Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là đIều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lí, tác nghiệp, bố trí sử dụng nhân sự, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy, động viên và kiểm soát. Ngoài ra quản trị còn nghiên cứu các yếu tố môi trường, theo dõi, dự báo những biến động, thay đổi có thể có nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình SXKD.
Ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình kinh doanh hiện nay, thua lỗ, phá sản. đó là sự yếu kém quản trị của các quản trị gia. Vì vậy trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đaị, tạo điều kiện cho các cán bộ quản lí tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi kinh nghiệm quản lí của các nước phát triển.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề lợi nhuận với việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất của các doanh nghiệp nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 : Lời nói đầu
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chuyển đổi từ cơ chế cũ- cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động theo mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên sang cơ chế thị trường được tự do sản xuất kinh doanh các mặt hàng theo nhu cầu của thị trường. Trong đó, có một số các doanh ngiệp biết cách làm ăn, hoạt động có hiệu quả, thu lợi nhuận cao, song bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp hoạt động không mấy hiệu quả, thua lỗ nhiều, sản xuất trì trệ, dẫn tới phải đóng cửa sản xuất. Điều đó là do chuyển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp chưa nắm bắt được những thay đổi thời thế, còn thiếu kiến thức về lí luận và vận dụng lí thuyết vào thực tế. Chính vì vậy nghiên cứu đề tài “ Vấn đề lợi nhuận với việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất của các doanh nghiệp nước ta hiện nay ” là rất có ý nghĩa, giúp cho em, sinh viên kinh tế sau này phát triển kinh tế đất nước, có những kiến thức lí luận về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, biết vận dụng những lí luận vào thực tiễn. Vì vậy em đã chọn đề tài này, em rất mong được sự giúp đỡ của thầy. Trong quá trình thực hiện đề tài không thể không có những thiếu sót, em mong thầy bỏ qua. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Phần 2 : Nội dung
Chương 1 : Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh
I-Vấn đề lợi nhuận trong chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh tế học trước Marx đều đưa ra những quan điểm khác nhau về lợi nhuận , song hoàn thiện hơn , đúng đắn hơn tất cả là học thuyết của Marx. Theo Marx, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không” . Và ta nghiên cứu học thuyết Marx về lợi nhuận.
1-Lí luận của Marx về lợi nhuận.
1.1-Khái niệm, bản chất lợi nhuận
Để tìm hiểu khái niệm lợi nhuận của Marx, ta đi từ khái niệm chi phí sản xuất. Chi phí SXTBCN là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất HH, kí hiệu là k thì : k = c + v . Vây thì Giá trị thặng dư so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là “con đẻ “ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá của lợi nhuận.
Nếu kí hiệu lợi nhuận là p thì công thức GT= c + v +m sẽ chuyển thành GT= k + p ( hay giá trị HH bằng chi phí sản xuất TBCN cộng với lợi nhuận )
Như vậy giữa giá trị HH và CPSX luôn có một khoảng chênh lệch. Lợi nhuận là số tăng thêm ngoài CPSX, đó là mức lớn lên của toàn bộ tư bản ứng trước. Tư bản đã chi phí vào sản xuất quay trở về nhà tư bản cùng với số tăng thêm. Số tăng thêm này là lợi nhuận.
1.2-Tỷ suất lợi nhuận- Tỷ suất lợi nhuận bình quân
*Tỷ suất lợi nhuận:
Nhà tư bản không thể cam chịu với việc bỏ ra một khoản tư bản lớn mà lại thu được lợi nhuận thấp. Trên thực tế, nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm (%) giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
Công thức tính:
Trong đó p’ là tỷ suất lợi nhuận. Qua đây ta thấy TSLN phụ thuộc vào : tỷ suất giá trị thặng dư, lượng tổng tư bản ứng trước, cấu thành hữu cơ của tư bản ấy. TSLN tỷ lệ thuận với tỷ suất giá trị thặng dư, tỷ lệ nghịch với tư bản ứng trước.
Trong thực tế, để thu hút được khách hàng , tăng khả năng cạnh tranh, các nhà tư bản không ngừng hạ giá HH bằng cách giảm giá trị của HH, tức là liên tục cải tiến kỹ thuật, nâng cao NSLĐ.
TSLN nói lên mức lãi của việc đầu tư tư bản. TSLN này nói lên cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Trong thị trường TSLN luôn là động lực thúc đẩy các nhà tư bản đầu tư và là mục tiêu của cạnh tranh của các nhà tư bản.
* Tỷ suất lợi nhuận bình quân (TSLNBQ)
Trong xã hội tồn tại một mâu thuẫn đó là : Một mặt trong các ngành sản xuất khác nhau phải có những TSLN khác nhau ( do khác nhau về cấu thành của tư bản và tốc độ chu chuyển), mặt khác không thể có những TSLN khác nhau được vì xu hướng phát triển của CNTB là những tư bản bằng nhau phải mang lại những lợi nhuận bằng nhau không kể cấu thành hữu cơ và tốc độ chu chuyển như thế nào. Thực tế mâu thuẫn đó đã được giải quyết qua cơ chế cạnh tranh.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường để giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hoá cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất gồm có cạnh tranh trong nội bộ ngành & cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nhgiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại HH nhằm mục đích tiêu thụ HH có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao NSLĐ nhằm làm cho giá trị cá biệt HH xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Họ tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phân phối tư bản ( c, v) vào các ngành sx khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần TSLNBQ, và giá trị HH chuyển hoá thành giá trị sản xuất. Như vậy:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Công thức tính TSLNBQ :
Sự hình thành TSLNBQ đã che giấu hơn nữa bản chất bóc lột của nhà tư bản trong xã hội TBCN , cạnh tranh ngày càng gay gắt.
2-Quá trình chuyển hoá từ giá trị HH sang giá cả sản xuất:
Cùng với sự hình thành TSLNBQ , giá trị HH chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất của HH bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.
Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất : Đại công nghiệp cơ khí TBCN phát triển; Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sx ;quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây khi khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả sx xoay quanh giá trị HH. Giờ đây giá cả HH lại xoay quanh giá cả sản xuất.
3- Các hình thức của lợi nhuận:
Lợi nhuận công nghiệp :
Về bản chất là phần giá trị do người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không. Đây là hình thái chung lớn nhất của các loại lợi nhuận, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất .
Lợi nhuận thương nghiệp :
Về thực chất lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Nó bằng số chênh lệch giữa giá bán và giá mua HH.
Lợi nhuận ngân hàng :
Là phần lợi nhuận thu được do hoạt động của Ngân hàng, là khoản chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Lợi nhuận này khác với lợi tức cho vay ở chỗ là tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động và ngoài vốn nhàn rỗi còn có chứng khoán.
Lợi tức cho vay:
Là khoản tiền mà các nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay. Bản chất của lợi tức cho vay cũng là một phần lợi nhuận bình quân.
Địa tô :
Địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
II- Cơ chế mới ở nước ta & những yêu cầu trong SXKD của các DN
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII, và Đại hội IX vừa qua đã đề cập đến mô hình phát triển kinh tế, trong đó khẳng định: Chúng ta đang trong tiến trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN trong xu thế hội nhập quốc tế toàn diện. Nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp, là sự kết hợp một cách linh hoạt giữa cơ chế thị trường cũng có ưu điểm, khuyết tật không thể tránh được với sự điều tiết của Nhà nước.
1-Cơ chế thị trường
1.1-Khái niệm cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt các quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
Như vậy có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoádo sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào ,và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu, và giá cả thị trường.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn, mà là một trật tự kinh tế. Lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền KTHH. Nó quyết định thưởng hay phạt các hoạt động SXKD. Lợi nhuận hướng những người sản xuất vào lĩnh vực mà người tiêu dùng có nhu cầu nhiều và bắt phải rời bỏ những lĩnh vực có ít nhu cầu, cũng như buộc phải sử dụng công nghệ có hiệu quả nhất.
1.2-Ưu điểm, khuyết tật của cơ chế thị trường.
*Ưu điểm :
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy LLSX phát triển.
Cơ chế thị trường có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
*Khuyết tật :
Cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà vốn có những khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội.
Một nền kinh tế bị thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
Lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường...
Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người.
2- Sự thay đổi cơ chế và các chính sách vĩ mô.
Trong những năm đổi mới vừa qua , cùng với sự thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lí ,các doanh nghiệp (DN) thuộc các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi về diện mạo và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh bên trong của DN. DN từ chỗ trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ là cơ cấu chấp hành nhận vốn, vật tư, chỉ thị mệnh lệnh sản xuất từ cấp trên và giao nộp sản phẩm, giá trị làm ra cho cấp trên, ngày nay trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh. Có sự chuyển đổi đó trước hết là nhờ có sự tác động tích cực của các thay đổi cơ chế và chính sách vĩ mô đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Điều đó thể hiện rõ trên các mặt:
Nhà nước đã ban hành nhiều luật và chính sách tạo khung pháp lí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Luật pháp đã thể chế hoá chủ trương, nghị quyết của Đảng. Các luật pháp này được xây dựng trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và có tham khảo thông lệ quốc tế.
Cơ chế và chính sách vĩ mô đã nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Đây là một bước tiến đáng kể trong cơ chế và chính sách. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động theo luật và được tự chủ hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh
Xác định rõ vai trò chức năng của mỗi tổ chức trong hệ thống quản lí
Hệ thống quản lí, xét một cách chung nhất gồm có các tổ chức:
-Các cơ quan lập pháp: Quốc hội
-Các cơ quan tư pháp : Thanh tra, Kiểm sát
-Các cơ quan hành pháp : Chính phủ, Các Bộ quản lí ngành, Các Bộ quản lí tổng hợp, các Uỷ ban Nhân dân địa phương (tỉnh, huyện )
-Các Tổng công ty và các doanh nghiệp
Trải qua nhiều năm cải tiến, đổi mới, đến nay chúng ta đã xác định tương đối rõ vai trò chức năng của mỗi tổ chức trong hệ thống quản lí. Quốc hội đảm nhận việc xây dựng luật, các Bộ và Uỷ ban Nhân dân : chịu trách nhiệm quản lí Nhà nước theo ngành và lãnh thổ, các Tổng công ty là tổ chức kinh doanh, các công ty( xí nghiệp, nhà máy độc lập) là tổ chức sản xuất kinh doanh. Chức năng quản lí Nhà nước và chức năng quản lí sản xuất kinh doanh đã được phân biệt rõ:
Đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm tạo động lực cho sự phát triển, tăng trưởng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Từ chỗ trong cơ chế bao cấp chỉ có hai loại doanh nghiệp là DN tập thể và DN Nhà nước, sang cơ chế thị trường, các loại hình sản xuất kinh doanh đã được đa dạng hoá và việc lựa chọn loại hình sản xuất kinh doanh đều do chủ sở hữu quyết định theo nguyên tắc có hiệu quả, tạo động lực và gắn với thị trường.
Tạo ra sự đổi mới cơ cấu tổ chức quản lí doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường tinh giản bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí.
3-Tác động của cơ chế mới dẫn đến những yêu cầu, đòi hỏi trong SXKD
Với các luật và chính sách đó , các doanh nghiệp không còn hoạt động chủ yếu theo nghị quyết của Đảng, theo chỉ thị mệnh lệnh cấp trên mà phải hoạt động theo luật pháp, luật pháp được ban hành dưới các loại khác nhau: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật phá sản , Luật Hợp tác xã, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế...Nền kinh tế nước ta có 6 thành phần kinh tế, môĩ loại doanh nghiệp, công ty hoạt động, vận hành trong cơ chế mới này trong phạm vi quy định của các văn bản luật , và phải chấp hành thep pháp luật.
Do cơ chế và chính sách vĩ mô nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, các DN được tự quyết định mặt hàng sản xuất , phải tự đảm bảo các điều kiện sản xuất kinh doanh( vốn, lao động, công nghệ, thông tin...), tự quyết định giá và tự phân phối sản phẩm làm ra trong khuôn khổ chính sách Nhà nước. Nhờ đổi mới như vậy, các doanh nghiệp thực sự phải bươn chải trong môi trường cạnh tranh và muốn tồn tại, phát triển trong môi trường cạnh tranh thì phải đổi mới, phải cải tiến, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức quản lí.
Điều tối quan trọng và cũng là mục đích cuối cùng đối với các doanh nghiệp là lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Biểu hiện tập trung nhất của hiệu quả là lợi nhuận. Trong cơ chế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển, không còn con đường nào khác là doanh nghiệp phải đạt lợi nhuận càng cao càng tốt, mới có điều kiện hơn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng lẫn chiều sâu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường với các đối thủ của mình.
Tuy nhiên ta không thể chỉ hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là lợi nhuận mà hiệu quả phải được gắn liền vào việc hoàn thành mục tiêu đề ra, không thể có được hiệu quả nếu mục tiêu của doanh nghiệp không đạt được. Đó cũng là một yêu cầu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện .
III-Vấn đề lợi nhuận của doanh nghiệp trong cơ chế mới
1- Quan niệm về lợi nhuận trong chủ nghĩa xã hội:
Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy chế độ tư hữu TLXS làm nền tảng, còn nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ công hữu TLXS. Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường. Cơ chế thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhưng do có sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thị trường KTTT TBCN và KTTT XHCN, nên cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận nhưng tính chất và mức độ khác nhau.
Phần trên ta đã nghiên cứu rất kỹ về khái niêm, bản chất, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn bây giờ, ta xem xét vai trò của lợi nhuận cả trong nền kinh tế thị trường nói chung, để từ đó thấy được sự khác nhau với vấn đề lợi nhuận trong CNXH
Theo đuổi mức lợi nhuận cao là mục đích của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận là động lực hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Mục tiêu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là đáp ứng được tối đa nhu cầu của thị trường và xã hội nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất- lợi nhuận tối đa. Các DN hoạt động trong nền kinh tế thị truờng luôn được đặt trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Có nghĩa là sự phát triển đi lên của doanh nghiệp này sẽ kéo theo sự suy sup, thậm chí phá sản của doanh nghiệp khác. Giải thích về điều này, yếu tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp là lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp làm ăn phát đạt , sẽ thu được nhiều lợi nhuận, một phần lợi nhuận ấy sẽ đi vào tiêu dùng, phần còn lại sẽ quay lại đầu tư , tiếp tục phát triển sản xuất và cứ như vậy cho dến khi doanh nghiệp còn duy trì được mức lợi nhuận tối thiểu. Và ngược lại với những doang nghiệp làm ăn kém hiệu quả, họ không thể mở rộng tái sản xuất, do đó mất dần khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường, nếu tình trạng này diễn ra trong thời gian dài sẽ dẫn tới sự phá sản.
Còn trong XHCH , hay cụ thể hơn là kinh tế thị trường XHCN , mục tiêu của nền KTTT XHCN là vì nhân dân lao động , thực hiện xã hội hoá sản xuất , mọi người đều được hưởng thụ theo thành quả lao động mà mình làm ra, tức là thực hiện phân phối theo lao động, song song với việc phát triển kinh tế , CNXH thực hiện chính sách phân phối khác kết hợp với việc thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ xã hôi, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, phấn đấu ngày càng rút ngắn hố phân cách giàu nghèo, giảm tỷ lệ các hộ nghèo, không ngừng tăng nhanh mức sống, nhân dân được hưởng các phúc lợi xã hội, chăm sóc tốt về y tế, đời sống văn hoá, tinh thần nâng cao, hoà nhập , tiếp thu các giá trị văn hoá tinh hoa của các quốc gia trên thế giới, nhưng luôn gìn giữ văn hoá dân tộc , truyền thống tốt đẹp của con người Viêt Nam
Do chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn vận động cạnh tranh lẫn nhau, ở CNTB, cạnh tranh diễn ra gay gắt, là cạnh tranh tiêu diệt nhau, còn trong CNXH sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội. Cạnh tranh nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không vì thế mà làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức, tình người, đạo đức trong kinh doanh. Cạnh tranh trong cơ chế mới, cơ chế thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh để phát triển, vì mục tiêu con người, cùng tiến tới một chế độ xã hội tốt đẹp -“ Chế độ xã hội chủ nghĩa”.
2-Lợi nhuận của doanh nghiệp trong cơ chế mới.
Từ Đại hội Đảng VI (12 / 1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước, theo định hương XHCN. Chủ trương này được bắt nguồn từ đặc điểm trong nước và trên thế giới. Với những thất bại trong cơ chế quản lí và chính sách trước đây, do áp lực về kinh tế xã hội ở trong nước cũng như xu thế hoà bình và mở cửa trên thế giới, trong khu vực là cơ hội , vận hội mới đã đến để cho chúng ta mở cửa hội nhập. Vì nền kinh tế thị trường ơ Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN nên nó không giống với kinh tế thị trường của các nước khác- nền kinh tế thị trường TBCN.
Mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường nước ta:
Nền kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu TLXS làm nền tảng còn nền kinh tế còn nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu TLXS. Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường. Mục tiêu lợi nhuận trong hai loại thị trường này là khác nhau về bản chất và mức độ.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay gồm 5 thành phần kinh tế :kinh tế Quốc doanh; kinh tế cá thể; kinh tế tập thể; kinh té tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước. Trong cơ chế thị trường, 5 thành phần kinh tế này cùng tồn tại ra sức mở rộng sản xuất kinh doanh mà mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Năm thành phần kinh tế này tồn tại không đối lập , loại trừ nhau mà chúng hợp tác, liên kết, bổ sung cho nhau cùng đi lên CNXH thông qua kinh tế hợp tác.
Như trên đã đề cập , mục tiêu lợi nhuận ở đây là để tất cả cùng phát triển. Vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
*Lợi nhuận là động lực hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam:
Các DN ở Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường cũng đã trải qua 15 năm với những khó khăn, thử thách, cạnh tranh với các doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, để đứng vững cũng có nghĩa là hoạt động kinh doanh có hiệu quả, biểu hiện mạnh nhất là lợi nhuận.
Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là một doanh nghiệp thoả mãn được nhu cầu tối đa của thị trường về hàng hoá dịch vụ mình kinh doanh trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có, và thu được lợi nhuận nhiều nhất.
Ba vấn đè cơ bản của doanh nghiệp là sản xuất cái gì? , sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? được các nhà kinh doanh quan tâm hàng đầu. Họ không thể lựa chọn kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ mà không thu được lợi nhuận. Thực tế là họ luôn theo đuổi những ngành sản xuất hàng hoá, dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận cao, đặc biệt là có tỷ suất lợi nhuận cá biệt cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Và khi cơ cấu lợi nhuận trong các ngành thay đổi thì các quyết định đó của các chủ doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Như vậy lợi nhuận doanh nghiệp là yếu tố quyết định sự tồn tại của mọi doanh nghiệp, nó chi phối các quyết định của chủ doanh nghiệp về 3 vấn đề cơ bản : sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai?
*Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
-Quy mô sản xuất hàng hoá, dịch vụ:
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả là doanh nghiệp giải quyết tốt 3 vấn đề kinh tế cơ bản :sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ?
Sản xuất cái gì? là quyết định xem doanh nghiệp nên sản xuất mặt hàng, loại dịch vụ nào? với quy mô, số lượng ra sao?. Trên cơ sở nhu cầu của thị trường, các nhà kinh tế cân đối với với khả năng sản xuất của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định cung ứng cái gì để đạt mức lợi nhuận cao nhất. Giá cả thị trường là bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu giúp chúng ta lựa chọn sản xuất cái gì.
Sản xuất như thế nào? có nghĩa là sản xuất với lực lượng sản xuất ( bao gồm con người và công nghệ) nào? nguồn tài nguyên, nguyên liệu gì? và phương án sản xuất ra sao?. Sau khi đã lựa chọn sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì các nhà kinh tế phải tính toán làm sao để sản xuất hàng hoá với chi phí thấp nhất, mà vẫn bảo đảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Mục tiêu lợi nhuận đã buộc các nhà kinh tế tìm kiếm, lựa chọn phương án sản xuất tối ưu với đầu vào tối thiểu và đầu ra tối đa (sản xuát nhanh nhất, nhiều nhất và chất lượng cao )
Sản xuất cho ai ? DN cần phải xác định đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ để từ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của người tiêu dùng.
Mức lợi nhuận cao sẽ làm cho các nhà doanh nghiệp xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng
-Tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ :
Tiêu thụ là một khâu trong quá trình sản xuất – phân phối- tiêu dùng, do vậy thị trường tiêu thụ hàng hoá là một trong những vấn đề quan trọng mà các nhà DN cần phải quan tâm. Thị trường tiêu thụ hàng hoá ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm.
-Tổ chức quản lí hoạt động kinh tế vĩ mô:
Là khả năng lãnh đạo của chủ doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của DN, và do đó cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của DN.
*Các nhân tố quyết định lợi nhuận:
Lợi nhuận là tiền thưởng cho việc chịu mạo hiểm . Các quyết định có chi phí cơ hội càng lớn càng có ảnh hưởng đến sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Quyết định đó có thể khiến doannh nghiệp thành công nhưng cũng có thể làm cho DN phải chịu lỗ, nên lợi nhuận thu được ở đây gọi là tiền thưởng.
Lợi nhuận là thu nhập độc quyền: một hoặc một số doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối phần lớncác sản phẩm, dịch vụ trên thị trường có thể cùng hợp tác để nâng giá sản phẩm , phần chênh lệch đó là lợi nhuận độc quyền
@ Lợi nhuận và phương pháp tăng lợi nhuận:
Như ta đã biết tài nguyên thiên nhiên của toàn cầu nói chung và trong phạm vi một nước nói riêng có hạn, nguồn lao động không phải ở đâu cũng thừa, vốn của DN cũng có giới hạn... nên việc đề ra một phương án sản xuất tối ưu là một điều không đơn giản chút nào. Việc kết hợp các nguồn lực để phù hợp với yêu cầu của thị trường , khó hơn là việc phân bổ các nguồn lợi thu được để vẫn có thể phát triển sản xuất . Đối với những nước mà sản xuất chưa phát triển thì cần tập trung đưa vào quá trình sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, tiêu dùng cho cá nhân phải hạn chế. Còn ngược lại, với những nước phát triển thì việc mở rộng sản xuất không là yêu cầu cấp bách, có thể tăng tiêu dùng cho cá nhân hay cho phúc lợi xã hội.
Các DN phải nắm vững thị hiếu khách hàng. Một chiến lược Marketing tốt sẽ giúp DN có được lợi thế trong cạnh tranh, tạo hình ảnh tốt và tăng uy tín trong khách hàng
Các DN khi sản xuất phải tránh tình trạng tồn kho, ứ đọng. Cố gắng xác định đúng điểm sản xuất, đáp ứng đủ nhu cầu.
Năng lực lãnh đạo của các chủ doanh nghiệp rất quan trọng. Khả năng ngoại giao khéo léo, linh hoạt để có thể nắm bắt được các cơ hội nhiều khi không bao giờ tìm lại được. Do đó nó đóng góp một phần rất lớn vào thành công của các DN.
Điều quan trọng cuối cùng là đầu tư như thế nào ? Đầu tư vào đâu và bằng cách nào ? Câu trả lời là nên đầu tư vào khoa học công nghệ, tăng hàm lượng chất xám và lao động trí óc.
Chương 2 : Các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nước ta hịên nay
I-Thực trạng về sản xuất kinh doanh của DN nước ta hiện nay.
1-Những tích cực trong SXKD
Những thay đổi trong cơ chế và chính sách đối với doanh nghiệp đã tác động theo hướng tích cực với sản xuất kinh doanh của các DN, đó là:
- Sản xuất kinh doanh của các DN đã gắn chặt hơn với thị trường. Nhiều DN đã chuyển đổi mặt hàng, thậm chí thay đổi hướng kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu thị trường. Nhiều DN đã coi trọng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm theo hướng đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lương sản phẩm làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng cao, huy động được các nguồn lực trong xã hội và trong dân vào phát triển sản xuất kinh doanh.
Những ví dụ điển hình về hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao: Tổng công ty Than Việt Nam hoàn thành vượt mức kế hoạch 1997 từ 5% đến 24%.Năm 1997, Tổng công ty Than Việt Nam đã khai thác được gần 11 triệu tấn than sạch, tiêu thụ 10.5 triệu tấn, trong đó xuất khẩu 3.7 triệu tấn với tổng doanh thu 4000 tỷ đồng tăng 20% so 1996, nộp ngân sách 158 tỷ. Đây là năm đạt sản lượng bốc đất đá, đào lò, khai thác và tiêu thụ than cao nhất kể từ trước đó, vượt kế hoạch 24%,đảm bảo việc làm và thu nhập khác cho người lao động.
Công ty bơm Hải Dương có năng lực sản xuất trên 250 loại máy bơm. Nhờ đầu tư đổi mới thiết bị, đến nay Công ty bơm Hải Dương (Bộ công nghiệp) đã sản xuất được trên 250 loại máy bơm, công suất cao nhất :13.000m3/h. Hầu hết sản phẩm của công ty được chế tạo theo công nghệ hiện đại, chất lượng tốt, tiết kiệm điện năng, phù hợp với nhiều vùng địa hình.Doanh thu tăng 81% so với năm 97.
2. Những hạn chế :
Bên cạnh những DN hoạt động có hiệu quả còn không ít các doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả ,năng suất lao động còn thấp, thời gian hao phí lao động nhiều đẫn đến giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh kém.
Các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các công ty trách nhiệm hữu hạn đang đối đầu với cuộc cạnh tranh không cân sức với hàng ngoại nhập .Một thực tế là từ các mặt hàng cao cấp như : ô tô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh...đến các hàng hoá thông thường :quần áo, sách vở học sinh, xà phòng giặt, hoa quả... đó đây đều là hàng ngoại. Thực tế trên địa bàn Hà Nội cho thấy, trước đây nhiều xí nghiệp đã từng là đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu có hiệu quả cao, sản phẩm ra xưởng đến đâu tiêu thụ hết đến đó như: Nhà máy cơ khí chính xác, xí nghiệp phụ tùng xe đạp ,nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu, xí nghiệp bông Hà Nội... nay đành bó tay, qui mô sản xuất bị thu hẹp, một bộ phận công nhân phải nghỉ việc.
Trong lĩnh vực sản xuất tiêu thụ công nghiệp, nhiều ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống cũng đã bị mai một, sản phẩm không còn chỗ đứng trên thị trường. Nhiều hợp tác xã đã từng là lá cờ đầu trong ngành tiểu thủ công nghiệp , như HTX hoá chất Thái Hà, HTX lao động, HTX thảm len Đống Đa, HTX cơ khí may... nay đã đông lạnh hoặc giải thể, chuyển sang kinh doanh buôn bán.
Nhiều cơ sở đã từng bươn trải, trụ vững trong cơ chế thị trường qua nhiều năm thử thách nghiệt ngã, thì nay cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, mặc dầu các cơ sở này đã bằng nhiều biện pháp mở rộng tiếp thị để tìm kiếm thị trường, tiết kiệm chi phí hạ giá thành, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng kết quả kinh doanh vẫn thua lỗ, sản phẩm tiêu thụ chậm, thiếu khả năng thanh toán nợ ngân hàng.
Thực trạng trên là hệ quả của nhiều nguyên nhân :
-Chât lượng hàng hoá tiêu dùng và hàng xuất khẩu chưa tốt, giá cả cao, mẫu mã xấu so với hàng ngoại, do vậy chưa hấp dẫn đối với người tiêu dùng và xuất khẩu.
-Trong thực tế các DN đều có nhu cầu đổi mới công nghệ hiện đại để tăng NSLĐ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng lực bất tòng tâm hầu hết các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, máy móc thiết bị lạc hậu, nhưng nguồn vốn tự có quá thấp, nhất là DN do địa phương quản lí, sản xuất KD gần như 100% dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Trong khi muốn nhập một dây chuyền sản xuất hiện đại phải mất hàng triệu USD . Nếu doanh nghiệp sử dụng 100% vốn tín dụng để thay đổi công nghệ thì đầu vào giá thành sản phấm sẽ chứa đựng yếu tố lãi suất tiền vay, khấu hao tài sản và các chi phí khác sẽ đội giá thành lên cao, thị trường không chấp nhận, dẫn đến sản phẩm ứ đọng. Theo cơ chế tín dụng hiện hành mặc dầu doanh nghiệp Nhà nước vay vốn không phải thế chấp tài sản, nhưng bên vay vốn trung hạn, dài hạn phải tự lo bằng nguồn vốn tự có tối thiểu 30% giá trị dự án.
- Điều trăn trở đối với các DN hiện nay là trong khi bỏ ra một số tiền lớn để đổi mới công nghệ, nhưng sản xuất được thời gian ngắn chưa kịp thu hồi vốn thì hàng ngoại nhập lại tràn vào thị trường trong nước, chất lượng cao hơn, giá cả thấp, lúc đó DN lại trở thành nạn nhân của thị trường, sản phẩm không xuất khẩu, không tiêu thụ được, dẫn đến thua lỗ, công nhân thất nghiệp. Do vậy, cho đến nay việc đổi mới công nghệ theo định hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá kinh tế đất nước hầu như ít doanh nghiệp thực hiện được.
- Ngoài ra trình độ tổ chức sản xuất quản lí kinh tế của một số DN còn yếu kém, không hoà nhập kịp với thị trường mở cửa, nên không tìm được chỗ đứng trong làn sóng cạnh tranh sôi động của nền kinh tế thị trường.
II-Giải pháp:
1-Vấn đề đặt ra đối với hiệu quả SXKD
Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: tình hình thị trường, các chế độ chính sách của Nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lí sản xuất kinh doanh, năng lực con người , đặc biệt là đội ngũ quản trị gia, việc chọn lựa và thực thi các chiến lược của doanh nghiệp, hiểu biết về đối thủ cạnh tranh...
Tuy nhiên ta không thể chỉ hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là lợi nhuận mà hiệu quả phải được gắn liền vào việc hoàn thành mục tiêu đề ra, không thể có được hiệu quả nếu mục tiêu của DN không đạt được. Vì vậy việc giải quyết các vấn đề cơ bản nói trên được thể hiện tập trung trong việc xác định mục tiêu và chọn lựa phương án sản xuất kinh doanh; xác định phương hướng đầu tư, phát triển doanh nghiệp... Những vấn đề trên mở đầu cho quá trình sản xuất kinh doanh của DN và có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
a- Về phía yếu tố chủ quan của doanh nghiệp
Thông thường để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ta so sánh giữa chi phí cho đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình là hiệu quả của quá trình đó. Điều đó có nghĩa là để đạt được kết quả đầu ra, DN phải tốn một chi phí đầu vào như thế nào , sử dụng nguồn lực tổ chức ra sao, từ vốn, nhân sự, công nghệ để đạt được kết quả đó.
Nếu gọi H là hiệu quả kinh doanh:
Kết quả đầu vào
H=------------------------
Chi phí đầu vào
Cách đánh giá này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để thu được kết quả cao hơn tức là đã có một sự xuất hiện của giá trị gia tăng với điều kiện H >1, Khi H càng lớn càng chứng tỏ quá trình càng đạt hiệu quả.
Để tăng hiệu quả ta thường cho là có những biên pháp sau:
-Để tăng H : Giảm đầu vào V , đầu ra R không đổi.
-Để tăng H : Giữ đầu vào V không đổi, tăng đầu ra R.
-Để tăng H : Giảm đầu vào V, tăng đầu ra R.
Trong tình trạng quản lí, điều hành sản xuất bất hợp lí, chúng ta có thể cải tiến nhằm sử dụng các nguồn lực tổ chức hợp lí hơn, tránh các lãng phí, những tổn thất có thể có, để tăng cường giá trị đầu ra. Nhưng nếu quá trình SXKD là đã hợp lí thì việc áp dụng các biện pháp trên sẽ là bất hợp lí. Bởi ta không thể giảm V mà không làm giảm gía trị đầu ra R và ngược lại.
Thậm chí trong thực tế ngay cả khi quá trình sản xuất kinh doanh của chúng ta là còn bất hợp lí nhưng khi chúng ta áp dụng những biện pháp trên có thể làm cho hiệu quả giảm xuống. Chính vì vậy để có một hiệu quả không ngừng tăng lên đòi hỏi chúng ta chẳng những không giảm mà còn phải tăng chất lượng đầu vào lên. Với nguyên vật liệu tốt hơn, lao động có tay nghề cao hơn, máy móc công nghệ hiện đại hơn, ta sẽ giảm đi sự hao phí nguyên vật liệu, hao phí lao động, hao phí năng lượng, thiết bị trên từng đơn vị sản phẩm, phế phẩm giảm đó là điều kiện để có những sản phẩm với số lượng, chất lượng cao, giá thành hạ. Như vậy để tăng H chỉ còn con đường duy nhất là không ngừng đầu tư vào công nghệ, nguồn nhân lực, quản lí... Qua đó giá trị đầu ra R ngày càng tăng hơn đồng thời càng nâng cao vị trí cạnh tranh của sản phẩm, của DN trên thương trường.
Như đã đề cập ở trên, hiệu quả phải gắn liền với việc thực hiện những mục tiêu của DN. Cho nên hiệu quả được biểu hiện qua công thức sau:
Mục tiêu hoàn thành
H=---------------------------------------------------------------
Nguồn lực được sử dụng một cách thông minh
Qua công thức này còn thể hiện một quan điểm mới đó là không phải lúc nào để đạt hiệu quả cũng là giảm chi phí mà là sử dụng những chi phí đó như thế nào, có chi phí không cần thiết ta phải giảm đi , có chi phí ta cần phải tăng lên vì chính việc tăng chi phí này sẽ giúp DN hoàn thành mục tiêu tốt hơn.
b- Về phía yếu tố khách quan
- Điều hết sức nhức nhối là thị trường hàng nhập ngoại hầu như bị thả nổi. Hàng nhập lậu tràn vào Việt Nam từ 4 phía :đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ. Hàng nhập lậu gắn liền với trốn thuế nên giá rẻ, một sự cạnh tranh không tương sức giữa HH sản xuất trong nước và HH nhập ngoại tràn đầy thị trường làm cho nền sản xuất hàng tiêu dùng và hàng nhập khẩu càng suy giảm.
- Khi các DN bỏ ra một số tiền lớn để đổi mới công nghệ ,nhưng SX được một thời gian ngắn chưa kịp thu hồi vốn thì hàng ngoại nhập lại tràn vào thị trường trong nước, chất lượng cao, giá cả rẻ nên HH SX ra trong nưóc không tiêu thụ được, dẫn đến thua lỗ.
2-Biện pháp
a-Đôi với các doanh nghiệp:
-Nâng cao trình độ quản lí doanh nghiệp :
Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là đIều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lí, tác nghiệp, bố trí sử dụng nhân sự, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy, động viên và kiểm soát. Ngoài ra quản trị còn nghiên cứu các yếu tố môi trường, theo dõi, dự báo những biến động, thay đổi có thể có nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình SXKD.
Ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình kinh doanh hiện nay, thua lỗ, phá sản... đó là sự yếu kém quản trị của các quản trị gia. Vì vậy trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đaị, tạo điều kiện cho các cán bộ quản lí tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi kinh nghiệm quản lí của các nước phát triển.
- Sử dụng nguồn vốn có hiệu quả:
Người kinh doanh giỏi không phải là người kinh doanh bằng nguồn vốn tự có của mình, mà là kinh doanh bằng nguồn vốn của người khác. Khó khăn chung của hầu hết các đơn vị kinh doanh hiện nay là thiếu vốn, cho nên nguồn vốn vay giữ vai trò quan trọng, bởi vì nó bổ sung cho vốn cơ bản trong suốt quá trình KD. Tuy nhiên vốn vay ảnh hưởng rất lớn hiệu quả KD, DN luôn phải mang gánh nặng lãi suất. Vay vốn , ta cần phải có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả và phải có những biện pháp phòng chống những rủi ro có thể có từ yếu tố này.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, việc cổ phần hoá doanh nghiệp, hình thành thị trường chứng khoán là biện pháp hữu hiệu nhằm nhằm huy động vốn cho các doanh nghiệp hoạt động. Xác định cơ cấu vốn hợp lí, chặt chẽ thích ứng với quy mô của doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn vay ngắn hạn. Có những biện pháp đối phó hữu hiệu với những biến động về tài chính. Khi đi vào các dự án đầu tư mở rộng hay đầu tư theo chiều sâu cần phải có nguồn vốn ổn định. Không chạy theo quá nhiều dự án vì sẽ dễ dẫn đến tình trạng phát triển quá mức, gây mất cân đối tài chính.
Vấn đề cốt lõi để quản lí và sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, DN phải làm ăn có lợi nhuận, có tích luỹ. Muốn vậy DN phải tự đánh giá mình về khả năng cạnh tranh, về nguồn lực của DN, xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp. Nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/96 đã quy định cụ thể hơn cơ chế quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh của các DN, song cần xây dựng và điều chỉnh các chính sách kinh doanh phương hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực một cách cụ thể để từng DN xác định nhiệm vụ, kế hoạch hành động của mình.
- Nâng cao năng suất lao động, làm cho giá trị của từng đơn vị HH giảm xuống.
Các DN để khẳng định vị trí trên thị trường, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh, để giảm thiểu chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, phải đạt được chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần phải tiếp cận với khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, phải không ngừng cải tiến, đầu tư công nghệ là nhân tố giúp doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, do thời gian hao phí lao động sản xuất một sản phẩm ngày càng giảm, giá trị HH giảm, nên giá bán sản phẩm ngày càng giảm mà sản phẩm vẫn có chất lượng và chắc chắn số lượng tiêu thụ sẽ tăng.
Để nâng cao năng suất lao động, một trong những nhân tố quan trọng đó là yếu tố con người, đây chính là sự thách thức lớn nhất đối với quản lí. Làm sao có được đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc. Đó là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của DN. Muốn vậy ta phải nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố con người, phải thường xuyên tạo điều kiện cho những người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần nhằm làm người lao động thoả mãn, gắn bó với DN. Thực hiện quyền làm chủ thực sự của người lao động.
- Xác định mục tiêu & chiến lược của DN
Một doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng DN, môi trường hoạt động để đề ra mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Với mục tiêu đề ra, các DN phải đề ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ. DN không thể lúc nào cũng theo đuổi chiến lược phát triển, phát triển mà không ổn định, phát triển với một tốc độ nhanh chóng như việc theo đuổi quá nhiều dự án, những siêu dự án, dự án “Bạch tượng” những chiến lược phát triển như vậy dễ dẫn đến mất cân đối tài chính, tài chính bị dàn trải và dễ dàng đi đến chỗ phá sản. Như các doanh nghiệp Epco, Minh Phụng...”Phát triển, phát triển, liên tục phát triển rồi biến mất...” Hơn nữa hầu hết các dự án chỉ luôn đưa ra những số liệu tính toán theo hướng lạc quan mà không tính đến khía cạnh ngược lại của nó là bi quan, khi dự án gặp phải tình hình thị trường bất lợi, không có khách hàng, đối thủ cạnh tranh, giá bán giảm... Vì vậy ta không lượng giá những rủi ro, những thua lỗ, thất bại có thể có và khi tình hình như không mong muốn DN dễ rơi vào tình trạng phá sản.
- Quản trị môi trường
Mọi DN tồn tại và phát triển đều có sự liên hệ với môi trường và chịu sự tác động của môi trường lên doanh nghiệp, những tác động của môi trường có thể là bất lợi hay thuận lợi cho DN. Do tính chất quốc tế hoá, khu vực hoá, hoạt động của DN không chỉ còn thuộc phạm vi một quốc gia hay một vùng nào đó, cho nên DN còn chịu sự tác động của môi trường kinh tế thế giới, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ trên thế giới đều có thể tác động đến DN. Vì vậy muốn hoạt động có hiệu quả cần phải quản trị môi trường, là việc thu thập thông tin, dự toán ước lượng những thay đổi, bất trắc của môi trường trong và ngoài nước đưa ra những biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động, những tổn thất cá thể có do sự thay đổi, bất trắc đó.
-Một yếu tố không kém phần quan trọng đó là tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm vật tư, nguyên liệu vật liệu, tránh lãng phí, tận dụng hết chất lượng lẫn số lượng nguyên vật liệu, sản xuất nhiều sản phẩm.
b- Về phía Nhà nước:
Như đã phân tích ở phần thực trạng, về giải pháp , điều quan trọng bậc nhất là:
- Nhà nước cần sớm điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu, hạn chế đến mức tối đa nhập khẩu những hàng hoá tiêu dùng mà trong nước dang sản xuất bình thường. Tăng cường nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị hiện đại để tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
-Kiểm soát chặt chẽ thị trường nhập khẩu cả hai đầu mối: nhập khẩu lậu qua biên giới và kiểm soát nghiêm ngặt cả nguồn tiêu thụ hàng ngoại trái phép.
-Nghiêm cấm xuất khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm khi các DN trong nước đang có điều kiện sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu hình thành từ nguyên liệu đó. Đồng thời sử dụng có hiệu quả đòn bẩy về thuế khoá và lãi suất vay vốn ngân hàng để khuyến khích các DN sản xuất hàng xuất khẩu thông qua chính sách thuế quan.
-Dành một phần Ngân sách hỗ trợ các DN SXKD có hiệu quả, có dự án sản xuất hàng xuất khẩu, thông qua việc ưu tiên cho vay theo lãi suất ưu đãi, tạo môi trường giúp các DN này có điều kiện đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
* Hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lí đối với sản xuất kinh doanh:
- Nên có cơ chế quản lí thích hợp đối với từng loại DN.
Các loại doanh nghiệp (DN Nhà nước, DN tập thể, DN liên doanh với nước ngoài...) có quyền khác nhau đối với tài sản của mình, và có cơ cấu tổ chức khác nhau. Do đó một mặt phải đảm bảo cho các DN được cạnh tranh bình đẳng, mặt khác phải có cơ chế quản lí thích hợp với từng loại DN. Nên có cơ chế và chính sách khuyến khích các DNNN chuyển sang Công ty cổ phần.
- Xác định rõ hơn vai trò, chức năng của Tổng công ty trong quản lí đối với DN. Hoàn thiện cơ chế quản lí Tổng công ty theo hướng tăng nguồn vốn của bản thân Tổng công ty bằng một số các giải pháp: đẩy mạnh các hoạt động tạo tích luỹ; phát triển mô hình Công ty mẹ và công ty con ; hình thành và phát triển công ty tài chính trong các Tcty...
- Cần có chính sách riêng để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hoàn thiện hệ thống luật và chính sách đối với doanh nghiệp :Ban hành thêm một số luật chống cạnh tranh bất hợp pháp, luật chống độc quyền...
Phần 3 : Kết thúc
Trong đề tài em có nêu lên quan điểm về lợi nhuận của Marx. Lợi nhuận không phải là vấn đề riêng có của chủ nghĩa tư bản mà nó luôn là vấn đề cấp bách và quan trọng của mọi hình thái kinh tế. Đặc biệt đối với Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta hiện nay, mà biểu hiện tập trung nhất của hiệu quả là lợi nhuận, nhờ nghiên cứu phạm trù lợi nhuận của Marx, em thấy rằng về phía doanh nghiệp cần phải phấn đấu hạ thấp chi phí sản xuất gồm lao động sống và lao động quá khứ làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó, phải tăng năng suất lao động, hoàn thành mục tiêu đề ra, DN hoạt động như thế nào để thu được lợi nhuận, phải tạo ra cạnh tranh, song không phải là cạnh tranh gay gắt, cạnh tranh tiêu diệt lẫn nhau, mà là để cùng nhau phát triển, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu đề tài này rất có ý nghĩa với bản thân em, hiện đang là một sinh viên kinh tế, nó giúp em tiếp cận, nhìn thấy thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN nước ta hiện nay, để trong thời gian học tập còn lại trong trường, và cả sau này, em sẽ cố gắng, nỗ lực học hỏi từ các kiến thức mà các thầy cô giáo truyền đạt để có thể đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Marx-Lenin vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã cung cấp phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành đề án này. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề án không thể không có những sai sót về kiến thức, về cách trình bày, em mong thầy thông cảm. Em chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 20 tháng 4 năm 2002.
Mục lục Trang
Phần 1: Lời nói đầu …………………………………… 1
Phần 2: Nội dung …………………………………… 2
Chương I: Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh tế
trong sản xuất của các doanh nghiệp
.
Vấn đề lợi nhuận trong CNTB
1-Lý luận của Marx về lợi nhuận. 2-Quá trình chuyển hoá từ giá trị hàng hoá sang giá cả sản xuất.
3- Các hình thức của lợi nhuận.
II- Cơ chế mới ở nước ta & những yêu cầu trong
SXKD trong cơ chế mới.
Cơ chế thị trường.
Sự thay đổi cơ chế và các chính sách vĩ mô.
Tác động của cơ chế mới dẫn đến những yêu cầu, đòi hỏi trong SXKD
III- Vấn đề lợi nhuận của DN trong cơ chế mới
1-Quan niệm về lợi nhuận trong CNXH.
2- Lợi nhuận của DN trong cơ chế mới
Chương II: Thực trạngvà các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế của các DN .
I- Thực trạng về sản xuất kinh doanh của DN nước ta.
Những tích cực trong sản xuất kinh doanh.
Những hạn chế trong sản xuất kinh doanh.
II-Giải pháp 1- Vấn đề đặt ra đối với hiệu quả SXKD
Phần 3: Kết luận …………………………… 25
Các tài liệu tham khảo:
- Bài giảng KTCT trên lớp của thầy
- Giáo trình KTCT Mac-Lenin của trường ĐH KTQD-NXB giáo dục 1998.tập1,2
- Tạp chí Phát triển kinh tế, Ngân hàng, Nghiên cứu kinh tế, Thương mại, Dự báo chiến lược chính sách, Khoa học công nghệ môi trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0725.doc