Những năm gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều tiến bộ trong công tác chỉ đạo, điều hành bảo đamr thực hiện có chất lượng các chương trình xoá đói giảm nghèo. Cơ chế tự chủ về phân bổ ngân sách, tổ chức thực hiện và quản lý các chương trình trên cơ sở nhu cầu thực tiễn, lập kế hoạch và huy động nguồn lực trên địa bàn đã tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động, tự giải quyết và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của chương trình. Song trên thực tế, việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và ra quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện để phát huy tính năng động, chủ động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng để nâng cao hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo.
Hai yếu tố quan trọng nhất để giảm nghèolà, Nhà nước tạo động lực giảm nghèo thông qua các chính sách phát triển kinh tế-xã hội và ý chí vượt nghèo của người nghèo. Các chương trình giảm nghèo và phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo buớc đầu được nhân dân trong cộng đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân từng bước nhận thức được trách nhiệm của mình trong viẹc tham gia các chương trình giảm nghèo. Phương trâm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt động của chương trình giảm nghèo ở địa phương.
16 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần i: LờI Mở ĐầU
ở nước ta, đói nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế xã hội bức xúc. Xoá đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn được đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Chủ trương này được hình thành ngay từ những ngày đầu khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đói nghèo cũng là một loại giặc giống như giặc đói, giặc dốt, như mong muốn của Bác Hồ: “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá, người khá, giàu thì giàu thêm.” Điều này không những đáp ứng được nhu cầu, nguyệnh vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam mà còn phù hợp với xu hướng chung của thời đại, phù hợp với các mục tiêu phát triển thiên niên kỉ mà Liên hợp quốc đã đề ra.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này nên em đã chọn đề tài: “vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay.” Song do trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự giúp đỡ của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Phần ii: NộI DUNG
CHƯƠNG I: Sự CầN THIết KHáCH QUAN CủA VIệC XOá đói, giảm nghèo
i. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực xác định hộ đói nghèo ở Việt Nam
1. Khái niệm hộ đói nghèo ở Việt Nam:
ở nước ta, khi nghiên cứu về đòi nghèo ngươi ta thường chia thành hai khái niệm sau:
a, Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Để hiểu rõ hơn người ta còn chia nghèo thành hai loại:
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Mức nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu và nó gồm 8 yếu tố và được chia ra làm: nhu cầu thiết yếu (ăn, ở, mặc) và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày (văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại)
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. Vì vậy nó chỉ mang tính chất tương đối , phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và vị thế của mỗi quốc gia, từng địa phương trong từng thời kì.
b, Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống. Như vậy, một hộ dân cư được đánh giá là đói khi họ thiếu ăn từ 1 đến 2 tháng và thường vay nợ của cộng đồng, nợ đóng thuế không có khả năng chi trả.
2. Nguyên nhân của tình trạng đói nghèo ở nướcta :
a, Điều kiện lịch sử và tự nhiên:
Do hậu quả nặng nề của các cuộc đấu tranh lâu dài diễn ra ở nước ta. Mặt khác nước ta có địa hình phức tạp, nhiều núi đá, điều kiện thời tiết, khí hậu không thuận lợi, thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt lam cho năng suất thấp hoặc mất mùa xảy ra.
b, Điều kiện kinh tế xã hội:
- Nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu mà nông thôn chỉ sản xuất thuần nông, độc canh cây lúa, tự cung tự cấp.
- Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, phong tục tập quán nhiều nơi còn lạc hậu, tình trạng dân cư mù chữ còn nhiều.
- Tỉ lệ tăng dân số còn cao, gia đình đông con nhưng lao động không đáng kể
- Thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, kinh nghiệm tổ chức quản lí còn yếu.
- Cơ sở hạ tầng còn thấp kém, chưa có sự đầu tư thích đáng.
3. Chuẩn mực xác định hộ đói nghèo của nước ta:
Trong cuộc họp ngày 2/11/2000 Bộ LĐTB-XH đã ra quyết định 1143/QĐ-LĐTBXH về điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005. Theo quyết định này thì chuẩn mực mới trong giai đoạn 2001-2005 như sau:
- Dưới 80.000đ/người/tháng đối với khu vực nông thôn miền núi xa xôi hải đảo.
- Dưới 100.000đ/người/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng trung du.
- Dưới 150.000đ/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Còn chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 được thủ tướng chính phủ ban hành trong quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 là:
- Dưới 250.000đ/người/tháng đối với khu vực thành thị.
- Dưới 150.000đ/người/tháng đối với khu vực nông thôn.
II. Sự cần thiết khách quan của việc xoá đói giảm nghèo:
1. Xoá đói giảm, giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững.
Xoá đói, giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự đói, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh công bằng dân chủ văn minh.
Xoá đói, giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn cất cánh.
Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
2. Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng người nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ dược từ thành quả tăng trưởng.
Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao ma Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
3. Xoá đói giảm nghèo đươc đặt thành một bộ phận của chiến lược 10 năm , 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế xã hội từ TW tới cơ sở.
4. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phảI tự vươn lên để thoát nghèo.
Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xoá đói giảm nghèo. Hiệu quả của xoá đói giảm nghèo, nếu bản thân người nghềo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn.
Xoá đói giảm nghèo phảI được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, bởi vì sự nỗ lực vươn lên để thoát ngheò chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước .
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự trợ giúp về vật chất trực tiếp thì tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
CHƯƠNG II: THựC TRạNG và giảI pháp cho CÔNG CUộC XOá Đói giảm nghèo ở nước ta.
I . những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua:
1. Thành tựu:
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn nước ta, công cuộc xoá đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng.
Gắn tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo: từ năm 2001 đến năm 2005, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Nhờ tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế cao (bình quân 5 năm đạt 7,5%), tăng dần qua các năm và trong tất cả các nhóm ngành kinh tế cơ bản nên tốc độ giảm nghèo trong giai đoạn 2001-2005 là khá nhanh. theo kết quả các đợt điều tra mức sống dân cư toàn quốc, theo tiêu chuẩn quốc tế , nếu năm 1998 tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam vẫn còn ở mức 37% và năm 2000 giảm còn 32%, thì năm 2002 còn 28,9% và năm 2004 còn 24,1%. Như vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trong những năm vừa qua.
Tính theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ nghèo chung cả nước trong 5 năm 2001-2005 đã giảm được hơn một nửa. Nếu so với mục tiêu giảm 20% đã được ghi trong văn bản Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo cho giai đoạn 2001-2005, thì chúng ta đã đạt được kết quả hơn gấp đôi. Đó là một thành tựu lớn. Vùng giảm nghèo đói mạnh nhất là Đông Nam Bộ, từ 8, 88% xuống 1, 7%, tức là giảm tới 5,2 lần; các vùng còn lại giảm tương đối đồng đều từ 50% đến 60%. Vùng còn có tỷ lệ nghèo trên 10% là Tây Bắc (12%), Tây Nguyên (11%) và Bắc Trung Bộ (10, 5%).
Song, để nhìn rõ hơn những thành tựu đã đạt được của giai đoạn 2001-2005, nhất là trong việc phát huy những ưu điểm, cách làm tốt phục vụ cho sự phát triển những năm tới chung ta cũng cần tính toán trên cơ sở chuẩn mới được áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. Theo đó, cả nước có khoảng 3, 9 triệu hộ nghèo, nghĩa là tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới tính bình quân cả nước cao hơn tỷ lệ nghèo tính theo chuẩn cũ khoảng 15%. Bức tranh tổng quát về tỷ lệ nghèo theo vùng, theo chuẩn nghèo mới như sau: bình quân cả nước – 22%; vùng Tây Bắc – 42%; Đông Bắc – 33%; đồng bằng sông Hồng – 14%; Bắc Trung Bộ – 35%; duyên hảI Nam Trung Bộ – 23%; Tây Nguyên – 38%; Đông Nam Bộ – 9%; và vùng đồng bằng sông Cửu Long – 18%.
Giảm diện nghèo về lương thực, thực phẩm: tình trạng nghèo về lương thực, thực phẩm đã được cải thiện rất đáng kể trong thời gian vừa qua. Số liẹu của các cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm đã giảm từ 35,6% (giai đoạn 1998-1999) xuống còn 11,9% (giai đoạn 2002-2003). Đây là thành tựu rất quan trọng đối với bộ phận nghèo trong xã hội hiện nay, vì chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm luôn là mốc đầu tiên nói lên ranh giới giữa đói và nghèo, chứng tỏ chúng ta đã giảm được cơ bản tình trạng đói.
Tăng thu nhập và chi tiêu của dân cư: thành tựu xoá đói giảm nghèo còn thể hiện qua sự gia tăng thu nhập của các hộ gia đình và tăng chi tiêu cho sinh hoạt của các hộ theo khu vực, vùng, nhóm. Tuy nhiên, vấn đề nổi lên là sự chênh lệch giưũa các khu vực, nhóm, và vùng: năm 2001-2002, chi tiêu trung bình ở thành thị cao gấp 2, 2 lần so với khu vực nông thôn.
2. Nguyên nhân của những thành tựu xoá đói giảm nghèo:
a, Nguyên nhân cơ bản tạo ra thành tựu giảm nghèo đói của Việt Nam trong những năm qua là nhờ đổi mới cơ chế, chính sách, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Khắc phục lối tư duy cứng nhắc, kìm hãm tính sáng tạo của các tổ chức kinh tế và người dân; khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng trên cơ sở giải phóng sức mạnh sản xuất, huy động mọi nguồn lực hiện có cùng với sự hỗ trợ đúng trọng tâm, trọng điểm của Nhà nước đã tạo ra tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Đường lối đổi mới đã mở ra những cơ hội thuận lợi cho các tổ chức, cộng đồng, cá nhân trong đó có người nghèo, cộng đồng nghèo được tham gia trực tiếp vào quá trình tăng trưởng kinh tế chung và cùng hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế. Chủ trương tạo điều kiện cho người nghèo vuơn lên được thể chế hoá trong Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo, theo đó các chương trình, dự án, các cơ chế chính sách, biện pháp đã được đề ra và tổ chức thực hiện từ TW đến địa phương theo hướng tạo điều kiện tối đa cho người nghèo, cộng đồng nghèo tham gia vào quá trình triển khai thực hiện chính sách.
b, Xác định đúng đối tượng nghèo đói và nguyên nhân cụ thể dẫn đến đói nghèo của từng nhóm dân cư để triển khai chính sách hỗ trợ phù hợp. Chẳng hạn, đối với nhóm hộ nghèo do không biết cách làm ăn thì phải vừa cho vay vốn, vừa phải hướng dẫn sản xuất, hướng dẫn chi tiêu; nghèo do thiếu các tư liệu sản xuất thì triển khai các chính sách hỗ trợ vốn để mua sắm các tư liệu sản xuất; còn nhóm hộ đói nghèo do các nguyên nhân thiên tai, dịch bênh, ốm đau thì phải có chính sách hỗ trợ đặc biệt hơn, Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy cùng với hỗ trợ về vật chất , cần triển khai các biện pháp động viên, khích lệ người nghèo tự lực vươn lên, sử dụng vai trò của tập thể và cộng đồng để giúp họ thì kết quả xoá đói giảm nghèo sẽ cao hơn, bền vững hơn.
c, Huy động sự tham gia của các cấp, các ngành vào công tác xoá đói giảm nghèo đói ở từng địa phương. Thực tế cho thấy vấn đề đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo được xem là mối quan tâm không phải của riêng người nghèo, mà là của toàn xã hội. Đảng, Nhà nước cần phải huy động sự tham gia của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội, chính trị – xã hội và người dân, trong đó có cả bản thân người nghèo. Việc nhận thức được đúng nhiệm vụ giảm đói nghèo là của toàn xã hội và giải quyết nó bằng sự tham gia rộng rãi, đa dạng của toàn xã hội quan tâm có thể coi là nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của công tác giảm nghèo đói những năm vừa qua.
d, Triển khai nhiều biện pháp khác nhau để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo. Cụ thể là, trong giai đoạn 1993 đến nay Chính phủ đã từng bước triển khai các chương trình hỗ trợ tạo việc làm (quyết định số 120 của Chính phủ); chương trình hỗ trợ người nghèo, dân tộc thiểu số sản xuất (quyết định số 133 của Thủ tướng Chính phủ); chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (quyết định số 327 của Thủ tướng Chính phủ), đến năm 2000 chuyển thành chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (quyết định số 666 của Thủ tướng Chính phủ); chương trình xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm trong 4 năm 1998-2002 (quyết định số 143 của Thủ tướng Chính phủ); chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng cơ bản cho các xã nghèo (quyết định số 135 của Thủ tướng Chính phủ) và nhiều chương trình khác. Tại nhiều địa phương các chương trình, dự án đã được lồng ghép nhằm nâng cao đời sống của người nghèo, giảm mức độ chênh lệch về chất lượng cuộc sống giữa các nhóm, vùng, khu vực như chương trình nước sạch nông thôn, môi trường
e, Đã tranh thủ được các nguồn lực nước ngoài cả về mặt vật chất, vốn, kĩ thuật và kinh nghiệm. Công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian qua đã cố được sự giúp đỡ to lớn của cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã phát huy tốt chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá, Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy đối với tất cả các nước trên thế giới vì hoà bình, ổn định và tiến bộ. Nhờ đó sự giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đã đem lại hiệu quả một cách thiết thực nhất.
II. NHữNG KHó KHĂN Và THáCH THứC TRONG CÔNG CUộC XOá Đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay:
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, công cuộc xoá đói giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn còn không ít khó khăn và thách thức:
1. Về nhận thức, một bộ phận không nhỏ người nghèo và địa phương nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ nại,trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa chủ động ượt lên để thoát nghèo.
2. Sự đánh giá tỷ lệ nghèo còn thấp hơn so với thực tế ở một vài địa phương, nên một bộ phận người thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các chương trình xoá đói giảm nghèo.
3. Nguồn lực huy động cho chương trình xoá đói giảm nghèo còn khiêm tốn. Hàng năm ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho chương trình xoá đói giảm nghèo mới chỉ được bình quân khoảng 60.000đ/người. Trong khi đó, một số địa phương chưa chủ động huy động hoặc huy động chưa tương xứng với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài hoà các loại nguồn lực trên cùng địa bàn và chưa huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cộng đồng và các cá nhân có điều kiện vào công cuộc xoá đói giảm nghèo. Vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu cần hỗ trợ của người nghèo để đủ điều kiện thoát nghèo bển vững, dẫn đến mục tiêu thoát nghèo khó thực hiện được.
4. Một số cơ chế, chính sách hỗ trợ xoá đói giảm nghèo chưa thật phù hợp, việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, không tạo nên được động lực để người nghèo chủ động vượt nghèo. Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp với nhu cầu và tập quán của từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương chưa chú ý đầy đủ đến quy hoạch sản xuất lâu dài và môi trường sống của nhân dân trong khi xây dựng các khu dân cư vượt lũ; mức chi phí cho khán chữa bệnh còn thấp, chính sách trợ cước, trợ giá cũng còn bất hợp lí; mức vốn vay tín dụng ưu đãi còn thấp và chưa thật phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh; cơ chế phân bổ vốn còn mang tính bình quân , v.v.. ở một số nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu, thông tin đến với người dân chưa đầy đủ nên nhận thức về các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo còn hạn chế. Những khiếm khuyết nói trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo bị giảm bớt một phần.
5. Việc tổ chức tực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo không đồng đều ở một số địa phương . Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực. Phần lớn cán bộ thực thi ở cấp xã đều đều kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên.
Việc theo dõi, giám sát chương trình chưa có hệ thống và đồng bộ. Công tác sơ kết và tổng kết, đánh giá chương trình chủ yếu dựa trên báo cáo với lượng thông tin chưa thật đầy đủ.
Do nhiều yếu tố tác động khách quan trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tình trạng đói nghèo hiện nay đang vận động theo hướng:
- Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 – 0,7 trong những năm 1992-1998, giảm xuống còn khoảng 1 – 0,3 giai đoạn 1998-2004. Tốc độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở những vùng bị chia cắt về địa lý, kết cấu hạ tầng và mặt bằng dân trí còn thấp. Một số chính sách và giải pháp động lực cho xoá đói giảm nghèo đã bộc lộ những hạn chế, không còn tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu, như các chính sách về đất đai, về giao đất, giao rừng , Vì vậy, cần phải có động lực mới cho tương lai, đó là chính sách phát triển và chuyển giao công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản xuất trên một diện tích gieo trồng, chính sách chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, chuyên canh phục vụ xuất khẩu và cung cấp nguyên liệu cho các ngành chế biến (bông, cà phê, cao su, hạt điều, chè, mía, gỗ ,); chính sách phát triển kinh tế trang trại, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa chăn nuôi đại gia súc có hiệu quả kinh tế cao thành ngành sản xuất chính , v.v..
- Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao gấp từ 1, 7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hoá và nhómlao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao độnh sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
- Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nghèo có xu hướng gia tăng: Trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4, 3 lần năm 1993 lên 8, 14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004. Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn.
Mặc dù trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã giảm mạnh, song trên thực tế công cuộc xoá đói giảm nghèo còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; do đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều, cơ hội việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình độ của người lao động ngày càng cao. Đói nghèo trở lại là vấn đề luôn rình rập một bộ phận khá lớn số hộ
nghèo vừa vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh, đau ốm hoặc biến động giá cả, thì các hộ này dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.
III. PHƯƠNG HƯớng và giảI pháp để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới:
1. Các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn 2006-2010:
- Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1, 45 lần so với năm 2005.
- Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu.
- 6 triệu hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi.
- 4, 2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư.
- 1, 5 triệu người được miễn giảm phí học nghề.
- 15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm.
- 19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, tiền xây dựng trường.
- 500.000 hộ nghèo được hỗ trợ xoá nhà tạm.
2. Các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra:
Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 22% năm 2005 xuống còn 11% năm 2010, cải thiện đời sống người nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
a, Dựa trên sự tăng trưởng kinh tế , tạo việc làm để nâng cao đời sống cho người nghèo.
Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững là điều kiện tiên quyết để giảm nghèo. Kinh nghiệm ở một số nước và thực tế ở nước ta cho thấy trong gần một thập kỉ vừa qua, nước ta đạt được thành tựu tích cực về giảm nghèo là dựa trên sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Để đảm bảo cho kinh té tăng trưởng nhanh và ổn định, vấn đề cải cách cơ cấu kinh tế và bộ máy quản lí nhà nước đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết trên tất cả các mặt chủ yếu như thể chế kinh tế, thúc đẩy thị trường phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện môi trường đầu tư cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, xoá bỏ bao cấp, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách hành chính và các hoạt động phục vụ đầu tư, sản xuất kinh doanh, v.v..
Phát triển kinh tế, xã hội đồng bộ từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng thuận lợi đến vùng sâu, vùng xa. Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hoá, đổi mới cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp. Có được như vậy, mới tạo thêm được nhiều việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Việc giảm tỷ lệ nghèo đói nghiêm trọng ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đòi hỏi có sự đầu tư mạnh mẽ, liên tục của nhà nước và sự chủ động vượt lên của chính địa phương và người nghèo ở những nơi này.
b, Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng , phát triển các loại hinh dịch vụ giáo dục, y tế, văn hoá và bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống điện, trường học, cơ sở khám chữa bệnh và các thiết chế văn hoá cho các địa phương nghèo để sớm khắc phục tình trạng thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu thuốc chữa bệnh, thiét bị y tế nghèo nàn, lạc hậu, đồng thời thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt chú trọng đào tạo, tăng cường năng lực cho đọi ngũ cán bộ, nhân viên y tế và cung cấp đầy đủ thuốc chữa bệnh, phù hợp với thu nhập của người dân. Kết hợp chặt chẽ chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Giải pháp nói trên nhằm nâng cao thiết thực mức sống và chất lượng cuộc sống nhân dân ở các xã nghèo, vùng nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư; bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về chăm sóc y tế, giáo dục và kế hoạch hoá gia đình, sẽ làm giảm bớt những hiệu quả trước mắt và nguồn gốc của đói nghèo.
c, Xã hội hoá các hoạt động xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là về nguồn lực.
Trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, nguồn lực của Nhà nước có vai trò chủ đạo, vừa mang tính xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng, của quốc tế cũng có vai trò rất quan trọng. Xây dựng và phát triển các chương trình “những tấm lòng từ thiện”; “nối vòng tay lớn”; “một thế giới một trái tim”; “quỹ tình thương”; “nhà đại đoàn kết”, đã thu hút đông đảo các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia hỗ trợ người nghèo. Cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, “xoá nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo”, đã giúp cho hàng trăm nghìn hộ nghèo sửa chữa hoặc xây mới nhà ở. Các mô hình tín dụng-tiết kiệm, nông dân sản xuất giỏi, thanh niên làm kinh tế, v.v.. đã góp phần cải thiện điều kiện sống cho nhiều thành viên các tổ chức, các đoàn thể xã hội.
Ngoài các nguồn lực trong nước và nguồn hỗ trợ tài chính của cộng đồng quốc tế, điều quan trọng hơn là chúng ta đã tiếp thu có hiệu quả sự trợ giúp kĩ thuật của bạn bè quốc tế và đã nhân rộng được nhiều bài học kinh nghiệm và mô hình tốt về xoá đói giảm nghèo như: Phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân, vấn đề giới trong xoá đói giảm nghèo, cơ chế tăng cường phân cấp cho địa phương, đặc biệt là cấp xã, Những kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Trong những năm tới, xã hội hoá các hoạt động xoá đói giảm nghèo cấn được các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi người tiếp tục quan tâm và thúc đẩy lên một tầm cao mới, nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của xã hội và của mọi người dân trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta.
d, Đổi mới công tác tổ chức, bảo đảm tính công khai, minh bạch và làm rõ trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương chủ động, người dân bàn bạc, thảo luận, nhằm tạo ra sự đồng thuận và hợp tác, quyết tâm vượt nghèo, vươn lên làm giàu của các xã nghèo, vùng nghèo và chính bản thân người nghèo trong quá trình triển khai chương trình xoá đói gảim nghèo.
Những năm gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều tiến bộ trong công tác chỉ đạo, điều hành bảo đamr thực hiện có chất lượng các chương trình xoá đói giảm nghèo. Cơ chế tự chủ về phân bổ ngân sách, tổ chức thực hiện và quản lý các chương trình trên cơ sở nhu cầu thực tiễn, lập kế hoạch và huy động nguồn lực trên địa bàn đã tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động, tự giải quyết và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của chương trình. Song trên thực tế, việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và ra quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện để phát huy tính năng động, chủ động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng để nâng cao hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo.
Hai yếu tố quan trọng nhất để giảm nghèolà, Nhà nước tạo động lực giảm nghèo thông qua các chính sách phát triển kinh tế-xã hội và ý chí vượt nghèo của người nghèo. Các chương trình giảm nghèo và phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo buớc đầu được nhân dân trong cộng đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân từng bước nhận thức được trách nhiệm của mình trong viẹc tham gia các chương trình giảm nghèo. Phương trâm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt động của chương trình giảm nghèo ở địa phương.
Trong thời gian tới, công tác xoá đói giảm nghèo cần tập trung vào các địa bàn là các xã khó khăn nhất ở vùng căn cứ cách mạng, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người và các đối tưọng khó khăn nhất, trong đó, đặc biệt ưu tiên phụ nữ và trẻ em nghèo. Động viên cộng đồng người nghèo phát huy nội lực, tự vươn lên thoát nghèo, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các cộng đồng khác, tằng cường và đa dạng hoá các nguồn lực, kết hợp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực quốc tế; có chính sách, cơ chế khuyến khích và các giải pháp có tính đột phá, áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật, chuyển giao công nghệ thích hợp đến các xã nghèo, người nghèo để xoá đói giảm nghèo bền vững, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.
Phần iii: kết luận
Chống đói nghèo là một cuộc chiến lâu dài và quyết liệt. Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn ưu tiên giành nguồn lực để xoá đói giảm nghèo; đồng thời thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế về viẹc thực hiện các chỉ tiêu thiên niên kỉ, trong đó có các chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo.Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006-2010 và Nghị quyết Đại hội làn thứ X của Đảng, Chính phủ sẽ tiếp tục tạo động lực để phát triển mạnh mẽ kinh tế-xã hội, đồng thời chủ độngchỉ đạo thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các cấp, của cả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người nghèo.
Với quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, chúng ta nhất định sẽ thực hiẹn thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính nhân văn đã cam kết với cộng đồng quốc tế – mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên đất nước ta.
TàI liệu tham khảo
1. Tạp chí Cộng sản ( số 2+3 năm 2006 và số 776 tháng 6 năm 2007 ).
2. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB & XH tháng 9 năm 2005.
3. Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng X.
Và một số tài liệu liên quan khác.
Mục lục
Trang
Phần I: Lời mở đầu 1
Phần II: Nội dung
Chương I: Sự cần thiết khách quan của việc xoá đói giảm nghèo 2
I. Khái niệm và chuẩn mực xác định đói nghèo ở Việt Nam 2
II. Sự cần thiết khách quan của việc xoá đói giảm nghèo 3
Chương II: Thực trạng và giải pháp cho công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta. 5
I. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua 5
II. Những khó khăn và thách thức trong công cuộc xoá đói
giảm nghèo ở nước ta hiện nay 8
III. Phương hướng và giải pháp để thực hiện mục tiêu xoá
đói giảm nghèo trong thời gian tới 10
Phần III: Kết luận 14
Danh mục tài liệu tham khảo. 15
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0189.doc