đủ điều kiện về hồ sơ để đăng ký kinh doanh. Mặt khắc, các quy định mới về đăng ký kinh doanh cũng vẫn chưa trả lời được câu hỏi: Xác nhận này liệu có ý nghĩa thực thế? Liệu có lặp lại là các nhà đầu tư huy động tiền(vay mượn) trong thời gian ngắn để có xác nhận về vốn theo yêu cầu thủ tục thành lập, tiến hành các thủ tục xong, họ lại rút tiền trả lại người vay? Ngoài ra, quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể do hoạt động không tốt dẫn đến vốn thực tế thấp hơn vốn pháp định thì sẽ bị xử lý như thế nào? Với Nghị định số 03/2000-BKH rõ ràng chưa đáp ứng được tồn tại này.

doc56 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh đã được xác nhận trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của công ty phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Việc tuyển lao động, thuê mướn lao động là quyền của công ty. Căn cứ vào yêu cầu kinh doanh, công ty có quyền tuyển dụng về số lượng lao động, chất lượng chuyên môn, tay nghề kỹ thuật... sẽ do ngành nghề kinh doanh và quy mô kinh doanh quyết định, Nhà nước không can thiệp vào việc tuyển dụng lao động của công ty. ở nước ta đang dần dần hình thành thị trường lao động nên việc lựa chọn, tuyển dụng và thuê mướn lao động là yếu tố vô cùng thuận lợi cho công ty để đáp ứng với nhu cầu sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp của mình. Hiện nay công ty áp dụng chế độ hợp đồng lao động. Trong hợp đồng lao động, các bên tự thoả thuận những nội dung về quyền và nghĩa vụ lao động mình, về điều kiện lao động, an toàn lao động. Hợp đồng lao động được xây dựng trên cơ sở pháp lý. Trong phạm vi ngành, nghề đã đăng ký kinh doanh, công ty có quyền tự mình quyết định những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh, có quyền chủ động các phương thức quản lý khoa học để xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Thị trường sẽ là nơi quyết định đúng đắn hiệu quả của kế hoạch. Theo khoản 8 Điều 7 Luật doanh nghiệp thì công ty có quyền từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào trừ những khoản tự nguyện đóng góp vì mục đích nhân đạo và công ích. Công ty có quyền tự mình quyết định các hoạt động của công ty, không một tổ chức, cá nhân nào có quyền can thiệp vào hoạt động hợp pháp của công ty. Công ty có quyền đặt chi nhánh, văn phòng ở ngoài nơi đặt trụ sở chính của công ty. Chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty là những bộ phận mà công ty thành lập nhằm mục đích mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện trong giao dịch. Công ty còn có thể liên doanh, liên kết với các chủ thể kinh doanh khác trên cơ sở bình đẳng và thông qua hợp đồng kinh tế. Đây là một trong những quyền chủ động kinh doanh quan trọng nhằm kết hợp tối đa ưu điểm, lợi tức của các bên liên doanh để sản xuất có hiệu quả cao. Các hình thức có thể góp vốn đầu tư liên doanh trên cơ sở hợp đồng quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên, phương án phân chia sản phẩm, lợi nhuận. 2. Các nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn. Quyền của các doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với nghĩa vụ phải thực hiện và tạo thành thẩm quyền của chủ thể kinh doanh nói chung, của công ty nói riêng. Theo quy định của pháp luật, công ty có các nghĩa vụ sau (Điều 8 Luật doanh nghiệp). - Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã đăng ký. - Lập sổ kế toán, ghi chép sổ kế toán, hoá đơn chứng từ và lập báo cáo tài chính trung thực, chính xác. - Đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. - Bảo đảm chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn đã đăng ký. - Kê khai định kỳ, báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hay báo cáo không chính xác, đầy đủ hoặc giả mạo thì phải kịp thời hiệu đính lại với cơ quan đăng ký kinh doanh. - Ưu tiên sử dụng lao động trong nước, bảo đảm quyền lợi, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; tôn trọng quyền tổ chức công đoàn theo pháp luật về công đoàn. - Tuân thủ quy định pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. - Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh theo ngành, nghề nào là tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của công ty. Khi đã lựa chọn được ngành, nghề kinh doanh công ty phải đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, công ty có nghĩa vụ phải kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Nếu công ty muốn thay đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường thì công ty phải làm thủ tục thay đổi ngành, nghề kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Pháp luật bắt buộc công ty kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh là nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội, sự quản lý của Nhà nước. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty chỉ được tiến hành trong phạm vi ngành nghề đã đăng ký. Nếu kinh doanh không đúng ngành nghề đã đăng ký thì bị coi là hành vi vi phạm pháp luật và tuỳ theo mức độ vi phạm, công ty có thể bị phạt tiền hoặc bị thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Kế toán thống kê là công tác rất quan trọng trong quá trình kinh doanh. Qua hoạt động kế toán, thống kê giúp cho công ty hạch toán được chính xác. Nghĩa vụ này đòi hỏi trong quá trình kinh doanh công ty phải thực hiện ghi chép sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và lập báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật, của Nhà nước về kế toán thống kê. Việc quy định nghĩa vụ này nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện sự kiểm tra, theo dõi, giám sát sự hoạt động tài chính của mình để phát hiện ra những sai lầm và có biện pháp xử lý kịp thời. Công ty có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu liên quan đến việc thanh tra và tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm toán. Đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế cho Nhà nước là nghĩa vụ của công ty. Thuế là công cụ của Nhà nước nhằm thu ngân sách quốc gia, điều hoàn các lợi ích xã hội, công ty kinh doanh bất cứ ngành, nghề gì, quy mô lớn hay nhỏ đều phải có nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật. Tránh tình trạng cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương lạm dụng quyền, cản trở hoạt động của công ty. Đồng thời nghĩa vụ này được kèm theo với quy định quyền hạn của cơ quan nhà nước về một chính sách thuế hợp lý, vi phạm nghĩa vụ nộp thuế là vi phạm pháp luật, công ty phải chịu những hậu quả nhất định. Ngoài nghĩa vụ nộp thuế, đăng ký thuế, kê khai thuế là nghĩa vụ quan trọng nhất, công ty còn phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật như đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở văn ho, y tế, giáo dục tại địa phương nơi công ty đóng trụ sở. Bảo đảm chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn đã đăng ký là một trong những nghĩa vụ của công ty đối với xã hội, đối với người tiêu dùng, đảm bảo chất lượng hàng hoá là một trong những điều kiện quan trọng giúp cho các doanh nghiệp có thể đứng vững trong thương trường cạnh tranh khốc liệt. Nhà nước quy định việc đảm bảo chất lượng hàng hoá là nghĩa vụ của các doanh nghiệp nói chung và công ty nói riêng. Quy định này nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng đồng thời bảo hộ hàng hoá, sản phẩm của người sản xuất. Vì vậy, sản phẩm của công ty được sản xuất ra phải đăng ký chất lượng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công ty phải đảm bảo sản xuất lưu thông hàng hoá với chất lượng đã đăng ký. Nếu sản phẩm công ty làm ra không đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn đã đăng ký thì người tiêu dùng có quyền từ chối nhận hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử tuỳ theo mức độ vi phạm. Công ty phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước và người tiêu dùng. Công ty có nghĩa vụ kê khai và định kỳ báo cáo, chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh. Qua đó Nhà nước thực hiện sự kiểm tra, đánh giá, theo dõi, giám sát theo đúng định kỳ hoặc bất thường của các cơ quan tài chính, công ty có nghĩa vụ hợp tác kiểm tra, cung cấp các số liệu thống kê kịp thời, đầy đủ. Khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo là không chính xác, không đầy đủ hoặc giả mạo thì phải kịp thời hiệu đính lại các thông tin, báo cáo đó với cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tuyển dụng và thuê mướn lao động là quyền của công ty. Trong quá trình sử dụng lao động, công ty phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền lợi của người lao động đã được pháp luật lao động quy định. Việc tuyển dụng, thuê mướn lao động trong công ty chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng lao động. Công ty phải đảm bảo các điều kiện lao động, tiền lương...cho người lao động. Khi tuyển dụng lao động phải ưu tiên lao động trong nước, điều đó thể hiện ở chỗ nếu như công việc mà trình độ của người lao động trong nước đảm nhiệm được thì công ty phải ưu tiên tuyển dụng, trường hợp công việc cần trình độ chuyên môn mà lao động trong nước không đáp ứng được thì mới được tuyển chọn lao động nước ngoài. Những người lao động trong công ty có quyền thành lập tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong việc ký kết thoả ước lao động, công ty phải tạo những điều kiện thuận lợi cho họ, giúp họ tổ chức công đoàn. Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh là nghĩa vụ của mọi công dân và tổ chức. Công ty là những nơi sản xuất kinh doanh có thể gây ô nhiễm môi trường, vì vậy, trong quá trình hoạt động công ty phải có những biện pháp để bảo vệ tài nguyên, môi trường xử lý chất thải công nghiệp, tránh ô nhiễm môi trường, di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh là những tài sản vô giá của dân tộc. Công ty phải có trách nhiệm bảo vệ, tôn tạo những tài sản đó. Công ty có nghĩa vụ cùng với địa phương nơi mình đóng trụ sở thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về trật tự an toàn xã hội, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, tuân thủ những quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội là nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức. Ngoài các nghĩa vụ trên, công ty còn phải thực hiện các nghĩa vụ khác như trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ công ty(Thông tư số 11/2000/TT-BTC ngày 01/02/2000 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với công ty TNHH). Quỹ dự trữ bắt buộc là khoản phụ trong vốn của công ty để đảm bảo quyền lợi cho những người có quan hệ với công ty, công ty không được phép sử dụng quỹ này để chia lãi cho các thành viên. Quỹ dự trữ bắt buộc để trừ vào phần lỗ của công ty khi không còn một khoản dự trữ nào khác. Việc lập quỹ dự trữ bắt buộc là một nghĩa vụ của công ty, do tính chịu TNHH của công ty có hạn chế đến việc đảm bảo quyền lợi, lợi ích của những người có quan hệ với công ty. Việc lập quỹ của công ty có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo lợi ích của những người có quan hệ với công ty nhất là khi công ty làm ăn thua lỗ. IV. quy chế thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn. Thành viên một công ty là người đã đóng góp tài sản vào công ty và có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp đều được gọi là thành viên công ty. Thành viên công ty có thể là cá nhân, có thể là tổ chức đảm bảo các tiêu chuẩn theo luật định. Quy chế thành viên công ty được tạo bởi những quy định về sự hình thành và chấm dứt tư cách thành viên; quyền và nghĩa vụ của thành viên. 1. Xác lập và chấm dứt tư cách thành viên công ty TNHH. 1.1. Xác lập tư cách thành viên của công ty. Theo quy định của pháp luật, tư cách thành viên công ty được xác lập theo những cách sau: - Góp vốn vào công ty. Góp vốn vào công ty là con đường chủ yếu để trở thành thành viên của công ty. Việc góp vốn vào công ty của cá nhân, tổ chức được biểu hiện là sự đầu tư phần vốn của mình vào công ty để tăng vốn điều lệ của công ty. Một người sẽ có tư cách thành viên công ty khi đã góp vốn của mình để thành lập công ty TNHH sau thời điểm đăng ký kinh doanh. Dù người góp vốn dưới bất kỳ hình thức nào: Tiền, hiện vật, quyền sở hữu công nghiệp của công ty TNHH thì tư cách thành viên chỉ hình thành khi họ đã đóng đủ số vốn của mình. Một người cũng sẽ có tư cách thành viên nếu họ góp vốn vào công ty TNHH khi công ty kết nạp thêm thành viên mới để tăng thêm vốn điều lệ. Mọi thành viên đều có quyền quyết định việc tăng vốn điều lệ, vì vậy, việc kết nạp thành viên mới của công ty sẽ do hội nghị thành viên quyết định. - Mua lại phần góp của thành viên công ty. Tư cách thành viên công ty cũng được xác lập thông qua việc mua lại phần vốn góp của thành viên công ty. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác có những quy định khác nhau tuỳ theo từng loại công ty. Đối với công ty TNHH thì việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người ngoài công ty bị hạn chế. Thành viên công ty TNHH chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc mua không hết(Điều 32 Luật doanh nghiệp). Người mua lại phần vốn góp chỉ được coi là thành viên công ty khi đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán giá trị phần vốn góp theo sự thoả thuận của hai bên. - Hưởng thừa kế mà người để lại di sản thừa kế là thành viên công ty. Tư cách thành viên công ty có thể được hình thành thông qua việc họ được hưởng thừa kế. Thừa kế phần vốn góp của thành viên công ty TNHH là thừa kế phần vốn của họ đã được quy định trong điều lệ hoặc phải được sự đồng ý của hội đồng thành viên công ty. Trường hợp thành viên công ty là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì quyền và nghĩa vụ của thành viên đó trong công ty được thực hiện thông qua người giám hộ nếu được sự đồng ý của hội đồng thành viên. Trưởng hợp thành viên công ty chế nếu điều lệ quy định hoặc được sự đồng ý của hội đồng thành viên thì người được hưởng thừa kế có thể trở thành thành viên của công ty. Nếu nhiều người cùng được hưởng thừa kế thì họ có thể cử người đại diện tham gia là thành viên công ty, việc hưởng lợi nhuận do họ tự thoả thuận. Trường hợp phần vốn của thành viên là cá nhân bị chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì công ty phải nộp giá trị phần vốn đó vào ngân sách nhà nước. 1.2. Chấm dứt tư cách thành viên. Thông thường tư cách thành viên công ty có thể chấm dứt khi thành viên nhượng lại phần vốn góp của mình cho người khác hay khi thành viên đó chết. Ngoài ra, tư cách thành viên cũng có thể được chấm dứt khi điều lệ quy định như trong các trường hợp khai trừ thành viên, thu hồi tư cách thành viên, hay khi họ tự nguyện xin rút khỏi công ty. Trong trường hợp do cá nhân gặp nhiều khó khăn hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của hội đồng thành viên các vấn đề: Sửa đối, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, quyền, nhiệm vụ của hội đồng thành viên; Tổ chức tại công ty; Các trường hợp khác quy định thì họ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác. Giải pháp tốt nhất là xem các thành viên công ty ai muốn mua lại phần vốn góp đó, nếu không thoả thuận được về giá trị thì công ty phải mua lại phần vốn góp của thành viên đó theo giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại điều lệ công ty. Trường hợp khi thành viên công ty chết có thể người hưởng thừa kế sẽ là thành viên hoặc không thể là thành viên của công ty(vì tư cách thành viên của người chết sẽ mất đi). Trường hợp chấm dứt tư cách thành viên theo điều lệ quy định như: + Thu hồi tư cách thành viên. Tư cách thành viên chỉ có thể bị thu hồi khi thành viên đó vi phạm các nghĩa vụ đối với công ty. Điều lệ công ty có quy định các trường hợp thành viên có thể bị thu hồi tư cách thành viên và việc bồi thường hay không bồi hoàn. + Khai trừ thành viên. Điều lệ công ty quy định phải ghi rõ những điều kiện nào thì thành viên có thể bị khai trừ ra khỏi công ty. Thông thường việc khai trừ chỉ xảy ra khi có vi phạm về nhân cách của thành viên nghĩa là nếu không khai trừ thành viên ra khỏi công ty sẽ gây ảnh hưởng đến công ty làm công ty không tiếp tục hoạt động được nữa. Khi bị khai trừ, thành viên công ty sẽ được một khoản bồi thường bằng giá trị mà thành viên góp vốn. + Xin rút khỏi công ty. Tư cách thành viên sẽ chấm dứt nếu như thành viên của công ty xin rút khỏi công ty. Việc rút này phải được sự đồng ý của các thành viên khác và được điều lệ quy định. Một thành viên nếu xin rút lui thì thành viên đó sẽ đưa ra một thông báo đơn phương rút lui khỏi công ty. Khi rút lui, thành viên được hưởng một khoản bồi thường tương ứng với giá trị phần vốn góp vào công ty. 2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty TNHH. Góp vốn vào công ty là công việc hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc và nhằm mục đích nhất định nên khi đã là thành viên công ty, những người góp vốn đều được hưởng các quyền và nghĩa vụ đối với công ty theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Luật doanh nghiệp quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của thành viên nhằm bảo vệ lợi ích cho các thành viên của công ty. 2.1. Quyền của thành viên công ty TNHH. Khoản 1 Điều 29 Luật doanh nghiệp 1999 quy định thành viên công ty TNHH có những quyền sau: - Được chia lợi nhuận khi công ty đã nộp thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật tương ứng với phần vốn góp vào công ty. Việc góp vốn vào công ty là hành vi đầu tư vốn để kinh doanh, vì vậy quyền được chia lợi nhuận là quyền quan trọng nhất đối với các thành viên công ty. Về nguyên tắc, quyền được chia lợi nhuận cho thành viên khi công ty làm ăn có lãi tức là khi giá trị tài sản của công ty lớn hơn vốn điều lệ của công ty và chỉ được chia trong phạm vi chênh lệch đó. Việc phân chia lợi nhuận phải được quy định cụ thể trong điều lệ của công ty. - Tham dự họp hội đồng thành viên, tham gia thảo luận kiến nghị, biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của hội đồng thành viên. - Có số phiếu biểu quyết tương ứng với phần góp vốn. - Xem sổ đăng ký thành viên, sổ kế toán, báo cáo tài chính hàng năm, các tài liệu khác của công ty và nhận bản trích lục hoặc bản sao các tài liệu này. - Được chia giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản(công ty giải thể hoặc phá sản, sau khi thanh toán hết mọi khoản nợ của công ty, phần tài sản còn lại các thành viên có quyền được chia nhau tương ứng với phần vốn góp vào công ty). - Khởi kiện giám đốc(tổng giám đốc) tại toà án khi giám đốc(tổng giám đốc) không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên đó. - Các quyền khác quy định tại Luật này và điều lệ công ty. Khoản 2 Điều 39 Luật doanh nghiệp quy định thành viên hoặc nhóm thành viên sở hữu trên 35% vốn điều lệ hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn do điều lệ công ty quy định có quyền yêu cầu triệu tập họp hồi đồng thành viên để giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền. 2.2. Nghĩa vụ của thành viên công ty TNHH. Điều 30 Luật doanh nghiệp quy định thành viên công ty phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ sau: - Góp đúng hạn số vốn đã cam kết và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tải sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Nghĩa vụ góp vốn thành lập công ty là nghĩa vụ đầu tiên của thành viên, một người chỉ có thể trở thành thành viên của công ty khi họ hoàn thành nghĩa vụ này. Vốn góp của thành viên có thể bằng tiền, vàng, tài sản bằng hiện vật, bản quyền sở hữu công nghiệp. - Tuân thủ điều lệ công ty. Điều lệ công ty là bản cam kết của các thành viên. Khi điều lệ đã có hiệu lực, các thành viên có nghĩa vụ phải thực hiện trung thành với điều lệ công ty. - Chấp hành quyết định của hội đồng thành viên. - Thực hiện các nghĩa vụ khác quy định tại luật này và điều lệ công ty. Thành viên cũng phải có nghĩa vụ chịu lỗ cùng với công ty khi công ty làm ăn thua lỗ, các thành viên chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn vào công ty. V. tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc tổ chức và điều hành công ty TNHH được thực hiện thông qua các cơ quan của nó. Cơ cấu tổ chức công ty TNHH được pháp luật quy định tuỳ thuộc vào số thành viên của công ty. Các quy định về tổ chức công ty nói chung, tổ chức công ty TNHH nói riêng phần lớn là những quy định mang tính tuỳ nghi, trên cơ sở đó công ty lựa chọn và áp dụng. Bện cạnh đó có những quy định bắt buộc để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư thiểu số, lợi ích của chủ nợ và tăng cường trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp quy định công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên phải có: - Hội đồng thành viên. - Chủ tịch hội đồng thành viên. - Giám đốc(tổng giám đốc). - Công ty TNHH có trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát. Quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của ban kiểm soát, trưởng bạn kiểm soát do điều lệ công ty quy định(Điều 34 Luật doanh nghiệp). Hội đồng thành viên là cơ quan cao nhất của công ty. Tất cả các thành viên của công ty đều có quyền tham dự vào hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp và lấy ý kiến của các thành viên bằng văn bản. Hội đồng thành viên họp ít nhất mỗi năm 1 lần và có thể bị triệu tập bất cứ lúc nào theo yêu cầu của chủ tịch hoặc theo yêu cầu của các thành viên hay nhóm thành viên có sở hữu trên 35% vốn điều lệ hoặc một tỷ lệ nhỏ hơn theo điều lệ của công ty quy định. Thủ tục chuẩn bị phiên họp cho hội đồng thành viên được quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật doanh nghiệp hoặc trong điều lệ công ty. Cuộc họp hội đồng thành viên được tiến hành khi có số thành viên tham dự đại diện ít nhất 65% vốn điều lệ hoặc một tỷ lệ cụ thể theo điều lệ công ty quy định thì triệu tập hợp lần thứ hai trong thời gian 15 ngày kể từ ngày cuộc họp thứ nhất dự định khai mạc. Cuộc họp hội đồng thành viên được triệu tập lần thứ hai có đủ điều kiện tiến hành khi số thành viên tham gia đại diện cho hơn 50% vốn điều lệ trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác. Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không có đủ điều kiện tiến hành khi số thành viên tham dự đại diện cho hơn 50% vốn điều lệ trừ trường hợp điều lệ công ty quy định một tỷ lệ cụ thể khác thì triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày cuộc họp thứ hai dự định khai mạc. Trong trường hợp này các cuộc họp của hội đồng thành viên tiến hành không phụ thuộc vào số thành viên tham dự họp. Luật doanh nghiệp quy định phiên họp của hội đồng thành viên được tiến hành lần thứ ba không phụ thuộc vào số thành viên tham gia là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của thành viên thiểu số, hạn chế việc gây khó khăn của các thành viên chiếm đa số phiếu. Tất cả các cuộc họp hội đồng thành viên phải được ghi vào sổ ghi biên bản của công ty. Biên bản họp hồi đồng thành viên phải làm xong và thông qua ngay trước khi bế mạc. Biên bản có nội dung chủ yếu được quy định tại khoản 2 Điều 40 Luật doanh nghiệp. Hội đồng thành viên có các quyền và nhiệm vụ sau: - Quyết định phương hướng phát triển công ty. - Quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và phương thức huy động thêm vốn. - Quyết định phương thức đầu tư và dự án đầu tư có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty. - Thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty. - Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc(tổng giám đốc), kế toán trưởng và cán bộ quản lý quan trọng khác quy định trong điều lệ: - Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty. - Quyết định thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện. - Quyết định tổ chức lại công ty. - Quyết định việc giải thể công ty. - Quyết định mức lương, lợi ích khác đối với giám đốc(tổng giám đốc) và các cán bộ quan trọng khác được xác định trong điều lệ công ty. - Thông qua báo cáo tài chính hàng năm phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty. - Sửa đổi bổ sung điều lệ công ty. Chủ tịch hội đồng thành viên do hội đồng thành viên bầu ra và có thể kiêm giám đốc(tổng giám đốc) công ty. Chủ tịch hội đồng thành viên là người điều hành các hoạt động của hội đồng. Chủ tịch hội đồng thành viên cũng có thể là người đại diện theo pháp luật nếu điều lệ công ty quy định. Trường hợp này các giấy tờ của công ty phải ghi rõ tư cách đại diện theo pháp luật cho công ty của chủ tịch hội đồng thành viên. Để đảm bảo nguyên tắc điều hành hội thành viên được tốt. Luật doanh nghiệp 1999 quy định chủ tịch hội đồng có quyền và nhiệm vụ sau: - Chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng thành viên. - Chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp hội đồng thành viên hoặc thực hiện việc lấy ý kiến các thành viên. - Triệu tập và chủ toạ các cuộc họp hội đồng thành viên hoặc thực hiện lấy ý kiến các thành viên. - Giám sát việc tổ chức thực hiện quyết định của hội đồng thành viên. - Thay mặt hội đồng thành viên ký các quyết định của hội đồng thành viên. - Các quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Luật doanh nghiệp, điều lệ công ty. Giám đốc(tổng giám đốc) công ty là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp điều lệ công ty không quy định chủ tịch hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật thì giám đốc(tổng giám đốc) công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty. Quyền và nghĩa vụ của giám đốc(tổng giám đốc) được quy định tại Điều 41 Luật doanh nghiệp, các văn bản pháp luật và điều lệ công ty. Để hạn chế việc tư lợi cá nhân và tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh. Luật doanh nghiệp quy định tất cả các hợp đồng kinh tế, lao động, dân sự của công ty với thành viên, giám đốc(tổng giám đốc) công ty với người liên quan của họ đều phải thông báo cho tất cả các thành viên biết chậm nhất là 15 ngày trước khi ký. Trong trường hợp có thành viên phát hiện hợp đồng có tính chất tư lợi thì có quyền yêu cầu hội đồng thành viên xem xét và quyết định. Trong trường hợp này hợp đồng chỉ được ký sau khi có quyết định của hội đồng thành viên. Nếu hợp đồng này chưa được hội đồng thành viên chấp thuận thì hợp đồng đó vô hiệu và được xử theo quy định của pháp luật. Những người gây thiệt hại cho công ty trong các giao dịch đó phải bồi thường thiệt hại phát sinh hoặc hoàn trả lại cho công ty tất cả các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng đó. Ban kiểm soát do hội đồng thành viên bầu ra. Kiểm soát viên thay mặt các thành viên kiểm soát các hoạt động của công ty, chủ yếu là vấn đề tài chính. Vì vậy, phải có ít nhất một kiểm soát viên có trình độ chuyên môn về kế toán. Quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của ban kiểm soát do điều lệ công ty quy định. 2. Đối với công ty TNHH có một thành viên. khoản 1 Điều 49 Luật doanh nghiệp quy định tuỳ thuộc vào quy mô và ngành nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản nội bộ của công ty TNHH một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và giám đốc(tổng giám đốc); hoặc chủ tịch công ty và giám đốc(tổng giám đốc). Trường hợp áp dụng mô hình thứ nhất là hội đồng quản trị thì địa vị pháp lý(quyền và nghĩa vụ) của hội đồng quản trị và giám đốc(tổng giám đốc) được thực hiện theo quy định tại Điều 17-NĐCP số 03/2000 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty , có toàn quyền nhân danh công ty để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến quản lý và hoạt động của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý của chủ sở hữu công ty. Giám đốc(tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Trường hợp áp dụng mô hình thứ hai là chủ tịch công ty thì địa vị pháp lý(quyền và nghĩa vụ) của chủ tịch công ty, giám đốc(tổng giám đốc) được quy định tại Điều 18-NĐCP số 03/2000 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp. Chủ tịch công ty là người trực tiếp giúp chủ sở hữu công ty trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của sở hữu công ty. Giám đốc(tổng giám đốc) công ty là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Giám đốc(tổng giám đốc) là người đại diện theo pháp luật của công ty. Như vậy, tuỳ thuộc vào quy mô và ngành nghề kinh doanh mà chủ sở hữu công ty quyết định chọn mô hình tổ chức, quản lý công ty. Trong trường hợp quy mô kinh doanh lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng thì lựa chọn mô hình hội đồng quản trị. Chương III Vấn đề hoàn thiện địa vụ pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay I. Những đổi mới của Luật doanh nghiệp về địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn. 1. Thực trạng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn. Luật doanh nghiệp hiện hành được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ năm thông qua ngày 12/6/1999 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đặc biệt là nó đáp ứng được các hình thức doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Sự đổi mới này đã khẳng định đường lối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước là đúng đắn và có tác dụng của Luật doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điểm mới của Luật doanh nghiệp so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân được thể hiện ở những điểm sau: - Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định cho phép mọi công dân được tứ do kinh doanh theo pháp luật. Từ tư duy “được làm những gì luật cho phép” chuyển sang “làm tất cả những gì luật không cấm”. - Luật bỏ việc buộc xin phép thành lập doanh nghiệp và chỉ cần đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền từ chối đăng ký, nếu từ chối đăng ký phải có giải thích rõ ràng. - Thay thế cơ chế kiểm toán bằng hậu kiểm. - Thực hiện công tác minh bạch, công khai. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan pháp luật trong việc thực thi và giám sát. * Ưu điểm cơ bản của Luật doanh nghiệp đối với công ty TNHH. Luật doanh nghiệp đã thể chế kịp thời đường lối phát triển do Đảng ta khởi xướng. Quan trọng nhất là nó ghi nhận được các nguyên tắc cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường, đó là: - Nguyên tắc tự do kinh doanh: Thừa nhận nguyên tắc này là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường. Luật doanh nghiệp quy định nguyên tắc tự do kinh doanh và nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Điều 57 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc tự do kinh doanh là tư tưởng xuyên suốt đế định địa vị pháp lý của công ty, đồng thời là nguyên tắc quan trọng nhất của nền kinh doanh thị trường, nó được thể hiện ở một loạt các quyền như: Quyền được thành lập công ty, quyền tự do ký kết hợp đồng, quyền lựa chọn ngành nghề, quy mô kinh doanh, quyền chủ động điều hành hoạt động, quyền tự do hợp tác kinh doanh, quyền tự do liên kết... Nhà nước không chỉ đạo bất cứ quá trình nào hay chỉ tiêu pháp lệnh nào của công ty bằng những mệnh lệnh hành chính trực tiếp. Thị trường là nơi đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty, tự do kinh doanh đồng thời gắn liền với nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. Hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế là hợp đồng. Hợp đồng được thực hiện và ký kết trên cơ sở thoả thuận, bình đẳng, tự nguyện giữa các bên. Như vậy mới đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Ngoài việc đưa ra những quy định xác định quyền và nghĩa vụ của công ty cũng như quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, pháp luật còn đưa ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ. Điều này đã khiến cho nguyên tắc tự do kinh doanh từ một nguyên tắc pháp luật trở thành khung pháp lý an toàn và thích hợp, nó đã tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH nói riêng. * Nguyên tắc mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này là một nguyên tắc rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Thể hiện được thái độ công bằng của Nhà nước đối với hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Bình đẳng ở đây là bình đẳng về cơ hội, về điều kiện và chính sách đầu tư, về chính sách thuế...về quyền và nghĩa vụ, thậm chí bình đẳng cả về khả năng cạnh tranh, giúp cho các thành phần kinh tế có chỗ đứng thích hợp của mình trên mặt bằng của nền kinh tế. Điều 22 Hiến pháp 1992 đã khẳng định nguyên tắc này một cách rõ ràng “ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật”. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật này, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh (Điều 4 Luật doanh nghiệp). Thừa nhận bình đẳng trước pháp luật của mọi doanh nghiệp là đảm bảo cho các chủ doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp sẽ tham gia vào các quan hệ trao đổi, mua bán trên thị trường. Các quan hệ này không chủ nảy sinh giữa các doanh nghiệp trong một thành phần kinh tế mà cả giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các quan hệ số có thính chất vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Sự hợp tác, cạnh tranh đó chỉ có thể phát triển lành mạnh trong điều kiện các doanh nghiệp đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật cần được hiểu là các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia vào các quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Sự bình đẳng trước pháp luật của công ty với các loại hình doanh nghiệp khác trước hết thể hiện ngay trong việc thành lập doanh nghiệp. Mọi doanh nghiệp khi thành lập đều phải tuân theo những quy định nhất định của pháp luật. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải quan hệ với nhau, các mỗi quan hệ đều xuất phát từ sự tự nguyện giữa các bên. Hợp đồng ký kết giữa các doanh nghiệp phải tuân theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Trong quan hệ hợp đồng không bên nào có quyền bắt bên kia phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ không phù hợp vơi ý chí và lợi ích của họ. Quyền bình đẳng trường pháp luật còn có ý nghĩa là các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua việc đóng thuế. Nguyên tắc công dân Việt Nam được kinh doanh lâu dài theo nhu cầu và khả năng của mình. Điều 4 Luật doanh nghiệp quy định: “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp”. Đây là mối quan tâm rất lớn của cá nhà kinh doanh trước khi quyết định bỏ vốn vào kinh doanh đồng thời cũng là nhu cầu chính đáng của họ. Các nhà kinh doanh muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình được tiến hành trong môi trường ổn định để có thể yên tâm đầu tư vào những dự án lớn có tính lâu dài, việc pháp luật công nhận sự tồn tại lâu dài của các loại hình doanh nghiệp là một đảm bảo pháp lý quan trọng giúp cho các nhà kinh doanh thực hiện được quyền tự do kinh doanh của mình. Đồng thời nó cũng thể hiện quyết tâm đổi mới thực sự của Nhà nước ta trong phát triển kinh tế thị trường, theo hướng thị trường với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Việc khẳng định nguyên tắc này ngay trong một điều luật đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của các nhà kinh doanh, để cho các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn ra kinh doanh nhằm mang lại lợi ích cho mình và cho toàn xã hội. * Nguyên tắc Nhà nước công nhận, bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền lợi hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Điều 4 Luật doanh nghiệp quy định sở hữu tài sản là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi nhà kinh doanh, nếu không có sự bảo đảm vững chắc cho quyền sở hữu của mình thì các nhà kinh doanh không yên tâm bỏ vốn đầu tư. ở Việt Nam, thời kỳ đổi mới Nhà nước không khuyến khích sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, điều này gây không ít khó khăn cho hoạt động kinh tế của nhân dân nói riêng và việc phát triển kinh tế của Nhà nước nói chung. Sau năm 1986 việc sở hữu tư liệu sản xuất đã được Nhà nước ta thừa nhận. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ rõ “công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác”. Ngoài ra, Điều 4 Luật doanh nghiệp còn ghi nhận “tài sản là vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính”. Với việc quy định việc bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu hợp pháp của công dân, Luật doanh nghiệp đã tạo cho người kinh doanh yên tâm đưa vốn vào kinh doanh ở công ty, yên tâm hoạt động sản xuất kinh doanh tích luỹ của cải cho bản thân và cho toàn xã hội. Luật doanh nghiệp còn bổ sung thêm một loại hình công ty mới đó là công ty TNHH một chủ. Việc quy định này nhằm khuyến khích việc đầu tư mở rộng đa dạng hoá ngành nghề. Vì vậy, việc quy định thêm các loại hình công ty TNHH một chủ là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn phù hợp với nền kinh tế mở của nước ta hiện nay. Theo sự phân tích trên có thể nói Luật doanh nghiệp đã có ưu điểm rất lớn là đã thể chế hoá kịp thời quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước. Việc ban hành Luật doanh nghiệp hiện hành và các nguyên tắc cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường đã trở thành những nguyên tắc pháp lý được Nhà nước bảo hộ, vì vậy, Luật doanh nghiệp có điều kiện đi sâu vào cuộc sống. 2. Những yêu cầu pháp lý đặt ra cần giải quyết. Bên cạnh những ưu điểm Luật doanh nghiệp vẫn còn một số vướng mắc cần phải được nghiên cứu khắc phục. Những vướng mắc đó thể hiện ở những mặt sau: - Vấn đề về các văn bản hướng dẫn thi hành một số điều luật của Luật doanh nghiệp. Một số ngành nghề trong đăng ký kinh doanh chưa được hướng dẫn cụ thể, đồng bộ với các ngành khác như hải quan, thương mại. Hơn nữa, theo quy định, các doanh nghiệp hiện đang hoạt động không phải làm lại thủ tục đăng ký kinh doanh nhưng thực tế giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động, có những trường hợp cấp đã lâu với nội dung ngành nghề trong hầu hết các giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không ghi cụ thể, không đồng nhất và chắc chắn không phù hợp với danh mục hệ thống ngành, nghề kinh tế quốc dân theo Quyết định số 143/CTK/PPCĐ. Do sự đồng bộ trong quản lý không đạt được cũng sẽ là nhân tố gây nhiều khó khăn cho cả doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Trong điều kiện phức tạp đó, Thông tư số 03/2000/TT-BKH của Bộ kế hoạch và đầu tư cũng đã mở ra một lối thoát cho phép doanh nghiệp vẫn được đăng ký kinh doanh những ngành nghề mới, chưa có trong doanh nghiệp hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân theo Quyết định số 143/TCTL/PPCĐ và các văn bản quy định hiện hành. Tuy nhiên, lối mở này có thể là đầu mối cho những bất đồng giữa doanh nghiệp và các cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp và ngành nghề, sẽ có thể là tiền đề cho sự sách nhiễu để sau đó linh động giải quyết các cán bộ cử lý trực tiếp đối với doanh nghiệp. Một trong những tiêu chuẩn hàng đầu khi xây dựng một đạo luật là phải rõ ràng, cụ thể, đầy đủ và dễ hiểu giúp cho người đọc chỉ cần đọc điều luật đã hiểu một cách chính xác và yên tâm làm theo. Việc xác nhận vốn pháp định đối với ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định còn chưa được giải quyết kỹ càng. Cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận vốn của doanh nghiệp? Tính chính xác và trách nhiệm của cơ quan đó như thế nào? Thông tư số 03/2000/TT-BKH quy định việc xác nhận vốn pháp định là do cơ quan có thẩm quyền xác định trong luật, pháp lệnh và nghị định quy định về vốn pháp định đó. Tuy nhiên, các văn bản quy định về vốn pháp định đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể về xác nhận vốn pháp định. Do vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp nào có ý định hoạt động trong ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định sẽ chưa đủ điều kiện về hồ sơ để đăng ký kinh doanh. Mặt khắc, các quy định mới về đăng ký kinh doanh cũng vẫn chưa trả lời được câu hỏi: Xác nhận này liệu có ý nghĩa thực thế? Liệu có lặp lại là các nhà đầu tư huy động tiền(vay mượn) trong thời gian ngắn để có xác nhận về vốn theo yêu cầu thủ tục thành lập, tiến hành các thủ tục xong, họ lại rút tiền trả lại người vay? Ngoài ra, quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể do hoạt động không tốt dẫn đến vốn thực tế thấp hơn vốn pháp định thì sẽ bị xử lý như thế nào? Với Nghị định số 03/2000-BKH rõ ràng chưa đáp ứng được tồn tại này. Luật doanh nghiệp quy định tên một doanh nghiệp không trung hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh(Điều 24 Luật doanh nghiệp). Tuy vậy, quy định không được gây nhầm lẫn vẫn bỏ ngỏ trong các quy định này. Đây là vấn đề khá phức tạp đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải có thời gian để nghiên cứu. Mặt khác, việc xây dựng ngân hàng dữ liệu về tên doanh nghiệp trong thời điểm hiện nay còn là khoảng cách khá xa so với năng lực và cơ sở vật chất hiện có của các cơ quan đăng ký kinh doanh nên khoảng thời gian này cũng có thể dài hơn. Trong khoảng thời gian đó, việc đăng ký kinh doanh về tên của doanh nghiệp sẽ là sự linh hoạt, tuỳ nghi của cán bộ xử lý trực tiếp. Nghĩa là sẽ không trách khỏi tiếp tục có sự phiền hà, sách nhiễu đối với doanh nghiệp khi đã đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, quy định hiện nay chưa đề cập đến tên giao dịch bằng tiếng nước ngoài cho doanh nghiệp đặc biệt là tên bằng tiếng Anh, vì nhờ trong quá trình hoạt động, việc giao dịch với các doanh nghiệp ngoài nước, tổ chức ngoài nước bằng thư, fax, điện thoại...là rất thuận tiện. Những điều khoản quy định về tổ chức của phòng đăng ký kinh doanh. Nghị định số 02/2000/NĐ-CP cho thấy cơ quan đăng ký kinh doanh không phải là hệ thống độc lập có tính liên kết thống nhất, do vậy sẽ rất khó thực hiện tốt nhiệm vụ đăng ký kinh doanh. Đặc biệt phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh chỉ là một bộ phận chức năng trong Sở kế hoạch và đầu tư nên hiệu lực trong phạm vi toàn quốc của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do phòng đăng ký kinh doanh này cấp và đóng dấu khó có tính thuyết phục. - Vấn đề về lệ phí đăng ký kinh doanh. áp dụng mức thu lệ phí đăng ký kinh doanh như hiện nay là chưa hợp lý, vậy cần thiết là phải điều chỉnh lại mức thu lệ phí đăng ký kinh doanh theo hướng ấn định một mức cụ thể hơn để áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp có ít hay doanh nghiệp có nhiều vốn kinh doanh. Có như vậy mới khuyến khích được các doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn đầu tư. II. Một số ý kiến về địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay. 1. Một số ý kiến về địa vị pháp lý của công ty TNHH trong giai đoạn hiện nay. Khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế trên cơ sở nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước đảm bảo vững chắc vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp này trong nền kinh tế được coi là một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình chuyển đổi nền ở nước ta. Tuy nhiên, sự hình thành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành viên kinh tế là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế. Chẳng hạn, trong ngành điện và phân phối điện có thể mở rộng cho các thành phần kinh tế khác tham gia như công ty TNHH theo hình thức đấu thầu. Việc ban hành luật chống độc quyền, khuyến khích cạnh tranh là cần thiết cho các doanh nghiệp như công ty, công ty TNHH có điều kiện tự do tham gia vào mọi lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường kinh doanh theo hướng bằng mọi cách sáng lập cho được một môi trường kinh doanh lành mạnh và sôi động. Nhưng đến nay, nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Ví dụ như ngành môi trường chưa xác định được thế nào là ô nhiễm, các chỉ số khói, khí thải, tiếng ồn, dẫn đến một số công ty TNHH muốn đăng ký kinh doanh những ngành nghề mới mẻ thì gặp phải rất nhiều khó khăn vì cần phải có những văn bản hay chứng chỉ hành nghề của ngành chủ quản. Vậy, để tạo điều kiện cho công ty hoạt động một cách năng động và linh hoạt, tận dụng được các cơ hội kinh doanh hợp pháp, để chính các nhà đầu tư tự quyết định kinh doanh cái gì và tạo điều kiện cho họ thực hiện điều đó một cách nhanh chóng thì việc đặt ra những tiêu chuẩn rõ ràng, dễ hiểu, khả thi và định lượng được là rất cần thiết, đây là việc cần phải làm sớm để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như công ty TNHH không còn phải lúng túng khi đăng ký kinh doanh. Cần quy định những phạm vi về kinh tế, ý nghĩa quan trọng nhất của Luật doanh nghiệp khi áp dụng vào thực tế đó là tạo lập một hành lang pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư. Luật doanh nghiệp sẽ quy định rõ ràng, quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên trong công ty. Khi nảy sinh tranh chấp thì đây sẽ là cơ sở rất quan trọng để xử lý, giải quyết các vụ án tranh chấp mà lâu nay chúng ta vẫn chưa giải quyết được. Luật chưa quy định cụ thể về những vi phạm về kinh tế không rõ ràng dẫn đến hình sự hoá nhiều vụ án kinh tế gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Từ những phân tích trên ta thấy là pháp nhân nhưng công ty TNHH chịu trách nhiệm như một thể nhân. Nghĩa là công ty có đủ năng lực để thực hiện mua bán, cho thuê, sở hữu tài sản, ký kết hợp đồng, nguyên đơn hay bị đơn trước toà án nghĩa là có toàn quyền nhân danh công ty để làm lĩnh vực mà pháp luật không cấm và tự chịu trách nhiệm hành vi đó trong khuôn khổ pháp luật quy định. 2. Các giải pháp bảo đảm cho hoạt động của công ty TNHH. Trong những năm qua, khung pháp lý nói chung và khung pháp lý về doanh nghiệp nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật hợp tác xã... đã được ban hành nhưng phải kể đến đó là Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp này thay thế cho Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân cũ nó đã được sử đổi, bổ sung một số điều một cách căn bản để thực sự đi vào cuộc sống theo hướng từng bước thu hẹp sự khác biệt tiến tới hình thành một khung pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp khi họ góp vốn vào thành lập công ty TNHH. Luật doanh nghiệp vừa được ban hành, được coi là thông thoáng, thậm chí đã đạt đến một chuẩn mực nhất định nhưng để thực hiện được những nội dung của luật này là việc không đơn giản do còn có sự không tương thích với một số luật khác. Thực tế nó đang tạo ra sự không nhất quán về việc giải thích và thi hành luật, hạn chế hiệu lực của các quy định pháp luật có liên quan. Vì vậy, việc tạo ra một khung pháp lý đồng bộ và thống nhất thành môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH nói riêng cần thiết và không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh. Kết luận Luật công ty được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển của công ty nói chung và loại hình công ty TNHH nói riêng ở Việt Nam. Qua chín năm thực hiện Luật công ty đã tác động tích cực đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế nói chung trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự gia tăng và phát triển của công ty nói chung là đòi hỏi tất yếu khách quan của sự phát triển của lực lượng quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất đồng thời nó cũng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước, tạo ra một lực lượng lớn sản phẩm xã hội và làm giảm bớt vấn đề lao động cũng là một vấn đề nhức nhối trong xã hội hiện nay vì nó đã tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động. Sự phát triển và gia tăng số lượng các công ty TNHH tham gia trên thị trường kinh doanh nước ta đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta sôi động và linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Chính do sự gia tăng và phát triển này đòi hỏi phải có các quy phạm pháp luật về công ty mới. Luật doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ V thông qua ngày 12/6/1999 có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 để sửa đổi, bổ sung những thiếu sót của pháp luật về công ty cũ và đáp ứng nhu cầu về những vấn đề pháp lý mới nảy sinh và về pháp luật công ty trong thời gian mới của nền kinh tế nước ta. ở Việt Nam, địa vị pháp lý của công ty TNHH được quy định lần đầu tiên trong Luật công ty năm 1990. Có thể nói, công ty TNHH là loại hình công ty phù hợp nhất với trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nhanh chóng của các điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay Luật công ty đã bộc lộ một số khuyết điểm và hạn chế cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của các quan hệ pháp luật kinh tế. Việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 1999 với những sửa đổi, hoàn thiện về pháp luật doanh nghiệp nói chung và địa vị pháp lý của công ty TNHH nói riêng là một trong những biện pháp mà Chính phủ đề ra nhằm tăng cường khả năng tạo ra của cải vật chất của nền kinh tế qua đó nâng cao tính cạnh tranh và sức năng động sản xuất trong nước. Đồng thời nhằm tạo ra những tiền đề pháp lý vững chắc giúp cho mọi thành phần kinh tế, công dân yên tâm, chủ động phát huy tiềm năng sáng tạo và tiềm lực kinh tế vào sản xuất kinh doanh, tạo ra một cơ chế pháp lý đảm bảo một cách có hiệu quả sự bình đẳng của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh một cách thuận tiện, dễ dàng. Vì vậy, để nhanh chóng phát huy thế mạnh và sự ưu việt của các loại hình công ty, đồng thời hướng nó đi đúng quỹ đạo mà Nhà nước mong muốn tạo cho nó một thế đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường Luật doanh nghiệp cũng cần phải có định hướng đúng đắn hơn nữa. Phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, linh hoạt hơn, phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá hình thức kinh doanh và thúc đẩy phát huy nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Tài liệu tham khảo 1. Luật công ty (ban hành năm 1990). 2. Luật doanh nghiệp tư nhân(ban hành năm 1990). 3. Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mới. Nhà xuất bản Lao động- Hà Nội 2000. 4. Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(năm 1992). 5. Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 6. Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp. 7. Giáo trình Luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 8. Báo lao động. 9. Pháp lệnh công chức năm 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0017.doc
Tài liệu liên quan