Tóm tắt đề tài
Đề tài “Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế Luật -ĐHQG TPHCM” được phôi thai, nhen nhóm không phải từ một ý tưởng ngẫu nhiên mà được đưa ra từ chính những băn khoăn trăn trở. Những vấn đề mà chính nhóm của chúng tôi gặp phải trong quá trình làm việc từ khi vào ĐH và cùng với bao suy nghĩ, bao trăn trở mong muốn một hình ảnh mới đẹp hơn tươi sáng hơn cho bức tranh giáo dục đại học, làm sao để sinh viên không chỉ giỏi cả về chuyên môn, đồng thời lại phải thành thạo những kỹ năng mềm để đáp ứng kịp nhu cầu xã hội. Kỹ năng làm việc nhóm là một trong những kỹ năng rất cần thiết mà sinh viên không thể thiếu trong học tập cũng như cho việc làm về sau, chúng tôi nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc bởi nó liên quan trực tiếp tới quyền lợi của những sinh viên và xem thực trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế- Luật làm điểm khởi đầu cho quyết định thực hiện đề tài vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế Luật- ĐHQG TPHCM.
Làm việc nhóm đã và đang phát triển nhanh chóng ở hầu hết các nền giáo dục các nước trên thế giới và ở nhiều cấp bậc khác nhau. Hiệu quả cao trong công việc, lợi ích mà nó mang lại cũng như sự du nhập của phương pháp này vào Việt Nam đã được kiểm chứng bằng lịch sử hình thành nên phương pháp này. Như vậy nếu chúng ta khắc phục những vấn đề còn tồn tại và nâng cao được hiêu quả làm việc nhóm, thì sinh viên sẽ không chỉ có được kiên thức mà còn rất nhiều điều khác mà làm việc nhóm mang lại.
Tuy nhiên, đề tài của chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những bất cập này cũng như nêu ra những yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề làm việc nhóm. Trọng tâm của đề tài chính là đề ra nhưng giải pháp hợp lý cho vấn đề làm việc nhóm hiện nay tại Khoa. Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đề ra một mô hình hết sức khả thi vừa giúp sinh viên tiệp cận thực tế tại doanh nghiệp lại vừa nâng cao khả năng làm việc nhóm.
Với tất cả những vấn đề được đặt ra và giải quyết trong đề tài, chúng tôi mong muốn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của Khoa Kinh Tế trước các yêu cầu của doanh nghiệp về những kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên, bên cạnh đó chúng tôi cũng mong muốn biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, lấy sinh viên làm trung tâm. Đề tài của chúng tôi một lần nữa nêu lên những mong muốn của sinh viên đó là cùng sự cố gắng của sinh viên đồng thời là sự giúp đỡ về vật chất cũng như là sự chỉ dẫn của các thầy cô trong quá trình giảng dạy sẽ nâng cao được hiẹu quả làm việc nhóm từ đó nâng cao chất lượng giáo dục, đó cũng là mục tiêu mà toàn xã hội mong muốn.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 6
PHẦN NỘI DUNG 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử quá trình hình thành phương pháp làm việc theo nhóm. 12
1.2. Khái quát về làm việc nhóm. 13
1.3. Quá trình phát triển nhóm làm việc. 15
1.4. Tiêu chuẩn đánh giá nhóm làm việc hiệu quả. 18
1.5. Các yếu tố tác động tới hiệu quả của nhóm làm việc. 19
Chương 2. VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ-LUẬT VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. Thực trạng về vấn đề làm việc nhóm của sinh viên. 22
2.2. Hiệu quả làm việc nhóm và các yếu tố tác động đến nó. 35
2.2.1. Yếu tố chủ quan 35
2.2.2. Yếu tố khách quan 43
2.3. Kết luận 51
Chương 3. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT- ĐHQG.TP HỒ CHÍ MINH
3.1. Đề xuất giải pháp dành cho nhà trường 52
3.1.1. Sơ lược qua về môn Kỹ năng làm việc nhóm. 52
3.1.2. Giải pháp cho môn học Kỹ năng làm việc nhóm 52
3.1.3. Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm. 54
3.2. Đề xuất giải pháp dành cho giảng viên. 59
3.3. Giải pháp dành cho sinh viên 62
KẾT LUẬN.
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2398 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế Luật -Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ có 4.5% sinh viên cho rằng kết quả là không tốt. 37% còn lại thì cho rằng kết quả công việc của nhóm là bình thường. Đây cũng là con số đáng khích lệ, bởi nhìn chung thì kết quả công việc sinh viên Khoa đạt được là khá cao.
Tuy nhiên khi xét về khía cạnh lượng kiến thức mà sinh viên nhận được khi làm việc nhóm với nhau thì có sự khác biệt rất lớn đối với chất lượng công việc đạt được.
Có đến 55% sinh viên cho rằng lượng kiến thức mà mình nhận lại sau khi làm việc nhóm là ở mức trung bình trở xuống. Đáng chú ý hơn là trong đó có đến 10% cho rằng lượng kiến thức thu về là ít và rất ít. Và chỉ có 45% cho rằng lượng kiến thức mình nhận được là nhiều. Điều này cho thấy được phần nào trực trạng hoạt động và học tập theo nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật, sinh viên Khoa quan tâm đến chất lượng công việc hoàn thành hơn là lượng kiến thức mà mình nhận được do đó gây ảnh hưởng đến với thái độ và cách thức làm việc nhóm của bản thân.
Tóm lại, về thực trạng hoạt động làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế hiện nay, với góc độ nhìn tổng hợp từ hai phía sinh viên và giảng viên, thì có thể nói rằng hầu hết các sinh viên trong Khoa đều biết cách làm việc nhóm và đạt hiệu quả ở mức trên trung bình nhưng hiện tại vẫn và đang rất cần có những cải tiến trong phương pháp để có thể tiến bộ hơn.
Hiệu quả làm việc nhóm và các yếu tố tác động đến nó.
Và để giúp các sinh viên hiểu rõ hơn tác động của các yếu tố lên hiệu quả làm việc nhóm cũng như những ảnh hưởng của hiệu quả làm việc đến các yêu tố khác nhằm nâng cao được hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật thì nhóm chúng tôi đã tiến hành phân tích và kiểm định mối quan hệ của từng yếu tố tác động vào hiệu quả làm việc nhóm.
Yếu tố chủ quan
Mỗi cá nhân với vai trò là nhân tố quan trọng cầu thành nên một nhóm, vừa chịu ảnh hưởng của nhóm lại vừa tác động đến hiệu quả làm việc của nhóm, đây chính là sự tương tác qua lại giữa cá nhân với tập thể, đóng góp của mỗi người tạo nên kết quả của quá trình làm việc nhóm, và kết quả cuối cùng đó lại phản ánh năng lực cũng như phần nào phản ánh được mức độ hiệu quả làm việc của nhóm đó. Vì vậy có thể coi đóng góp của mỗi cá nhân là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất tác động đến hiệu quả làm việc nhóm.
Theo kết quả điều tra, phỏng vấn sâu các sinh viên và thầy cô trong Khoa, nhóm chúng tôi nhận thấy đa số các thầy cô và sinh viên đều cho rằng mức độ đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật không đồng đều và có sự chênh lệch rất lớn, hình thành hiện tượng ỷ nại vào nhau… từ đó dẫn đến việc không tối ưu hóa được hiệu quả khi làm việc nhóm.
Hình 2.11. Đánh giá về mức độ đóng góp của các thành viên trong nhóm
Theo khảo sát của chúng tôi, hơn 65% cho rằng đóng góp của mình đến thành quả của nhóm là không nhiều, trong đó có gần 5% cho rằng đóng góp của mình là quá ít. Đây là con số đáng lưu ý, và cần được cải thiện rất nhiều, bởi lẽ khi thành viên cảm thấy đóng góp của mình không nhiều thì sẽ dẫn đến nhiều hệ quả không tốt như không có hứng thú khi làm việc nhóm, tạo tâm lý tự ti, dễ nản…
Vì vậy nhóm chúng tôi đã tiến hành kiểm định để tìm ra yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự nhận xét mức độ đóng góp của bản thân đối với thành quả của nhóm như sau:
Thứ nhất là do ảnh hưởng của sở thích và quan niệm bản thân của mỗi người. Mà ở đây chính là quan niệm về sự yêu thích ở vị trí nào trong nhóm.
Hình 2.12. Thái độ yêu thích ở các vị trí trong nhóm
Khảo sát sơ qua về thái độ yêu thích ở vị trí nào trong nhóm của sinh viên Khoa thì nhóm nhận thấy đa số các sinh viên thích làm thành viên tích cực (65.5%), chỉ có 18% sinh viên thích được làm nhóm trưởng, và đang lưu ý là có đến 16.5% sinh viên chỉ muốn trở thành thành viên bình thường. Chính sự phân hóa của thái độ yêu thích trên đã gây ra sự khác nhau giữa các mức độ đóng góp của thành viên trong nhóm đến thành quả của nhóm.
Có thể nhận thấy điều này qua bảng số liệu sau:
muc do dong gop
It
vua phai
Nhieu
Row %
Row %
Row %
thich o vi tri nao
nhom truong
5.6%
38.9%
55.6%
thanh vien tich cuc
6.1%
61.8%
32.1%
thanh vien binh thuong
18.2%
60.6%
21.2%
Bảng 2.2. Tần suất kết hợp 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu thích ở các vị trí.
Chi-Square Tests
Value
Df
AsympSig(2sided)
Pearson Chi-Square
14.325(a)
4
.006
Likelihood Ratio
13.083
4
.011
Linear-by-Linear Association
10.681
1
.001
N of Valid Cases
200
Bảng 2.3. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu thích ở các vị trí
Kết quả kiểm định cho thấy biến “thích ở vị trí nào trong nhóm” và biến “ mức độ đóng góp của thành viên đó” là có sự quan hệ, với p_value = 0.006 nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị kiểm định là p=0.05. Và theo thống kê thì những người thích làm nhóm trưởng và thành viên tích cực thì có xu hướng đóng góp nhiều hơn so với những người chỉ muốn làm thành viên bình thường.
Trong số những người thích làm nhóm trưởng thì có đến 55.6% có đóng góp nhiều đến thành quả của nhóm, và chỉ có 5.6% là có đóng góp ít đến thành quả của nhóm. Trong khi đó những người muốn làm thành viên bình thường thì chỉ có 21,2% trong số đó có đóng góp nhiều đến thành quả của nhóm.
Thứ hai, mức độ đóng góp của mỗi thành viên còn có mối quan hệ với việc thành viên đó có thường xuyên nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình hay không.
Vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp thống kê tần suất 2 yếu tố, nhóm có số liệu sau:
muc do dong gop
It
vua phai
Nhieu
Row %
Row %
Row %
neu y kien
it
33.3%
38.1%
28.6%
vua phai
10.2%
78.0%
11.9%
nhieu
2.5%
50.8%
46.7%
Bảng 2.4. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên nêu ý kiến
muc do dong gop
It
vua phai
Nhieu
Row %
Row %
Row %
bao ve y kien
it
27.3%
48.5%
24.2%
vua phai
6.9%
69.4%
23.6%
nhieu
2.1%
51.6%
46.3%
Bảng 2.5. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên bảo vệ ý kiến
Theo chúng tôi thống kê được thì với những người ít nêu ý kiến và ít bảo vệ ý kiến thì có đến khoảng 30% số đó là những người ít có đóng góp đến thành quả của nhóm. Trong khi những người thường xuyên nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình thì chỉ có gần khoảng 3% đóng góp ý và có đến gần 50% có đóng góp nhiều cho nhóm.
Chi-Square Tests (Nêu ý kiến)
Value
Df
AsympSig(2sided)
Pearson Chi-Square
42.457(a)
4
.000
Likelihood Ratio
38.897
4
.000
Linear-by-Linear Association
23.502
1
.000
N of Valid Cases
200
Bảng 2.6. Kiểm định chi bình phương “mức độ nêu ý kiến” và “mức độ đóng góp”
Chi-Square Tests (Bảo vệ ý kiến)
Value
Df
Asymp.Sig(2sided)
Pearson Chi-Square
29.706(a)
4
.000
Likelihood Ratio
25.467
4
.000
Linear-by-Linear Association
18.201
1
.000
N of Valid Cases
200
Bảng 2.7. Kiểm định chi bình phương “mức độ bảo vệ ý kiến” và “mức độ đóng góp”
Với cả 2 trường hợp này, giá trị p_value dần về 0, cho thấy mức độ phụ thuộc giữa 2 biến trên là không nhỏ. Từ đó cho thấy sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật cần có những thay đổi mới trong hành động lẫn tư tưởng của bản thân đối với việc làm nhóm để có thể làm tăng mức độ đóng góp của bản thân vào thành quả của nhóm được nhiều hơn.
Thứ ba: Như nhóm đã trình bày ở phần thực trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế cho thấy mức độ làm việc nhóm của sinh viên là rất thường xuyên và cần thiết. Do vậy những ai đã biết cách làm việc nhóm, biết cách liên kết năng lực các thành viên trong nhóm thì thường sẽ có ưu thế hơn hẳn so với những người khác mà thể hiện rõ nét nhất là ở kết quả học tập và kết quả hoạt động nhóm của họ.
Chính vì vậy nhóm chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích và kiểm định mối quan hệ giữa hiệu quả làm việc nhóm và kết quả học tập của mỗi thành viên để xác định lại mức độ chính xác của nhận định trên.
Sau khi thống kê, chúng ta có hơn 90% những thành viên có hiệu quả làm việc nhóm thấp chỉ có điểm trung bình từ 6.0 đến 7.0 và không có thành viên nào có điểm trung bình trên 8.0 . Trong khi gần 80% những thành viên có hiệu quả làm việc nhóm cao có điểm trung bình từ 7.0 trở lên, trong đó có đến 30% đạt điểm trung bình trên 8.0
Hình 2.13. Biểu đồ kết hợp 2 yêu tố “hiệu quả làm việc nhóm” và “điểm số”
Qua phép kiểm định chi bình phương, càng thấy rõ hơn mức độ phụ thuộc giữa hai biến định tính trên. Giá trị p_value nhận là dần về 0, cho thấy mức độ phụ thuộc giữa hai biến trên là rất lớn.
Chi-Square Tests
Value
Df
AsympSig(2sided)
Pearson Chi-Square
25.171(a)
4
.000
Likelihood Ratio
25.534
4
.000
Linear-by-Linear Association
17.372
1
.000
N of Valid Cases
137
Bảng 2.8. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa hiệu quả làm việc nhóm và điểm số
Theo nhận xét của các giảng viên trong trường và theo các thông tin truyền thông có đề cập thì đây là mối quan hệ 2 chiều, bởi lẽ khi các sinh viên nâng cao được hiệu quả của việc làm nhóm thì lúc đó kết quả công việc cũng sẽ được nâng cao, ngược lại, thông thường các sinh viên có điểm học tập cao thì năng lực và kỹ năng của các sinh viên này thường cao hơn mọi người do đó họ có khả năng làm việc nhóm, có khả năng hoàn thành công việc và liên kết mọi người lại với nhau, từ đó tạo ra được hiệu quả làm việc nhóm cao hơn những sinh viên khác. Do đó, sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật nên luyện tập cho mình kỹ năng làm nhóm, không phải chỉ để thu lại được kết quả học tập mà để thu về cho mình những kỹ năng cần thiết đối với một sinh viên khối ngành kinh tế.
Yếu tố khách quan
Bên cạnh những yếu tố chủ quan, mà mỗi sinh viên có thể tự khắc phục và thay đổi thì vẫn tồn tại những yếu tố khách quan khác tác động đến hiệu quả làm việc nhóm, tuy là yếu tố khách quan nhưng những yếu đó lại có mối quan hệ với những yếu tố chủ quan, do vậy mỗi chúng ta_ những sinh viên đang hoạt động và làm việc theo nhóm cũng có thể cùng nhau dần dần tác động đến các yếu tố đó.
Có thể kể sơ qua vài yếu tố khách quan quan trọng nhất sau đây:
Cách thức làm việc của nhóm.
Vai trò của nhóm trưởng.
Quy mô của nhóm.
Mục tiêu của nhóm.
Mức độ đoàn kết của nhóm.
…
Thứ nhất: Phải nói đến cách thức làm việc của nhóm, bởi vì theo nhận định của các chuyên gia cũng như kết quả điều tra của nhóm thì đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc làm nhóm.
Theo kết quả kiểm định chi bình phương, chúng ta có thể thấy được mức độ phụ thuộc giữa 2 biến “cách thức làm việc nhóm” và “hiệu quả làm việc nhóm”. Đây quả thật là mối quan hệ chặc chẽ với nhau, bởi lẽ dĩ nhiên là không có 1 nhóm nào có thể đạt được hiệu quả cao khi cách thức hoạt động trong nó đã không tốt, số liệu trên đã cho thấy một cách tuyệt đối: Những nhóm có cách thức hoạt động tốt thì không có nhóm nào có hiệu quả làm nhóm dưới mức bình thường, trong khi đó những nhóm có cách thức hoạt động không tốt thì không có nhóm nào có hiệu quả làm nhóm cao và hơn 70% trong số đó có hiệu quả làm việc nhóm chỉ ở ngang và thấp hơn mức bình thường.
hieu qua hoat dong
thap
binh thuong
cao
rat cao
Row %
Row %
Row %
Row %
Cách thức hoạt động
khong tot
23.8%
47.6%
28.6%
binh thuong
6.5%
59.8%
30.4%
3.3%
tot
1.4%
23.3%
65.8%
9.6%
rat tot
57.1%
42.9%
Bảng 2.9. Tần suất 2 yếu tố giữa cách thức làm việc nhóm và hiệu quả làm việc nhóm
Chi-Square Tests
Value
Df
AsympSig(2sided)
Pearson Chi-Square
72.856(a)
9
.000
Likelihood Ratio
67.248
9
.000
Linear-by-Linear Association
50.130
1
.000
N of Valid Cases
200
Bảng 2.10. Kiểm định chi bình phương “cách thức hoạt động” và “hiệu quả hoạt động”
Thứ hai: Mức độ hiệu quả làm việc nhóm cũng chịu tác động mạnh bởi vai trò hay mức độ làm việc hiệu quả của nhóm trưởng.
Một nhóm không thể hoạt động tốt khi không có một nhóm trưởng có năng lực và trách nhiệm. Có thể đánh giá mức độ hiệu quả của nhóm trưởng qua những tiêu chí sau:
Tinh thần trách nhiệm.
Biết cách quản lý và điều hành nhóm.
Biết cách phân chia công việc cho hiệu quả.
…
Chúng ta có thể xem qua tổng quan về mức độ hài lòng của sinh viên Khoa Kinh Tế đối với nhóm trưởng của họ như sau:
Hình 2.14. Mức độ hài lòng về nhóm trưởng của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật
Gần 50% sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật hài lòng với nhóm trưởng của mình không phải là con số quá nhỏ nhưng cũng không phải là con số quá lớn. Bởi vì vẫn còn 50% còn lại không hài lòng lắm với nhóm trưởng hiện tại của mình. Do đó để có thể nâng cao hiệu quả của việc làm nhóm thì trước hết chúng ta nên nâng cao tỉ lệ hài lòng của các thành viên đối với nhóm trưởng lên mức cao hơn bằng nhiều cách như thay đổi nhóm trưởng, nâng cao năng lực cũng như phẩm chất của người nhóm trưởng…
cach thuc hoat dong
khong tot
binh thuong
tot
rat tot
Row %
Row %
Row %
Row %
nhom truong
khong hai long
21.4%
71.4%
7.1%
binh thuong
19.0%
58.3%
22.6%
hai long
2.0%
32.4%
52.0%
13.7%
Bảng 2.11. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “cách thức làm việc của nhóm”
hieu qua lam viec nhom
thap
binh thuong
cao
rat cao
Row %
Row %
Row %
Row %
nhom truong
khong hai long
7.1%
57.1%
28.6%
7.1%
binh thuong
10.7%
54.8%
31.0%
3.6%
hai long
2.0%
27.5%
58.8%
11.8%
Bảng 2.12. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “hiệu quả làm việc của nhóm”
Bảng thống kê cũng cho chúng ta thấy, mối quan hệ giữa mức độ hài lòng về nhóm trưởng đối với cách thức hoạt động của nhóm cũng như mức độ hiệu quả của nhóm. Tỉ lệ nhóm có hiệu quả làm việc thấp và cách thức hoạt động không tốt ở những nhóm có độ hài lòng cao về nhóm trưởng là rất nhỏ, chỉ có 2%, và tỉ lệ nhóm có cách thức làm việc tốt cũng như có hiệu quả làm việc cao ở những nhóm này là rất lớn, hơn 70%.
Thứ ba: Một yếu tố cũng không kém phần quan trọng đối với mức độ hiệu quả làm việc của nhóm là quy mô của nhóm. Tuy quy mô của nhóm không tác động trực tiếp vào hiệu quả làm việc của nhóm do nó còn tùy thuộc vào mức độ khó và lớn của công việc chung mà nhóm phải làm nhưng xét trên phương diện quy mô một cách tương đối thì quy mô nhóm cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của làm việc nhóm.
Số liệu thu thập cụ thể như sau:
Hình 2.15. Biểu đồ kết hợp giữa 2 yếu tố “quy mô nhóm” và “hiệu quả làm việc của nhóm”
Có thể nhận thấy được mức độ hiệu quả của quy mô nhóm nhỏ hơn 8 thành viên sẽ nhỉnh hơn so với những nhóm trên 8 thành viên. Lý do dễ hiểu để giải thích cho vấn đề trên chính là mức độ kết hợp năng lực giữa các thành viên trong nhóm lại, cũng như mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Theo John C.Maxwell (tác giả của “17 nguyên tắc vàng khi làm việc nhóm) thì nhóm có thể chấp nhận được trong khoảng nhỏ hơn 16 thành viên, tuy nhiên để nhóm có thể phát huy hết được năng lực của mỗi cá nhân, và có sự tương tác tốt thì nhóm chỉ nên có quy mô nhỏ hơn 8 thành viên mà thôi. Đây là con số vừa đủ để có thể đảm nhận những công việc khó khăn và cũng là con số phù hợp để có được sự tương tác tốt giữa các thành viên trong nhóm.
Thứ tư: Mỗi nhóm hoạt động đều có mục tiêu cho riêng nhóm mình, trong môi trường đại học hiện nay nói chung và trong môi trường Khoa Kinh Tế nói riêng thì mục tiêu thường thấy ở các nhóm học tập trong Khoa sẽ là:
Kiến thức
Kỹ năng
Điểm số
Sự đoàn kết, am hiểu nhau…
…
Tùy từng mục tiêu hướng đến của từng nhóm mà mỗi nhóm sẽ có cách thức hoạt động khác nhau nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên theo thông kê, chúng ta có thể thấy mục tiêu được đa số sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật cho rằng là quan trọng đó là mục tiêu điểm số và kiến thức thu nhận được. Tuy nhiên cũng có một số cho rằng mục tiêu về kiến thức là không quan trọng, và đây là một định hướng hoàn toàn sai lầm của sinh viên Khoa chúng ta. Bởi theo đúng với ý nghĩa của việc làm nhóm thì mục tiêu kiến thức và kỷ năng là thực sự quan trọng, khi làm nhóm, chúng ta có thể học tập từ nhau, có thể trao dồi và nâng cao vốn kiến thức cũng như những kỷ năng mềm cần thiết trong cuộc sống và công việc sau này của sinh viên chúng ta.
Thứ năm: Đây được coi là yếu tố khó có thể định hình và đo lường một cách chính xác được, nhưng theo các nhà khoa học thì nó lại là một yếu tố ảnh hưởng âm thầm nhưng mạnh mẽ đến làm việc nhóm. Đó chính là yếu tố mức độ đoàn kết trong nội bộ nhóm.
Theo kết quả đã trình bày ở phần thực trạng thì chúng ta đã biết mức độ thường xuyên xảy ra mâu thuẩn chiếm 7%, và mức độ thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẩn là 51%, 42% còn lại cho rằng nhóm của mình ít khi và không bao giờ xảy ra mâu thuẩn.
Thế nhưng con số trên có phản ánh được mức độ đoàn kết trong nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật hay không?
Để trả lời cho câu hỏi trên, nhóm chúng tôi tiếp tục phân tích và thông kê được số liệu như sau:
Hình 2.16 Mức độ đoàn kết trong nội bộ nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế
Có đến 55% cho rằng mức độ đoàn kết của nhóm là không cao, thậm chí có 2% sinh viên cho rằng nhóm mình không đoàn kết. Và chỉ có 45% sinh viên cho rằng mức độ đoàn kết của nhóm là cao.
Đây là một thực trạng đáng lưu ý và cần được quan tâm nhiều hơn bởi theo nhận định của hầu hết các nhà chuyên môn cũng như những nhà nghiên cứu thì mức độ đoàn kết trong nhóm sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm. Thế nhưng nhận định trên có phù hợp với sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật hay không? Nhóm chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu phân tích và kiểm định mối quan hệ trên để có thể trả lời cho câu hỏi này.
Hình 2.17 Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa 2 yếu tố mức độ đoàn kết và hiệu quả làm việc nhóm
Qua biểu đồ trên chúng ta có thể nhìn thấy rõ có sự khác biệt về hiệu quả làm việc của từng nhóm. Những nhóm có sự đoàn kết cao thì có tỉ lệ đạt hiệu quả cao rất lớn 68%, chiếm 1 tỉ lệ lấn át, trong khi đó những nhóm không có mức độ đoàn kết thì không có nhóm nào đạt được hiệu quả cao trong công việc.
Áp dụng phương pháp kiểm định chi bình phương cho hai yếu tố định tính ta có kết quả sau: Chi-Square Tests
Value
df
Asymp. Sig. (2sided)
Pearson Chi-Square
19.787(a)
4
.001
Likelihood Ratio
21.665
4
.000
Linear-by-Linear Association
14.150
1
.000
N of Valid Cases
200
Bảng 2.13 Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đoàn kết và hiệu quả làm việc nhóm
Kết quả được xuất ra với giá trị p_value là 0.001, rất nhỏ so với 0.01 (độ tin cậy 99%), nên chúng ta có thể kết luận 2 yêu tố trên là có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau. Do sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề đoàn kết trong nhóm và cải thiện nó để có thể đạt đạt hiệu quả cao nhất trong khi làm việc nhóm.
Kết luận
Qua những phương pháp phân tích, kiểm định trên, nhóm chúng tôi đưa ra vài kết luận về tình trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật ĐHQG TPHCM như sau.
Về tình hình chung: Theo thống kê từ quá trình nghiên cứu của nhóm và theo nhận xét của đa số các giảng viên đang công tác tại Khoa Kinh Tế_Luật ĐHQG, sinh viên Khoa Kinh Tế đã biết và hiểu các phương pháp làm việc nhóm, do đó về mặt hiệu quả làm việc nhóm là khá cao, tuy nhiên vẫn còn tồn tại trong đó những mặt hạn chế:
- Vẫn còn một số lượng không nhỏ các bạn sinh viên không có tinh thần tích cực làm việc, dẫn đến hiện tượng ỷ lại, tạo ra tâm lý sức ì cho cả nhóm.
- Trong khi làm việc nhóm, có quá ít sinh viên chịu nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình, từ đó hình thành sự uổng phí các ý tưởng hay và độc đáo.
- Quy mô nhiều nhóm quá lớn, không phát huy được hết năng lực của các thành viên, làm giảm tính hiệu quả khi làm việc nhóm.
- Vẫn tồn tại nhiều nhóm không có sự am hiểu nhau và đoàn kết trong nội bộ mỗi nhóm.
- Nhóm làm việc không có kế hoạch, thường làm việc theo kiểu tự phát, cảm tính do đó dẫn đến cách thức làm việc nhóm không được tốt. Sau khi hoàn thành công việc xong sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật ít khi họp lại để rút kinh nghiệm, vì vậy không thu nhận được nhiều kiến thức và kỹ năng.
- Không có sự chọn lọc nhóm trưởng, không chịu thay đổi để phù hợp, hình thành nên tình trạng một nhóm chỉ có duy nhất 1 nhóm trưởng. Do đó không phát huy hết được khả năng lãnh đạo của mỗi thành viên trong nhóm.
Chương 3. GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ -ĐHQG.TPHCM
Đề xuất giải pháp dành cho nhà trường
Sơ lược qua về môn Kỹ năng làm việc nhóm.
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia TP.HCM có giảng dạy môn học kỹ năng làm việc nhóm. Môn học này nằm trong hệ thống những môn học tự chọn của ngành kế toán- kiểm toán trong học kì thứ 6 năm học thứ 3 với số tín chỉ là 3. Theo thông tin nhóm chúng tôi thu thập từ 10 sinh viên đã từng học lớp kỹ năng làm việc nhóm, nội dung môn học này rất hay và cung cấp nhiều kỹ năng ứng dụng trong quá trình làm việc nhóm cho các sinh viên này. Về cách giảng dạy môn học, ngoài sử dụng cách dạy truyền thống các giảng viên ứng dụng nhiều tình huống thực tế trong quá trình giảng dạy, cho sinh viên nhiều bài tập thực hành và ngoài ra còn giảng dạy thông qua những trò chơi tập thể ngoài trời. Tuy nhiên, số lượng sinh viên đăng kí và tham gia học môn học này rất ít chỉ khoảng 30 sinh viên trong 1 lớp.
Giải pháp cho môn học Kỹ năng làm việc nhóm
Theo đánh giá của đa số các doanh nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm là một trong những kỹ năng được đòi hỏi nhất khi tuyển dụng. Vì vậy, ngoài việc học kiến thức chuyên môn, sinh viên cần có kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả. Tuy nhiên theo kết quả điều tra của nhóm chúng tôi ở Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia TP.HCM, tình hình môn học kỹ năng làm việc nhóm đang không được quan tâm đúng mức từ cả hai phía nhà trường và sinh viên. Vì thế, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để cải thiện tình hình dạy và học môn học này tại Khoa kinh tế - luật.
Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm
Giảng dạy
Môi trường học tập
Môi trường doanh nghiệp
Trung tâm quản lý sinh viên
Doanh nghiệp
Công ty nhà trường
Ngân hàng dữ liệu
Từ khi xuất hiện cho đến nay, môn học kỹ năng làm việc nhóm chỉ được dạy cho sinh viên ngành kế toán-kiểm toán. Điều này không thể giúp cho sinh viên cả khoa tiếp cận được với môn học vì nó không được phổ biến rộng rãi cho tất cả các ngành học trong khoa. Hơn nữa, nó được xếp vào hệ thống những môn học tự chọn ở năm 3 cùng với những môn tự chọn về kiến thức chuyên môn nên môn học kỹ năng làm việc nhóm không được nhiều sinh viên chọn học (các sinh viên năm 3 thường có xu hướng chọn những môn học về kiến thức chuyên môn).Và thời gian học của môn học này hoàn toàn không hợp lý vì ngay từ năm nhất các sinh viên đã bắt đầu làm việc nhóm trong học tập. Do đó, chúng tôi đề xuất đưa môn học kỹ năng làm việc nhóm vào hệ thống những môn học bắt buộc của tất cả các ngành trong chương trình đào tạo và thời gian học là học kỳ đầu tiên của năm nhất.
Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm.
Đối với bất kì một môn học về kỹ năng nào, bên cạnh việc học lý thuyết cần phải rèn luyện thường xuyên mới có thể đem lại kết quả tốt. Nhưng hiện nay, tại Khoa kinh tế-luật việc rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm thường xuyên cho sinh viên vẫn chưa được tiến hành đồng bộ và hiệu quả. Nên nhóm chúng tôi đề xuất một mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm cho Khoa kinh tế-luật.
Xây dựng ngân hàng dữ liệu.
Trong quá trình giảng dạy môn học kỹ năng làm việc nhóm và cho sinh viên bài tập nhóm ở các môn học khác, giảng viên cần có một nguồn đề bài tập nhóm chất lượng, phù hợp với khả năng của sinh viên. Việc xây dựng một ngân hàng dữ liệu nhằm thu thập và lưu trữ những đề bài tập nhóm hay, bổ ích trong thời gian dài sẽ đáp ứng được yêu cầu này.
Nguồn đề bài tập được tổng hợp từ:
Những đề bài tập nhóm của các giảng viên của khoa trong quá trình giảng dạy từ trước tới nay.
Những đề bài tập nhóm được sưu tập từ các website, từ các trường khác giảng dạy về kinh tế, từ các sách tham khảo, đặc biệt là từ các sách nước ngoài.
Những tình huồng thực tế từ phía các doanh nghiệp.
Những dữ liệu thu thập được có thể lưu trữ lại bằng văn bản hay các dạng file word, pdf… trong một phần mềm lưu trữ của khoa (giống như dạng một thư viện điện tử).
Ngoài ra, cũng nên thu thập, lưu trữ những bài tập nhóm của các sinh viên và trưng bày trên một website để các sinh viên có thể tham khảo và học hỏi cách giải quyết vấn đề của nhau.
Thực hành kỹ năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp.
Ngoài việc thực hành kỹ năng làm việc nhóm trong học tập, Nhà trường cần tạo điều kiện cho sinh viên hoạt động, làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp. Có thể giúp sinh viên làm quen với việc làm việc nhóm trong môi trường công ty, doanh nghiệp theo 2 phương án sau.
Phương án 1: Sinh viên vừa học tại trường, vừa thực tập tại các doanh nghiệp.
Trong chương trình đào tạo của Khoa kinh tế-luật, sinh viên chỉ thực tập tại doanh nghiệp trong học kì thứ 8 ở năm học thứ 4 với lượng thời gian thực tập quá ngắn tại doanh nghiệp khoảng 3 tháng. Trong khi đó, việc rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp đòi hỏi phải thường xuyên, song song với việc học lý thuyết ở trường và kéo dài trong suốt 4 năm học. Vì thế, chúng tôi đề xuất giải pháp tổ chức mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với nhà trường tạo điều kiện cho sinh viên thực tập và rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm trong suốt 4 năm học. Để làm được điều này cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nhà thường và các doanh nghiệp.
Về phía doanh nghiệp:
Cần có những doanh nghiệp tạo điều kiện cho sinh viên năm 1, 2, 3, 4 thực tập tại công ty mình. Tuy sinh viên năm 1, 2, 3 chưa có nhiều kiến thức chuyên môn và không thể làm nhiều việc cho doanh nghiệp nhưng việc hỗ trợ cho sinh viên các năm này đối với doanh nghiệp không hẳn là không có lợi. Thông qua việc hỗ trợ sinh viên thực tập, doanh nghiệp đã thu hút được nguồn nhân lực tương lai cho công ty mà không phải tốn kém quá nhiều chi phí. Đơn cử một doanh nghiệp thực hiện chính sách thu hút nhân lực rất tốt là Hoa Sen Group. Với sự kiện “Ngày hội nghề nghiệp” ngày 29/11/2008 mở đầu cho chương trình “Vườn ươm tài năng quản trị” Chương trình “Vườn ươm tài năng quản trị” là một chuỗi các hoạt động mang tính đánh giá học lực và bản lĩnh của sinh viên, nhằm phát hiện, tìm kiếm và bổ sung cho những vị trí quản trị trung, cao cấp trong tương lai của Hoa Sen Group. Các hoạt động của chương trình được đặt ra hết sức thực tế: ngày hội nghề nghiệp, tuyển thực tập, đào tạo hội nhập, thực tập chuyên môn, đào tạo chuyên môn, đánh giá, tuyển dụng chính thức.
, Hoa Sen Group đã tuyển sinh viên năm 2, 3, 4 của Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia TP.HCM vào thực tập tại doanh nghiệp của mình. Mô hình “vườn ươm tài năng” là một mô hình định hướng nhân lực rất sáng tạo mà nhóm chúng tôi đề xuất các doanh nghiệp tham khảo để phát triển nguồn nhân lực trong tương lai.
Về phía Nhà trường:
Để thực hiện được mô hình sinh viên vừa học, vừa thực tập tại doanh nghiệp đòi hỏi về phía nhà trường phải chủ động tìm những doanh nghiệp hỗ trợ. Sau đó, trung tâm quản lý sinh viên của Khoa sẽ giới thiệu các sinh viên vào thực tập tại các doanh nghiệp.Việc duy trì mô hình này trong dài hạn sẽ là rất khó khăn nên Nhà trường cần nỗ lực hợp tác chiến lược với doanh nghiệp
Phương án 2: Thành lập công ty trường học.
Mục đích.
Tạo điều kiện cho sinh viên của Khoa kinh tế-luật có điều kiện thực hành kỹ năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp.
Giúp sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế
Tạo thêm một khoản thu cho Khoa kinh tế-luật
Dựa trên những ngành học trong chương trình đào tạo và khả năng của sinh viên của Khoa kinh tế-luật chúng tôi đề xuất mô hình công ty như sau.
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Bộ phận quản lý quỹ.
Quản lý quỹ đầu tư: huy động, quản lý vốn và tài sản; tập trung đầu tư theo danh mục đầu tư
Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính: thực hiện việc tư vấn đầu tư và tư vấn về quản trị cho các khách hàng; hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài chính; tối ưu hóa các nguồn vốn cho các nhà đầu tư.
Nghiên cứu: thông qua việc phân tích đánh giá về thị trường, phân tích giá trị tài chính, giá trị đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động quản lý đầu tư và các tư vấn như đã nêu trên.
Bộ phận tổ chức sự kiện.
Tổ chức những sự kiện theo yêu cầu của khách hàng.
Thiết kế những công cụ POSM như poster, tờ rơi, bandroll,…
Bộ phận tư vấn pháp luật.
Tư vấn cho khách hàng về luật dân sự, thương mại quốc tế, kinh doanh, tài chính-ngân hàng chứng khoán.
Cơ cấu tổ chức
Ban giám đốc
Các giảng viên của Khoa có nhiệm vụ chính là điều hành và kiểm duyệt kết quả những công việc.
Các bộ phận
Trưởng bộ phận: cần là một người có nhiều kinh nghiệm tốt nhất là giảng viên hoặc những sinh viên năm 4 xuất sắc.
Nhân viên: các sinh viên của Khoa kinh tế-luật.
Cơ chế hoạt động
Sau khi nhận được công việc đặt hàng từ các khách hàng, các trưởng bộ phận phân chia công việc phù hợp cho các nhóm sinh viên.
Việc phân chia công việc cụ thể như sau.
Sinh viên năm 1, 2 có thể đảm nhận những công việc không cần đòi hỏi nhiều những kiến thức chuyên môn.
Sinh viên năm 3, 4 đảm nhận những công việc chuyên môn như phân tích thị trường,…
Một công việc nên giao cho nhiều nhóm sinh viên cùng làm việc, sau đó trưởng bộ phận và ban giám đốc sẽ chọn kết quả của nhóm làm việc tốt nhất và giao cho khách hàng. Như vậy, các nhóm sinh viên sẽ phấn đấu để ngày càng làm việc nhóm hiệu quả hơn.
Để hỗ trợ cho tất cả sinh viên của Khoa kinh tế rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp, chúng tôi nghĩ cần phải thực hiện đồng thời hai phương án trên vì số lượng sinh viên của Khoa kinh tế-luật khá nhiều, hơn 7000 sinh viên.
Đề xuất giải pháp dành cho giảng viên.
Các nhà nghiên cứu cho rằng “dù nội dung môn học như thế nào thì sinh viên làm việc theo từng nhóm cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn so với những gì được dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác”. Nhóm chúng tôi đã phỏng vấn một số giảng viên đang công tác tại Khoa kinh tế-luật, các giảng viên cũng cho rằng việc giao cho các sinh viên làm việc nhóm thường dẫn đến kết quả học tập tốt hơn.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một vài hạn chế về sự tương tác giữa giảng viên và sinh viên. Có tình trạng giảng viên giao đề tài cho các nhóm sinh viên, nhận kết quả và không có ý kiến đóng góp đánh giá cho sinh viên. Cách thức làm nhóm như vậy xét về khía cạnh cả giảng viên và sinh viên đều không đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên theo ý kiến của nhiều thầy cô trong trường thì nhóm chúng tôi cũng đề ra những giải pháp tức là thay vì nhiều giảng viên vẫn đưa ra những đề tài, những bài tập để sinh viên làm nhóm như hiện nay thì hình thức làm việc nhóm ở đây là chỉ nói đến các đề tài thường kéo dài hàng mấy tiếng đồng hồ trên giảng đường, hoặc trong nhiều buổi học hoặc vài tháng. Tất nhiên bài tập hoặc đề tài thì đòi hỏi có sự phụ thuộc của nhiều người. Giảng viên đưa ra vấn đề để sinh viên thảo luận nhằm tạo điều kiện hoặc giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập.
Làm việc theo nhóm theo phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải có sự chuẩn bị kỹ bài giảng, chuẩn bị những tình huống, đề tài, bài tập… và tất nhiên là những đề tài hay bài tập này phải có một chút độ khó để thúc đẩy khả năng thảo luận, làm việc nhóm của sinh viên. Lợi ích mà mỗi sinh viên đạt được rất đáng kể chẳng hạn như các sinh viên sẽ tích cực tham gia thảo luận, làm việc nhóm, sẽ hiểu và nhớ bài lâu hơn, sẽ nắm vững được các kỹ năng để có thể thành công trong môn học hoặc nghề nghiệp sau này. Vì giữa các nhóm có sự thi đua thì trong nhóm tất nhiên có người giỏi và người không giỏi nên đòi hỏi các bạn giỏi trong nhóm phải giúp đỡ, chia sẻ kiến thức với các bạn yếu hơn. Ngoài ra thì sinh viên sẽ hăng hái hơn trong việc tự học, trong việc nghiên cứu độc lập.
Việc quyết định phân nhóm học tập thì trước hết giảng viên phải xem xét kỹ mục đích của môn học. Các yếu tố quan trọng khác cần xem xét trước tiên là quy mô lớp học vì các lớp đông sinh viên rất khó trong việc thực hiện và thường ít có hiệu quả và cả phương pháp đánh giá nhóm để giảng viên có đủ thời gian và cho ý kiến phản hồi kịp thời đối với các đề tài làm theo nhóm.
Một khó khăn đối với giảng viên là theo khuynh hướng tự nhiên thì trong nhóm thường sẽ có một số sinh viên vượt trội, còn một số sinh viên kém hơn thì thường ít tham gia phát biểu hoặc ít thảo luận. Điều này sẽ thường xuyên xảy ra nếu như có một cơ chế buộc mọi người phải tham gia. Điều này thì giảng viên có thể hỏi trực tiếp từng sinh viên mà giảng viên đánh giá qua quá trình nhóm thảo luận. Giảng viên có thể chọn những sinh viên ít thảo luận trong nhóm, có thể sinh viên đó sẽ trả lời được hoặc nếu không được thì giảng viên có thể góp ý. Hoặc đối với những đề tài lớn thì có thể giảng viên yêu cầu viết lại mức độ đóng góp của mỗi người vào đề tài này hoặc sau những buổi thảo luận vào trên giấy và có thể có sự phê bình các thành viên khác trong nhóm và trình bày những ý kiến đóng góp của tất cả các thành viên vào trong những đề tài.
Hiện nay trong Khoa Kinh Tế - Luật có tình trạng một số giảng viên, mặc dù vẫn cho sinh viên làm việc nhóm tức là giao đề tài cho mỗi nhóm và đưa ra thời hạn nhưng khi các nhóm hoàn thành xong thì chỉ cần nộp đề tài cho giảng viên là xong chứ cũng không có việc giảng viên đánh giá đề tài như thế nào, hoặc có đánh giá thì cũng ở một góc độ là đa số chỉ có giảng viên đánh giá. Cho nên theo nhóm chúng tôi thì những đề tài khi almf nhóm xong thì tốt nhất là để các nhóm được thuyết trình và các nhóm khác cũng có thể học hỏi và chia sẻ quan điểm, ý kiến của mình đối với những đề tài khác. Và sau đó thực hiện phần đánh giá theo kiểu có ý kiến phản hồi từ ba phía là các thành viên trong nhóm, các nhóm khác và giảng viên nhằm giúp cho từng nhóm có thể điều chỉnh hoặc bổ sung để đề tài đạt kết quả tốt hơn và đổng thời giúp xây dựng mối liên kết giữa các nhóm với nhau. Chỉ có giảng viên mới là người có thể quyết định thực hiện những ý tưởng, đưa những điều này vào trong giảng dạy. Và cuối cùng là ở khâu chấm điểm đề tài của cả nhóm để áp lực giữa các thành viên trong nhóm thúc đẩy lẫn nhau cùng làm việc cho dù là trong quá trình thực hiện cũng như đối với từng cá nhân có thể nảy sinh các khó khăn. Hoặc thưởng điểm cho những nhóm giải quyết được vấn đề trong những buổi thảo luận trên lớp. Nhưng giảng viên cũng nên thử thách để các sinh viên tập dần khả năng làm việc nhóm nhằm giúp ích trong hiện tại lẫn sau này khi làm việc trong môi trường doanh nghiệp.
Nhiều giảng viên thấy được lợi ích của làm việc theo nhóm theo hình thức thảo luận trong lớp nhưng vẫn lưỡng lự khi vận dụng phương pháp này. Họ sợ rằng không thể hoàn thành hết chương trình. Đồng thời phải bố cục lại môn học để thêm vào phần làm việc theo nhóm cũng có nghĩa là phải mất thêm thời gian để giải quyết ít vấn đề hơn. Nhưng “nghiên cứu đã cho thấy sinh viên làm việc theo nhóm có thể phát triển khả năng giải quyết các vấn đề và chứng minh được sự hiểu biết” (Davis, 1993). Và giảng viên nên thực hiện việc phân công làm việc theo nhóm và bổ sung các bài đọc thì có thể sẽ giải quyết được một số vấn đề giữa việc hoàn thành chương trình và bảo đảm được chiều sâu kiến thức cho sinh viên.
Giải pháp dành cho sinh viên
Với đề tài về vấn đề tài làm việc nhóm thì điều hiển nhiên, sinh viên chính là đối tượng trung tâm và chất lượng học tập của sinh viên cũng là mục tiêu hướng tới . Những sinh viên mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở Khoa Kinh Tế - Luật thì mặc dù bề mặt chung của hiệu quả làm việc nhóm là cao nhưng vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định, và cần có một giải pháp hữu hiệu để nâng cao kết quả làm việc. Dưới đây nhóm chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để sinh viên tối ưu hóa hơn nữa hiệu quả làm việc của nhóm mình.
Qua phần phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy vẫn còn tồn tại một số lượng không nhỏ sinh viên Khoa Kinh Tế - Luật không tích cực làm việc, thường có tâm lý ỷ lại cho rằng đây là công việc tập thể tạo nên sức ì cho nhóm. Bởi một khi các bạn không đóng góp hay đóng góp ít thì bài tập, đề tài… vẫn được hoàn thành, vì chủ yếu là do nhóm trưởng và một số thành viên tích cực cùng làm nên nhiều lần như thế các bạn thấy mình đóng góp ít cũng có điểm và tạo ra sự ỷ lại, không lo lắng gì nhiều đến tiến trình khi làm việc nhóm. Những sinh viên như thế do không thấy rõ được ích lợi khi làm việc nhóm, nếu tình trạng kéo dài sẽ dẫn đến các bạn sẽ không tiếp thu được kiến thức và gây nên tâm lý khó chịu cho những thành viên còn lại trong nhóm.
Vì vậy những thành viên đó cần phải thay đổi lại cách tư duy, cách suy nghĩ trong học tập. Để làm được điều đó thì cần có sự nhìn nhận, đóng góp ý kiến thẳng thắn của nhóm trưởng, các thành viên tích cực ở trong nhóm đối với những thành viên không tích cực trong nhóm. Đa số là các bạn này sợ mất tình cảm bạn bè nên không dám nói ra ý kiến phê bình của mình, tuy nhiên nếu không nói thì dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm không cao. Có nhiều biện pháp buộc những thành viên không tích cực phải tập trung làm việc hơn, thay đổi thái độ làm việc, chẳng hạn như không cho bạn đó vào nhóm nữa sau khi đã đóng góp ý kiến mà bạn đó không có tiến triển gì hết trong việc tích cực làm việc nhóm. hoặc cho bạn đó biết tiến trình làm việc nhóm để bạn đó lo lắng mà phải tích cực làm… Nhưng đa số hơn cả là trong nhóm giữa các thành viên với nhau nên có sự động viên, sự khen ngợi khi ai đó làm được gì hay, kể cả các bạn không tích cực có đóng góp ít đi nữa thì cũng tìm cách để khen ngợi, khích lệ bạn đó. Khi mà những mọi thành viên trong nhóm đều tích cực làm việc thì hiệu quả làm việc nhóm sẽ cao hơn. Điều này đòi hỏi mỗi sinh viên hãy tự tạo cho bản thân một lối tư duy, suy nghĩ đúng đắn.
Mặt khác hiện nay ở Khoa kinh Tế - Luật, sinh viên ít chịu đưa ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của bản thân khi làm việc nhóm.. Những bạn ít đưa ra ý kiến thì hầu như có học lực không bằng các bạn khác nên ngại và khi có quan điểm, ý kiến riêng mặc dù muốn đưa ra nhưng không có đủ tự tin khi trình bày. Hoặc có khi đưa ra rồi thì cũng không có đủ khả năng để có thể bảo vệ ý kiến. Nên cứ nhiều lần ý kiến của bạn đó không được tiếp nhận thì sẽ làm cho người ta không còn hứng thú, không còn tự tin để ra ý kiến khi làm việc nhóm nữa.
Để khắc phục điều này thì trước hết mọi thành viên trong nhóm cần phải có một sự tôn trọng khi ai đó trình bày quan điểm, ý kiến. Khi mọi người cùng đưa ra hết những ý kiến hoặc có ai đưa ra ý kiến tới đâu thì phân tích tới đó thì hầu như nhóm trưởng là người thực hiện việc phân tích này và đưa ra ý kiến riêng để xét xem ý kiến của bạn đó có mặt nào được, mặt nào còn chưa được để ghi nhận và tổng hợp các ý kiến hay lại. Khi phân tích tổng hợp lại trên tinh thần mọi người cùng bảo vệ ý kiến của bản thân mình. Nhưng bảo vệ trên tinh thần lắng nghe và tiếp thu chứ không phải cứ khăng khăng bảo vệ tới cùng ý kiến của mình mà không để ý những lời bác bỏ lại ý kiến của mình từ các thành viên khác,sẽ rất dễ gây căng thẳng thậm chí xung đột, mất đoàn kết.
Mặt khác cũng có nhiều thành viên chỉ nêu ra quan điểm, ý kiến của bản thân thôi chứ không bảo vệ ý kiến của mình.Và điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm, có thể đó sẽ là những ý tưởng hay mà không được tiếp nhận. Cho nên việc này đòi hỏi mỗi thành viên trong nhóm phải chủ động hơn trong việc đưa ra ý kiến của bản thân, chủ động hơn trong việc lắng nghe và bảo vệ ý kiến của mình. Để các thành viên có thể thực hiện được điều này thì mỗi thành viên trong nhóm phải tự tin hơn, chủ động hơn khi đưa ra quan điểm, ý kiến, cần phải tôn trọng một thành viên nào đó đang phát biểu hoặc đưa ra ý kiến trong nhóm. Mọi người trong nhóm không nên coi trọng quá việc ai đó giỏi hơn hay yếu hơn mình. Đây có lẽ là yếu tố chính mà các sinh viên thường không dám đưa ra ý kiến của mình. Mỗi thành viên chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ thì sẽ trở nên chủ động hơn trong quá trình làm việc nhóm. Nếu việc này được cải thiện thì hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh Tế - Luật sẽ được cải thiện đáng kể.
Đồng thời việc các sinh viên có đưa ra những quan điểm, ý kiến hay không thì ngoài việc có thể giải quyết vấn đề được nhanh hơn, có thể hiểu được bản chất của vấn đề cần giải quyết thì các sinh viên đóng góp càng nhiều sẽ tạo cho mỗi sinh viên sự tự tin, cải thiện khả năng giao tiếp trước mọi người. Đây là một trong những kỹ năng mà sinh viên khối ngành Kinh Tế hoặc Luật không thể thiếu. Chỉ cần các thành viên trong nhóm khi trình bày ý kiến thì phải trình bày cho tất cả mọi người trong nhóm cùng nghe chứ không phải cho một thành viên nào đó nghe.
Một tình trạng vẫn còn tồn tại trong Khoa Kinh Tế - Luật là đa số các bạn đều thích làm nhóm trưởng nhưng rất số ít trong nhóm này là được làm nhóm trưởng. Bởi có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng này chẳng hạn nhóm trưởng thường là những người học giỏi nhất trong nhóm, hay khi làm đề tài một môn nào đó thì nhóm thường chọn người học giỏi môn này… Cho nên bạn đó thường xuyên phải đảm nhận vị trí nhóm trưởng, trong đó nhiều bạn muốn làm lại không mạnh dạn xin được làm hoặc các thành viên không tin tưởng lẫn nhau. Việc giao cho ai đó giỏi làm thường xuyên thì không phủ nhận là kết quả hoàn thành tốt, điểm số nhận được cao nhưng xét về bản chất thực sự của hiệu quả làm việc nhóm thì không thể cao được. Bởi vì thứ nhất, các bạn không có cơ hội để thể hiện bản thân, biết đâu bạn đấy có thể làm tốt hơn người hiện tại hay làm, mọi người trong nhóm không được tập làm kỹ năng lãnh đạo; thứ hai có thể việc không được làm nhóm trưởng như mong muốn sẽ làm cho sinh viên đó không có tinh thần tích cực lắm trong công việc; thứ ba, việc một thành viên nào thường xuyên làm nhóm trưởng có thể sẽ cảm thấy công việc quá nhiều dẫn đến căng thẳng trong khi làm việc…
Bởi vậy trong quy tắc khi làm việc nhóm thì vị trí nhóm trưởng phải thường xuyên xoay vòng để người nào trong nhóm cũng được làm nhóm trưởng hết, đồng thời nếu một đề tài nào đó có thuyết trình thì tốt nhất là mọi thành viên trong nhóm cùng lên thuyết trình. Như thế thì giảng viên sẽ đánh giá cao tinh thần làm việc nhóm của mọi người trong nhóm.
Mặt khác trong nhóm thì bề mặt học lực chung của các thành viên là không đồng đều, có thành viên tích cực và thành viên không tích cực. Nên khi vị trí nhóm trưởng được giao cho những thành viên không tích cực này thì họ sẽ phải trở nên tích cực khi làm việc. Tất nhiên là khả năng lãnh đạo của những sinh viên này không bằng những sinh viên từng làm nhiều nhưng mọi người còn lại trong nhóm có thể hỗ trợ chứ không phải mọi việc đều giao phó cho nhóm trưởng. Việc xoay vòng thường xuyên nhóm trưởng chắc chắn sẽ cải thiện đáng kể bề mặt học lực chung của nhóm. Ngoài xoay vòng vị trí nhóm trưởng thì còn có thể xoay vòng vị trí tổng hợp, vị trí làm Word, Powerpoint…Việc một nhóm thực hiện những điều trên thì đa số sinh viên sẽ cải thiện được các kỹ năng trong học tập như kỹ năng làm nhóm trưởng, kỹ năng thuyết trình…
Ngoài những yếu tố chính trên đây mà chúng tối đưa ra giải pháp thì còn rất nhiều yếu tố phụ mà mỗi sinh viên phải cải thiện, phải thay đổi. Bởi trước hết là góp phần cải thiện vào hiệu quả làm việc nhóm, sau đó là tạo cho bản thân một thói quen tích cực để khi ra trường có thể hòa nhập vào môi trường Doanh Nghiệp được tốt..
KẾT LUẬN
Sau một thời gian cố gắng, nỗ lực hết mình, bằng tất cả niềm say mê, vận dụng tất cả những kiến thức đã có, cùng với đó là sự tìm tòi khám phá, nhóm chúng tôi đã hoàn tất đề tài. Xuyên suốt quá trình nghiên cứu về vấn đề làm việc theo nhóm tại Khoa Kinh Tế, nhóm chúng tôi đã chỉ ra ích lợi hiệu quả khi làm việc nhóm, việc làm chịu tác động của những yếu tố nào. Điểm mạnh mà sinh viên trong Khoa có được trong vấn đề này và những điều còn tồn tại. Cùng với đó nhóm chúng tôi cũng đã đưa ra các biện pháp các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả làm việc nhóm. Các kiến nghị này dành cho cả hai phía, đó là phía giảng viên và phía sinh viên. Như vậy sẽ tạo sự đồng bộ, sự hòa hợp trong công tác giảng dạy và học tập của cả hai phía.
Tóm lại kỹ năng làm việc nhóm là một kỹ năng hết sức không chỉ trong quá trình học tập mà đó còn là đòi hỏi của hầu hết các daonh nghiệp khi tuyển nhân sự. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế chưa thất sự hiệu quả và còn nhiều điều cần phải đổi mới. Chính vì lẽ đó, chúng tôi mong muốn qua đề tài này thì tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa được cải thiện đáng kể, từ đó nâng cao kết quả học tập cũng như công tác giảng dạy được tốt hơn, nâng cao chất lượng đào tào, khẳng định vị thế của Khoa Kinh Tế- ĐHQG.TP Hồ Chí Minh.
PHỤ LỤC
Mẫu phiếu điều tra
BẢNG KHẢO SÁT
Đề tài: VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT
Chào bạn, chúng tôi là các thành viên của nhóm KT 00328 đến từ lớp K08404T. Chúng tôi đang thực hiện nghiên cứu khoa hoc với đề tài “VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT” nhằm nâng cao hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên. Để hoàn thành bài nghiên cứu của mình, chúng tôi rất cần sự hỗ trợ của các bạn từ những câu trả lời cho bảng câu hỏi dưới đây. Chúng tôi cam đoan thông tin các bạn cung cấp dưới đây chỉ để dùng phục vụ cho đề tài này.
Chân thành cảm ơn!
Các bạn vui lòng đánh dấu chọn (P) vào đáp án bạn nghĩ là đúng nhất hoặc cho ý kiến riêng của các bạn vào bảng khảo sát.
Thông tin cá nhân
Bạn đang là sinh viên năm mấy?
o Năm 1 o Năm 2 o Năm 3 o Năm 4
Ngành học của bạn: ……………………………………………………………..
Điểm trung bình tích lũy chung của bạn là: …………………………………
Phần câu hỏi nghiên cứu
Bạn có thích làm việc nhóm hay không?
o Rất không thích o Không thích o Bình thường o Thích o Rất thích
Bạn thích ở vị trí nào khi làm việc nhóm?
o Nhóm trưởng o Thành viên tích cực o Thành viên bình thường
Bạn thường làm việc nhóm trong môi trường nào?
Môi trường
Mức độ thường xuyên tăng dần từ 1-5
Học tập
Hoạt động CLB
Hoạt động khác……………
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
Khi làm việc nhóm bạn có thường nêu ra và bảo vệ ý kiến của mình hay không?
Nội dung
Mức độ thường xuyên tăng dần từ 1 - 5
Nêu ra ý kiến của mình
Bảo vệ ý kiến của mình
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
Bạn nhận việc trong khi làm việc nhóm bằng hình thức nào?
o Tự nguyện nhận việc o Để nhóm tự phân việc o Khác (ghi rõ)……........
Bạn tự nhận thấy mức độ đóng góp của bạn trong thành quả của nhóm?
o Rất ít o Ít o Vừa phải o Nhiều o Rất nhiều
Mục tiêu hướng đến của nhóm bạn là gì? Đánh số từ 1-4 theo mức độ ưu tiên giảm dần
o Điểm số o Kiến thức oKỹ năng o Khác (ghi rõ)………………
Bạn đánh giá như thế nào về cách làm việc của nhóm bạn?
Tiêu chí
Không tốt Tốt
Nội quy làm việc của nhóm
Đưa ra kế hoạch, thời gian biểu
Triển khai kế hoạch, công việc
Họp rút kinh nghiệm
(sau mỗi lần hoàn thành công việc)
Thái độ làm việc của nhóm
(không tích cực, tích cực)
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
Hiệu quả giải quyết công việc dự định sau mỗi lần họp nhóm?
o Không giải quyết được gì o Giải quyết được 1 phần công việc o Giải quyết hết được công việc o Giải quyết vượt chỉ tiêu
Quy mô nhóm của bạn thường gồm bao nhiêu thành viên?
o 3 – 5 o 6 – 8 o Trên 8
Bạn có hài lòng về cách làm việc của nhóm trưởng hay không?
Tiêu chí
Không hài lòng Hài lòng
Cách phân chia công việc
Cách điều hành nhóm
Trách nhiệm
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
Bạn nhận thấy mức độ đoàn kết trong nhóm của bạn?
o Không đoàn kết o Bình thường o Đoàn kết
Nhóm của bạn có thường xảy ra mâu thuẫn hay không?
o Không bao giờ o Ít khi o Thỉnh thoảng o Thường xuyên o Luôn luôn
Nhóm bạn giải quyết mâu thuẫn vào lúc nào?
o Giải quyết ngay khi xảy ra mâu thuẫn o Đợi xong việc mới giải quyết
o Giải quyết dần dần o Cho qua, không giải quyết
Nhóm bạn giải quyết mâu thuẫn theo cách nào?
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Bạn đánh giá như thế nào về hiệu quả làm việc của nhóm bạn?
Tiêu chí
Mức độ hiệu quả tăng dần từ 1-5
Chất lượng công việc (vd như điểm số)
Cách thức hoạt động của nhóm
Kiến thức mà các thành viên nhận được
Kỹ năng mà các thành viên nhận được
Những thứ khác mà thành viên nhận được
Khác (ghi rõ)…………………………….
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
Những đề xuất của bạn để nhóm bạn có thể hoạt động hiệu quả hơn?
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Một lần nữa rất cảm ơn bạn đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bảng khảo sát này. Những câu trả lời của bạn sẽ giúp được rất nhiều trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi!
Câu hỏi phỏng vấn sâu
Đối với giảng viên của Khoa kinh tế-luật.
Nhận xét chung của thầy (cô) về tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế-luật. Đánh giá cụ thể tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế-luật qua thang điểm.
Rất không tốt Rất tốt
1 2 3 4 5
Theo thầy (cô) những hạn chế nào còn tồn tại trong quá trình làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế-luật ?
Theo thầy (cô) để sinh viên Khoa kinh tế-luật làm việc nhóm hiệu quả hơn cần có những đổi mới, những giải pháp gì ?
Đối với những sinh viên đã và đang học môn Kỹ năng làm việc nhóm.
Số lượng sinh viên tham gia lớp học Kỹ năng làm việc nhóm ?
Nhận xét của bạn về cách giảng dạy môn học này của các giảng viên.
Những kiến thức bạn học trong môn học này có giúp bạn làm việc nhóm được hiệu quả hơn không ? Mức độ thay đổi hiệu quả làm việc nhóm của bạn trước và sau khi học môn học này.
Nhận xét của bạn về việc thực hành và rèn luyện môn học này.
Bạn có đề xuất gì để cải thiện tình hình dạy và học môn Kỹ năng làm việc nhóm không ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Oanh. (2007). “ Làm việc thao nhóm”. NXB trẻ.
John C.Maxwell. (2008). “17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm”. NXB Lao động Xã hội.
First news. (2006). “Xây Dựng Nhóm Làm Việc Hiệu Quả - Cẩm Nang Kinh Doanh Harvard”. NXB Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh.
Robert B Maddux. (2008). “Xây dựng nhóm làm việc - Creating Success”. NXB Tổng hợp TP.HCM.
Maginn, Michael. (2008). “ Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả”. NXB Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh.
Don Hellriegel và John W.Slocum.(2004). “Organizational behavior”.
Stephen P. Robbins. “ Organizational Behavior”.
Stallard, Michael Lee.(2008). “ Fired up or burned out : How to reignite your team's passion, creativity, and productivity”.
Maginn, Michael. (2008). “ Making teams work : 24 lessons for working together successfully”
Maddux, Robert B. (2008). “ Teambuilding”
“Teamwork - Kỹ Năng Làm Việc Nhóm”.(27/7/2009). Được lấy về từ:
“Kỹ Năng Làm Việc Nhóm”. (6/10/2009). Được lấy về từ:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_dung_de_tai_2672.doc