Suy đến cùng thì chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước cũng là vì chiến lược phát triển con người, vì hạnh phúc của con người. Đói nghèo là vấn đề có tính xã hội, do đó, mọi nỗ lực đầu tư của nhà nước lấy từ kinh phí và ngân sách quốc gia dù có tăng tiến bao nhiêu cũng không thể đáp ứng quy mô toàn xã hội. Cũng do vậy, cần thiết phải huy động vào phong trào quần chúng có tính chất xã hội sâu rộng này sự tham gia đóng góp, sự hỗ trợ của mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi địa phương, mọi người, mọi nhà về vật chất và tinh thần. Cũng rất cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác của cộng đồng quốc tế.
Mặt khác, hỗ trợ vốn và cho vay hộ nghèo phải trên phương châm “ Hỗ trợ cần câu hơn cho xâu cá” Việc hướng dẫn cho hộ nghèo cách thức “câu” như thế nào là trách nhiệm không chỉ của Ngân hàng phục vụ người nghèo mà còn là trách nhiệm của các ngành, các cấp và cộng đồng xã hội.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề huy động và và sử dụng vốn đầu tư cho xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8.347 triệu đồng cho 31 xã nghèo, Trà Vinh bố trí thêm ngân sách dịa phương 3.2 tỷ đồng để đầu tư cho 16 xã nghèo do tỉnh xác định…
Nhằm tập hợp sức mạnh của nhiều nguồn vốn, các địa phương cũng đã tổ chức lồng ghép các nguồn lực của các chương trình , các dự án khác nhau cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 150 tỷ đồng. Điển hình là các tỉnh Cao bằng bố trí lồng ghép kinh phí của chương trình giáo dục, y tế cho xoá đói giảm nghèo 11919 triệu đồng; Thừa Thiên Huế lồng ghép 15593 triệu đồng cho xoá đói giảm nghèo; Gia Lai bố trí bố trí lồng ghép vốn của các chương trình, dự án khác cho 14 xã đặc biệt khó khăn 13407.4 triệu đồng; Phú Yên lồng ghép vốn của 16 chương trình, dự án khác với số tiền 11.003 triệu đồng cho xoá đói giảm nghèo…
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, tính đến 30/9/2000, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động được tổng nguồn vốn là 4.659 tỷ đồng; so với nguồn vốn từ khi thành lập và chuyển giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo chuyển sang là 521 tỷ đồng, thì nguồn vốn đã tăng lên 4.138 tỷ đồng;với kết cấu nguồn vốn vay từ Ngân hàng thương mại quốc doanh 2.602 tỷ đồng, chiếm 55,9% tổng nguồn vốn.
-Với vốn điều lệ 700 tỷ đồng chiếm 15% tổng nguồn vốn (do chính phủ cấp ban đầu là 500 tỷ đồng, được chính phủ cấp bổ sung là 200 tỷ đồng).
-Đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế cho vay đặc biệt theo chỉ địng từ Chính phủ 900 tỷ đồng chiếm 19,4% tổng nguồn vốn, trong đó cho vay trung hạn ( thời hạn 5 năm) số tiền 600 tỷ đồng và cho vay ngắn hạn số tiền 300 tỷ đồng.
-Được ngân sách các tỉnh trích nguồn vốn chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo từ các tổ chức quốc tế với tổng số tiền trên 80 tỷ đồng, trong đó dự án IFAD 49 tỷ đồng, dự án OPEC 10 triệu USD; đã rút vốn đợt 1 là 2 triệu USD.
-Huy động từ cộng đồng người nghèo là 35 tỷ đồng. Số tiền này tuy nhỏ nhưng cũng đã tạo dựng được ý thức và thói quen tiết kiệm cho người nghèo.
Với tổng nguồn vốn nêu trên, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện cung cấp tín dụng tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc.
Tính đến 30/9/2000, đã có hơn 5,3 triệu lượt hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ Ngân hàng phục vụ người nghèo với tổng số tiền là 8.396 tỷ đồng; với số vốn vay, hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh; chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ; mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng, với doanh số thu nợ đạt 4017 tỷ đồng, bình quân mỗi hộ dư nợ tới 1,7 triệu đồng.
-Trong doanh số cho vay trên, ngân hàng đã thực hiện cung cấp tín dụng tới cả những hộ nghèo ở vùng III; dư nợ hộ nghèo ở khu vực III là 487 tỷ đồng với 28 ngàn hộ cònc dư nợ; trong đó, cho vay hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu vùng xa theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg của thủ tướng Chính Phủ là 324 tỷ đồng với 183 ngàn hộ dư nợ.
-Nhiều hộ nghèo là người dân tộc thiểu số cũng đã được vay vốn; với dư nợ là 733 tỷ đồng; chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng, Thái,Mường, Khơ me, H’mông…
Đặc biệt, được Đảng bộ và chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, nhiều tỉnh, thành phố đã huy động từ nguồn tiết kiệm chi ngân sách để hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo, chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay. Tổng số tiền huy động từ nguồn này đến ngày 30/9/2000 là 338 tỷ đồng. Trong đó, những tỉnh đã huy động được nguồn vốn địa phương lớn như:
Tỉnh
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỉnh
Số tiền (tỷ đồng)
Nghệ An
18
Hải Phòng
9,2
Hà Tây
17,1
Quảng Trị
8
Đắc Lắc
14,8
Quảng Nam
7,8
Khánh Hoà
13,1
Kiên Giang
7
Lạng Sơn
9,9
Quảng Ninh
6,4
Ninh Thuận
9,6
Quảng Bình
6,2
(Nguồn:Nghiên cứu lý luận số 10/2000)
Trong năm 1999, Nhà nước đã duyệt chi hỗ trợ hơn 410 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng cơ sở cho hơn 1000 xã đặc biệt khó khăn. Bởi vậy xây dựng hạ tầng cơ sở được coi là lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ hàng đầu đối với các xã đặc biệt khó khăn. Nguồn vốn này được các địa phương bố trí đầu tư cho 1733 công trình trong đó có 547 công trình giao thông với số vốn 138.903 triệu đồng (chiếm 36,41%); Thuỷ lợi nhỏ 446 công trình với 103.754,5 triệu đồng (27,19%), nước sinh hoạt 223 công trình với 36.180,9 triệu đồng (9,48%);điện sinh hoạt 88 công trình với 17.057 triệu đồng (4,47%); 18 trạm xá với 2.764 triệu đồng (0,73%).
Cùng với kế hoạch chuyển vốn, các dự án khác khác của chương trình xoá đói giảm nghèo cũng được triển khai tương đối đồng bộ. Vốn dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn thực hiện đạt 60% kế hoạch, tập trung vào hỗ trợ trực tiếp đời sống cho bà con, hỗ trợ sản xuất thông qua hình thức cho vay không lấy lãi, xây dựng mô hình chuyển giao công nghệ, hỗ trợ xây dựng thuỷ lợi nhỏ… Đối với các xã khó khăn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thì công tác định canh dịnh cư, sắp xếp ổn định dân di cư tự do rất quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo. Đến hết tháng 9, chương trình đã tổ chức định canh định cư được hơn 18000 hộ, đặt 30% kế hoạch, xây dựng được 133 km đường giao thông và 5 cầu cống, 33 công trình thuỷ lợi; 2116 m2 lớp học và trạm y tế, 2 công trình điện, giá trị khối lượng hoàn thành đạt trên 40 tỷ đồng. Vốn sự nghiệp kinh tế định canh định cư ngoài vùng dự án cũng đã hỗ trợ trực tiếp 12.500 hộ; hỗ trợ sữa chữa 6 công trình giao thông giao thông và 2 cống, 16 công rình thuỷ lợi, 16 giếng nước ăn, 300 m2 lớp học, giá trị khối lượng thực hiện 5 tỷ đồng đạt 60% vốn. để tạo điều kiện điều chỉnh hợp lý lực liượng lao động, chương trình đã thực hiện di dân theo kế hoạch được 8.461 hộ với 17.919 lao động và 36.819 nhân khẩu, sắp xếp ổn định dân di cư tự do, thực hiện giá trị khối lượng đạt trên 15 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, dự án chương trình Tiết kiệm–tín dụng dành cho phụ nữ nghèo do tổ chức ACTIONARD thuộc nước Anh (viết tắt AAV) tài trợ được đánh giá là thực hiện thành công và có hiệu quả nhất trong chương trình tín dụng cho người nghèo. Với phương thức thực hiện chính là gửi tiền tiết kiệm và vay vốn. Ngoài ra, được AAV tài trợ, chị em còn được học tập, phổ biến kinh nghiệm làm ăn, kinh doanh, quản lý kinh tế và áp dụng khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, thú y, thuỷ lợi, đưa các loại gia súc, cây trồng vật nuôi có năng suât cao vào sản xuất…Tuy mới triển khai bước đầu, mức độ làm quen và hoà nhập của chị em còn hạn chế. Tuy vậy, qua 5 năm thực hiện dự án đã thành lập được 199 nhóm cho 4.921 lượt người vay với tổng số tiền 2.699 triệu đồng. Nguồn vốn tiết kiệm được gần 1,5 tỷ đồng, vốn do AAV tài trợ bổ sung 640 triệu đồng. Số dư tiền gửi bình quân chung 300 ngàn/ người. Bình quân một món cho vay 500 ngàn đồng.
Để tạo thêm nguồn cho chương trình xoá đói giảm nghèo, việc huy động nguồn lực cộng đồng là rất quan trọng, và thực tế dã có nhiều hình thức phong phú đa dạng. Có nơi quy định mực đóng góp hàng năm cho từng cá nhân, từng doanh nghiệp hoặc từng tổ chức xã hội đẻ xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo. Trong vấn đề này, các đoàn thể quần chúng như hội phụ nữ, Hội nông dân,Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên,… có vai trò hết sức quan trọng. Hội phụ nữ Việt Nam có phong trào: “phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” đã tạo lập được 190 tỷ đồng cho 540 nghìn lượt chị em vay vốn phát triển sản xuất, huy động 20.000 chỉ vàng, 3 triệu con lợn giống, 68 tấn thóc giống cùng hàng triệu ngày công lao động giúp đỡ các hội viên quá khó khăn. Đoàn thanh niên với phong trào “thanh niên lập nghiệp”, Hội nông sân với phong trào “Tình làng nghĩa xóm”. Mặt trận Tổ quốc với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới” cũng đã huy động được hàng trăm tỷ đồng giúp người nghèo vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
Ngoài ra, đã có nhiều chương trình tài trợ do nhiều tổ chức quốc tế giúp vốn cho chương trình xoá đói giảm nghèo ở nước ta như: Chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức, Hà Lan, UNCEF, SIDA, … Theo thống kê đến nay, có khoảng 60 chương trình và dự án của ADB, WB, EU, FAO, Tổ chức cứu trợ nhi đồng Anh, OXFAM (Anh), chương trình phát triển lâm nghiệp Việt nam- Thuỵ Điện, SIDE (Pháp), IFAD (Hà Lan), INUS (Đức)… trợ giúp vốn khoảng 67.000 hộ nghèo trong cả nước. Ngoài việc cung ứng vốn tín dụng, các chương trình dự án còn cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo, giúp các hộ nghèo tiếp cận với tài chính vi mô chính thức theo thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực cuộc sống của họ. Tạo thói quen tiết kiệm, không bao cấp trong cộng đồng người nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào tín dụng nặng lãi hay an phận, cam chịu hoàn cảnh của người nghèo.
Như vậy, có tể khái quát cơ cấu vốn đầu tư xoá đói giảm nghèo từ năm 1996 đến nay như sau:
Số tiền (tỷ đồng)
Tỷ lệ %
Ngân sách trung ương
5333.8
33.13
Ngân sách địa phương
594.08
3.69
Hợp tác quốc tế
1099.6
6.83
Lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội
2104.22
13.07
Lao động công ích
938.6
5.83
Các tổ chức kinh tế, cộng động
6029.5
37.45
(Nguồn: Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000).
Nguồn vốn đầu tư cho các chương trình, dự án liên quan đến xoá đói giảm nghèo trong 5 năm vào khoảng 15.000 tỷ đồng chưa kể nguồn hỗ trợ lớn lao của bạn bè quốc tế. Trong đó, riêng hai năm 1999,2000 đã huy động được 9.600 tỷ đồng.
II. Kết quả đạt được
Với các nổ lực của trung ương và địa phương trong thời gian qua, công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở Việt Nam giảm từ 30% năm 1992 xuống 10% năm 2000, mỗi năm bình quân 250.000 hộ nghèo thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, Nhà nước kể cả Trung ương và địa phương cùng với các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp đã dành vốn cho chương trình với mức cao nhất có thể. Riêng Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động 4659 tỷ đồng cho hơn 3 triệu lượt hộ nghèo cho vay vốn với cơ chế không phải thế chấp và lãi suất ưu đãi. Có vốn lại được hướng dẫn cách làm ăn nên nhiều hộ đã từng bước thoát nghèo bằng nhiều hình thức thiết thực: trợ giá vật tư nông nghiệp, giúp giống cây con, mua bảo hiểm y tế. đã có trên 21/61 tỉnh, thành thực hiện trích ngân sách địa phương mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, với tổng kinh phí trên 14 tỷ đồng và 1,2 triệu thẻ hộ nghèo ở nông thôn được miễn giảm thuế sử dụng đất, miễn học phí, miễn quỹ đóng góp dân công. với sự hỗ trợ vốn và kỹ thuật của chính quyền vàcác tổ chức đoàn thể, nhiều hộ đã xoá được đói, giảm được nghèo bằng sức lao động của chính mình bằng một số nghề: trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, đánh bắt thuỷ sản,…
Nhìn nhận lại kết quả và cơ chế hoạt động của chương trình tín dụng xoá đói giảm nghèo từ Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể khái quát những mặt tích cực sau:
Một là, Ngân hàng phục vụ người nghèo được tổ chức và hoạt động theo Quyêt định 525/TTg của thủ tướng Chính phủ, thực thi một thể chế chính sách được nông dân đồng tình, hưởng ứng, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Đây là giải pháp cụ thể góp phần ổn định kinh tế- xã hội, thực hiện mục tiêu xã hội công bằng văn minh. Trong điều kiện hiện nay, mô hình tổ chức được thiết lập bằng việc sử dụng hệ thống mạng lưới của các ngân hàng thương mại quốc doanh làm dịch vụ huy động vốn và cho vay đã tiết kiệm được chi phí xã hội; tận dụng được nhân lực, công nghệ, tập trung được vốn, kỷ thuật,… chuyển trực tiếp hỗ trợ người nghèo (không phải chi phí tuyển nhân lực, không tăng thêm các chi phí mua săm, xây dựng cơ sở vật chất…). Do đó triển khai được nhanh trên phạm vi toàn quốc về hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo; có cơ chế hạch toán theo hệ thống riêng, thống nhất phân định rõ nguồn vốn sử dụng vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Hai là, chủ trương ngân sách Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua bù chênh lệch lãi suất huy động , và sử dụng phương pháp tín dụng ngân hàng để hỗ trợ cho người nghèo (thay vì nguồn vốn cấp từ ngaan sách có hạn, bằng phương pháp huy động vốn trong đan cư, phần chênh lệch lãi suất cho vay được ngân sách cấp bù) đã tạo ra khối lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với cách đầu tư trực tiếp trước đây.
Ba là, hình thành một cơ chế tín dụng riêng biệt tương đối phù hợp với người nghèo; cơ chế cho vay được nới lỏng; đơn giản hoá thủ tục cho vay; người vay không phải đến trụ sở ngân hàng mà chỉ phải nộp đơn đề nghị vay vốn thông qua tổ chức vay vốn vag gia dịch vay- trả ngay tị trụ sở xã; người vay không phải thế chấp tài sản mà thay vào đó là sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng dân cư,sự phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong việc lồng ghép các chương trình xoá đói giảm nghèo ở địa phương nhằm giúp cho việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao hơn. với cơ chế tín dụng như hiện nay, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo thông qua việc bình xét các đối tượng được vay vốn của các tổ chức cộng đồng xã hội, mở rộng tính công khai dân chủ và tính nhân dân sâu sắc.
Các chính sách và cơ chế tín dụng xoá đói giảm nghèo đã được nghiên cứu và thay đổi phù hợp với các quy định của ngành và sự phát triển chung trong từng thời kỳ:
- Về lãi suất cho vay: 5 năm qua đã có 5 lần thay đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/ tháng hạ xuống 1%/tháng; 0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 1,7%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay với lãi suất 0,6%/tháng, và đều thấp hơn mức lãi suất hiện hành của các ngân hàng thương mại và Hợp tác xã tín dụng. Ngoài lãi suất cho vay, hộ nghèo không phải trả một khoản phí nào cho ngân hàng hoặc các tổ chức chính trị- xã hội khác.
- Về quy định mức vay tối đa: Khi mới thánh lập Ngân hàng phục vụ người nghèo có mức vay tối đa không quá 2,5 triệu đồng/hộ. Hiện nay điều chỉnh nâng lên không quá 3 triệu đồng/ hộ. Riêng đối với hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại gia súc, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, mua sắm nông cụ, nuôi trồng đánh bắt hải sản, kinh doanh các ngành nghề, được vay vốn tối đa đến 5 triệu đồng /hộ phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo và quy mô sử dụng vốn tối đa với hộ nghèo.
- Về thời hạn khi mới thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo: thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. ngoài ra, Ngân hàng phục vụ người nghèo còn áp dụng hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho vay lại cho đến khi hộ nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo sử dụng vốn tín dụng đầu tưvào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Bốn là, đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ vốn tín dụng cho người nghèo, thực hiện chính sách tín dụng hợp lý; tạo diều kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuât, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Vốn của nhà nước đã thực sự đến tay người nghèo, người nghèo vay vốn và trả nợ sòng phẳng,nợ quá hạn thời điểm hiện nay (nếu loại trừ nợ thiệt hại do thiên tai) là 1,66%, một số nơi chất lượng tín dụng tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn thấp như: Hưng Yên 0,05%, Nam Định 0,16%, Hải Dương 0,21%, Thái Bình 0,26%, Bắc Ninh 0,53%, Hà Tây 0,94%; tỷ lệ thu lãi bình quân đạt 85%. Theo thống kê tại các tỉnh cho thấy: vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo cùng các chương trình hỗ trợ khác đã giúp cho 415 ngàn hộ nghèo được vay vốn thoát khỏi ngưỡng nghèo đói theo chuẩn mực hiện nay, đời sống của hàng vạn người đã được cải thiện hơn.
Đánh giá kết quả thực hiện chương trình Tiết kiệm- Tín dụng dành cho phụ nữ nghèo: kết quả nổi bật là thông qua chương trình, đã giúp cho nhiều hộ nghèo có thêm nguồn vốn để phát triển sản xuất, chăn nuôi, cải thiện đời sống. Một số hộ nhờ vay vốn đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Cái được lớn nhất là tạo cho chị em có ý thức tiết kiệm, tiết kiệm thường xuyên và đi lên với đồng vốn còn rất nhỏ bé ban đầu. Đồng thời qua việc sinh hoạt tổ nhóm, qua tập huấn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và khuyến cáo chị em đã tiếp cận với tư duy kinh tế, luôn tìm tòi suy nghĩ để phát triển kinh tế mở rộng ngành nghề sản xuất đa dạng, góp phần cải thiện được đời sống, có hộ đã vươn lên làm giàu, mua được máy xay xát, máy kéo Bông sen, phát triển được đại gia súc…Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của các hội viên. Tạo được tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau giúp đỡ nhau trong các tổ nhóm, trong bản làng, thôn xóm. Trong những năm triển khai thực hiện chưa hề để xảy ra hiện tượng mất vốn, không có nợ quá hạn. Những hộ gia đình có khó khăn đột xuất hoặc nguyên nhân khách quan đều được chị em trong tổ, nhóm động viên, giúp đỡ, nhắc nhở trả nợ cho đúng hạn để giữ vững lòng tin với cấp trên.
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn hợp tác quốc tế:
- Đã giải quyết tình trạng về cơ sở hạ tầng lạc hậu phân bổ không đồng đều, xoá bỏ bớt sự cách biệt về phát triển kinh tế- xã hội giữa các vùng lãnh thổ trong cả nước giữa thành thị và nông thôn nhằm đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý; đồng thời dành một phần tín dụng cho đầu tư các ngành nông lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng.
III. Những tồn tại và vướng mắc.
1. Đánh giá chung.
Mặc dù việc huy động và sử dụng vốn cho đầu tư xoá đói giảm nghèo đã có hiệu quả rõ rệt, có bước tiến lớn trong quá trình thực hiện, nhưng hiện tại đang xuất hiện những thách thức mới trong công tác xoá đói giảm nghèo. Đó là:
- Hiệu quả xoá đói giảm nghèo không bền vững, nguy cơ tái nghèo đang xuất hiện trở lại. Có khi chỉ là một thành viên trong gia đình bị ốm đau, bệnh tật, gia đình gặp hoạn nạn, sản xuất bị thiên tai… thì nghèo đói lại xuất hiện trong chính gia đình họ.
- Năng lực sử dụng vốn, khả năng hấp thụ vốn vay trong một bộ phận hộ nghèo rất thấp. Gần đây, có thực trạng nông dân vay vốn nợ chồng lên nợ, càng vay nhiều thì lại càng nghèo đi. Chuyện nêu lên có vẻ như là một nghịch lý nhưng là có thật. Tại sao vậy?
Xét một cách toàn diện hộ nghèo không chỉ đơn thuần thiếu vốn, cái mà họ thiếu là tri thức sản xuất, nhất là các hộ thuộc vùng dân tộc thiểu số. Nhiều hộ được vay vốn rồi, nhưng không biết làm gì để có khả năng sinh lời, vẫn chỉ loanh quanh với mảnh vườn tạp, chăn nuôi gia súc, gia cầm… thậm chí cho vào ống nứa cất lên mái nhà, đến kỳ hạn cán bộ tín dụng đến thu lãi và nợ, họ mang nguyên xi số tiền đó đưa trả!. Hoặc có hộ nhận về không sử dụng cho chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh mà mà chi cho tiêu dùng như mua gạo ăn, mua quần áo, sắm đồ dùng gia đình…
Vốn đã mỏng, nhưng không ít hộ lại “cấu” từ vốn vay để dùng cho mục đích sinh hoạt. Nếu vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo giải ngân vào dịp giáp hạt, đầu năm học, Tết nguyên đán… thì chắc chắn phần dùng sẽ rất cao.Hiện tượng đó làm cho vốn vay cứ bị lõm dần, không sinh lời, không thực hiện được cả tái sản xuất giản đơn, người vay sẽ mất khả năng trả nợ. Đây là chưa kể khả năng chống đỡ với rủi ro của người nghèo là rất thấp. Tình trạng nợ quá hạn gia tăng, nguồn vốn cho vay hộ nghèo bị cạn kiệt.
Trong thực tế, đã phát sinh nhiều trường hợp tổ trưởng các tổ tín chấp chiếm dụng lãi, chiếm dụng vốn của ngân hàng khi người nghèo hoàn trả. Trong khi đó việc kiểm tra, giám sát hộ nghèo sử dụng vốn vay tại một số địa phương bị buông lỏng. Một số thành viên ban đại diện chưa tích cực hoạt động; việc xét duyệt danh sách hộ nghèo tại một số địa phương thực hiện thiếu khách quan. Việc bình xết hộ nghèo, chính quyền các đoàn thể, ban xoá đói giảm nghèo ở các xã, phường cũng hết sức phân vân, việc bình xét chỉ mang tính áng chừng theo cảm tính, cộng với sức ép của dân, nên đi đến chỗ “phá rào”. Tính chất ưu đãi và ranh giới của vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo với vốn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn bị mờ nhạt và lẫn lộn. Đã có rất nhiều đơn thư khiếu nại về việc người nghèo không được vay vốn.
Bên cạnh đó, sự ra đời của các tổ tiết kiệm vay vốn (TKVV) rất chậm và hoạt động trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Mức cho vay hộ nghèo hiện nay mang tính chất bình quân đồng đều, tối đa 3 triệu- điều này chưa đáp đáp ứng nhu cầu vốn thực tế của một số hộ nghèo vươn lên sản xuất kinh doanh theo dự án có tính chất khả thi, đồng thời làm cho bản chất tín dụng chính sách bị hiểu lệch theo tính chất Nhà nước trợ cấp cho người nghèo, từ đó dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả.
Một số địa phương thực hiện cho hộ nghèo vay chưa gắn kết với chương trình lồng ghép giúp đỡ ngươì nghèo như: vấn đề nâng cao dân trí,phổ biến kinh nghiệm, chuyển giao kỹ thuật, chương trình khuyến nông, khuyến ngư… Do đó, mặc dù có vốn nhưng người nghèo chưa có kinh nghiệm và thiếu kiến thức sản xuất kinh doanh, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, khả năng rủi ro cao, đặc biệt là các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển, hoặc nơi cấp uỷ chính quyền địa phương thiếu sự quan tâm đến việc cho vay hộ nghèo.
Khi thực hiện chính sách tín dụng xuất phát từ nguồn vốn phụ thuộc ngân sách Nhà nước nên đôi khi xảy ra hiện tượng: vốn tín dụng chưa đáp ứng thường xuyên kịp thời vụ và nhu cầu của người vay. Mức vốn cho vay thời kỳ đầu quá nhỏ, chưa phù hợp với suất đầu tư cho cây trồng vật nuôi. Những hộ không có đất đai ngành nghề, chính sách tín dụng với phương thức cho vay trực tiếp tới hộ nghèo chưa thật phù hợp.
Trong quản lý điều hành, một số nơi UBND xã tự ý thu lại tiền vay của hộ nghèo để sử dụng cho mục đích của xã như: xây dựng trụ sở, làm đường, xây dựng đường điện, trả nợ thuỷ lợi phí… Một số nơi tự ý thu thêm lệ phí của hộ nghèo (sau khi khi phát tiền vay) để lập quỹ của xã, quỹ của đoàn thể xã hội, phát sinh hiện tượng các tổ trưởng tổ vay tự ý thu nợ, thu lãi của dân không nộp ngân hàng, thậm chí có một số trường hợp cá biệt: cán bộ ngân hàng tham ô, lợi dụng tiền vay của hộ nghèo rồi bỏ trốn… đó là những nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn, giảm hiệu quả vốn vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo.
2. Đối với tín dụng ngân hàng.
Mô hình tổ chức Ngân hàng phục vụ người nghèo chưa đồng bộ và chưa hoàn chỉnh: Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay chưa thực sự là một ngân hàng chính sách độc lập, mà như đang là một bộ phận cấu thành của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chi nhánh Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay thực chất là một bộ phận chuyên trách của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn được giao quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể là tổ chức thực hiện dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. Mối quan hệ giữa 2 ngân hàng không rõ ràng về trách nhiệm thực hiện quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là quy trình kiểm tra và giám sát hộ vay. Chính vì vậy trong chỉ đạo, điều hành còn vướng mắc và hiệu quả chưa cao. Trong các quy định của Ngân hàng phục vụ người nghèo về kiểm tra, giám sát hộ vay cũng chưa quy định rõ ràng cụ thể về trách nhiềm giữa hai ngân hàng và đại diện các tổ tín chấp. Cơ chế đồng trách nhiệm trong thực tế không phát huy được hiệu quả, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Về lãi suât.
Như trên đã đề cập, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo gồm 2 phần: vốn Ngan sách cấp và vốn huy dộng.
Để huy động được vốn trong xã hội thì phải có lãi suất hợp lý. Song, lãi suất cho vay hộ nghèo luôn thấp hơn lãi suất thông thường. Cụ thể như, hiện nay lãi suất cho vay thông thường của các ngân hàng thương mại là 0,7 đến 0,85%/tháng, còn lãi suất cho vay đối với hộ nghèo là 0,6%/ tháng. Song, để huy động được vốn thì Ngân hàng phục vụ người nghèo phải đưa ra lãi suất huy động tối thiểu là 0,3%/tháng, với lãi suất quá thấp so với mặt bằng lãi suất chung làc 0,5-0,6%/tháng thì không thể huy động được vốn. Các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại không thể tiếp tục đóng góp thêm vốn cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. Do đó chỉ trông chờ vào vốn thu nợ để tiếp tục cho vay. Hiện nay, nhiều khoản cho vay chưa đến hạn, nên chưa thu được nợ và tỷ lệ nợ quá hạn còn thấp nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nhiều hộ nghèo sẽ không thể trả nợ đúng hạn, tỷ lệ nợ quá hạn gia tăng, vốn cho vay không thu nợ đúng hạn để quay vòng tiếp tục cho vay chu kỳ sau. ở nhiều tỉnh, huyện, Ngân hàng phục vụ người nghèo không có nguồn vốn cho vay mới mà chỉ trông chờ vào chỉ tiêu nguồn vốn cấp trên phân bổ và chuyển về.
Tuy nhiên, qua thực hiện cho vay lãi suất ưu đãi đối với hộ nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số tồn tai :
- Cho vay lãi suất ưu đãi đã nảy sinh tư tưởng “ỷ lại” là tiền lệ để trở lại bao cấp qua con đường tín dụng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp.
- Có tư tưởng vốn “ban phát” nên dễ xảy ra hiện tượng bình quân chia đều, tiêu cực trong phân chia cho vay, nảy sinh nhu cầu giả tạo để sử dụng vốn sai mục đích.
Khó phát huy nội lực, huy động vốn trong nội bộ dân cư để bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo (vì huy động cao theo lãi suất thị trường, nhưng cho vay theo lãi suất ưu đãi, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động âm). Muốn huy động nguồn vốn trong dân cư, Ngân sách phải bù lỗ. Một thực tế để huy động 1.050 tỷ đồng kỳ phiếu của Ngân hàng phục vụ người nghèo nhằm tạo nguồn vốn cho vay hộ nghèo, Ngân sách nhà nước phải cấp bù chênh lệch lãi suất năm 1999 là 117 tỷ đồng, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp thì đây là vấn đề khó. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng phục vụ người nghèo thiếu tính bền vững.
-Thiếu sức thuyết phục để thu hút các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo. Vì các tổ chức quốc tế cho rằng, đây là kênh tín dụng bao cấp, thiếu cơ sở phát triển bền vững. Đây là nguyên nhân chính mà 3 năm nay, Ngân hàng phục vụ người nghèo chưa nhận được khoản vay lớn từ các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB…
- Một số tỉnh có thu hút được một số dự án của các tổ chức quốc tế cho vay người nghèo với lãi suất thị trường thì nảy sinh vấn đề: Trên cùng một địa bàn, cho vay cùng một đối tượng hộ nghèo, nhưng với lãi suất khác nhau (vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay theo lãi suất ưu đãi, nhưng các dự án tổ chức quốc tế thì cho vay theo lãi suất thị trường) gây hiện tượng mất bình đẳng khó thực hiện.
3. Vấn đề giải ngân nguồn vốn
Hiện nay, việc giải ngân vốn cho hộ nghèo vay và thu nợ ở cơ sở do mạng lưới của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn làm đại lý, với mức phí chung là 0,35%, trong đó 0,1% phải trả cho tổ tương trợ vay vốn ở cơ sở, ngân hàng chỉ còn mức phí 0,2%. Với mức phí thấp như vậy may ra chỉ có ở vùng đồng bằng mới có thể đủ chi phí, còn các tỉnh thuộc trung du miền núi, vùng sâu, vùng xa thì không thể bù đắp đủ các chi phí cho vay, thu nợ…Trong điều kiện món vay nhỏ, hộ vay ở phân tán, khoảng cách xa, đường sá đi lại khó khăn, điều đó đã và đang cản trở chính quá trình cho vay vốn tới các hộ nghèo.
4. Nguồn vốn của các tổ chức kinh tế- xã hội khác
Hiện đang có quá nhiều tổ chức, đơn vị cho vay vốn tới hộ nghèo, nguồn vồn phân tán hoạt động chồng chéo, do đó hạn chế phần nào hiệu lực quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ – tín dụng.
4.1. Đối với mô hình Tiết kiệm .
Tín dụng cho phụ nữ nghèo, trong quá trình thực hiện cho thấy những điểm quy định chưa hợp lý hoặc những tồn tại. Đó là: Công tác thông tin tuyên truyền chưa được sâu rộng. Quá trình triển khai các dự án trong các bản làng còn một số chị em chưa biết, có trường hợp biết nhưng chưa hiểu hết các quy định của chương trình.
Đối tượng tham gia chủ yếu là phụ nữ nên có phạm vi quy mô còn hạn chế vì có nhiều hộ người đàn ông là chủ gia đình, việc gửi tiền hay vay vốn do chủ hộ quyết định, nên nhiều chị em không được tham gia. Với mục đích khuyến khích chị em nhanh chóng vươn lên, tiếp cận với phương pháp làm ăn mới, xoá bỏ bao cấp nên dự án sử dụng mức lãi suất (kể cả tiền gửi và tiền vây) còn cao so với mặt bằng chung, mặc dù mục tiêu của dự án không phải là sinh lời, nên chưa khuyến khích được việc mở rộng đối tượng vay vốn và tác động tương trợ còn ít.
Quy định mức cho vay tối đa 1 triệu đồng/ món là còn thấp đối với một số hộ vay vốn sản xuất kinh doanh, mở mang ngành nghề và làm kinh tế trang trại. Việc quy định người vay phải trả nợ ngay sau tháng vay đầu tiền dẫn đến nhiều hộ không giám xin vay vì chưa xác định được nguồn trả nợ.
Năng lực trình độ tổ chức quản lý từ cấp huyện hội, ngân hàng cấp xã và các tổ nhóm còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo hoặc am hiểu về quản lý kinh tế còn ít.
4.2. Đối với việc sử dụng và huy động nguồn vốn ODA
- Quy mô nhỏ chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân.
- Chưa có quy hoạch phân bổ và sử dụng ODA, cơ cấu thu hút còn bất hợp lý chưa thu hút vào những vùng sâu, vùng xa của đất nước, đặc biệt là miền núi chỉ đầu tư vào giao thông thuỷ lợi, nông nghiệp nông thôn của các tỉnh.
- Thiếu những quy định mang tính pháp lý về quyền hạn và chức năng của các cơ quan. Quy trình thủ tục xét duệt, thẩm định còn rườm rà.
- Công tác quản lý dự án còn bị buông lỏng chưa có sự quan tâm đúng mức của các cơ quan chức năng.
- Trình độ quản lý dự án của Nhà nước và địa phương còn yếu kém về chuyên môn, ngoại ngữ và luật pháp.
- Không đảm bảo được nhu cầu vốn ứng cho các dự án, công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân.
Chương III: Kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư xoá đói giảm nghèo.
1. Về đối tượng vay:
-Về phân biệt hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh: theo tiêu chí của Bộ lao động, thương binh và xã hội hiện nay, thực chất là những hộ nghèo và đói về đời sống vật chất thường xuyên, chứ không phải hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Vì nếu chỉ thu nhập bình quân 15–20 kg gạo/người/tháng theo vùng nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng, trung du, thành thị, thì chỉ ăn còn may mặc, học hành, chữa bệnh và sinh hoạt tinh thần không có. Nếu tiếp tục cho vay theo tiêu chí này thì đa số họ sẽ chỉ dùng vốn vay đưa vào sản xuất, nhưng khi thu hoạch được chỉ để cải thiện đời sống; nếu hoàn trả vốn vay (cả gốc và lãi), thì đời sống của họ sẽ không được nâng lên, hoặc có nâng lên một cách không đáng kể (vì có hộ nghèo chỉ có sức lao động, không có vốn tự có, vốn vay lại ít, sản xuất kinh doanh như thế nào để có lãi từ 1% đến 2%/tháng và trả lại ngân hàng là 0,7%/tháng. Do đó cần có sự phân biệt rõ ràng giữa hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh và hộ nghèo đói về đời sống vật chất.
Hộ nghèo không thể cố định mà thường xuyên biến động, có thể do thiên tai, dịch bệnh đột xuất mà một số hộ trung bình, khá lại trở thành nghèo. Ngược lại, một số hộ nghèo nhưng đã có sẵn suy nghĩ kế hoạch làm ăn, bản thân đã tích luỹ được kinh nghiệm, hoặc được chuyển giao khoa học kĩ thuật tốt, gặp thuận lợi về các mặt thì trong một thời gian ngắn họ có thể cho rằng số hộ nghèo đã vươn lên, vượt qua tiêu chí nghèo nhưng không thể khẳng định là tỷ lệ nghèo giảm trong từng thời gian (chỉ khi điều tra tổng thể mới nắm được tương đối chính xác). Mặt khác, đời sống ngày một nâng lên nếu tiêu chí phân định hộ nghèo đói cố định nhiều năm cũng không phù hợp.
Số hộ nghèo thiếu vốn sản xuất nhiều năm, nằm trên diện rộng nhất là ở những vùng nông thôn, vùng xa, vùng sâu, ngân hàng cho vay, thu nợ trực tiếp đến từng hộ rất khó khăn. Do đó, cần có quy chế uỷ thác cho chính quyền, đoàn thể ở cơ sở thu lãi, thu nợ hộ ngân hàng..
Mặt khác, cần phải có dự án sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ với mục tiêu hiệu quả kinh tế và ích lợi xã hội. Tức là dự án phải thực sự mang 2 tính chất: khả thi về tài chính và giúp được nhiều hộ nghèo vượt nghèo, có công ăn việc làm ổn định và lâu dài. Vấn đề đặt ra là ai quản lý dự án? Dĩ nhiên là Ban xoá đói giảm nghèo phường, xã quản lý trực tiếp các dự án. Vì thế cần chọn lựa nhân sự của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo đủ mạnh, các thành viên của ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo phải là người có chuyên môn giỏi, có khả năng quản lý tốt, đồng thời phải thực sự có tâm huyết với chương trình mang tính xã hội cao này. Chủ dự án không nhất thiết là người thuộc diện hộ nghèo mà nó được chào mời rộng rãi trong xã hội từ cá nhân cho đến các tổ chức kinh tế-xã hội. Để dự án thực thi có hiệu quả cần có nhiều chính sách hỗ trợ ưu đãi, miễn giảm thuế, … cũng như sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể địa phương.
2. Về nguồn vốn:
Trước hết phải coi trọng nguồn vốn tại chỗ, ở người khá ,người giàu và các doanh nghiệp thương gia với các hình thức cho mượn, hoặc cho vay với lãi xuất phù hợp,
Cụ thể là:
2.1. Vốn ngân sách:
Hàng năm các xã, huyện , tỉnh, trung ương trích lập quĩ cho mục đích xoá đói giảm nghèo khoảng 2% nguồn thu đươc. Đối với nguồn vốn này các cơ quan các cấp phải tổ chức quản lý chặt chẽ, phân bổ vốn một cách hợp lý, tránh trường hợp nơi cần thì không có trong khi đó những hộ những nơi có quá nhiều nguồn vốn tập trung vào.Chính vì vậy cần phải giao trách nhiệm cho những bộ phận, những cán bộ có trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức tốt.Việc hướng dẫn triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia (133) và Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi và vùng sâu, vùng xa (135) phải được thực hiện với quyết tâm lớn, với tinh thần chu động, sáng tạo của các địa phương. Các đơn vị cần phải chủ độngtìm hiểu nhu cầu của các địa phương nghèo, để có các biện pháp hỗ trợ phù hợp. Các hình thức chủ yếu là hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã nghèo chuyển giao kỹ thuật, xây dựng mô hình, quy hoạch sản xuất, nhân tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế, nhận đỡ đầu học sinh nghèo vượt khó; nhận giúp đào tạo cán bộ chuyên ngành và hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo…Phải luôn ý thức được rằng đây là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng thiết thực phục vụ cho đời sống nhân dân ở các địa phương nghèo.
2.2. Nguồn vốn từ các ngân hàng:
Trong những năm qua, để đóng góp nguồn vốncho mục tiêu xoá đói giảm nghèo các ngân hàng như Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng Công thương, ngân hàng Nông nghiệp đặc biệt là Ngân hàng phục vụ người nghèo đã tham gia tích cực và giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, chúng ta cần thúc đẩy thành lập Ngân hàng chính sách. Mặc dù việc thành lập Ngân hàng chính sách đã được ghi trong luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ ngày 1-10-1998, song đến nay vẫn chưa ra đời.
Hiện nay, ở Việt Nam, ngoài Ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động như một ngân hàng chính sách, hệ thống kho bạc nhà nước cũng thực hiện một số loại tính dụng chính sách trong đó có mục tiêu xoá đói giảm nghèo; hoạt động tính dụng cho các thành viên nghèo của các tổ chức chính trị-xã hội…, còn có các chương trình cho vay chính sách phân tán do các ngân hàng khác thực hiện. Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long thực hiện chính sách cho vay vốn phát triển nhà ở trong vùng. Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện chính sách cho sinh viên vay vốn học tập. Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện chính sách cho vay vốn làm nhà ở trên cọc, cho vay vốn khắc phục bão lụt, đánh bắt xa cá xa bờ; cho vay ưu đãi giảm 30% lãi suất cho đồng bào ở khu vực 3:biên giới, hải đảo, núi cao…, giảm 15% cho đồng bào ở vùng 2;…Do đó, cần sớm tổng kết hoạt động của các ngân hàng chính sách mà nòng cốt là ngân hàng phục vụ người nghèo. Như vậy, nguồn vốn cho vay chính sách được tập trung, cơ chế tài chính dễ xử lý, hiệu quả hoạt động của ngân hàng và hiệu quả sử dụng vốn của đối tượng chính sách được nâng cao, việc quản lý vốn ngân sách và quản lý hoạt động ngân hàng được rõ ràng, rành mạch hơn. Song, trong giai đoạn trước mắt, mạng lưới ngân hàng chính sách ở các tỉnh miền núi nên mở chi nhánh tới đâu là vấn đề cần được tính toán chặt chẽ sao cho phù hợp và có hiệu quả. Giải pháp là cần điều tra thực tế, tham khảo ý kiến những cán bộ ngân hàng ở các huyện thuộc vùng miền núi.
2.3. Nguồn vốn từ các tổ chức đoàn thể xã hội, hội nghề nghiệp.
Đây cũng là đặc trưng và thế mạnh ở Việt Nam. Các hội đều có trách nhiệm nối các hội viên của mình trong việc chăm lo đời sống kinh tế, huy động nguồn vốn từ hội viên của mình, kể cả những hội viên còn nghèo để cho hội viên nghèo vay. Chính vì vậy, chúng ta phải phát huy hơn nữa thế mạnh của mình bằng những hình thức như tuyên truyền vận động đoàn thể nhân dân tham gia vào các tổ chức, hội và nên thực hiện các chương trình đến tận các xã, bản và hộ nằm trong vùng thực hiện dự án.
2.4. Nguồn vốn lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội khác.
Gắn việc sử dụng các nguồn vốn thuộc quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, tín dụng cho người nghèo,…với việc vận động phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Để thực hiện được định hướng này, Nhà nước cần tài trợ một phần hoặc toàn bộ cho hoạt động tập huấn, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã(HTX). Đây là những vấn đề được đề cập nhiều trong các hội nghị chuyên đề về xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, thực tế, đại bộ phận người dân còn hiểu HTX chưa thực sự đầy đủ. Một khi HTX còn được hiểu một cách mù mờ thì khó mà triển khai loại hình này sâu rộng trong cộng đồng dân cư. HTX muốn được hình thành và phát triển mạnh mẽ để tăng nội lực, góp phàn xoá đói, giảm nghèo đòi hỏi HTX phải có một số thành viên nòng cốt đủ mạnh về trình độ chuyên môn và quản lý. Về đội ngũ có trình độ chuyên môn, chúng ta thường tuyển từ nhiều nguồn trong đó phần đông là nguòn sinh viên , học sinh các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề…Thế mà, thử hỏi có bao nhiêu sinh viên học sinh đang theo học và đã ra trường hiểu được loại hình HTX một cách tương đối đầy đủ. Con số đó chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, chúng ta phải đưa ra những giải pháp cụ thể thực tế hơn nhằm thu hút lao động có năng lực. Ngoài ra, cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau:
- Cần phải được kế hoạch hoá chi tiết theo mục tiêu các chương trình cho vùng định canh, định cư. Trong thực tế các chương trình đều có kế hoạch nhưng chỉ là kế hoạch mục tiêu chứ không có kế hoạch biện pháp. Vì vậy mà một số chương trình như: chương trình vốn vay theo Nghị quyết 120 HĐBT đồng bào miền núi và vùng định canh định cư hầu như chưa được vay; quỹ tín dụng Ngân hàng người nghèo, đồng bào miền núi được vay tỷ lệ còn thấp.
-Vì đối tượng hưởng lợi là người nghèo lại ở vùng sâu vùng xa, do vậy cần có giải pháp về hệ thống tổ chức và chính sách thích hợp để tạo điều kiện cho nhân dân gần cán bộ, cán bộ gần dân trong quá trình , nhưng cơ cấu tổ chức nên có chân rết đến trung tâm cụm xã (hiện nay hệ thống tổ chức mới dừng đến huyện thị).
-Chương trình xoá đói giảm nghèo, các chương trình dự án kinh tế xã hội khác cần có sự ưu tiên hàng năm và nhiều năm, hướng vào thúc đẩy kinh tế trang trại và kinh tế nông –lâm trường, lấy nông-lâm trường là đầu mới thực hiện mục tiêu dự án và quay nhanh đồng vốn.
Trong những năm trước mắt cần hướng đầu tư vào khoanh nuôi bảo vệ rừng, phủ xanh đất trồng đồi núi trọc, phát triển ngành nghề truyền thống, như: dệt thổ cẩm, hàng mây tre đan, sử dụng triệt để nguyên liệu sẵn có để sản xuất hàng tiêu dùng, từng bước phát triển sản xuất hàng hoá.
2.5-Nguồn vốn tài trợ quốc tế cho xoá đói giảm nghèo.
Trong mấy năm gần đây, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất của quốc tế như WB,ADB…đã chuyển hướng sang không chỉ tài trợ, cho vay đầu tư phát triển mà còn nhằm vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo. Từ đầu tháng 11-1999, ADB đã chính thức chấp nhận xoá đói, giảm nghèo là mục tiêu chính của mình. Các khoản cho vay của ADB được tập trung vào hỗ trợ các dự án góp phần trực tiếp hay gián tiếp xoá đói , giảm nghèo. Chẳng hạn, khi ADB xem xét quyết định tài trợ vốn làm đường giao thông ở một quốc gia, thì họ đều tính toán xem con đường đó có đi qua khu vực dân cư nghèo hay không. Tương tự, trước khi WB phê duyệt dự án cho vay, xây dựng một mạng lưới điện mới ở một quốc gia, họ đều xem xét liệu khu vực nông thôn có được hưởng lợi từ dự án đó hay không. Biện pháp cụ thể là khảo sát, bố trí cán bộ điều hành dự án, bố trí vốn đối ứng, giải phóng mặt bằng và thực hiện đúng các cam kết.
Hoạt động tài trợ của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ phần lớn là phi lợi nhuận, vì mục tiêu nhân đạo, giúp nâng cao năng lực và cải thiện điều kiện sống của người nghèo. Giải pháp cần thực hiện là đa phương hóa, đa dạng hoá việc thu hút nguồn tài trợ, đồng thời tích cực giới thiệu tuyên truyền, tiếp cận các chương trình, dự án có nhu cầu xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cải thiện môi trường, giáo dục tiểu học, phòng chống bệnh tật…với các tổ chức quốc tế. Tiếp theo là thực hiện có hiệu quả, đúng cam kết của dự án.
3.Mức vay.
Tuỳ theo yêu cầu về sản xuất, dịch vụ mà cho các hộ vay với mức nhiều ít khác nhau song mức trung bình là 1,5 đến 3 triệu đồng cho một hộ sản xuất với các dự án với các dự án nhỏ tạo việc làm tại chỗ, mức vay lớn hơn có thể dành cho các hộ nghèo vốn hình thành tổ hợp sản xuất song không dưới 3 năm. Thời gian trả nợ chỉ coi trọng quy định thời hạn trả nợ cuối cùng, các kỳ hạn nợ kế hoạch trả bù vào kỳ đầu nhưng vẫn phải đảm bảo trả hết nợ trước thời hạn quy định cuối cùng.
4.Về lãi xuất.
Đây là một yếu tố mang nội dung kinh tế và tâm lý đối với người nghèo. Cần phải tạo ra những nấc thang cho những người nghèo tham gia vay vốn, tham gia tín dụng. Chúng ta xoá bao cấp, không cho không và ngay từ đầu phải tập cho người nghèo ý thức: có vay, có trả, trả cả gốc và lãi để cho người nghèo tự tính toán: Sản xuất dịch vụ gì là có hiệu quả và nên vay bao nhiêu,người nghèo phải tính toán cân nhắc trước khi vay.
Theo kinh nghiệm hầu hết các công trình tín dụng người nghèo thành công ở các nước trên thế giới, trong chính sách tín dụng đối với người nghèo, người ta thường quan tâm đến các vấn đề sau: thủ tục vay đơn giản, phù hợp với người nghèo và vùng nghèo (đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao dân trí, khuyến nông….)
Để tạo điều kiện cho vốn tín dụng phát huy có hiệu quả, các nước rất hạn chế và thường không áp dụng chính sách lãi xuất ưu đãi, vì họ cho rằng: lãi xuất ưu đãi sẽ dẫn đến bao cấp, làm suy yếu và làm giảm vai trò đòn bẩy tín dụng, dẫn đến hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp, làm cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo kém hiệu quả.
Đối với Việt Nam, ở giai đoạn đầu, người nghèo có đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh riêng:
-Người nghèo đói thường tập trung ở vùng sâu, vùng xa, những nơi kinh tế kém phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém.
-Do trình độ dân trí thấp, kinh nghiệm làm ăn chưa có, do đó người nghèo sản xuất kinh doanh bước đầu thường gặp phải những trở ngại khó khăn như : chi phí cao lợi nhuận thấp so với các hộ khác.
Vì vậy, mấy năm qua, ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện lãi xuất cho vay ưu đãi đối với người nghèo là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên trong thời gian qua, cùng với việc ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay hộ nghèo theo lãi xuất ưu đãi thì ở một số địa phương đã có một số dự án thí điểm của các tổ chức quốc tế như : dự án IFAD “Bảo tồn và phát triển tài nguyên nông nghiệp” (trong đó có phần cho vay hộ nghèo), thực hiện trong hai tỉnh có dư nợ cho vay khoảng 35 tỷ đồng; dự án KFW: “cho vay xoá đói giảm nghèo” của Ngân hàng tái thiết Đức tài trợ thực hiện ở 11 tỉnh với dư nợ trên 78 tỷ đồng; Dự án NAPA: “Tạo thu nhập và việc làm cho phụ nữ nghèo”do tổ chức phát triển Hà Lan SNVtài trợ , thực hiện ở 8 tỉnh có dư nợ cho vay khoảng 20 tỷ; Dự án SUSC: “Tín dụng tiết kiệm không bao cấp có kiểm soát” do Rabôbank Hà Lan tài trợ kỹ thuật, thực hiện ở 8 tỉnh, có dự nợ trên 70 tỷ đồng. Các dự án trên thực hiện cho vay người nghèo với lãi suất thị trường bước đầu đã mang lại một số kết quả khả quan, chứng tỏ người nghèo có thể tiếp nhận vốn vay theo cơ chế lãi suất thị trường và khẳng định một điều: Cái quan trọng không phải là lãi suất ưu đãi mà phải có sự giúp đỡ quan tâm của toàn xã hội đối với người nghèo, phải có những sự đầu tư cần thiết khác đi kèm phù hợp, đồng thời với vốn tín dụng thì mới phát huy tốt hiệu quả tính dụng đối với ngươì nghèo.
Trong thời gian tới, để phát huy hiệu quả cho vay hộ nghèo nhằm khắc phục những tồn tại và vướng mắc, đảm bảo cho NHNg phát triển bền vững, thì cần thiết phải chuyển cho vay hộ nghèo sang lãi suất thị trường theo hướng :
+Thực hiện thống nhất một lãi suất cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường theo từng thời kỳ nhưng có giảm lãi 30% đối với vùng núi cao hải đảo (vùng III) như lãi suất cho vay của NHNo&PTNT.
+Để khuyến khích những hộ sử dụng vốn có hiệu quả, nên áp dụng chính sách thưởng lãi suất từ 10-20% lãi suất cho vay trả nợ tốt (cả gốc và lãi ).
+Để thực hiện tốt cơ chế cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, cùng với nguồn vốn tín dụng Nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ người nghèo một cách kịp thời và đồng bộ như : quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là các vùng nghèo, nâng cao dân trí, chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến ngư, định hướng sản xuất, tìm kiếm sự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết tốt khâu tiêu thụ sản phẩm cho người nghèo…thông qua các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn chỉ định của Nhà nước không có lãi hoặc lãi suất ưu đãi.
5.Về cơ chế quản lý nguồn vốn:
-Các nguồn vốn cả trrong nước và ngoài nước thuộc chương trình cho vay xoá đói giảm nghèo nên tập trung về một đầu mối NHNg để cho người ngheò vay, tránh chồng chéo, phât tán, nhằm đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất, tập trung phát huy tốt hiệu quả đồng vốn. Cùng với việc cho người nghèo vay vốn, phải thực hiện một cách đồng bộ các chương trình lồng ghép khác để giúp cho người nghèo có kiến thức và kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Các tổ chức xã hội đứng ra làm tín chấp cần phải tư vấn cho nguời nghèo trồng, chăn nuôi cây, con gì cho có hiệu quả nhất, tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh của từng hộ.
NHNg hiền nay chưa thể tách ra hoạt động riêng mà phải dựa vào mạng lưới của NHN0&PTNT để thực hiện quy trình cho vay, thu nợ và kiểm tra việc sử dụng vốn vay là phù hợp với điều kiện hiện nay, tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa hai ngân hàng cần phải quy định cụ thể rõ ràng về quy trình cụ thể, rõ ràng quy trình nghiệp vụ, cũng như trách nhiệm của đôi bên, đảm bảo tính độc lập, chỉ đạo tập trung thống nhất và có hiệu quả. Thực hiện có chất lượng công tác tuyên truyền để nâng cao sự hiểu biết của hộ nghèo cũng như cộng đồng xã hội về hoạt động của NHNg.
-Các trưởng thôn, trưởng bản, ban xoá đói giảm nghèo có trách nhiệm kiểm soát các hộ vay vốn nhằm hạn chế tới mức thấp nhất việc sử dụng vốn sai mục đích. ở những nơi có điều kiện nên tổ chức cho vay tay ba để đưa luôn vật tư đến người sản xuất, hạn chế việc cho vay bằng tiền mặt.
-Đối với nguồn vốn nhận dịch vụ uỷ thác từ các địa phương, cần phải có hợp đồng dịch vụ rõ ràng giữa các địa phương với Ngân hàng; quy định trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích của các bên tham gia và phương án xử lý rủi ro bất khả kháng nếu có. Đồng thời, nên áp dụng đồng nhất về các cơ chế nghiệp vụ, thủ tục cho vay những quy định riêng, lãi suất quá thấp hoặc cho vay không lãi làm tăng bao cấp, gây khó khăn trong quản lý và tác động không tốt tới tâm lý người vay.
-Trong cơ chế cũng cần phải lập quỹ rủi ro và quy định mức rủi ro thế nào thì được bù đắp từ quỹ rủi ro của ngân hàng. Ngoài quy định đó, mức lớn hơn thì Nhà nước can thiệp (Chính quyền địa phương và Chính phủ).
-Một điều quan trọng mà các cấp quản lý phải quan tâm đó là không ngừng nâng cao dân trí, tăng cường nhận thức về đói nghèo, đào tạo cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp xã. Đặc biệt, cần đầu tư trọng điểm, dứt điểm tránh dàn trải, đồng thời, có chiến lược dài hạn, kế hoạch ngắn hạn với các chỉ tiêu, hành động cụ thể theo từng thời kỳ.
Về phần mình, ông Ngô Huy Liêm, phái viên chương trình hợp tác Việt-Đức về xoá đói giảm nghèo, cho rằng cần đặc biệt coi trọng sự cần thiết của hệ thống theo dõi giám sát việc thực thi chính sách. Mặt khác, cần chú trọng đến sự phù hợp của cơ chế, chính sách với đặc điểm mỗi vùng và không thể thiếu sự phối hợp, cộng tác chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan va các tổ chức xã hội ngay từ khi xây dựng dự án, chương trình. Trong khi đó, ông Luciano Lavizzari, giám đốc văn phòng Đánh giá nghiên cứu thuộc văn phòng chủ tịch của Quỹ quốc tế phát triển nông nghiệp khẳng định rằng, xoá đói giảm nghèo sẽ hiệu quả hơn, nếu bản thân người nghèo đói tự biết mình cần gì, nói ra được điều họ cần và tiếp đó được các ngành, các cấp chức năng giúp họ tự đáp ứng “điều cần thiết ấy” thông qua việc thu hút sự tham gia của họ vào dự án.
Kết luận
Suy đến cùng thì chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước cũng là vì chiến lược phát triển con người, vì hạnh phúc của con người. Đói nghèo là vấn đề có tính xã hội, do đó, mọi nỗ lực đầu tư của nhà nước lấy từ kinh phí và ngân sách quốc gia dù có tăng tiến bao nhiêu cũng không thể đáp ứng quy mô toàn xã hội. Cũng do vậy, cần thiết phải huy động vào phong trào quần chúng có tính chất xã hội sâu rộng này sự tham gia đóng góp, sự hỗ trợ của mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi địa phương, mọi người, mọi nhà về vật chất và tinh thần. Cũng rất cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác của cộng đồng quốc tế.
Mặt khác, hỗ trợ vốn và cho vay hộ nghèo phải trên phương châm “ Hỗ trợ cần câu hơn cho xâu cá” Việc hướng dẫn cho hộ nghèo cách thức “câu” như thế nào là trách nhiệm không chỉ của Ngân hàng phục vụ người nghèo mà còn là trách nhiệm của các ngành, các cấp và cộng đồng xã hội.
Chỉ như vậy, các chương trình, dự án tạo việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, hỗ trợ vốn, công nghệ, mở mang dân trí, cải thiện điều kiện ăn ở, chăm sóc y tế, sức khoẻ cộng đồng và xoá đói giảm nghèo mới có thể thực hiện thắng lợi. Hướng tới sự phát triển bền vững, một đất nước “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Cuối cùng, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phan Thu Hiền giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
TàI liệu tham khảo
-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX.
-Vấn đề nghèo ở Việt Nam-NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội (1996)
-Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội-Khoa kinh tế phát triển-Đại học Kinh Tế Quốc Dân (2000)
-Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn (1997)
-Đói nghèo- hiện trạng và giảI pháp (1994)
-GiảI quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo ở các nước và Việt Nam
-NXB Nông nghiệp (2000)
-Việt Nam vượt lên thử thách –Ngân hàng Thế giới (1998)
-Việt Nam quá độ sang kinh tế thị trường-Ngân hàng Thế giới (1993)
-Việt Nam tấn công nghèo đói-Báo cáo phát triển của Việt Nam (2000)
Tạp chí:
-Thời báo kinh tế Việt Nam- Số 78/98.
-Kinh tế và phát triển- Số 49,50,44,43 năm 2001, số 41,38 năm 2000.
-Xã hội học-Số3&4/99,1/2000.
-Nông nghiệp và phát triển nông thôn-Số 3/99
-Lao động và xã hội- Số 3/ 01
-Nghiên cứu lý luận-Số 10/ 00
-Con số và sự kiện-Số 12 /99, 5/ 99.
-Tạp chí ngân hàng-Số 4,6,3 năm 2001; số 12,9,6,1+2 năm 2000;
số 17,9,8,7 năm 1999
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35162.doc