Đề tài Vấn đề huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam

Như vậy, thị trường tài chính Việt Nam tuy đang tăng trưởng với tốc độ lớn song vẫn còn tiềm ẩn nhiều hạn chế. Nhà nước, các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao chất lượng thu hút nguồn vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có cơ sở vững vàng để sản xuất kinh doanh, để cạnh tranh và phát triển trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Việt Nam đang phát triển nhanh, đang hòa nhập cùng quốc tế. Trong hoàn cảnh này, vấn đề tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là vô cùng quan trọng, để doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển.

doc12 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Năm 2007 vừa qua Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài. Gia nhập WTO, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hội nhập thế giới sâu rộng hơn bao giờ hết. Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước rất thách thức, vậy nên muốn cạnh tranh đứng vững và phát triển trong môi trường đầy tiềm năng và nhiều thách thức này, các doanh nghiệp ngoài việc cần phải chuẩn bị kĩ lưỡng về chiến lược kinh doanh lâu dài, yêu cầu cao về kỹ thuật, chất lượng ngồn nhân lực thì có 1 điều kiện tiên quyết không thể thiếu đó là nguồn vốn dồi dào. chúng ta có thể thấy rõ nhu cầu nghiên cứu và ứng dụng vấn đề thu hút nguồn vốn sao cho hiệu quả, phục vụ những kế hoạch tài chính trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của doanh nghiệp, em đã tìm hiểu về thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, sau đây em xin trình bày phần tìm hiểu của mình mong rằng phần nào sẽ giúp cho các bạn hiểu thêm về vấn đề này. Rất mong nhận được sự nhận xét của các bạn và giảng viên thạc sĩ Phan Hồng Mai. Nội dung 1. Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu ở các DN VN hiện nay 1.1 Vốn góp ban đầu Hiện hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ và vừa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thì có tới 96,81% số doanh nghiệp nước ta thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó xét về vốn chủ sở hữu, số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,80%, số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ chiếm 37,03% số doanh nghiệp vốn từ 5 đến 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 8,15%, theo số liệu năm 2006 ta có 73% các doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ đồng; số doanh nghiệp có số vốn từ 50-200 tỷ đồng chiếm 8,5%.. Như vậy, quy mô vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất nhỏ lẻ, không thể đáp ứng yêu cầu phát triển và cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhu cầu tăng vốn, thu hút vốn là rất lớn, khi mà năng lực tài chính lại quá yếu. Tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 72.012 doanh nghiệp hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng, chỉ bằng một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới. Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0% tổng số vốn của các doanh nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% (868.788 tỷ đồng). Trong 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, cả nước có 160.752 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn ban đầu là 321,25 ngàn tỷ đồng, đồng thời các doanh nghiệp đăng ký bổ sung 103,47 ngàn tỷ đồng vốn. Riêng năm 2005, số vốn đăng ký bổ sung này là 38,34 ngàn tỷ đồng. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong quý I năm 2006, có 7.775 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp với số vốn đăng ký 29.063 nghìn tỷ đồng. Tuy giảm 8% về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng tăng 25% về số vốn đăng ký. Như vậy đã có chuyển biến tích cực trong cơ cấu nguồn vốn ban đầu, vốn góp ban đầu của các doanh nghiệp đã có sự tăng cường . 1.2. Vốn từ lợi nhuận để lại Hiện nay ở Việt Nam, nguồn vốn từ lợi nhuận để lại chưa được quan tâm đúng mức. Do trong khối các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp được bao cấp về tài chính, nên nhu cầu nguồn vốn là không nhiều. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động không hiệu quả, nên nguồn vốn từ lợi nhuận để lại là không có. Trong trường hợp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, do mâu thuẫn giữa lợi tức cho cổ đông và lợi nhuận để lại tái sản xuất là từ cùng 1 nguồn lợi nhuận sau thuế. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, uy tín chưa xây dựng ổn định, nên việc đảm bảo mức lợi tức cổ phần cao là thường thấy, như vậy, lợi nhuận để lại của các doanh nghiệp này rất nhỏ, không đủ phục vụ nhu cầu tái sản xuất mở rộng. 1.3.Vốn từ phát hành cổ phiếu mới Đây là kênh huy động vốn đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp cổ phần nào. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển, tuy chưa ổn định, nên việc thu hút nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới là rất cần thiết và hoàn toàn có khả năng thực hiện, doanh nghiệp cũng có thể xây dựng hình ảnh thương hiệu từ phương thức này, song cần thận trọng, chú ý đề phòng những rủi ro của thị trường. Theo số liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2006, trên TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) có 106 công ty và 2 chứng chỉ quỹ, trên sàn GDCK Hà Nội (HaSTC) có 87 công ty, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 221,156 tỷ, chiếm 22,7% tổng GDP 2006, và lớn gấp 20 lần năm 2005. Số lượng công ty niêm yết tăng mạnh vào cuối năm 2006, chỉ riêng tháng 12/2006 có tới 50 công ty niêm yết mới trên HoSTC, bình quân mỗi ngày gần 2 công ty. Nguyên nhân chính của tình trạng lên sàn ồ ạt là do từ 01/01/2007, Luật chứng khoán chính thức có hiệu lực, bãi bỏ ưu đãi thuế Thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp niêm yết trên sàn sau ngày này. Như vậy, thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã có bước phát triển vượt bậc, tạo kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp, song, thực chất thị trường này còn rất nhiều bất cập. Đầu tiên, ta điểm qua tình hình phát triển của thị trường chứng khoán giai đoạn 2005-2007. Một số nét dễ nhận thấy đó là thị trường thường tăng trưởng nóng trong những tháng cuối năm và đầu năm, còn từ tháng 4 đến khoảng tháng 7-8 thị trường điều chỉnh giảm. Tình trạng này diễn ra liên tục cho thấy khả năng tăng trưởng bong bóng và sự mất ổn định của thị trường. Trong điều kiện tăng trưởng ồ ạt, việc các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp giảm sốt hữu hiệu đối với thị trường, tăng cung thì thị trường sẽ cân bằng hơn. Song khi thị trường mất ổn định, đi xuống trong thời gian dài, kế hoạch tăng cung cho thị trường sẽ không khả thi. Đây là một trong những khó khăn trong việc tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp. Một vấn đề khác ta cần lưu tâm, đó là trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, các doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng phát hành cổ phiếu mới, và điều này nếu lạm dụng sẽ tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp, gây ra những rủi ro khó lường.Nguyên nhân chính đó là các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp, họ ít quan tâm đến lợi nhuận và rủi ro của những kế hoạch đầu tư mà chủ yếu là mua bán cổ phiếu kiếm lời trong ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp rủi ro. Khi doanh nghiệp đầu tư một dự án, hiệu quả chỉ diễn ra vài năm sau, nhưng cổ tức vẫn phải trả hàng năm. Nếu không đảm bảo cổ tức cho cổ đông, cổ phiếu công ty sẽ rớt giá không kìm được. Đây là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức trong điều kiện tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Thậm chí, có những doanh nghiệp Việt Nam đã lấy tiền từ phát hành cổ phiếu để trả nợ ngân hàng, đầu tư tài chính,.. tức nằm ngoài mục tiêu chính của nguồn vốn dài hạn này là phát triển sản xuất kinh doanh. Một hạn chế khác của vấn đề phát hành cổ phiếu mới của các doanh nghiệp đó là khả năng mất cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch thu hút vốn hợp lý, mà chỉ tập trung từ nguồn vốn cổ phần, doanh nghiệp sẽ khó đảm bảo cơ cấu vốn tối ưu, dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn thấp. Một vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay là sự thiếu hụt thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô vốn yếu, và một tình hình chung là thông tin cung cấp cho các cổ đông và các nhà đầu tư thường thiếu, không kịp thời và không minh bạch, thậm chí có những thông tin nội gián, gây nhiều khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng như dự báo rủi ro kinh doanh cổ phiếu của các nhà đầu tư. Nguyên nhân tình trạng này là do các doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc cung cấp thông tin. Bề ngoài, các nhà đầu tư phải được cung cấp những báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp, bao gồm cả báo cáo kiểm toán của một công ty kiểm toán độc lập. Song, trên thực tế, doanh nghiệp chưa cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết. Lý do đó là doanh nghiệp mang tâm lý đề phòng với các cơ quan quản lý nhà nước như thuế vụ, công an, quản lý thị trường... và các doanh nghiệp phải dè chừng những đối thủ cạnh tranh, sợ lộ những kế hoạch tài chính của mình. Hệ thống khai báo và chính sách thuế của Việt Nam còn nhiều bất cập, làm cho doanh nghiệp luôn muốn khai thấp doanh thu, khai tăng chi phí để bảo toàn lợi nhuận. Hậu quả là tình hình tài chính của doanh nghiệp bị bóp méo, gây ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp, và khó khăn cho nhà đầu tư. Như vậy, vấn đề thu hút nguồn vốn chủ sở hữu ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Việc huy động và sử dụng nguồn vốn này như thế nào là một nhiệm vụ quan trọng của ban điều hành quản lý doanh nghiệp. 2. Các hình thức huy động vốn vay ở các DN VN hiện nay 2.1. Tín dụng ngân hàng Ngân hàng là các tổ chức tài chính trung gian có địa vị không thể thiếu trong bất cứ nền kinh tế nào. Đây là một kênh phân bổ nguồn lực xã hội hiệu quả cao. Đây là một nguồn vốn quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp luôn cần nguồn tín dụng ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Nguồn vay này cũng có thể sử dụng phục vụ cho những dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp trong trung và dài hạn. Hiện nay, các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng vẫn sử dụng các hoạt động vay và cho vay truyền thống như hoạt động chính của mình, chiếm 75-80% toàn bộ các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng lớn đối với mảng doanh nghiệp nhà nước, có khi lên đến 80%. Đây là một hạn chế lớn cần giải quyết. Các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa thường gặp khó khăn trong đánh giá tài sản, đây là hậu quả của chính sách bảo hộ tài chính của nhà nước với các doanh nghiệp này diễn ra một thời gian dài trước đây, làm cho tình hình tài chính các doanh nghiệp này mất cân đối nghiêm trọng. Từ nay trở đi, vấn đề bao cấp này sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn, do vậy các doanh nghiệp nhà nước cần có biện pháp cân đối nguồn vốn nợ vay này, tránh tình trạng sức ép trả nợ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Một thực trạng khác đó là tín dụng ngân hàng chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước, chiếm đến 80% dư nợ cho vay, trong khi đó khối doanh nghiệp tư nhân chưa được quan tâm đúng mức, dù nó sản xuất được khối lượng hơn 42% GDP. Tình hình này đã được cải thiện đáng kể trong năm 2006. Khối ngân hàng thương mại hoạt động ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã tăng cường cho vay đối với khối doanh nghiệp tư nhân, coi đây là một đối tượng phục vụ chính, hiện nay đã lên đến 40% tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại ở đây. Thế nhưng mặt khác, thị trường tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng thỏa đáng nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp VN hiện nay. Theo một điều tra về thực trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Cục phát triển doanh nghiệp (thuộc Bộ Kế hoạnh và Đầu tư) công bố cho thấy chỉ có 32,38% các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng, 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, và nếu có tài sản thế chấp thì cũng chỉ được vay tối đa 70% giá trị tài sản, theo cách định giá của ngân hàng cho vay. Không những vậy, kết quả của việc chạy đua thu hút vốn giữa các ngân hàng bằng lãi suất trong thời gian qua đã đẩy lãi suất cho vay lên quá cao, trung bình khoảng 12-13%. Điều đó làm cho doanh nghiệp càng khó có khả năng chạm tới nguồn vốn ngân hàng. Trong hoàn cảnh này, nhu cầu vốn của doanh nghiệp lại không ngừng tăng cao, sức ép hội nhập từ APTA, gần đây là WTO khiến cho doanh nghiệp phải tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường. 2.2.Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại, hay còn được biết tới như là những hoạt động mua bán chịu, trả chậm hay trả góp. Tín dụng thương mại là một kênh đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong ngắn hạn, giúp các doanh nghiệp tự chủ tài chính, giúp đỡ lẫn nhau. Các công cụ chủ yếu được sử dụng là thương phiếu, như hối phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, các loại séc... Thời gian qua, các doanh nghiệp có giao dịch với nước ngoài đã sử dụng những công cụ này một cách thường xuyên, đặc biệt là hối phiếu, trong các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tuy còn nhiều bỡ ngỡ, song với kinh nghiệm tích lũy qua thời gian, các doanh nghiệp này đã sử dụng tốt công cụ này. Song, một thực trạng đáng buồn là các doanh nghiệp Việt Nam khi buôn bán trong nội địa chưa sử dụng phổ biến thương phiếu. Các ngân hàng cũng chưa thực hiện những nghiệp vụ như bảo lãnh, chiết khấu hay cầm cố thương phiếu. Trong khi các hoạt động như mua bán chịu, bán hàng gối đầu cho đại lý, giữa các tiểu thương là hoạt động diễn ra hàng ngày hàng giờ. Ở Việt Nam hiện nay 80,5% các hoạt động mua bán có sử dụng tới tín dụng thương mại, song những nghiệp vụ này chỉ được ghi sơ sài trên sổ nợ của người bán, hay sử dụng những văn bản thỏa thuận đơn giản, ít có giá trị pháp lý. Đây là nguyên nhân chính của những tranh chấp khó giải quyết. Từ 1/7/2006, thời điểm Luật các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực, các hoạt động tín dụng thương mại mới được công nhận về mặt luật pháp. Song đến thời điểm này vẫn chưa có thay đổi gì đáng kể trong việc sử dụng các công cụ tín dụng thương mại ở Việt Nam. 2.3.Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua tuy có vai trò quan trọng, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, song vẫn còn khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam. Nghiệp vụ cho thuê tài chính được Nhà nước quy định lần đầu tiên vào năm 1995. Đến 2/5/2001, Chính phủ ban hành nghị định 16 về tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Hiện nay cả nước có 9 công ty cho thuê tài chính, tất cả đều trực thuộc ngân hàng, cuối năm 2003, tổng vốn điều lệ của 9 công ty này lên tới 785,6 tỷ đồng. Trong đó có 6 công ty từ nguồn vốn trong nước, 2 công ty 100% vốn nước ngoài, và 1 công ty liên doanh giữa 3 ngân hàng và 2 công ty tài chính, chỉ 1 ngân hàng thuộc Việt Nam. Đối tượng phục vụ của các công ty tài chính có sự phân biệt rõ rệt, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng tín dụng thuế mua với các công ty cho thuê tài chính nước ngoài, công ty trong nước thì phục vụ chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước, gồm cả nhà nước và tư nhân. Các công ty tài chính phát triển nhanh chóng cả về quy mô và mạng lưới hoạt động, thực hiện nhiều nghiệp vụ phong phú, đa dạng các tài sản cho thuê, phương thức cho thuê và đối tượng khách hàng. Cùng với việc đầu tư chiều sâu, cải tiến kỹ thuật, các công ty cho thuê tài chính luôn có hoạt động kinh doanh lành mạnh, lợi nhuận cao, tỷ lệ nợ xấu thấp. Dư nợ gia tăng mạnh trong khoảng thời gian 1999-2004. Tỷ trọng dư nợ cho thuê tài chính trong tổng tài sản chiếm đa số và tăng liên tục từ 65% năm 1999 lên 91% năm 2004. Nguồn vốn từ các công ty này càng ngày càng có vai trò cao trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp, tuy còn nhiều hạn chế như chí phí thuê mua cao. 2.4.Tín dụng bằng trái phiếu tín phiếu Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay còn rất non trẻ, trong năm 2006 tuy đã có những phát triển vượt bậc song còn nhiều hạn chế cần giải quyết. Trong số những hạn chế ấy, vấn đề trái phiếu doanh nghiệp nổi lên như một khuyết điểm không đáng có. Trong số các loại chứng khoán đang niêm yết, trái phiếu doanh nghiệp không có một vị trí nào. Trong khi các cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được quan tâm chú ý, trái phiếu chính phủ thì có hơn 400 loại (cuối năm 2006), thì trái phiếu doanh nghiệp niêm yết chỉ có 2 loại, trái phiếu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, và trái phiếu chuyển đổi của ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Ngoài ra còn có một số loại trái phiếu doanh nghiệp khá thu hút như trái phiếu của Vinashin... Tính đến tháng 6 năm 2004, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 7% tổng giá trị trái phiếu phát hành ở Việt Nam. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển, dư nợ trái phiếu thấp, chủ thể phát hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế. Tất cả những yếu tố đó làm cho từ khâu phát hành đến đảm bảo khả năng thanh khoản cũng như những biện pháp phòng ngừa rủi ro đều chưa được quan tâm. Như vậy, một kênh huy động vốn có vai trò quan trọng đang bị bỏ quên. Lợi ích từ trái phiếu doanh nghiệp là điều không phải bàn cãi nhiều, vậy nguyên nhân là ở đâu? Nguyên nhân thứ nhất, các doanh nghiệp chưa có hiểu biết đúng mức về trái phiếu doanh nghiệp, chưa thấy hết lợi ích của việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Các doanh nghiệp gặp khá nhiều khó khăn trong việc xin phép phát hành do những thủ tục hành chính rườm rà, không hoàn toàn là vì lý do quản trị rủi ro. Nguyên nhân thứ hai đó là thị trường chưa được chuẩn bị đầy đủ điều kiện, các nhà đầu tư còn thiếu thông tin và kinh nghiệm, mua bán chứng khoán chủ yếu với mục tiêu kiếm lời ngắn hạn, không có ý định đầu tư dài hạn, do vậy trái phiếu doanh nghiệp có tính thanh khoản kém hơn các loại chứng khoán khác. Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp chỉ mới được thông qua tháng 6 năm 2006, và chỉ quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ, không phải là phát hành ra công chúng. Từ thời điểm này, doanh nghiệp và nhà đầu tư mới có những cơ sở pháp lý, những nguyên tắc điều kiện cơ bản và cần thiết để tiến hành các hoạt động phát hành cũng như mua bán đấu thầu trái phiếu. Tình trạng trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển là do trong các Nghị định, quy định về phê duyệt cho phép phát hành trái phiếu còn chưa rõ ràng, mất nhiều thời gian để đàm phán. Vấn đề thông tin không đầy đủ, không có bản cáo bạch cũng khiến các nhà đầu tư tiềm năng không mặn mà, làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu. Hệ thống giao dịch chung cho trái phiếu và cổ phiếu cũng ảnh hưởng tính hấp dẫn của loại chứng khoán này. Trái phiếu doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao hơn hẳn trái phiếu chính phủ, song vấn đề phục vụ công tác đánh giá tín nhiệm lại chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt vấn đề thiếu thông tin, thông tin không đầy đủ, thiếu nhất quán hoặc thông tin chưa minh bạch làm cho nhà đầu tư không phân tích đánh giá được rủi ro của trái phiếu, nên không đưa ra quyết định được. Mặc dù đã có nghị định chính phủ về quy chế chào bán riêng lẻ trái phiếu, nhưng vẫn chỉ trên quan điểm của nhà làm luật, chưa xem xét bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Việt Nam cũng chưa có các công ty định mức tín nhiệm, nên các nhà đầu tư phải tự phân tích chi phí đầu tư trái phiếu, hoặc mua trái phiếu không có định hướng, rủi ro là rất lớn. Kết luận Như vậy, thị trường tài chính Việt Nam tuy đang tăng trưởng với tốc độ lớn song vẫn còn tiềm ẩn nhiều hạn chế. Nhà nước, các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao chất lượng thu hút nguồn vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có cơ sở vững vàng để sản xuất kinh doanh, để cạnh tranh và phát triển trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Việt Nam đang phát triển nhanh, đang hòa nhập cùng quốc tế. Trong hoàn cảnh này, vấn đề tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là vô cùng quan trọng, để doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển. Vấn đề huy động vốn cho doanh nghiệp là một vấn đề đầu tiên cần giải quyết khi xây dựng khả năng cạnh tranh. Đảm bảo đầy đủ nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, trong khi sử dụng một cơ cấu vốn hợp lý tối ưu với chi phí thấp nhất có thể, là bước đầu tiên tạo nền tảng cho quá trình hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34931.doc
Tài liệu liên quan