Đề tài Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO 3 CỦA SẢN XUẤT 3 1. Sản xuất là gì? 3 1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm) 3 1.2 Hàm sản xuất 3 2. Năng suất biên và năng suất trung bình 5 2.1 Năng suất biên (MP) 5 2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần 5 2.3 Năng suất trung bình (AP) 5 2.4 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng 6 3. Đường đẳng lượng 6 3.1 Đường đẳng lượng 6 3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) 6 4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng 7 4.1 Hàm sản xuất tuyến tính 7 4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định 7 4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS 8 6. Đường đẳng phí 8 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9 1. Tổng quan về lao động - việc làm 9 1.1. Về dân số và lao động 9 1.2. Về chất lượng lao động 9 1.3. Về tình trạng việc làm 10 1.4. Vấn đề thất nghiệp 12 1.5. Vấn đề di cư lao động 13 1.6. Về xuất khẩu lao động 13 2. Thực trạng lao động ở nước ta hiện nay 13 2.1 Lực lượng lao động: 13 2.2 Phân bổ lực lượng lao động 14 2.3 Chất lượng lao động: 15 2.4 Tác động của WTO đối với việc làm tại Việt Nam 15 3. Những vấn đề đặt ra về lao động, việc làm và hướng giải quyết 16 5. Những khó khăn của doanh nghiệp về tuyển dụng lao động 18 KẾT LUẬN 21

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành nội lực thực sự mạnh cho việc gọi vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm năng thiên nhiên thì phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đào tạo nghề nghiệp cho người lao động. Vì hiện nay trình độ qua đào tạo lành nghề ở nước ta còn thấp như vậy thì khó có thể tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn, công nghệ và khai thác tiềm năng, càng khó khăn để cạnh tranh về chất lượng hàng hóa và càng khó cho việc giải quyết việc làm. Ở nước ta mỗi năm có khoảng có 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước. Thế nhưng số lượng lao động thì được bổ sung mà chất lượng thì lại hạn chế. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, chưa qua học nghề bài bản, thiếu tác phong công nghiệp..v.v.v, nên nhiều doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều lao động lại không tuyển được hoặc tuyển dụng rồi mà chưa hài lòng về chất lượng. Mặc khác, hiện nay Việt Nam chính thức đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và sẽ mở cửa thị trường rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Đối với lao động Việt Nam thì hiện nay mới chỉ có 25% trong số 42 triệu lao động qua đào tạo; khoảng 80% thanh niên (18 – 23 tuổi) bước vào thị trường lao động chưa qua đào tạo nghề; dư thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ hành chính, cán bộ quản lý chất lượng cao, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với 5,78/10 của Trung Quốc và 4,04/10 của Thái Lan, đây là những thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam. Bên cạnh đó gia nhập WTO đồng nghĩa việc Việt Nam gia nhập chuỗi phân công lao động toàn cầu. Do có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào và giá nhân công rẻ, trong ngắn hạn, Việt Nam có lợi thế so sánh về việc làm ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở yếu tố lao động rẻ thì sẽ không thể biến thế mạnh đó thành cơ hội. Ngoài ra yếu tố lao động rẻ chỉ có lợi thế đối những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động, không là lợi thế đối với những ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao hoặc ngành sử dụng nhiều vốn. Đối với doanh nghiệp, gia nhập WTO buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Sức ép sẽ ngày càng tăng, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Việc phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu. Các chủ doanh nghiệp đều cảm nhận được rằng, nền kinh tế ngày càng phát triển quá trình hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở thì việc thu hút nhân lực có trình độ càng cạnh tranh gay gắt nhất là trong tình hình hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO những tập đoàn quốc gia với lợi thế cạnh tranh về chính sách đãi ngộ, sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước vào chỗ khó khăn hơn, phải đương đầu với cuộc chiến giành giật nhân tài. Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI, với dự báo là trình độ khoa học kỹ thuật thế giới sẽ phát triển như vũ bão và đất nước ta cũng trên đường tiến mạnh lên công nghiệp hóa hiện đại hóa. Để giành được mục tiêu đó, có lẽ một trong những việc phải được ưu tiên đầu tư đó là xây dựng nguồn nhân lực trong đó cần thiết phải trang bị và không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, xem đó là điểm tựa của hệ thống đòn bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội.  Tóm lại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư cho phát triển, một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho lâu dài về sau. Có thể nói, trình độ lao động hay chất lượng của nguồn nhân lực là yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO CỦA SẢN XUẤT 1. Sản xuất là gì? Sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất là quá trình chuyển hoá giữa các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra (hay sản phẩm). Thực tế cho thấy rằng cách thức đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy nhiên, đối với các loại hàng hoá để sản xuất ra một sản lượng nhất định thì cần phải có một yếu tố ban đầu nào đó. 1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm) Yếu tố đầu vào (hay còn gọi là yếu tố sản xuất) là các loại hàng hoá - dịch vụ được dùng để sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ khác. Yếu tố đầu vào bao gồm lao động, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, năng lượng....hàng hoá và dịch vụ là những yếu tố đầu ra (hay sản phẩm) của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu ra được đo lường bởi sản lượng. Mỗi yếu tố sản xuất cụ thể sẽ cần những yếu tố đầu vào riêng. Vì vậy, để nghiên cứu một quá trình sản xuất tổng quát, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu vào theo tiêu thức chung nhất của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn. 1.2 Hàm sản xuất Mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố đầu vào và số lượng sản phẩm (sản lượng) của quá trình sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của một loại sản phẩm nào đó cho biết sản lượng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu là q) có thể được sản xuất ra bằng cách sử dụng các phối hợp khác nhau giữa vốn (K) và lao động (L) ứng với một trình độ công nghệ nhất định trong một khoảng thời gian nào đó. Hàm sản xuất thông thường được viết như sau: Trong đó: q là sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra ở một trình độ công nghệ nhất định với số lượng lao động là L và số lượng vốn là K. sản lượng q thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi của vốn và lao động. Hàm sản xuất chỉ có ý nghĩa đối với những giá trị không âm của K và L. Thông thường hàm sản xuất được giả định là hàm số đồng biến với vốn và lao động, nghĩa là và trong miền xác định của nó vì trong một chừng mực nhất định khi sử dụng nhiều yếu tố đầu vào hơn, nhà sản xuất sẽ sản xuất ra sản lượng cao hơn. Hàm sản xuất áp dụng cho một trình độ công nghệ nhất định. Một hàm số f cụ thể có thể đặc trưng cho một trình độ công nghệ nhất định. Khi công nghệ được cải tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lượng sẽ lớn hơn với cùng số lượng các yếu tố như trước hay thậm chí ít hơn. 2. Năng suất biên và năng suất trung bình 2.1 Năng suất biên (MP) Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lượng sản phẩm tăng thêm được sản xuất ra do sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất đó, nếu các yếu tố khác là không đổi. Như vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là đạo hàm riêng của sản lượng (q) theo số lượng vốn (K) và số lượng lao động (L): và Trong đó: MPK và MPL lần lượt là năng suất biên của vốn và lao động. Như vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính là đạo hàm riêng của hàm số tổng sản lượng (hay hàm sản xuất) theo số lượng yếu tố sản xuất đó. Về mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đường tổng sản lượng) tại từng điểm của đồ thị. 2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lượng của một yếu tố sản xuất tăng dần trong khi số lượng các yếu tố sản xuất khác giữ nguyên thì sản lượng sẽ tăng nhanh dần (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy nhiên, vượt qua một mốc nào đó thì sản lượng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhưng vẫn còn dương). Nếu tiếp tục gia tăng số lượng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lượng đạt đến mức tối đa (năng suất biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ và mang giá trị âm). Đứng trên phương diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tương ứng với giả định là đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm. và Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lượng của từng đơn vị của một yếu tố sản xuất nào đó là như nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc hạn chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận. 2.3 Năng suất trung bình (AP) Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó được tính bằng cách lấy tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó. Công thức tính năng suất trung bình: và , trong đó: APL và APK lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn. Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên thấp hơn năng suất trung bình và ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất biên lớn hơn năng suất trung bình. 2.4 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng được quyết định bởi công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ sản xuất thường được xem như là một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế về phương diện sản xuất. 3. Đường đẳng lượng 3.1 Đường đẳng lượng Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sẽ được biểu diễn trên một đường đẳng lượng. Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K) và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q0 nào đó. Phương trình của đường đẳng lượng: hay Các đặc điểm của đường đẳng lượng: - Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường đẳng lượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau. - Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn và lao động nằm trên đường đẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp hơn). - Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ. - Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau. Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng. Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các đầu vào. 3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) Khi di chuyển dọc trên một đường đẳng lượng, ta thấy có sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lượng không đổi. Để đo lường mức độ thay thế giữa vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng thêm một đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng. Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên: Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường đẳng lượng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn có giá trị dương. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q0 = f(K, L) nên có thể suy ra phương trình đường đẳng lượng là K = g(q0, L). Do đó: hay chính là nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng. 4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng 4.1 Hàm sản xuất tuyến tính . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm một đơn vị thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng tương ứng là a hay b đơn vị. Do vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là các hệ số a và b. Năng suất biên của vốn và lao động không thay đổi khi số vốn và lao động được sử dụng tăng thêm. Do đó, đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng các đầu vào (vốn và lao động) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b. Do phương trình của đường đẳng lượng ứng với hàm sản xuất tuyến tính là: nên . Như vậy, đường đẳng lượng của hàm số này là những đường thẳng song song có độ dốc . Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc vào giá của chúng. 4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định ; . Phương trình hàm sản xuất này cho biết sản lượng bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc. - Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trường hợp này, vốn là yếu ràng buộc đối với sản lượng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lượng nên MPL = 0. Vốn là yếu tố quyết định. - Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trường hợp này, lao động là yếu ràng buộc đối với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng nên MPK = 0. Lao động là yếu tố quyết định. - Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L được sử dụng một cách hợp lý nhất vì không có hiện tượng dư thừa vốn hay lao động. Khi đó . Đẳng thức này xảy ra tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng. Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trường hợp này, ta không thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ lệ cụ thể. 4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS ; a,b,c >0. Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng của một quá trình sản xuất. 6. Đường đẳng phí Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọi là tổng chi phí và được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này. Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và vốn (K) có thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những mức giá nhất định. Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi phí cho lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao động (wL) phải bằng với tổng chi phí (TC). Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết: S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng phí thay đổi. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Tổng quan về lao động - việc làm 1.1. Về dân số và lao động Nước ta có quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số bình quân tương đối cao. Dân số cả nước năm 2000 là 77.635,4 nghìn người, đến năm 2005 là 83.119,9 nghìn người. Như vậy trong 5 năm, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,1 triệu người. Tỷ lệ dân số giữa thành thị và nông thôn có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, song còn chậm. Tỷ trọng dân số thành thị tăng từ 24,22% năm 2000 lên 26,75% năm 2005. Dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, năm 2005 có 73,25% dân số ở nông thôn. Do dân số tăng nhanh nên hàng năm lực lượng lao động đã được bổ sung với một số lượng đáng kể, nhất là ở khu vực nông thôn. Năm 2005, lực lượng lao động (LLLĐ) của cả nước là 44.382,1 nghìn người, tăng gần 1,13 triệu người so với năm 2004, và chiếm 53% dân số. LLLĐ dồi dào là một lợi thế rất lớn của nước ta, song đây cũng là một thách thức trong vấn đề giải quyết việc làm. Hơn nữa, tỷ lệ lao động ở thành thị có tăng, song lực lượng lao động ở nông thôn còn quá lớn. Năm 2005 lực lượng lao động ở nông thôn là 33.313,9 nghìn người, chiếm 75,1% LLLĐ của cả nước. Đây là sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay và là vấn đề hết sức cấp bách về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Cơ cấu dân số phân chia theo giới tính không có biến đổi lớn. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ nam giới chiếm khoảng trên 49%, nữ giới chiếm khoảng gần 51%. Lực lượng lao động là nam giới trong thực tế có xu hướng tăng: năm 2004 lao động nam có 22.065,2 nghìn người, chiếm 51%, lao động nữ có 21.190,1 nghìn người, chiếm 49,0%. Năm 2005, lao động nam có 22.573,8 nghìn người, chiếm 51,26%, lao động nữ có 21.631,2 nghìn người, chiếm 48,74%. Như vậy tỷ trọng lao động nữ trong tổng lực lượng lao động đang có xu hướng giảm. 1.2. Về chất lượng lao động Ở nước ta, chất lượng lao động của LLLĐ tuy đã có bước chuyển biến đáng kể do có sự cải cách và tăng cường đầu tư trong công tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề, song nhìn chung còn thấp, chưa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu cầu của công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Chất lượng lao động được thể hiện ở một số mặt sau: + Về trình độ học vấn: Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho LLLĐ ở nước ta hiện nay. Xét về tổng thể thì trình độ học vấn của LLLĐ đã được nâng cao hơn, tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông đã tăng đáng kể. Tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông đã tăng từ 17,23% năm 2000 lên 21,2% năm 2005. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động biết chữ nhưng mới đạt trình độ tiểu học và dưới tiểu học còn cao, tỷ lệ mù chữ cũng còn khá cao. Tình trạng tái mù chữ xuất hiện ở nhiều nơi, nhất là ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, khiến cho tỷ lệ người chưa biết chữ đã tăng lên từ 3,58% năm 2001 lên 5,0% năm 2004. Tuy nhiên tình trạng này đã được cải thiện bằng việc tích cực thực hiện chủ trương phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Đến năm 2005, tỷ lệ mù chữ đã giảm xuống còn 4,0%. Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học giảm từ 16,48% năm 2000 xuống còn 11, 95% năm 2005. Nhìn vào số lượng và tỷ lệ thì tình hình dường như đã được cải thiện, song về chát lượng thì đây vẫn là vấn đề có nhiều bất cập. Trong thực tế còn có sự cách biệt khá lớn về trình độ học vấn của LLLĐ giữa thành thị và nông thôn cũng như giữa các vùng, miền lãnh thổ. Năm 2003, ở khu vực thành thị, cứ 100 người tham gia LLLĐ thì có 67 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở trở lên, cao gấp 1,5 lần so với chỉ số này ở khu vực nông thôn. Trong khi đó tỷ lệ mù chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học, trong khi ở Đồng bằng sông Cửu Long có các chỉ số tương ứng là: 11, 16 và 33; ở Tây Bắc là: 12,23 và 35; ở Tây Nguyên là: 16,26 và 26. Các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ là những vùng đông dân cư, tiềm năng sản xuất lớn, nhưng tỷ trọng lao động chưa biết chữ cao, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn cấp THCS và THPT còn thấp. Trình độ học vấn của LLLĐ ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn thấp hơn nhiều so với các vùng khác. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng tăng năng suất lao động và thu hút vốn đầu tư của vùng. + Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Những năm gần đây, chât lượng của nguồn lao động nước ta về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ lao động được đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên 21% năm 2003, 22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Tuy nhiên đây vẫn là con số ít ỏi so với yêu cầu của thị trường lao động đang ngày càng phát triển, đặc biệt là ở các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu đô thị tập trung. Nhiều ngành, nhiều địa phương còn rất thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi lao động phổ thông, lao động không có chuyên môn kỹ thuật còn chiếm một tỷ lệ lớn. Năm 2005, tỷ lệ lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) là 75,21%. Đây là một trong những mặt yếu kém và bất lợi nhất của LLLĐ nước ta, nó thể hiện sức cạnh tranh của LLLĐ nước ta là yếu so với LLLĐ của nhiều nước trong khu vực. Thực tế còn cho thấy có sự tách biệt lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ giữa thành thị và nông thôn cũng như các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Năm 2005, vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 37,98%, Đồng bằng sông Hồng là 34,75%, thấp nhất là Tây Bắc 13,84%, sau đó là vùng Đồng bằng sông Cửu Long 16,75%. 1.3. Về tình trạng việc làm Lực lượng lao động đông đảo được bổ sung hàng năm đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách. Các giải pháp về giải quyết lao động, việc làm đã được thực hiện tích cực và đạt nhiều hiệu quả. Số lao động có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong thời kỳ từ năm 1996 đến nay. Năm 1996, số lao động có việc làm thường xuyên là 34.907,6 nghìn người, đến năm 2004 tăng lên là 40.792,6 nghìn người. (xem bảng 1). Tuy nhiên chất lượng của việc làm mới được tạo ra còn thấp, chủ yếu tập trung ở khu vực phi kết cấu, phần lớn là lao động giản đơn. BẢNG 1. Số người đủ 15 tuỏi trở lên có việc làm thường xuyên Đơn vị: Nghìn người Năm Tổng số Nữ Thành thị Nông thôn 1996 34907,6 17350,5 6463,6 28444,0 1997 34716,4 17453,9 6858,9 27857,4 1998 36018,3 18079,9 7222,4 28795,9 1999 35731,1 17716,9 7923,8 27807,2 2000 36205,5 17931,5 8185,9 28019,6 2001 37677,4 18638,9 8718,9 28958,5 2002 39289,6 - 9195,5 30094,1 2003 39585,0 - 9533,6 30051,4 2004 40792,6 19604,0 10140,7 30651,9 Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm 1996 đến 2004.  * Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế: Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có tiến bộ, song còn khó khăn và chậm chạp. Đến nay đại bộ phận lực lượng lao động vẫn tập trung trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Tỷ trọng lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 57,90% năm 2004, và 56,80% (đến 1.7.2005), số liệu tương ứng các năm trong ngành công nghiệp và xây dựng là 17,4% và 17,9%, trong ngành dịch vụ là 24,7% và 25,3% trong tổng số lao động có việc làm của cả nước. (xem bảng 2). Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp cao phản ảnh mức độ thu hút lao động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự đủ mạnh để có thể làm thay đổi một cách căn bản cơ cấu lao động xã hội. BẢNG 2. Cơ cấu lao động có việc làm cả nước theo nhóm ngành kinh tế Đơn vị tính:% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nông-lâm-ngư nghiệp 62,61 62,76 61,14 58,35 57,90 56,80 Công nghiệp-xây dựng 13,10 14,42 15,05 16,96 17,40 17,9 Dịch vụ 24,28 22,82 23,81 24,69 24,70 25,3 Nguồn: Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 98, năm 2005, tr.21, và Báo Lao động, ngày 18-11-2005 Đặc điểm nổi bật nhất trong cơ cấu lao động có việc làm là sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Năm 2005, vùng được coi là có cơ cấu lao động tiến bộ nhất là vùng Đông Nam Bộ (tương ứng với các vùng I, II, III là: 27,8%, 30,9%; 41,3%); vùng có cơ cấu lao động kém phát triển nhất là vùng Tây Bắc với gần 84,87% lao động làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chỉ có 5,23% lao động làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng, và 9,9% làm việc trong ngành dịch vụ. Mặt khác, sự đóng góp của các khu vực kinh tế vào tốc độ tăng GDP trong những năm gần đây có chuyển biến theo chiều hướng tích cực song vẫn có sự chênh lệch lớn, trong đó khu vực I có số lượng lao động nhiều nhất nhưng tỷ lệ đóng góp lại thấp nhất. Năm 2004, lao động trong khu vực I chiếm 57,9% nhưng chỉ đóng góp vào tóc độ tăng GDP 0,7%, trong khi hai khu vực kia đóng góp 6,9%; hoặc nếu xét theo cơ cấu GDP thì năm 2004 khu vực I chỉ đạt 21,76%, trong khi khu vực II đạt 40,09% và khu vực III đạt 38,15%. * Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển biến song chưa phải là lớn. Trong các khu vực thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo nhiều việc làm nhất. Năm 2005, lao động trong khu vực này chiếm 88,8% tổng số việc làm trong nền kinh tế; sau đó là khu vực kinh tế nhà nước chiếm 9,7% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. (xem bảng 3)  BẢNG 3. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế năm 2000-2005 Đơn vị tính:% 2000 2002 2003 2004 2005 Kinh tế nhà nước 9,3 9,5 9,9 10,0 9,7 Kinh tế ngoài nhà nước 90,1 89,4 88,8 88,5 88,8 Khu vực ĐTNN 0,6 1,1 1,3 1,5 1,6 Nguồn: Niên giám thống kê 2004,2005. 1.4. Vấn đề thất nghiệp Nhìn chung, tình trạng việc làm đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp giảm liên tục trên cả nước và ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị là 5,3% (giảm 0,3% so với năm 2004), đặc biệt ở độ tuổi 15-24 tỷ lệ này là 13,4% (giảm 0,5% so với 2004). Trong 8 vùng lãnh thổ thì vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Bên cạnh đó, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn là 80%, tăng 1,6% so với năm 2004). Trong các vùng lãnh thổ, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi ở khu vực thành thị đã giảm xuống ở 5 vùng là: Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, và tăng lên ở các vùng Tây Bắc, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, thì thất nghiệp không chỉ có ở LLLĐ chưa qua đào tạo (chiếm 8%) mà còn có ở các nhóm lao động đã qua đào tạo (tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học là 3,8%). Trong tổng số lao động thất nghiệp ở thành thị, số người chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo chiếm tới 73,7%. Đây cũng là một trong những vấn đề quan trọng cần phải quan tâm giải quyết bởi phần lớn số lao động này là những người còn trẻ tuổi, có sức khỏe, có trình độ học vấn, có tay nghề... Bên cạnh vấn đề thất nghiệp ở thành thị, vấn đề thời gian lao động ở nông thôn chưa được sử dụng vẫn là một vấn đề bức xúc. Nếu xét một cách tương đối thì tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng ở khu vực này là 20,6%, nếu tính theo số tuyệt đối thì nghĩa là sẽ có là gần 7 triệu người thiếu việc làm. 1.5. Vấn đề di cư lao động Thực tế ở nước ta hiện nay do di cư lao động đang là một vấn đề lớn. Di cư từ nông thôn ra thành thị, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác, từ nơi làm việc có thu nhập thấp sang nơi làm việc có thu nhập cao, từ nơi có ít cơ hội việc làm đến có nhiều cơ hội việc làm (như ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị tập trung...). Đây là một quy luật tự nhiên trong quá trình phát triển đến vùng phát triển hơn, từ nông thôn ra thành thị có xu hướng gia tăng, khó kiểm soát. Ước tính năm 2004, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn 80.000 lao động, Hà Nội có hơn 20.000 lao động làm việc thường xuyên đến từ các tỉnh khác. Số liệu thống kê của bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy số lao động di cư ra khỏi vùng lãnh thổ để kiếm việc làm ở nơi khác cao nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ (29,4%), sau đó là Đồng bằng sông Cửu Long (24,1%), thấp nhất là Tây Nguyên (0,7%) và Tây Bắc (0,1%). Trong khi đó khu vực có tỷ lệ người lao động đến tìm việc nhiều nhất là khu vực Đông Nam Bộ (68,5%). Đây là vùng có nhiều cơ hội việc làm và mức sống cũng như mức thu nhập cao hơn các vùng khác. 1.6. Về xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề và tác phong công nghiệp cho người lao động. Một trong những lợi thế về cạnh trạnh xuất khẩu lao động của nước ta là nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng lao động của toàn xã hội. Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã có những bước tiến đáng kể. Số lượng lao động xuất khẩu có thời hạn đã tăng từ 46.112 người năm 2002 lên 75.000 người năm 2003 và giảm xuống còn 67.447 người vào năm 2004. Đến nay, Việt Nam đã có trên 400.000 lao động chủ yếu của Việt Nam là Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào... Hàng năm, số lao động xuất khẩu chuyển về nước khoảng 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên, bên cạnh đó lao động xuất khẩu của ta cũng còn có những hạn chế, đặc biệt là trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, tỷ lệ lao động xuất khẩu được đào tạo nghề còn khá khiêm tốn. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trong tổng số lao động tham gia xuất khẩu lao động năm 2002 là 25%, năm 2003 là 35,5%. Năm 2004, mặc dù có 90% lao động xuất khẩu được đào tạo, nhưng chỉ có gần 50% trong số đó được đào tạo nghề trước khi đi, còn trên 40% được đào tạo nghề trực tiếp tại nơi làm việc. Đây là một trong những bất cập của công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động, nhất là lao động xuất khẩu của nước ta. 2. Thực trạng lao động ở nước ta hiện nay 2.1 Lực lượng lao động: Theo điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm 7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ 50% lực lượng lao động và điều đó cũng cho thấy được tiềm năng về lao động ở nước ta là dồi dào. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng lao động thừa mà thiếu đang diễn ra, đây là một khó khăn lớn cần giải quyết: Theo dự báo của các chuyên gia lao động, năm 2007, thị trường trong nước tiếp tục khan hiếm lao động cấp cao; lao động bậc trung và phổ thông tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) cũng thiếu, cụ thể như sau: Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, trong năm 2007, 15 KCN, KCX của Thành phố cần tuyển 51.750 lao động, trong đó 38.295 lao động phổ thông. Còn tại Bình Dương, theo bà Nguyễn Hoài Nam, Trưởng phòng Quản lý lao động các KCN Bình Dương, trong năm 2007, nhu cầu tuyển dụng lao động tại các KCN là 20.000 người. Trong đó, lao động phổ thông chiếm 85%, số còn lại tập trung vào lao động có tay nghề trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học. Phản ánh từ các trung tâm giới thiệu việc làm (GTVL) ở TP.HCM cho thấy, quý I/2007, nhu cầu tuyển dụng lao động, nhất là lao động phổ thông tăng vọt, nhưng số ứng viên đến đăng ký tìm việc làm lại giảm. Sự khan hiếm lao động này gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhưng đó lại là tín hiệu tốt, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt để thu hút và giữ chân người lao động, thì họ buộc phải tăng cường cải thiện đời sống và sinh hoạt cho người lao động. Từ đó, người lao động có thể yên tâm làm việc lâu dài, với mức thu nhập có thể trang trải được cuộc sống tốt hơn. Dịch chuyển lao động ở các KCX, KCN tại TP.HCM đã và đang ngày càng rõ nét, tạo ra những nguy cơ về thiếu hụt lao động khi cân đối lại các ngành nghề. Theo phân tích của Ban Quản lý các KCX-KCN TP.HCM (HEPZA), những năm tới, nhu cầu lao động sẽ thay đổi theo từng ngành nghề, theo hướng giảm dần các ngành thâm dụng lao động trình độ thấp, ưu tiên các ngành sản xuất công nghệ cao sử dụng nhiều công nhân lành nghề, lao động kỹ thuật bậc cao. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm GTVL TP.HCM cho biết, qua khảo sát 2.300 doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các nhóm ngành: kỹ thuật - công nghệ phục vụ sản xuất, điện tử - viễn thông, cơ khí chính xác, công nghệ - thông tin, chế biến thực phẩm cần 30% lao động lành nghề; các nhóm ngành quản trị kinh doanh, tiếp thị, quảng cáo, kế toán, ngân hàng, dịch vụ du lịch cần 30%; 40% còn lại tập trung vào công nhân có tay nghề, lao động phổ thông các ngành may, giày da, chế biến thực phẩm. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu doanh nghiệp quan tâm đến mức lương và đời sống của người lao động hơn sẽ góp phần hạn chế người lao động bỏ việc. Theo nhận định của ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), đối với nhân lực cao cấp, các doanh nghiệp phải thực sự nhập cuộc, bởi cuộc chiến giành nhân tài giữa các doanh nghiệp càng trở nên khốc liệt. Vì vậy, để tránh áp lực thiếu hụt, mất cân đối về lao động, các doanh nghiệp phải có lộ trình cho kế hoạch đào tạo, phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh theo từng thời điểm; xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa để đem lại sự phát triển bền vững. 2.2 Phân bổ lực lượng lao động: Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị chiếm 24,6%, lao động ở khu vực nông thôn 75,5%. Phân bổ lao động hiện nay cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ trọng ngành nông nghiệp xấp xỉ 21,6% GDP nhưng lực lượng lao động lớn, điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp thấp và càng tạo sức ép về giải quyết việc làm ở khu vực này. Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chưa thu hút lao động. Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng hạn: 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có thể phát triển và sản xuất những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp, cây ăn quả…) nhưng lao động ở 2 lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt lượng, về mặt chất lại còn là vấn đề bức xúc hơn). Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn lớn thiếu nguồn nhân lực có trình độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của vùng. 2.3 Chất lượng lao động: Nhìn vào số liệu về phân bổ lực lượng lao động giữa các khu vực cũng đã phần nào nói lên chất lượng lao động ở nước ta. Phần lớn lao động ở khu vực nông thôn chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ văn hóa thấp. Vì trên thực tế hiện nay yêu cầu lao động ở đây cũng chủ yếu là lao động phổ thông là chính, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao ở khu vực này chưa phát triển. Hiện nay lực lượng đã qua đào tạo (tính lao động được đào tạo từ 3 tháng trở lên) trong cả nước chiếm 25%, lao động từ bậc tiểu học trở xuống chiếm 42,5%, lao động mù chữ 5%. Trình độ đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng. Vì vậy, nhu cầu lao động có chất lượng cao (tức lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong lao động công nghiệp, có ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng. Mặt khác, từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh kinh tế thế giới thì vấn đề chất lượng lao động ở nước ta trở thành một vấn đề bức xúc của nền kinh tế và là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lao động thiếu việc làm hiện nay. Chúng ta vẫn thường nói: lao động ở nước ta còn dư thừa, điều ấy là đúng nhưng chưa đủ, ta chỉ dư thừa lao động phổ thông (lao động không có tay nghề) nhưng lại rất thiếu những lao động có trình độ chuyên nghiệp, tay nghề giỏi, thiếu những lao động nghiên cứu khoa học để ứng dụng thành tựu đó là phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. 2.4 Tác động của WTO đối với việc làm tại Việt Nam Tác động của gia nhập WTO đối với việc tạo thêm việc làm thể hiện ở 3 khu vực: Thứ nhất là khu vực đầu tư nước ngoài dưới tác động của các điều khoản về đầu tư; thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là những ngành sử dụng nhiều lao động, dưới tác động của các điều khoản về thương mại; thứ ba là tại các khu vực tuy không – giao thương quốc tế trực tiếp nhưng do việc gia tăng giao thương quốc tế có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hóa – dịch vụ mà có tác dụng tăng nhu cầu lao động, tức là tạo thêm việc làm. Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, do hiện nay nước ta đã có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tạo điều kiện thông thoáng, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện và nước ta đã ký được nhiều Hiệp định thương mại song phương, đặc biệt là với Hoa Kỳ, nên đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tăng tương đối đều đặn trong những năm qua. Bởi vậy, dự báo sự thay đổi về đầu tư nước ngoài trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO có thể không lớn nên việc làm mới được tạo ra trong khu vực này có thể tăng từ 2 – 8% nâng tổng số việc làm được tạo nên hàng năm lên khoảng 3 – 4%. Ngoài số việc làm được tạo ra trực tiếp từ vốn FDI, phải kể đến cả số việc làm tăng lên gián tiếp từ đầu tư nước ngoài, ví dụ như những cơ sở cung cấp, những nhà thầu phụ, những nhà cung cấp dịch vụ…. Sự gia tăng việc làm mới có thể rõ hơn trong những ngành nghề làm hàng xuất khẩu; trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thủy sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt điều cao su, cây ăn quả… Ngoài hai khu vực nói trên, việc làm mới cũng sẽ được tạo ra ở những khu vực khác. Việc gia tăng giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế sẽ làm thu nhập của người dân tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước tăng. Những yếu tố này sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích cầu hàng hóa và dịch vụ tại thị trường trong nước. Ngoài tác động tích cực, đối với tạo việc làm mới, việc gia nhập WTO cũng buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Việc gia nhập WTO cũng đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế; việc gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hóa. Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân bổ và sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh tế chuyển đổi và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH. 3. Những vấn đề đặt ra về lao động, việc làm và hướng giải quyết * Sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động trên các mặt sau đây: - Về chất lượng đội ngũ lao động: Do yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi lao động chất lượng cao ngày càng lớn. Nhưng trên thực tế đội ngũ lao động của chúng ta đang hụt hẫng trước yêu cầu đó. Chúng ta vừa thiếu cả thầy và thiếu cả thợ, khác một số ý kiến cho rằng Việt Nam “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta “thiếu thầy” tức là thiếu đội ngũ cán bộ quản lý và các chuyên gia giỏi để vận hành nền kinh tế có hiệu quả; “thiếu thợ” là thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược giải quyết việc làm ở nước ta. Nó vừa là điều kiện là tiền đề để giảm thất nghiệp và cải thiện đời sống cho người lao động. - Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đang có sự mất cân đối lớn xét theo ngành, vùng kinh tế. Điều đó nó được thể hiện sự phân bổ lao động bất hợp lý giữa các ngành, vùng kinh tế, đẩy đến tình trạng một số ngành và vùng kinh tế có lao động dôi dư, tỷ lệ lao động thất nghiệp cao. Hiện tượng lao động ở các khu vực nông thôn ra tìm việc làm ở thành thị đã minh chứng cho điều đó. Ngược lại một số ngành (ngành có kỹ thuật cao) thiếu lao động buộc chúng ta thuê lao động nước ngoài. Để sử dụng lao động có hiệu quả thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động là yêu cầu quan trọng trong chính sách lao động – việc làm hiện nay. - Về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực: Cơ cấu đào tạo ảnh hưởng trực tiếp cơ cấu lao động theo trình độ, nghề nghiệp chuyên môn. Thực tế trong thời gian qua chúng ta thường chú ý đến đào tạo những ngành nghề có chi phí đào tạo thấp (ít thí nghiệm, ít thực hành…) như các ngành kinh tế, luật (chiếm 43% số sinh viên đào tạo), còn các ngành khoa học kỹ thuật chỉ chiếm 25,5%. Điều này chưa tương thích với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tình trạng đó làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao động ở bậc đại học xấp xỉ tới 4%, nhiều cử nhân kinh tế, luật phải làm việc không theo đúng ngành nghề được đào tạo…. * Thị trường lao động ở nước ta chưa phát triển (đặc biệt là khu vực nông thôn); cung cầu về lao động chưa được giải quyết qua thị trường. Điều đó cũng là ách tắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm bởi nguồn nhân lực và khả năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để thực hiện. Vì vậy, phát triển thị trường lao động để lực lượng lao động được xã hội hóa đặc biệt là lao động có trình độ cao, để đảm bảo sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả và giải quyết được những mâu thuẫn giữa lao động và việc làm. * Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm ở nước ta trong những năm qua theo hướng tập trung giải quyết việc làm cho lực lượng lao động chưa qua đào tạo, vì vậy tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động (giày da, dệt may, chế biến thủy sản….). Đây không phải là những ngành có lợi thế trong cạnh tranh, cũng không phải là những ngành nền tảng hoặc ngành tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam. Bởi ngành dệt may, giày da ở nước ta hiện nay 80% nguyên liệu để sản xuất là nhập ngoại. Vì vậy, nếu chiến lược phát triển lao động, việc làm vẫn theo đuổi hướng đó sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ, tụt hậu hơn. Do đó, hướng giải quyết việc làm trong giai đoạn tiếp theo cần thu hút lực lượng lao động vào các ngành có lợi thế cạnh tranh (những ngành đưa lại hiệu quả kinh tế cao) những ngành nền tảng và những ngành tiềm năng của nền kinh tế. Phát triển một số ngành khác sử dụng nhiều lao động phổ thông nên gắn với những ngành sử dụng nguyên liệu sản xuất ra từ trong nước (các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, hàng nông sản phẩm….). Điều đó, một mặt nó sẽ giải quyết lao động tại chỗ, mặt khác thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển bền vững và đưa lại lợi ích cho quốc gia nhiều hơn. * Lao động dôi ra từ việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua cũng là một trong những nhân tố tác động lớn đến lao động – việc làm của nền kinh tế. Hiện nay có khoảng hơn 10 vạn lao động dôi dư khi thực hiện việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung lực lượng lao động này khả năng phát triển rất hạn chế, tuy nhiên họ vẫn nằm trong lực lượng lao động của quốc gia. Hướng giải quyết lực lượng lao động đó là việc khuyến khích phát triển nhiều thành phần kinh tế để họ có thể tự nguyện tham gia lao động phù hợp với khả năng của họ (tức là hướng giải quyết chủ yếu để họ tự tìm và tạo việc làm). Từ bức tranh lao động – việc làm ở nước ta hướng giải quyết cơ bản cần tập trung vào những vấn đề sau: - Đào tạo nguồn nhân lực: Đây là bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng cho việc giải quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào tạo, cơ cấu đào tạo và gắn nó với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đào tạo phải hướng tới mục tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp (lao động có kỹ thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu đó là một quá trình lâu dài và có lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn nhất định, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn. - Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để đa dạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động có chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động có ý thức nâng cao trình độ. Đây là một trong những yếu tố tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối với lao động và việc làm. - Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao động được xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động trên thị trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho người lao động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những năm tới hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm ở nước ta mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động. Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực giữa nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết tháo gỡ các khó khăn. 5. Những khó khăn của doanh nghiệp về tuyển dụng lao động - Các doanh nghiệp Việt Nam chọn nhân sự quản lý với những đòi hỏi cao không kém công ty nước ngoài nhưng mức lương và đãi ngộ thì chưa bằng. Đó là lý do đầu tiên làm cho các công ty Việt Nam, đặc biệt là những công ty vừa và nhỏ, khó thắng cuộc đua tuyển dụng quản lý. Nhìn chung, mặt bằng lương quản lý ở các công ty này thấp hơn các công ty nước ngoài khoảng 30 - 50%. Đây thật sự là một khoảng cách đủ để chuyển hướng quan tâm của các ứng viên khi chọn nơi làm việc, và trong cuộc cạnh tranh về nhân sự cao cấp hiện nay, phần thắng đang nghiêng về các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với chính sách lương bổng và phúc lợi cao hơn các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ điển hình như: Theo ông Trương Chí Dũng - Cty IT Solution, cho biết các doanh nghiệp phần mềm quy mô nhỏ đang là " bãi đáp tạm" của sinh viên ngành công nghệ thông tin mới ra trường. Từ đó họ trưởng thành và sẽ rời bỏ cái nôi ban đầu này để đi đến với các "đại gia". Thậm chí, việc này trở thành lộ trình thăng tiến rất bài bản. - Các doanh nghiệp không đi tìm những người lao động chung chung, mà đi tìm những người lao động với trình độ ngành nghề và kỹ năng làm việc sáng tạo, hiệu quả. Đây là khó khăn lớn nhất khiến cả cộng đồng doanh nghiệp lên tiếng hiện nay là các doanh nghiệp không thể tuyển được người giỏi, không thể tuyển được lao động có chất xám vì... không có để mà tuyển. Ví dụ như nhiều doanh nghiệp hiện nay đã đưa ra mức lương sau thuế từ 1.500 USD/ tháng trở lên, thậm chí đạt đến mức 5.000 - 10.000 USD/tháng cùng hàng loạt ưu đãi, phúc lợi để chiêu dụ nhân tài với những vị trí như trưởng phòng kế hoạch, trưởng phòng thí nghiệm, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng kỹ thuật... song cũng chưa hẳn tìm được người. Thị trường lao động đang khan hiếm tất cả các loại giám đốc, chuyên gia trên mọi lĩnh vực. Thậm chí, những người giỏi nhất về marketing trên thị trường hiện nay chỉ "đếm được trên đầu ngón tay". Với những vị trí cao cấp như vậy, nhiều Cty phải giành giật nhau để có được người tốt nhất. KẾT LUẬN Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá đối với một quốc gia nói chung và đối với từng doanh nghiệp nói riêng, nhất là trong gia đoạn hội nhập với khu vực và quốc tế như hiện nay và áp lực về sức cạnh tranh đối với từng doanh nghiệp ngày càng gay gắt và họ luôn tìm cách để săn tìm những con người có trình độ chuyên môn giỏi về mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Ở nước hiện nay đang sở hữu nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào, lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm 7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ 50% và chất lượng của nguồn lao động về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ lao động được đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên 21% năm 2003, 22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Đây là lợi thế của nước ta và đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn cung lao động trẻ dồi dào đó chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn đó là chất lượng lao động, sự phân bố lao động bất hợp lý giữa thành thị và nông thôn. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu của doanh nghiệp không còn là lao động đơn giản mà là lao động có trình độ chuyên môn đã qua đào tạo. Do đó với nguồn lao động ở nước ta hiện nay so với yêu cầu là chưa đáp ứng đủ về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn đã qua đào tạo, đặc biệt là nguồn nhân lực có chuyên môn giỏi. Như vậy giải pháp nào để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hiện nay khi mà với sự phát triển của khoa học công nghệ và nhất là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin? * Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lục Trước mắt, Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để khuyến khích cho kiến thức, chất xám của thế giới vào Việt Nam càng nhiều càng tốt. Trải "thảm đỏ" để đón chất xám của thế giới vào Việt Nam qua các kênh như: tư vấn, giảng dạy, làm việc... Có nhiều ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ chất xám đến làm việc tại Việt Nam như ưu đãi về thuế, về nơi ăn, chốn ở... Cho phép thành lập các học viện, trường đại học, các viện nghiên cứu để đón kiến thức, kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang có hàng triệu Việt kiều, trong đó lượng chất xám rất cao. Do đó, nhà nước phải có chính sách kêu gọi, " trải thảm đỏ" đón tri thức Việt kiều chân chính về nước. Hiện nay ở nước ta rất ít trường, trung tâm thực sự có chất lượng trong lĩnh vực đào tạo nguồn lao động cao cấp. Ngay cả công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cũng không được đào tạo có nền tảng mà chỉ được góp nhặt, chắp vá từ những lao động phổ thông được chủ doanh nghiệp cho đi bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ. Trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề mọc lên khắp nơi nhưng chương trình đào tạo không đáp ứng được mặt bằng kỹ thuật hiện tại, không theo kịp tiến độ phát triển công nghệ cao của thế giới. Do đó Nhà nước phải hỗ trợ kinh phí đầu tư cho nguồn lao động cao cấp này, tạo điều kiện để đưa ra nước ngoài đào tạo nếu cần thiết. Trước tình trạng khan hiếm lao động chất xám, để tự cứu mình, các doanh nghiệp cần thiết lập mối quan hệ với các trường đại học, cao đẳng... để tham gia ý kiến về nội dung, phương pháp đào tạo, kết hợp dạy lý thuyết và thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Ví dụ tại Dệt Phong Phú, điều mà công ty này chú trọng là sinh viên ra trường về công ty làm việc phải có kế hoạch đào tạo, huấn luyện tiếp từ 1 - 2 năm. Trưởng phòng, giám đốc nhà máy, nơi có sinh viên mới về phải có chương trình huấn luyện và phân công người trực tiếp phụ trách. Bên cạnh đó, lãnh đạo công ty ra điều kiện, sau khi tuyển dụng kỹ lưỡng, sinh viên phải được đào tạo sâu hơn, toàn diện hơn, để thành cán bộ quản trị giỏi. Tóm lại để thích ứng được với sự phát triển của nền kinh tế đang biến đổi hàng ngày như hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thì cần có sự phối hợp chặt chẽ từ phía nhà nước, doanh nghiệp, hệ thống đào tạo và bản thân người lao động. Mục lục Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnang cao chat luong nguon nhan luc KTVM 1.doc
Tài liệu liên quan