Đề tài Vấn đề khủng hoảng nợ công Hy Lạp với thực trạng nợ công tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU --------------›¶š-------------- Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng và chất , kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay, toàn cầu hóa với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này đã thực sự trở thành “một sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời gian trở lại đây. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn không ít rủi ro, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến với quốc gia này có thể là nguyên nhân làm lung lay pháo đài kinh tế của quốc gia khác trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Một trong những biểu hiện rõ nét và đặc trưng nhất của mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu. Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ “bong bóng thị trường bất động sản Mỹ” thì sang đến cuối năm 2009, hệ thống kinh tế toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước nguy cơ công phá mạnh mẽ của khủng hoảng nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến là các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn nhức nhối trong thời gian kéo dài. Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình hình nợ công của các nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB, để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu. Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại. Để làm rõ vấn đề này, bài thảo luận của nhóm chúng tôi sẽ đi sâu phân tích cơ sở, thực trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp tới nền kinh tế thế giới, phân tích và đánh giá sơ bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý, hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng hoảng nợ công Hy Lạp với thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên nhân cùng những đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số hướng đi khả thi nhằm góp phần quản lý có hiệu quả nợ công trong nước. Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi tích cực từ thầy cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2848 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề khủng hoảng nợ công Hy Lạp với thực trạng nợ công tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực, các nước có liên quan hay thậm chí là nền kinh tế toàn cầu. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc này, nhiều kịch bản khác nhau đã được đưa ra, theo đó có thể đề cập đến hai hướng giải quyết chính: tiếp tục kêu gọi những gói hỗ trợ từ bên ngoài và người dân Hy Lạp tuân thủ chinh sách thắt lưng buộc bụng hay để cho Hy Lạp vỡ nợ và loại quốc gia này ra khỏi khối. Tuy nhiên, hai hướng giải quyết này đều bộc lộ những ưu điểm, hạn chế nhất định. Để tránh làm loãng vẫn đề nghiên cứu, trong phần này, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích theo những đánh giá chủ quan về kịch bản để cho Hy Lạp vỡ nợ. Bên cạnh những hệ lụy đáng kể đến nền kinh tế của Hy Lạp nói riêng và EU cũng như thế giới nói chung nếu như Hy Lạp vỡ nợ, ta cần phải nhìn nhận vấn đề theo một phương diện tích cực hơn. Nói cách khác, từ tình hình khắc phục khủng hoảng nợ công thực tế đang diễn ra tại các nước châu Âu, đặc biệt là Hy Lạp với những gói cứu trợ chưa thực sự phát huy hiệu quả và yêu cầu “thắt lưng buộc bụng” gây nhiều tranh cãi và bất mãn trong dân chúng, việc nghĩ tới viễn cảnh Hi Lạp vỡ nợ đã thực sự trở thành một giải pháp khả thi. II.4.1. Như thế nào là vỡ nợ? Một quốc gia được gọi là vỡ nợ (hay phá sản) là khi quốc gia đó không có khả năng trả nợ, hoặc không còn đủ ngoại tệ để thanh toán cho hàng nhập khẩu như máy móc, nguyên liệu... trong thời gian kéo dài; đi kèm với đó là khả năng tiếp tục vay nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế suy yếu, dẫn đến quốc gia này không thể vay thêm để trang trải cho các khoản nợ (vỡ nợ bắt buộc) hoặc tự động tuyên bố mất khả năng chi trả (vỡ nợ tự nguyện). Theo cách hiểu này, vỡ nợ có thể xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau và có những đặc điểm riêng, gắn liền với hoàn cảnh kinh tế xã hội của quốc gia và trên trường quốc tế. Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều sự đổ vỡ tương tự từ sau các cuộc khủng hoảng nợ kéo dài. Có thể liệt kê ra đây một số dẫn chứng tiêu biểu như sự kiện: tháng 8 năm 1982, Bộ trưởng tài chính Mexico Jesus Silva-Herzog tuyên bố rằng nước này không có khả năng trả, kéo theo khủng hoảng kinh tế trên toàn bộ khu vực Mỹ Latinh. Kế đến, tháng 12/2001, Argentina cũng tuyên bố vỡ nợ, chấp nhận hình phạt cô lập với thị trường vốn quốc tế trong những năm kế tiếp,… Như vậy, có thể thấy rõ, vỡ nợ không phải là một khái niệm mới lạ gì đối với nền kinh tế thế giới. Tuy không phải là biện pháp được khuyến khích sử dụng, song trong một số hoàn cảnh nhất định, nó lại trở thành phương thức hữu dụng hơn cả nhằm cứu vãn tình thế khó khăn của các quốc gia lâm nạn. II.4.2. Kịch bản vỡ nợ nào dành cho Hy Lạp? Như đã trình bày ở trên, vỡ nợ có thể xảy ra theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện riêng của từng quốc gia và khả năng đàm phán của quốc gia đó với các đối tác trên thế giới. Đối với những lựa chọn khác nhau, ảnh hưởng của quyết định vỡ nợ Hy Lạp đến bản thân quốc gia này và khối EU là không giống nhau. Trước hết, ta tạm thời bỏ qua giả thiết Hy Lạp bị bắt buộc vỡ nợ. Sở dĩ như vậy là do, khủng hoảng nợ công Hy Lạp không chỉ đơn thuần là món nợ quốc gia mà hơn thế nữa, nó có sức tác động to lớn với toàn hệ thống kinh tế khu vực đồng tiêu chung châu Âu Eurozone. Xuất phát từ mối liên hệ mật thiết giữa các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia trực thuộc Eurozone, không nước nào muốn chủ động tạo áp lực ép Hy Lạp vỡ nợ đột ngột một cách bị động vì vô hình chung, đó chính là hành động gián tiếp gây nguy cơ, đe dọa nền kinh tế của chính mình. Vậy thì, với kịch bản vỡ nợ đầu tiên, Hy Lạp có thể tuyên bố xin phép chuyển đổi khoản nợ hiện tại thành khoản nợ mới với giá trị danh nghĩa thấp hơn. Theo đó, những gì Hy Lạp phải đối mặt khi này là cố gắng giải quyết khoản nợ mới với khả năng trả nợ cao hơn so với mức nợ khổng lồ ban đầu. Tuy nhiên, việc xin chuyển đổi này cũng có thể dẫn đến nhiều khó khăn trong vấn đề thanh khoản, vì khi đó, các khoản nợ đã chuyển đổi nêu trên có thể không còn được chấp nhận như tài sản thế chấp. Nói cách khác, việc “vay nợ để trả nợ” có thể khó khăn hơn. Mặt khác, Hy Lạp có thể đơn phương thay đổi khoản nợ hiện tại theo hướng giữ nguyên giá trị danh nghĩa nhưng kéo dài kì hạn trả nợ của những khoản nợ này. Trước mắt, hành động “tự gia hạn” trả nợ này có thể làm dịu gánh nặng nợ nần đối với Hy Lạp trong ngắn hạn. Song, xét về dài hạn, việc thay đổi kì hạn (hoặc lãi suất) thực tế không làm thay đổi áp lực rả nợ đối với nền kinh tế. Thêm vào đó, việc vỡ nợ tự nguyện này còn gây ảnh hưởng không tốt đến vị thế vốn đã quá dễ lung lay của Hi Lạp trong con mắt các chủ nợ và các tổ chức đánh giá xếp hạng tín dụng. Một sự “bất tín” như vậy có thể đưa đến sự sụt giảm không mong muốn trong các chỉ số do S&P hay Moody,… đưa ra, hệ quả là việc vay nợ trở nên khó khăn hơn. Từ những gì đã phân tích ở trên, có thể đưa ra một hình thức “vỡ nợ” tích cực hơn; đó là đàm phán thương lượng lần lượt từng điều khoản với các chủ nợ nhằm giữ nguyên giá trị khoản nợ, kéo dài thời hạn trả nợ và thay đổi lãi suất theo hướng có lợi hơn cho Hy Lạp. Nếu thực hiện theo cách này, Hy Lạp có thể tranh thủ được sự đồng tình và hỗ trợ từ chính các chủ nợ, qua đó giảm nguy cơ bị mất lòng tin thêm trên thị trường tài chính. Nhìn lại bối cảnh Hy Lạp hiện nay: thâm hụt ngân sách cao và khả năng tăng trưởng nội sinh để tài trợ cho các khoản nợ là không khả thi, dẫn đến việc trả nợ của Hy Lạp trông chờ nhiều vào nguồn vốn vay trên thị trường. Do đó, việc Hy Lạp vỡ nợ theo hình thức đơn phương xử lý các khoản nợ (giảm giá trị danh nghĩa, kéo dài thời hạn,…) trở nên không thuyết phục. Lựa chọn tốt nhất còn lại lúc này, chính là hình thức thương lượng của các chủ nợ nhằm tái cơ cấu lại các khoản nợ và lên kế hoạch trả nợ chi tiết. II.4.3. Vì sao nên để cho Hy Lạp vỡ nợ? « Các gói cứu trợ và biện pháp thắt lưng buộc bụng được thực hiện trong thời gian qua chưa phát huy hiệu quả kỳ vọng. Như ta đã biết, từ những gói cứu trợ đầu tiên của EU và IMF năm 2010 dành cho Hy Lạp cho tới nay, tình trạng nợ công của quốc gia này không những không có chuyển biến tốt lên, mà ngược lại còn bộc lộ thêm nhiều nguy cơ tiềm ẩn khác. Đi kèm với các giỏ cứu trợ, Hy Lạp phải chấp nhận thêm ngày càng nhiều các điều kiện ràng buộc chặt chẽ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Yêu cầu thắt chặt ngân sách mà IMF và Liên minh châu Âu buộc Hy Lạp phải thực hiện có thể đẩy kinh tế nước này vào vòng xoáy suy thoái và đẩy kinh tế Hy Lạp đi xuống ngày một sâu hơn. Thêm vào đó, việc rót tiền vào Hy lạp, so sánh hơi khập khiễng một chút, cũng như tặng tiền cho người nghèo, để rồi sau khi tiêu xài hết những khoản viện trợ nói trên, nghèo vẫn hoàn nghèo. Như vậy, nhìn nhận trên một khía cạnh nào đó, những gói cứu trợ từ bên ngoài còn góp phần “nối giáo cho giặc”, khiến cho Hy Lạp, vốn đã yếu kém trong khâu quản lý tài chính, thụ động trong đối phó với nợ công ngày càng trở nên ỷ lại, dựa dẫm vào nguồn trợ giúp quốc tế. Chính sách thắt lưng buộc bụng gồm 10 điều như tăng thuế, giảm chi tiêu công, tư hữu hóa chính phủ,… tỏ ra thiếu tính thuyết phục, “lợi bất cập hại”, tạo ra làn sóng phản đối dữ dội trong dân chúng, dẫn đến những cuộc biểu tình tuần hành ở nhiều nơi, gây bất ổn về mặt chính trị - xã hội. Sự kiện thủ tướng George Papandreou đã tuyên bố từ chức ngày7 tháng 11 vừa qua đã minh chứng rõ hơn phần nào những hỗn loạn, rối ren này trong xã hội Hy Lạp; đặt ra câu hỏi liệu rằng lịch sử Argentina với 4 lần thay đổi tổng thống trong vòng 2 tuần lễ có lặp lại ở quốc gia châu Âu này. Vậy thì, tại sao ở Hy Lạp lại xảy ra thực tế đáng buồn đó? Phải chăng, đó là do các nhà chức trách Athens chưa thực hiện đúng bổn phận của mình, khiến cho khâu quản lý tài chính công trở nên lỏng lẻo, tình hình điều hành đất nước gặp nhiều khó khăn chủ quan lẫn khách quan? Thông thường, khi một quốc gia lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công, các giải pháp được đưa ra phải lấy sự nỗ lực nội tại của chính quốc gia đó làm nền tảng, lấy sửa đổi căn bản từ các chính sách về kinh tế – chính trị - xã hội… làm biện pháp khắc phục trong dài hạn; bên cạnh đó, kêu gọi viện trợ quốc tế và sự góp sức của các nước có liên quan để giải quyết các vấn đề ngắn hạn. Đó là những gì Tunisia, Argentina, Brazil,… tiền hành trong những giai đoạn khó khăn nhất. Tuy nhiên, Hy Lạp lại lựa chọn một hướng đi hoàn toàn khác. So với những nỗ lực giải cứu Hy Lạp từ các quốc gia, tổ chức, cộng đồng lớn trên thế giới thì ý thức tự lực thoát khỏi khủng hoảng nợ của quốc gia này là hết sức yếu ớt. Như thế, những gì cần thiết tại thời điểm này, là một biện pháp có thể giúp kích thích nền kinh tế Hy Lạp tự thân vận động, thay đổi về chất trước khi nhờ đến bất cứ một sự giúp sức nào từ xung quanh. « Nếu Hy Lạp vỡ nợ, đất nước thoát được gánh nặng khổng lồ về lãi suất phải trả cho nước ngoài, làm giảm sức ép thắt lưng buộc bụng, mang đến hy vọng thúc đẩy tăng trưởng Một khi Hy Lạp tuyên bố vỡ nợ, quốc gia này sẽ được giải thoát khỏi những món nợ chồng chất với thời hạn trả nợ bị giới hạn, gây nhiều áp lực lên nền kinh tế. Vừa giảm thiểu được các món nợ nước ngoài, vừa chấm dứt sức ép của chính sách thắt lưng buộc bụng song vẫn đảm bảo cải thiện được vấn đề thâm hụt ngân sách, Hy Lạp có cơ hội thực hiện nhiều hơn các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng. Hơn thế nữa, việc tuyên bố vỡ nợ của Hy Lạp cũng đồng nghĩa với sự chấm dứt các khoản viện trợ bên ngoài. Trong tình huống này, khi không còn các “đại gia” để bấu víu dựa dẫm, Hy Lạp bắt buộc phải tự mình tìm cách đối phó với vấn đề tài chính quốc gia. Một trong những động thái có thể dự đoán trước tại Hy Lạp nếu như quốc gia này tuyên bố vỡ nợ chính là việc Hy Lạp khôi phục lại đồng Drachma, từ bỏ đồng Euro – chấp nhận tiền tệ đúng giá trị. Cũng giống như Arghentina với đồng pesso, Hy Lạp có nhiều khả năng chủ động phá giá tiền tệ, để cho đồng Drachma lao dốc. Khi đó, giá cả của Hy Lạp rẻ hơn tương đối so với các nước khác, xuất khẩu nhờ đó được cải thiện và tính cạnh tranh quốc tế có thể được thiết lập lại. Với viễn cảnh nêu trên, các chỉ số vĩ mô khác như việc làm, thu nhập,… của người dân Hy Lạp đều có thể được cải thiện đáng kể. Ở đây, cần làm rõ vấn đề ở chỗ: sự tăng trưởng của Hy Lạp không đến ngay lập tức sau khi nước này tuyên bố vỡ nợ. Một lần nữa lật lại ví dụ của Arghentina, ta thấy: sau khi tuyên bố vỡ nợ vào tháng 12/2001, tỷ lệ thất nghiệp nước này chạm mức 20%, GDP giảm 15% và gần một nửa dân số sống dưới mức nghèo khổ. Trong suốt 9 năm, Arghentina không được tiếp cận với những quyền lợi từ thị trường tín dụng. Như vậy, trước khi đạt được mục tiêu kì vọng là tăng trưởng kinh tế, Hy Lạp vẫn còn phải trải qua một quãng thời gian khó khăn. Một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng nếu Hy Lạp vỡ nợ và tách khỏi EU, chi phí cho năm đầu tiên sẽ là 40-50% GDP nước này và những năm tiếp theo sẽ giảm xuống khoảng 15%. So sánh nó với chi phí Đức bỏ ra để giải cứu các quốc gia khác trong khu vực, có thể thấy biện pháp này “rẻ” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, kết quả báo cáo trên đây chỉ mang tính chất tham khảo, bởi lẽ các nhà nghiên cứu đã giả định cực đoan rằng các nước rời bỏ khu vực đồng euro cũng sẽ phải ra khỏi Liên minh châu Âu. « Trên góc độ kinh tế vĩ mô, Hy Lạp vỡ nợ là một kết cục hợp lý Trong suốt những thập niên qua, đặc biệt là sau khi gia nhập EU, Hy Lạp đã vay nợ quá nhiều và chi tiêu dùng quá mức. Nói cách khác, quốc gia này đã “ngủ quên trên đống tiền” thực chất không phải của chính mình; điều đó tạo nên một sự phát triển không bền vững và những quan niệm sai lầm về mức sống cao của người dân Hy Lạp. Vậy thì, đến khi khủng hoảng nợ xảy ra, việc vay nợ trở nên khó khăn hơn thì ai sẽ phải trả những khoản vay này? Một cách giải quyết công bằng nhất, chính là để những ai đã vay để hưởng thụ bây giờ lao động để trả nợ, thay vì bòn rút từng khoản một từ các tổ chức quốc tế, cộng đồng khu vực hay những nước có liên quan một cách quá đà. Mặt khác, nếu cố tình tìm hiểu cặn kẽ “ai có lỗi”, có lẽ nên quay ngược lại thời điểm EU hình thành. Rõ ràng vào khoảng thời gian này, dù còn nhiều thiếu sót so với những tiêu chí và điều kiện chung gia nhập, song Hy Lạp, bằng một cách nào đó vẫn có vị trí trong khối cộng đồng chung châu Âu. Những điều đã bị các nước thành viên làm ngơ tại thời điểm đó nhằm hướng tới một mục tiêu trước mắt cần thiết hơn, nay quay trở lại tác động đến nền kinh tế khối này, cũng có thể coi là một kết cục thích đáng. Thật đáng buồn cho những chủ nợ của Hy Lạp nếu như quốc gia này tuyên bố vỡ nợ, bởi lẽ vô hình chung, các chủ nợ là những kẻ gánh chịu rủi ro từ sự kiện không mong chờ này. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận họ trên giác độ là những kẻ đã kiếm lời nhờ cho vay thời kỳ vàng son, thì việc gánh chịu thua lỗ nặng nề lúc này cũng xem như một hệ quả hợp lý: Lợi tức càng cao thì rủi ro càng lớn. Thực tế này cũng chỉ ra một bài học quý giá cho các quốc gia trên thế giới, cần hết sức cẩn trọng trước vấn đề thẩm định tín dụng để hạn chế tối đa rủi ro có thể gặp phải trong bối cảnh kinh tế biến động khó lường như hiện nay. Không phải tài trợ cho các món vay khổng lồ của Hy Lạp, châu Âu có nhiều cơ hội hơn để giúp đỡ các nước khác thoát ra hỏi rủi ro vỡ nợ. Thay vì biến đồng Euro thành phương tiện dung túng cho thói làm việc thiếu hiệu quả của Hy Lạp, các nhà chức trách có thể mang đồng tiền này cứu giúp cho nhiều quốc gia khác gặp khó khăn. Nhờ đó, châu Âu sẽ giảm bớt tình trạng bất an vì khủng hoảng như hiện nay; các món nợ xấu cũng có thêm nhiều hướng giải quyết tích cực hơn. « Nguy cơ về một cuộc khủng hoảng chính trị Nhiều cử tri Hy Lạp tỏ ra quá chán ngán với những biện pháp thắt lưng buộc bụng, họ cho rằng, Hy Lạp thà vỡ nợ còn hơn phải chịu những sức ép từ khối để nhận được các nguồn tài trợ từ khu vực đồng euro cũng như từ Quỹ Tiền tệ quốc tế. Theo như những phân tích về tác động nói trên, hành vi của các cử tri Hy Lạp đã trở nên rất tiêu cực. Các cụ biểu tình đẫm máu đã xảy ra. Căng thẳng giữa người dân và Chính phủ ngày càng gay gắt. Con đường từ khủng hoảng nợ công đến khủng hoảng chính trị là rất ngắn. Người dân Hy lạp đã gần như mất hoàn toàn niềm tin và sự kiên nhẫn vào Chính phủ sau khi chờ đợi nhiều năm. Mặc dù một Chính phủ mới đã ra đời sau sự ra đi của Thủ tướng Georger Papandreous nhưng người dân Hy Lạp vẫn không tin Chính phủ mới này sẽ làm được gì? Như chúng ta đã thấy kinh nghiệm của nhiều quốc gia, từ những thời kỳ xa xưa cho đến thời đại ngày nay, nếu như không có sự thống nhất và đoàn kết nhân dân thì mọi mục tiêu mà Chính phủ đặt ra sẽ không đạt được. Bản thân Hy Lạp, liệu các gói cứu trợ có khiến lòng nhân dân Hy Lạp thêm lạc quan vào tương lai phía trước của nền kinh tế hay không? Mặt khác, nền kinh tế kinh tế khác trong khối, mà cụ thể là Đức - mạnh nhất trong Liên minh châu Âu, cũng là nước có thặng dư ngân sách. Nước này đang tập trung nỗ lực tối đa để cứu đồng euro. Mặt khác, giới chính trị của Đức đòi phải chấm dứt hiện tượng khi những người nộp thuế ở Đức phải thanh toán món nợ của Hy Lạp. Bản thân người dân Đức cũng không muốn họ phải “nai lưng” ra làm để trả nợ cho nước khác. Các nhà phân tích dự đoán rằng, vì có gánh nặng quá lớn vào nền kinh tế quốc dân, nước Đức có thể từ chối thanh toán món nợ của người khác. Chính vì thế mà có ý kiến rằng Đức sẽ ra khỏi khu vực để tránh những phiền toái mà họ đáng ra không phải gánh chịu. Khi đó, khu vực euro sẽ bị sụp đổ. Như vậy để tránh cho 1 sự sụp đổ không đáng có thì sự ra đi của Hy Lạp nói chung và các nước cũng đang trong tình cảnh như Hy Lạp trong khối nói riêng cũng là điều cần thiết. « Viễn cảnh tươi đẹp hơn sau khi vỡ nợ là điều được trông chờ Thực tế chỉ ra rằng, việc vỡ nợ với các quốc gia chưa hẳn đã là điều xấu. Bên cạnh việc quốc gia vỡ nợ sẽ bị cô lập với thị trường vốn quốc tế trong một thời gian dài, bị đánh giá thấp về chỉ số xếp hạng tín dụng,… vỡ nợ cũng được coi như một biện pháp làm mời từ đầu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trường thì mức thấp hơn trong chu kỳ kinh tế. Các kiểm nghiệm đã chỉ ra rằng, dù các nước vỡ nợ không được phép tiếp cận thị trường vốn quốc tế trong một vài năm, hậu quả đối với tăng trường của các vụ vỡ nợ thường không kéo dài. Tại Uruguay, sau khi các chủ nợ của nước này đồng ý tái cơ cấu các khoản nợ vào năm 2003, nền kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh chóng trở lại với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt tới 4%. Về phía Arghentina, sau khi quyết định phá giá đồng peso, hàng hóa nông nghiệp của nước này trở nên rẻ hơn. Kinh tế Achentina cuối cùng cũng phục hồi và tăng trưởng đạt 9%/năm. Bất chấp nhiều năm bị chỉ trích trên thế giới, Achentina hiện đang trở thành “điểm nóng” về du lịch, chi phí cuộc sống thấp, tỷ giá hối đoái có lợi cho khách du lịch, số khách đến Achentina tăng trưởng với tốc độ 2 con số. Một số nền kinh tế khác như Nga và Indonesia cũng tốt lên sau khi các nước trên vỡ nợ. Ở Nga, một năm sau khi tuyên bố vỡ nợ, hạ giá mạnh đồng rúp; kinh tế đã tăng trưởng tới 6,4%. Đứng trước những sự kiện nêu trên, Hy Lạp hoàn toàn có căn cứ để hy vọng vào một tương lai tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và phục hồi sau khủng hoảng trầm trọng. Tuy vậy, cũng cần lưu tâm rằng: không phải vất cứ quốc gia nào vỡ nợ xong đều đối mặt với tương lai sáng lạn như Uruquay. Do đó, dù là trước hay sau khi quyết định vỡ nợ, chính phủ Hy Lạp cũng cần cân nhắc kỹ càng và có những kế hoạch phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội chi tiết. II.5. Giải pháp đề ra cho Hy Lạp Vẫn với kịch bản Hy Lạp sẽ vỡ nợ, bên cạnh những mặt tích cực có thể nhận thấy như trên, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu việc vỡ nợ này sẽ gây ra những hệ lụy gì và từ đó tìm cách giải quyết. Là thành viên của khối tiền tệ chung EUROZONE, việc vỡ nợ của Hy Lạp không những mang lại những chi phí đắt đỏ cho quốc gia này mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến toàn khu vực. II.5.1. Đối với Hy Lạp Chi phí đầu tiên Hy Lạp phải đối mặt là mất khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế hoặc những điều kiện ưu đãi đi kèm khoản vay sẽ mất đi.Mặc dù không bị loại trừ khỏi thị trường tài chính, nhưng Hy Lạp sẽ đối mặt với rủi ro bị hạ bậc tín nhiệm và hệ quả là chi phí vay mượn sẽ tăng cao hơn.Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng thời gian để các nước vỡ nợ có khả năng tham gia lại thị trường tài chính đang ngày càng rút ngắn. Với khoảng 30% nợ công được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, việc vỡ nợ có khả năng dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính trong nước, do các tổ chức tài chính bị buộc phải bán tháo các tài sản nợ. II.5.2. Đối với các nước trong khu vực Chi phí trực tiếp của việc Hy Lạp vỡ nợ đến các tổ chức tài chính và các chính phủ châu Âu là không lớn. Tuy nhiên, chi phí ảnh hưởng lan truyền của việc vỡ nợ này đến hệ thống tài chính của khu vực nội vi châu Âu là rất lớn và hiện vẫn chưa ước tính được, bởi vì điều này còn phụ thuộc vào cách thức Hy Lạp vỡ nợ. Một trong những hình thức tái cơ cấu nợ có thể xảy ra là “cắt tóc”, trong đó những người mua trái phiếu sẽ được trả khoản tiền ít hơn so với lúc họ cho vay. Tái cơ cấu kiểu này có thể ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng châu Âu bởi sẽ khiến các ngân hàng đang giữ nợ của Hy Lạp phải chịu lỗ.Điều này có thể tác động tới các nước có nền tài chính yếu khác thuộc khu vực euro.Các chuyên gia kinh tế thuộc hãng cố vấn Bruegel tại Brussels đã tính toán rằng khoảng 20% khối nợ của Hy Lạp là do các ngân hàng trong nước nắm giữ, tính đến thời điểm cuối năm 2010. Các ngân hàng này đang trong giai đoạn khó khăn, và nếu như bắt các ngân hàng này phải chịu lỗ thêm nữa thì sẽ chỉ khiến các nước cứu trợ phải tiếp tục đổ thêm tiền để vực dậy Hy Lạp Nếu các ngân hàng không phải bút toán giảm những khoản nợ ngay lập tức và nếu việc kích hoạt những hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) không gây ra quá nhiều rối loạn, thì ảnh hưởng của nó lên hệ thống ngân hàng tuy đáng kể nhưng có thể quản lý được. Nếu các ngân hàng phải bút toán giảm những khoản nợ ngay lập tức và nếu việc kích hoạt những hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) gây ra những ảnh hưởng bất lợi và có tính lây lan thì những vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản và khả năng thanh toán có thể xảy ra. Việc vỡ nợ buộc các ngân hàng trong và ngoài nước phải bút toán giảm những khoản nợ.Những nhà hoạch định chính sách Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng sẽ từ chối chấp nhận những khoản nợ này như là tài sản thế chấp. Tuy Hy Lạp không bị bắt phải rời khỏi khu vực Eurozone, nhưng cơ quan Eurosystem có thể sẽ đưa ra những điều kiện bất lợi buộc Hy Lạp phải tự nguyện rời khỏi khu vực đồng tiền chung châu Âu. Vỡ nợ không phải là thuốc bổ cho Hy Lạp và chỉ tuyên bố vỡ nợ không thôi cũng chẳng hề đảm bảo rằng nợ của cá nhân và doanh nghiệp sẽ quay trở lại tình trạng lành mạnh, vì điều này còn tùy vào các hoạt động tiếp theo.Nhưng vỡ nợ là bước đi cần thiết đầu tiên để cho Hy Lạp nghỉ lấy sức nhằm giải quyết, sắp đặt lại chính sách kinh tế trong không khí bình tĩnh, có suy tính.Nhiều cá nhân và doanh nghiệp và cả các quốc gia đều từng trải qua giai đoạn vỡ nợ và phục hồi sau đó.Với các chủ nợ của Hy Lạp, để nước này vỡ nợ tức là khiến họ mất đi khoản tiền trả nợ, và làm tăng nguy cơ các nước khác, như Ý, bị vỡ nợ theo.Nhưng hai rủi ro này đều là không thể tránh khỏi.Khó có chuyện Hy Lạp đủ khả năng trả các khoản nợ lớn trong tương lai đoán trước được, hoặc chuyện này chỉ xảy ra khi các nước giàu hơn cho Hy Lạp tiền để trả nợ. Vậy thì với những hậu quả nghiêm trọng như trên, châu Âu cần làm gì? « Trước tiên là ở bản thân Hy Lạp. Sau khi được xóa nợ, Hy Lạp cần bắt tay vào một công cuộc xây dựng mới bằng việc cắt giảm chi tiêu công.Việc cắt giảm chi tiêu công là điều kiện bắt buộc cho Hy Lạp khi muốn tiếp cận với các gói cứu trợ từ Châu Âu và IMF.Nhưng cách “thắt lưng buộc bụng” của Hy Lạp lại gây nên sự phản ứng dữ dội trong dân chúng.Như vậy, sau khi tách khỏi Eurozone, Hy Lạp cần xem xét cơ cấu cắt giảm chi tiêu như thế nào là hợp lý. Hy Lạp cần xem xét các dự án nào là cần thiết và thu hồi được vốn trong một thời gian ngắn để đầu tư. Bên cạnh đó cũng cần xem xét hệ thống an sinh xã hội hào phóng của nước mình có thực sự cần thiết? Tuy nhiên để giải quyết tốt những vấn đề này, quan trọng nhất là bộ máy công quyền.Hy Lạp cần làm ngay và làm một cách nghiêm khắc triệt để với tình trạng trốn thuế, tham nhũng. « Mục đích của việc sử dụng đồng EUR là để tạo nên sự đoàn kết nhưng thực tế điều này lại gây ra sự chia rẽ, thể hiện qua các mức nợ và sức cạnh tranh khác nhau. Nếu các quốc gia có nợ nần cao phải trả chi phí bảo hiểm rủi ro quá cao, nợ công của quốc gia này sẽ không ổn định.Đó chính là tình cảnh hiện nay.Giải pháp đã rõ ràng: các nước thâm hụt ngân sách cần phải được phép tái tài trợ khoản nợ của mình với các điều khoản tương tự như các nước thặng dư ngân sách. Giải pháp tốt nhất đối với vấn đề này là phát hành eurobond do tất cả các quốc gia thành viên đảm bảo. Giả sử các bộ trưởng tài chính Eurozone nắm quyền kiểm soát eurobond thì hội đồng gồm các bộ trưởng này sẽ là đối tác tài chính của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đồng thời là đối tác châu Âu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Bên cạnh đó, vì số phận của châu Âu phụ thuộc vào Đức và vì eurobond có thể gây rủi ro đối với xếp hạng tín nhiệm của Đức cho nên trong bất kỳ thoả hiệp nào thì hãy Đức cũng là nước có quyền quyết định cao nhất. Phần III Bài học cho quản lý nợ công tại Việt Nam Từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp các nước Châu Âu, Việt Nam cũng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nợ công và quản lý nợ công. Tuy nhiên, đến với Việt Nam, nợ công đã trở thành một “đặc sản” của nước ta. Muốn biết “đặc sản” đó là như thế nào, chúng ta hãy tìm hiểu về thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay đang ra sao. Dễ dàng nhận thấy, trong thời gian qua, nợ công đã đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối ngân sách Nhà nước*. Hiện tại, nợ công của Việt Nam vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay của chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. (*Trong câu này, NSNN= chi thường xuyên – thu trong cân đối) III.1. Tổng quan tình hình nợ công tại Việt Nam Việt Nam mở cửa kinh tế được 25 năm và đã đạt được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD năm 2010. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa. III.1.1. Cơ cấu nợ công Theo khoản 2 điều 1 Luật quản lý nợ công của Việt Nam, cơ cấu nợ công bao gồm tất cả các khoản: nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương . « Cơ cấu nợ công của Việt Nam 2006-2010 gồm : + Nợ chính phủ chiếm 78,1%, + Nợ chính phủ bão lãnh và nợ chính quyền địa phương chiếm :21,9% - Trong nợ chính phủ: + Nợ nước ngoài chiếm 61.9%, + Nợ trong nước chiếm 38.1%. - Trong nợ nước ngoài :ODA chiếm tỷ trọng lớn. « Cụ thể năm 2009: - Nợ công Việt Nam gồm: + Nợ chính phủ chiếm 79.2% + Nợ chính phủ bảo lãnh chiếm 17.6% + Nợ chính quyền địa phương chiếm 3.1%. Trong nợ chính phủ ,nợ nước ngoài chiếm chiếm 60%,trong đó có 85% là ODA. Cơ cấu khoản nợ Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 BQ Nợ chính phủ Tỷ USD 23.7 24.1 31.2 37.8 45.3 32.4 Nợ chính phủ %GDP 39 33.8 36.5 40.4 44.6 38.9 Nợ chính phủ % Nợ công 85 68 76.2 79.2 82.1 78.1 Nợ nước ngoài của chính phủ Tỷ USD 14.6 17.3 18.9 23.9 25.1 20 Nợ nước ngoài của chính phủ % nợ chính phủ 61.6 71.6 60.7 60 55.4 61.9 Nợ nước ngoài của khu vực công % GDP 26.7 28.3 25.1 29.3 N/A Nợ nước ngoài của khu vực công % nợ công 58.2 56.9 52.4 57.5 N/A III.1.2.Quy mô nợ công « Theo The Economist Intelligence Unit: - Năm 2001: Nợ công của Việt Nam mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh nợ công xấp xỉ 144 USD. - Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP . Hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (so sánh với tốc độ tăng gdp). Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam (nền kinh tế gia công). « Tuy nhiên Đối chiếu với Factbook của CIA, ghi nhận về Việt Nam như sau: - Nợ công/GDP: 49,8 % (2009). Năm 2010, tỷ lệ nợ công/GDP: 57,10% - Việt Nam đứng hạng thứ 41/133 quốc gia và lãnh thổ . - Nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nợ công ở Việt Nam. - Theo số liệu không chính thức từ WB năm 2010, bao trùm lên 42,2% GDP nợ nước ngoài là khoản nợ công của Việt Nam chiếm 56,6% GDP. Căn cứ theo số liệu về nợ nước ngoài của Bộ Tài chính Việt Nam công bố trong bản tin số 7, có thể tính ra nợ công của Việt Nam đến cuối năm 2010: khoảng 59,1 tỷ USD. Vấn đề nợ công ở Việt Nam đang trong tình trạng một mê hồn trận, bởi đến nay không hề có một chiến lược tổng thể về vay nợ và trả nợ được công bố ở mức sơ đẳng nhất: bản dự thảo Thời gian vừa qua, có hàng loạt thông tin đưa ra hai con số: 42,2% GDP và 32,5 tỷ USD về số nợ nước ngoài của Việt Nam. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng: nợ nước ngoài của Việt Nam là: 32,5 tỷ USD; con số đó phải là: 44,1 tỷ USD ! Đây là con số tổng nợ nước ngoài bao gồm: nợ khu vực công (nợ của chính phủ + chính phủ bảo lãnh) + nợ thương mại của các doanh nghiệp trong nước. Trong tổng nợ này, riêng nợ nước ngoài của khu vực công là: 32,5 tỷ USD. Tất nhiên, đây chỉ là một con số tổng nợ nước ngoài đặc sản kiểu Việt Nam. Căn cứ Bản tin nợ nước ngoài số 7, về các chủ nợ tính đến 2010: trong nhóm chủ nợ song phương, nước cho Việt Nam vay nhiều nhất là Nhật với 9,547 tỷ USD, thứ hai là Pháp với 1,167 tỷ USD, thứ ba là Nga với 568 triệu USD, thứ tư là Trung Quốc với 551 triệu USD. Trong nhóm chủ nợ đa phương: đứng đầu là IDA (Hiệp hội Phát triển Quốc tế) với 6,930 tỷ USD, kế tiếp là ADB (Ngân hàng Phát triển châu Á) với 4,174 tỷ USD. « Quy mô nợ công không ngừng tăng như vậy là do các nguyên nhân sau: - Chịu ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới nên phải tăng chi tiêu công để kích thích kinh tế vượt qua khủng hoảng. - Trong thời gian qua, trong cấu trúc nền kinh tế, Việt Nam tăng trưởng khá “nóng” ở một số ngành như: bất động sản, dầu khí, giao thông đường sắt, đường bộ, điện hạt nhân... đặc biệt thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong khi một số ngành kinh tế thực sự là tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam như nông nghiệp, thủy lợi, công nghiệp phụ trợ, thủy hải sản... lại chưa được các nhà đầu tư chú trọng. Đây là một hạn chế lớn của cơ cấu phát triển kinh tế nước ta hiện nay, điều này cũng gây một tác động tiêu cực trở lại với vấn đề nợ công. - Quản lý nợ công không bền vững - Tốc độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tăng trưởng GDP chủ yếu là do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà không đi kèm với tăng hiệu quả, bằng chứng cho thấy là hệ số ICOR không ngừng tăng lên. III.2. Tình hình quản lý nợ công ở Việt Nam III.2.1. Tình hình sử dụng nợ công « Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. « Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR. Năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa. III.2.2. Tình hình trả nợ công Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai. III.3. Đánh giá,phân tích, dự báo và bài học cho nợ công Việt Nam III.3.1. Đánh giá và phân tích về nợ công Việt Nam Sau khi nghiên cứu về thực trạng của nợ công Việt Nam, chúng ta thấy nổi cộm lên các vấn đề như sau : III.3.1.1. Vấn đề thứ nhất: Số liệu thống kê: Chúng ta có thể thấy rằng có 1 sự khác biệt lớn về số liệu nợ mà việt nam cung cấp so với số liệu mà các tổ chức thế giới (như WB…) đã đưa ra cụ thể đó là sự khác biệt về tỷ lệ nợ/GDP trong năm 2009 giữa Việt Nam công bố là 41% với Ngân hàng Thế giới (WB) là 47%, mấy năm trước cũng vậy và năm nay vẫn chưa khác. Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi thấy nó xuất phát từ 3 yếu tố chính sau: « Đầu tiên, đó là việc nhìn nhận về nợ công: Nước ta bóc tách nợ công thành 2 bộ phận gồm khu vực Nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế công (có sự góp vốn, góp mặt của Nhà nước)… đưa ra vấn đề này để thấy rằng có nhiều công ty quốc doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công ty bị phá sản, Nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các công ty ấy. Do đó, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam, không thể tìm thấy ở Thái Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Và số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam công bố hiện nay là nợ Nhà nước chứ không phải là nợ công.Nợ công thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều. Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước, nên cũng khó lòng cho thấy toàn cảnh vấn đề tài chính công vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất lớn và Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng trên thực tế về mặt nợ công « Thứ hai, Sự thiếu minh bạch, công khai trong vấn đề nợ công của nhà nước: Bài học lớn mà chúng ta nhận được từ hi lạp đó là vấn đề niềm tin và sự minh bạch. Có thể thấy tình trạng tồi tệ mà hy lạp gặp phải là hậu quả của việc thiếu minh bạch, chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới đầu tư quốc tế mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy Lạp rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008 được Hy Lạp công bố là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch Hy Lạp là bài học nhỡn tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế.và ở việt nam chúng ta vẫn thấy quá nhiều cái bí và mật bên trong số liệu ma nhà nước công bố. và câu hỏi chúng ta đặt ra là vậy con số nợ thực tế của VN là bao nhiêu, nếu nhà nước vẫn để câu hỏi này bỏ ngò thì vấn đề của việt nam cũng sẽ là không nhỏ trong tương lai gần. « Cuối cùng đó là những hạn chế trong phương pháp tính nợ: Trong nợ công còn có 1 bộ phận là phần quỹ hưu trí – đây là cách tính nợ công tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, vấn đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ công ở Việt Nam. Chắc chắn câu chuyện này sẽ nóng vào năm 2017: thời điểm Việt Nam thành quốc gia có dân số già, tức 10% dân số ở độ tuổi từ 60 trở lên. Cách tính khác biệt này lý giải tại sao có nhiều nước phát triển có tỷ lệ nợ công/GDP đến 80 – 90%/GDP, trong khi rất nhiều nước khác như: Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc… và Việt Nam có tỷ lệ nợ công/GDP xoay quanh mức 50% – mà WB lại khuyến cáo, vấn đề khác biệt ở đây chính là ở phương pháp và số liệu. Theo đó: - Cách tính nợ công của Việt Nam chưa phản ánh chân thực một phần quan trọng: Đó là nợ phải trả trong tương lai khi công chức về hưu. Phần này có thể rất lớn (ở Singapore chiếm tới 50% GDP). Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi một công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi, Chính phủ phải đóng vào quỹ này. Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, nên Nhà nước hàng năm lấy tiền ngân sách ra chi trả mà quên đi quỹ kia, chứng tỏ theo cách tính này thì những nước như việt nam đang tính thiếu phần nợ công trong nước.  - Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ Nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể, do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước. ¶ Qua những phân tích trên ta thấy rằng còn rất nhiều vấn đề trong số liêu nợ công của VN đòi hỏi các cấp ban ngành cần có sự xem xét lại cũng như có những điều chỉnh hợp lí. III.3.1.2. Vấn đề thứ hai: Cơ cấu nợ: Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất. Năm 2010, trong 56,6% GDP nợ công đã có 42,2% GDP là nợ nước ngoài .Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng hiện nay ở Việt Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các nhà kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và mức độ nghiêm trọng của nợ công của quốc gia. Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính (BTC), 60,3% nợ công là ODA và 29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước.  Các điều khoản  ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế.  Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ổn của Hy Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ công từ nước ngoài. Trường hợp ngược lại là Nhật, mặc dù có mức nợ công trên GDP cao nhưng Nhật Bản vẫn được đánh giá là bền vững donợ công chủ yếu được tài trợ từ các nhà đầu tư trong nước. Vì vậy cơ cấu nợ hợp lí là khá quan trong. STT Quốc gia Tổng nợ công (USD) Tỉ lệ nợ công/GDP 1 Mỹ 7.581.480.000.000 53.7 % 2 Nhật 9.613.320.000.000 191.9 % 3 Tây Ban Nha 887.312.000.000 62.1 % 4 Đức 2.507.240.000.000 79.6 % 5 Hi Lạp 362.838.000.000 99.6 % 6 Việt Nam 49.302.700.000 51.7 % III.3.1.3. Vấn đề thứ ba: Hiệu quả sử dụng các khoản nơ công: Cũng như hi lạp việt nam sử dụng nợ công không mấy hiệu quả. Nếu nói chúng ta cũng đang ngủ quên trên núi tiền nợ thì cũng không hề quá.Vì thực tế thì nguồn tiền có được chúng ta đã và đang sử dụng dàn trải thiếu trọng tâm trọng điểm và mang lại hiệu quả thấp có những trường hợp còn không mang lại hiệu quả. Đề thấy rõ hơn chúng ta cung tìm hiểu 1 chút về hệ số ICOR-(Incremental Capital – Output Rate), đo lường về hiệu quả đầu tư. ICOR càng cao thì chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng thấp ICOR = (Kt-Kt-1) / (Yt-Yt-1) (k: vốn đầu tư, y: sản lượng) Theo thống kê: Chỉ số ICOR năm 2010 của VN là 6,9, nói đơn giản là phải bỏ ra 6,9 đồng vốn đầu tư mới được 1 đồng tăng trưởng; trong khi đó Trung Quốc là 4,1, Nhật là 3,2, Hàn Quốc là 3,2, Đài Loan là 2,7 (9). Chỉ số này cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với tiêu chuẩn đưa ra thì VN đầu tư không hiệu quả và so sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa. trong giai đoạn 1991 - 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 - 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2( số liệu này do ngân hàng nhà nước việt nam công bố tuy nhiên có sự khác biệt so với số liệu mà nhiều tổ chức công bố. Vì thế vấn đề ở đây là nếu số tiền đó được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. Nhưng, một khi đầu tư không hiệu quả thì cần phải cân nhắc kĩ về việc vay nợ. Từ những phân tích trên ta thấy rằng dù số liệu về nợ công của việt nam không cao nhưng mức độ an toàn về nợ của chúng ta lại thấp điều này đặt ra rất nhiều câu hỏi cho các cấp các ngành quản lí có được cái nhìn nhận khách quan hơn và có những chính sách đứng đắn để khồng gặp tình trạng như Hy Lạp hiện nay. III.3.2. Dự báo tình hình nợ công ở Việt Nam trong thời gian tới « Qua phân tích tình hình kinh tế cũng như tình hình nợ công và quản lý nợ công của Việt Nam ở trên, có thể thấy rằng kinh tế Việt Nam hiện đang có một số đặc điểm giống với PIIGS (các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao, bao gồm Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ công, đó là: - Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn. về thâm hụt ngân sách năm 2007 là 5%, năm 2008 là 4,9%, năm 2009 là 6,9%, năm 2010 là 5,8%,và năm 2011 là 5,5%(số liệu VN cung cấp) - Lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006 đến nay. Đặc biệt, năm 2009 là thời kỳ khó khăn của Việt Nam khi tỷ lệ lạm phát đạt mức phi mã 24,4%.Đến năm 2010, dưới một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã được đưa về mức 11,8%, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao. Đầu Năm 2011, lạm phát lại tiếp tục có xu hướng tăng mạnh trở lại; kiềm chế tỷ lệ lạm phát về mức 15% là mục tiêu hàng đầu của Việt Nam trong năm 2011. - Tỷ lệ tiết kiệm ròng đã được điều chỉnh (adjusted net savings) thấp chỉ 12-14% GNI mỗi năm, thấp hơn 5% so với trung bình của châu Á (không kể các nước Trung Đông) «Ngoài những đặc điểm giống với PIIGS về kinh tế, thì nợ công của Việt Nam còn có hai vấn đề khác cần đặc biệt quan tâm, đó là: - Cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỉ trọng lớn và đang tăng nhanh, trong khi hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ lại thấp. - Việt Nam sẽ dần dần bị giảm đi các khoản vay ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình; thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa, nếu không, áp lực trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công. III.3.3. Bài học cho Việt Nam và biện pháp đề xuất Từ những so sánh trên, ta thấy rằng Việt Nam cũng có thể sẽ lâm vào khủng hoảng nợ công giống như Hy lạp nếu không có những thay đổi cần thiết và tích cực về tình hình kinh tế và tình hình quản lý nợ công; nhất là sau suy thoái kinh tế toàn cầu. Qua nhiều phân tích ta thấy được 3 bài học lớn nhưng không mới cho VN đó là: - Trung thực, minh bạch trong việc công khai nợ. - Nhà nước nên có sự xác định rõ rang trong việc vay nợ, xác định rõ những mục tiêu mình theo đuổi, không nên đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế. hạn chế vay nợ nước ngoài nếu vẫn có thể huy động dược nguồn từ trong nước. - Trong hoạt động sử dụng nợ cần tiến hành đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào những dự án có khả năng sinh lời cao, tránh đầu tư dàn trải hiệu quả thấp, chống thất thoát trong quá trình sử dụng nợ. Do đó, dưới đây xin được đưa ra một số đề xuất: III.3.3.1. Thay đổi cơ cấu nợ công Như chúng ta đã biết tìêm năng trong nước là rất lớn nhưng làm cách nào để có thể huy đông được nó mà khong phải tìm đến các nguồn nước ngoài.Việt Nam thực sự nên thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành trái phiếu chính phủ trong nước nhiều hơn nữa. Để nâng cao chất lượng các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.bên cạnh đó cũng cần phải phát triển thị trường chứng khoán vì đây là thị trường hỗ trợ tốt cho việc huy động nguồn vốn trong nước của Chính phủ. III.3.3.2. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả «Công khai, minh bạch về tài chính Đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị nợ công. Để làm được điều này cần thực hiện 4 điểm sau : - Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của Chính phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa. - Thứ hai, khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và vai trò quản lý của khu vực công phải rõ ràng và được công bố công khai. - Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: Lựa chọn các công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ (nếu luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ. - Thứ tư, luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ bảo lãnh. Luật cũng phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng Trung ương sao cho việc phát hành quỹ chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính sách tiền tệ. Tất cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng. Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. Thêm vào đó, việc công khai thông tin phải là những con số chính xác.Bài học của Hy Lạp mang lại đó là việc đánh mất niềm tin của dân chúng và nhà đầu tư. «Cải cách hành chính Việc cải cách hành chính Nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,... Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hóa và thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cơ quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công. «Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và hoạt động ngân hàng, cụ thể: + Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ hàng năm. + Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. III.3.3.3. Sử dụng hiệu quả nợ công - Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư phát triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng cường thanh tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu. - Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà thầu có năng lực nhất. Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm thầu các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanh nghiệp Nhà nước. - Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước. ----------------------------- KẾT LUẬN --------------›¶š-------------- Bắt đầu ý tưởng được cho là “không tưởng“ về một châu Âu thống nhất, trải qua mấy thế hệ gian khổ nỗ lực, những người dân trên“lục địa già“ cảm thấy hoan hỉ vì những thành tựu đạt được khiến thế giới kính nể trong việc nhất thể hoá kinh tế và chính trị. Những gì mà châu Âu gặt hái trên con đường đi tới “Liên bang châu Âu“ tới nay được phản ánh rõ nét nhất ở sự ra đời đồng tiền chung euro. Nhưng không ai ngờ 50 năm sau khi Tuyên ngôn Schumann (đánh dấu ý tưởng hợp nhất các nước châu Âu) đồng tiền chung của “lục địa già“ phải đối mặt với mối đe doạ nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp. Sự hiện hữu của "bóng ma" khủng hoảng nợ đã bao trùm khắp Châu Âu sau khi Hy Lạp công bố khó có khả năng trả nợ. Từ đó đến nay, với hàng loạt các gói cứu trợ từ Châu Âu và IMF, Hy Lạp vẫn là một con nợ khổng lồ. Nguy hiểm hơn, từ đó đã tạo ra hiệu ứng domino trong khu vực đồng tiền chung. Các nền kinh tế đầu tầu như Đức, Pháp cũng không tránh khỏi “làn sóng” này. Tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp là rất lớn, không chỉ đối với bản thân Hy lạp mà còn đối với cả Châu Âu và kinh tế thế giới. Điều gì sẽ xảy ra khi Eurozone tan rã? Không ai muốn nghĩ tới viễn cảnh tồi tệ như vậy. Trong lúc này, vấn đề Hy Lạp đi hay ở lại trong khối là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Có nhiều kịch bản được đưa ra. Song qua những gì đã xảy ra, Châu Âu cần phải có những biện pháp khắc phục để tránh cho một sụp đổ không đáng có. Nợ công của Việt Nam đã đáng báo động chưa? Với số liệu thống kê chưa đầy đủ như hiện nay thì nợ công Việt Nam vẫn tiềm ẩn rủi ro. Đặc biệt, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất lớn, hoặc khi nền kinh tế cần những gói kích thích để chống lại chu kỳ suy thoái do những cú sốc bên ngoài, sẽ khiến nợ công tăng cao có nguy cơ gây ra khủng hoảng nợ. Như vậy, ngay từ lúc này, Việt Nam cần phải quản lý nợ công một cách chặt chẽ. * * *

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docno cong.doc
Tài liệu liên quan