Doanh nghiệp xuât khẩu lao động là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, lợi nhuận thu được thông qua tiền môi giới từ việc làm ngoài nước, lượng tiền đặt cọc của lao động thường rất lớn, tùy thuộc vào thị trường và mức lương mà lượng tiền đặt cọc này khác nhau.
Mỗi lao động đi làm việc qua doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải nộp một khoản tiền môi giới là 12% tiền lương cơ bản (thuyền viên là 18%), sau giảm xuống còn 8,3% (thuyền viên là 15%), nay là không quá 1 tháng lương theo hợp đồng cho một năm làm việc (riêng đối với sỹ quan và thuyền viên làm việc trên tàu vận tải biển không quá 1,5 tháng lương theo hợp đồng cho 1 năm làm việc).
45 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khẩu lao đọng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cũng có nhiều thay đổi phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế trong từng thời kỳ. Hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia đã đạt được yêu cầu cơ bản góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Giai đoạn từ năm 1980 đến 1990: số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô cũ, CHDC Đức cũ, Tiệp Khắc cũ, Bungari) là 244.186 người; đi làm chuyên ga ở các nước châu Phi (Lybia, Angeria, Angola, Môdămbích, Công gô, Madagaxca) là 7.200 người, đi làm xây dựng ở Trung Đông (I-rắc) khoảng 18.000, ngoài ra còn 23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm 80.
Giai đoạn từ 1991 đến nay: Thực hiện cơ chế đổi mới xuất khẩu lao động và chuyên gia trong nhữn năm gần đây, hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể. Lao động và chuyên gia Việt Nam đã có mặt ở nhiều thị trường như: Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Trung Đông, Bắc Phi, EU, Mỹ, một số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực trên biển Số lượng lao động và chuyên gia đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng lên hàng năm.
2.1.1. Thị trường truyền thống
Thị trường này cần một số lượng lớn lao động phổ thông, trình độ thấp nên cánh cửa rất rộng mở cho hoạt động xuất khẩu lao dộng của Việt Nam.
2.1.1.1. Thị trường Đông Bắc Á
a. Đài Loan
Là một trong các thị trường truyền thống luôn tiếp nhận số lượng lao động lớn của Việt Nam đồng thời cũng là thị trường nhạy cảm và phức tạp. Việt Nam trở thành nước thứ 5 cung cấp lao động sang làm việc tại Đài Loan từ tháng 11/1999. Năm 2003 có 136 doanh nghiệp Việt Nam được Ủy ban lao động Đài Loan cấp phép hoạt động. Tại Đài Loan có trên 800 công ty môi giới lao động và các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp xúc, ký hợp đồng cung ứng lao động với trên 500 công ty môi giới của Đài Loan. Trong năm 2005, Đài Loan đã ngừng tiếp nhận lao động của Việt Nam làm việc trong lĩnh vực giúp việc gia đình do tình trạng lao động tự ý bỏ hợp đồng nên lao động đưa sang chủ yếu là lao động công nghiệp, xây dựng và thuyền viên đánh cá.
Hiện nay, thị trường này lao động Việt Nam đã xuất khẩu là 24 nghìn người.
b. Hàn Quốc
Chương trình lao động: Hàn Quốc đã thông qua Luật cấp phép cho lao động nước ngoài và bắt đàu nhận lao động từ thang 8/2004 song song với hệ thống tu nghiệp sinh có từ trước. Năm 2006, Việt Nam là một trong 6 quốc gia được Hàn Quốc lựa chọn tham gia chương trình đưa lao động sang làm việc theo luật cấp phép mới. Tổng số chỉ tiêu lao động phía Hàn Quốc phân bổ cho Việt Nam năm 2004 la 3.000 người chưa kể 2.690 lao động được phía Hàn Quốc cho sang lao động lần thứ 2. Năm 2005, Hàn Quốc đã chấp nhận cho 7.409 người sang lao động.
Chương trình tu nghiệp sinh: Ngoài 8 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh công nghiệp, 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh nông nghiệp và 2 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng sang Hàn Quốc; năm 2005, đã giới thiệu và đưa 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh thủy sản và 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng. Tổng số tu nghiệp sinh đưa sang Hàn Quốc năm 2005 la 3.100 người.
Chính phủ Hàn Quốc hiện dừng thực hiện chương trình tiếp nhận lao động dưới hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp. Vì vậy việc đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này chỉ được thực hiện theo chương trình tiếp nhận lao động nước ngoài do Bộ LĐ Hàn Quốc và Bộ LĐ,TB&XH Việt Nam phối hợp. Hiện nay có khoảng 46.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc, lao động làm việc tại Hàn Quốc đều có thu nhập rất cao, phổ biến ở mức 850-1100 USD/tháng.
Trong năm 2008, chúng ta đã đưa được 12.000 lao động mới và trên 6.000 lao động được tái tuyển dụng.
2.1.1.2. Thị trường Đông Nam Á
a. Malayxia
Xác định đây là thị trường trọng điểm trong chiến lược xuất khẩu lao động của nước ta. Năm 2003 chúng ta tiếp tục thí điểm đưa lao động sang làm việc tại Malayxia. Tuy nhiên, thị trường này cũng đòi hỏi khắt khe về tính tuân thủ pháp luật và hợp đồng lao động nên công tác tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng cần phải được chú trọng. Năm 2003, chúng ta đã đưa được 40.500 lao động sang làm việc tại Malaysia, đưa tổng số lao động làm việc tại Malaysia lên trên 7 vạn người. Kết quả này hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu lao động năm 2003 mà Bộ và chính phủ giao.
Năm 2004 do những biến động thị trường nên các doanh nghiệp của ta chỉ đưa được 14.567 lao động sang Malaysia.
Năm 2006, Việt Nam đã đưa được 70.000 lao động sang Malaysia làm việc.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nên xuất khẩu lao động của Việt Nam năm nay cũng bị tác động. Đơn hàng mới tại nhiều thị trường giảm đáng kể. Các thị trường thu hút nhiều lao động thu nhập cao như Hàn Quốc, Malaysia, tốc độ tiếp nhận lao động Việt Nam nói riêng và lao động các nước nói chung là chậm hẳn. Số lao động Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Malaysia năm 2008 là 7.800
b. Lào
Năm 2004, Việt Nam đã đưa hơn 6.600 lao động sang thị trường này, chủ yếu làm trong lĩnh vực xây dựng. Năm 2005 tổng số lao động đi làm việc ở Lào là 6.733 người.
Lượng lao động Việt Nam đang làm việc ở Lào hiện nay khoảng gần 10.000 người.
2.1.2. Thị trường cao cấp
Đây là thị trường đòi hỏi lao động lành nghề, có trình độ cao, đáp ứng được các yêu cầu về khả năng tiếp cận và tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại. Thị trường này là cánh cửa hẹp cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam nhưng nếu thâm nhập được vào thị trường này thì hiệu quả thu được sẽ rất lớn.
2.1.2.1. Nhật Bản
Là thị trường chất lượng cao, tiềm năng lớn, nhưng trong những năm qua không phát triển được do lao động Việt Nam tự ý bỏ hợp đồng có tỉ lệ lớn.
Tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản theo nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó lĩnh vực dệt may, điện tử và xây dựng chiếm tỷ lệ khá lớn. Lao động Việt Nam làm việc 8h/ngày, nhưng cũng có lúc làm việc 12h/ngày, thời gian làm ciệc thêm được trả lương làm thêm giờ đầy đủ. Sau 3 năm ở Nhật Bản, lúc về các tu nghiệp sinh đều có tay nghề khá vững và có số tiền thu nhập từ 25.000 – 30.000 USD.
Hiện nay có khoảng hơn 10.000 tu nghiệp sinh và lao động Việt Nam đang làm việc và học nghề tại Nhật Bản. Lao động Việt Nam được các doang nghiệp Nhật Bản đánh giá cao về sự cần cù, chịu khó, ham học hỏi và tiếp thu nhanh cáckỹ năng làm việc và công nghệ mới. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn tình trang tu nghiệp sinh bỏ trốn ra ngoài làm việc gây ảnh hưởng xấu tới quan hệ hợp tac lao động giữa hai nước. Nếu khắc phục được tình trạng này thì lượng tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản sẽ tăng trong thời gian tới.
Năm 2008, Việt Nam đã đưa thêm 5.800 tu nghiệp sinh và lao động sang làm việc tại Nhật Bản
2.1.2.2. Thị trường EU và Mỹ
Nhiều nước Châu Âu, Mỹ cũng đang trong tình trạng thiếu lao động có nhu cầu khá lớn về lao động nước ngoài.
Thế nhưng các nước trong khối EU chủ trương sử dụng lao động chất lượng cao nên khả năng tiếp cận những thị trường này của VN còn hạn chế. Hiện nay, để mở cửa thị trường tiềm năng này, VN đang nghiên cứu, tìm hiểu để ký kết hiệp định hợp tác lao động.
2.1.3. Thị trường tiềm năng
2.1.3.1. Trung Đông và Bắc Phi
a. Ả-Rập Xê-út
Ả-Rập Xê-út hiện có 7 triệu lao độn nước ngoài và mỗi năm cần thay thế, tuyển thêm từ 800-900 nghìn lao động. Triển vọng mở rộng hợp tác về thương mại và lao động là khả quan, dự kiến số lượng lao động của nước ta tại thị trường này sẽ lên tới hàng nghìn người trong thời gian tới.
Năm 2008, thị trường Ả-rập Xê-út tiếp nhận khoảng hơn 3.000 lao động và trở thành thị trường dành được sự quan tâm của nhiều lao động ở nông thôn. Đáng chú ý là thị trường Ả-rập Xê-út không quy định hạn ngạch tiếp nhận lao động nước ngoài như các quốc gia khác. Nhu cầu tiếp nhận lao động của quốc gia này rất lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, chế biến dầu khí.
Tại thị trường này, người làm công việc giản đơn được trả lương từ 200-300 USD/tháng. Lao động có tay nghề vững được trả từ 500-600 USD. Chi phí sinh hoạt vào khoảng 100 USD/tháng. Điều kiện làm việc của người lao động nhìn chung là tốt. Pháp luật Ả-rập Xê-út quan tâm việc bảo vệ quyền lợi của lao động nước ngoài.
Ả-rập Xê-út đã tuyển mộ 50.000 công nhân Việt Nam trong năm 2006. Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam cũng cho biết là A"rập- Xê-út có thể đề nghị thuê mướn tới 100.000 nhân công Việt Nam trong ngành xây dựng, công nghiệp và phụ việc gia đình trong tời gian tới.
b. Irắc
Từ năm 1980-1990 tại I rắc có khoảng 20.000 lượt lao động Việt Nam làm việc tại đây. Sau đó do sự cám vận của Mỹ và chiến tranh I rắc thì số lao động làm việc tại đây giảm đi nhanh chóng. Hiện nay thị trường này vẫn đang là thị trường tiềm năng sẽ tiếp tục được khôi phục và khai thác trong thời gian tới.
c. Libya
Lao động xuất khẩu sang Libya bằng hai hình thức: hợp tác trực tiếp giữa bộ quốc phòng hai nước và hợp tác gián tiếp qua một số công ty của Hàn Quốc, Đức, Ba Lan, Hy Lạp.
Hiện nay có khoảng 1.400 lao động Việt Nam đang làm ciệc tai Libya (theo các hợp đồng riêng lẻ) trong các ngành xây dựng và công nhân quốc phòng, với thu nhập khoảng 300-400USD/người/tháng. Trong đó lao động thuộc Bộ Quốc phòng là chính và lao động của công ty SONA, VINACONEX, SONGDA đưa đi.
Trong chuyến khảo sát thị trường Libi mới đây của Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Lương Trào, phía Libi bày tỏ mong muốn sớm ký được hiệp định hợp tác tiếp nhận lao động Việt Nam, nhất là lao động thuộc ngành xây dựng và đánh bắt hải sản. Phía Việt Nam cũng đã gửi cho Libi dự thảo Hiệp định hợp tác lao động để phía bạn nghiên cứu, tìm hiểu.
Sau khi các nước bỏ cấm vận với Lybia, các tập đoàn lớn của Châu Âu, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đã tiến hành các hoạt động chuẩn bị thâm nhập thị trường Libya, khả năng sẽ tuyển nhiều lao động nước ngoài khi hoạt động kinh doanh và đầu tư triển khai được. Nếu hiệp định được ký kết sớm, sẽ tạo thuận lợi cho việc cung cấp lao động Việt Nam cho thị trường này.
c. Cô Oét
Lao động Việt Nam làm việc tại Cô Oét chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Việt Nam đã đấu thầu xây dựng các biệt thự cho quốc gia này từ năm 1996 đến nay là trên 2.000 biệt thự và sử dụng trên 2.500 lao động. Tuy nhiên, thời gian qua do các doanh nghiệp của ta thiếu thông tin về thị trường này nên việc xây dựng đơn giá thầu còn chưa hợp lý gây tổn thất và kỷ luật lao động của công nhân Việt Nam chưa cao.
Hiện tại, thị trường Cô Oét còn nhiều tiềm năng và đang để ngỏ, với kinh nghiệm và bài học rút ra, chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động vào thị trường này.
Các thị trường tiềm năng khác
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu lao động trong thời gian tới, ngoài việc duy trì các thị trường đã có như Đài Loan, Nhật Bản, Malaixia và Hàn Quốc, các doanh nghiệp đều có kế hoạch mở thêm nhiều địa chỉ xuất khẩu lao động mới, trong đó chú ý đến các thị trường có nhiều tiềm năng như Libi, Ả rập Xê Út, Pháp, Canađa, Anh, Mỹ, Hy LạpĐây là bước tấn công mới của lao động Việt Nam vào các thị trương có thu nhập cao. Vì thế nếu thành công sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho người lao động, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như cho đất nước.
Canađa
Canađa được coi là thị trường tiềm năng, ngoài điều kiện ăn ở và làm việc tốt, người lao động Việt Nam còn được học hỏi thêm về kinh nghiệm làm việc và kinh doanh để khi về nước có thể tự phát triển sản xuất hoặc kinh doanh.
Tại Canada, một số ngành nghề được Chính phủ nước này thông báo là đang thiếu trầm trọng lao động và sẽ có nhu cầu lớn về lao động nước ngoài trong nay mai là xây dựng, khai thác mỏ, nông nghiệp, giúp việc gia đình và làm việc trong các viện dưỡng lão. Riêng ngành xây dựng với tốc độ tăng trưởng cao sẽ là ngành thiếu nhiều lao động nhất. Chỉ ở một bang nhỏ như bang Bistic Columbia (BC) sẽ thiếu khoảng 60.000 lao động xây dựng. Với mức lương trung bình khoảng 3.200 đô-la/tháng, trừ khoảng 50% thu nhập cho chi phí sinh hoạt, bảo hiểm... người lao động sẽ còn ít nhất 1.500 đô-la/tháng.
Tuy nhiên, đây là cơ hội không dễ tận dụng với các doanh nghiệp. Bởi yêu cầu về trình độ của người lao động cũng khá khắt khe. Hầu như các nhà tuyển dụng Canada đều yêu cầu người lao động ngoại quốc phải có chứng chỉ nghề tương đương hoặc chứng chỉ nghề do chính hệ thống giáo dục của Canada cấp. Điều này không những là yêu cầu về trình độ tay nghề mà còn yêu cầu rất cao về trình độ ngoại ngữ của người lao động. Người lao động khi tham gia tuyển dụng phải trải qua kỳ thi sát hạch nghề nghiệp rất nghiêm túc. Với yêu cầu khá cao, rất khó để người lao động nước ta đáp ứng được yêu cầu này khi nguồn nhân lực có chất lượng trong nước cũng đang khan hiếm
Anh
Bước đầu đã có lao động Việt Nam làm việc ở các nước này, tuy số lượng chưa nhiều nhưng mức thu nhập của họ là tương đối cao. Chính phủ Anh đã từng cấp giấy phép cho lao động Việt Nam vào làm việc trong lĩnh vực khách sạn. Chương trình này đã chấm dứt vào tháng 6/2005 vì quá nhiều người ở lại quá hạn visa. Phần khác vì lự lượng lao động từ các nước thành viên Liên hiệp châu Âu như Latvia, Ba Lan, Lithuania, nhiều ngành nghề rơi vào tình trạng thừa nhân công. Việt Nam được biết vẫn nằm trong số 20 nước có nhiều người ở lại quá hạn visa hay nhập cảnh trái phép vào Anh nhất.
Thị trường lao động ở Anh vẫn còn nhiều nhu cầu, nhất là với việc làm tay chân, nên trong tương lai có thể xuất khẩu được lao đông sang thị trường này nếu chính phủ Anh cho phép. Mặt khác, nếu nước ta có những biện pháp điều chỉnh phù hợp thì đây sẽ là một cơ hội lớn trong việc xuất khẩu lao động sang thị trường có thu nhập cao này.
Mỹ
Những thị trường như Mỹ, Canada được coi là thị trường cao nhất kể cả về thu nhập và điều kiện nhập cảnh. Trình độ kiến thức, kỹ năng nghề không phải chỉ căn cứ vào bằng cấp, chứng chỉ của các cơ sở đào tạo trong nước mà phải được xác định thông qua tuyển lựa, kiểm tra, đánh giá của phía đối tác nước ngoài, quan trọng hơn, nó phải được thể hiện trong năng lực làm việc thực sự của người lao động có đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ sản xuất, độ phức tạp của công việc mà họ đảm nhiệm ở nước ngoài. Đã có nhiều lao động Việt Nam được coi là có nghề xây, trát và họ cũng đã làm việc đó trên công trường. Nhưng khi người nước ngoài tuyển chọn thì không đạt yêu cầu vì họ chưa thực hiện được những thao tác rất cơ bản của nghề, họ không được đào tạo cơ bản. Muốn có một tấm visa vào những thị trường đòi hỏi chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, người lao động phải có kỹ năng nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và phải đạt trình độ tiếng Anh 4.5 điểm IELTS trở lên
Nghề y tá, điều dưỡng rất được Mỹ ưa chuộng, mức lương khoảng 20-30 USD/giờ. Tuy nhiên, hiện Việt Nam chưa đủ khả năng đào tạo y tá điều dưỡng theo yêu cầu của Mỹ, vì vậy sẽ cần một thời gian dài nữa Việt Nam mới có thể đưa được y tác điều dưỡng sang thị trường này.
NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Thực hiện chỉ thị số 41 – CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và chỉ đạo của Chính phủ, chỉ tính riêng từ năm 1999 đến nay:
Số lượng người lao động: cả nước đã có trên 300.000 người đi làm việc ở nước ngoài, nâng tổng số người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài trong thời điểm hiện nay lên trên 400.000 người. Thu nhập của người lao động bình quân những năm gần đây khoảng 1,5 tỷ USD/năm. Chất lượng nguồn lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài từng bước được cải thiện, đội ngũ doanh nghiệp được hình thành trong đó có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Về số lượng doanh nghiệp: Xuất phát từ chủ trương của Nhà nước trong việc siết chặt doanh nghiệp xuất khẩu lao động, chỉ để lại những doanh nghiệp đủ mạnh, đủ khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Xu hướng doanh nghiệp xuất khẩu lao động đua nhau đầu tư xây dựng trường nghề bắt đầu khaỏng 2 năm nay.
Hiện cả nước có hơn 20 trong tổng số 141 doanh nghiệp đã sở hữu những cơ ngơi trường nghề bề thế, tập trung ở các tỉnh ven Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng khó tính của đối tác nước ngoài các doanh nghiệp đã chủ động nguồn lao động có kỹ thuật thông qua việc xây dựng các trường nghề. Đối tác thường sang thăm dò năng lực của doanh nghiệp cung ứng lao động trước khi ký hợp đồng. Doanh nghiệp nào cũng muốn thể hiện năng lực của mình và thuyết phục nhất là phải chứng minh cho họ thấy cơ ngơi trường nghề bề thế, quy trình đào tạo học viên thật bài bản, chất lượng.
Nguồn lao động: Chất lượng nguồn lao động được cải thiện đáng kể so với trước. Bên cạnh những thế mạnh về khả năng tiếp thu công nghệ nhanh, cần cù, chịu khó, ngày càng có nhiều lao động được đào tạo ngoại ngữ, tay nghề, tìm hiểu pháp luật trước khi đưa ra nước ngoài làm việc.
Bình quân hàng năm giai đoạn 2004-2009 đã có khoảng trên 1 triệu lao động đã được đào tạo bổ sung vào nhân lực cả nước. Đây là nguồn lao động dồi dào, là thế mạnh của nước ta trong việc đưa lao động sang các thị trường truyền thống. Mặt khác, nhà nước đang đầu tư nâng cấp hệ thống các trường đào tạo nghề lên ngang tầm khu vực và thế giới.
Thị trường lao động ngoài nước: Bên cạnh việc phát triển những thị trường truyền thống đã có, thời gian qua Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã và đang tấn công vào những thị trường mới hấp dẫn. Nhằm xúc tiến việc mở thêm thị trường lao động, mới đây Bộ LĐTB-XH, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã đi khảo sát, đàm phán việc ký kết, đưa lao động Việt Nam sang thị trường Libya; cũng đã ký thỏa thuận về hợp tác lao động với chính quyền vùng Sisilia (Italia). Các thị trường như Brunei, Singapore và một số nước khu vực Trung Đông như Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE), Qatar, Saudi Arabia, Oman, Baharain được mở ra. Triển khai thí điểm đưa lao động sang một số thị trường có thu nhập cao như Úc, Hoa Kỳ, Canada, Phần Lan, Italia và đồng thời đã đưa được lao động sang Liên bang Nga và các nước SNG cũ, Bungari, Slovakia...
2.3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI XUẤT KHẢU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
2.3.1. Những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu lao động
2.3.1.1.Quản lý hoạt động xuất khẩu lao động
* Hệ thống pháp luật hiện tại về xuất khẩu lao động chưa đủ và chưa chặt chẽ đề sàng lọc bớt các doanh nghiệp yếu: Bởi vậy đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng hoặc cho những đơn vị khác thuê lại giấy phép của mình để đưa lao động sang nước ngoài làm việc. Tình trạng trên làm nảy sinh những vấn đề đáng tiếc như cạnh tranh không lành mạnh trong tuyển nguồn, doanh nghiệp dịch vụ thu tiền đặt cọ quá cao của người lao động trong hoạt động xuất khẩu lao động thời gian qua. Không ít doanh nghiệp không có chiến lược hoạt động bài bản, tuyển dụng lao động và đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài theo kiểu chộp giật, đánh quả.
Các tổ chức xuất khẩu lao động hầu hết có quy mô nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp (trong số 140 đơn vị, chỉ có 12,8% mang tính chuyên nghiệp), bình quân hàng năm đưa đi không quá 200 lao động/đơn vị, nên không đủ khả năng xây dựng cơ sở đào tạo và tiếp cận thị trường.
* Số lượng lao động vi phạm pháp luật nhiều: Về công tác quản lý lao động, theo thống kê, đến nay có khoảng 400.000 lao động Việt Nam ở nước ngoài, tỷ lệ bỏ hợp đồng ra ngoài cư trú, làm ăn bất hợp pháp luôn ở mức cao hơn nhiều so với các nước xuất khẩu lao động trong khu vực: ở Nhật Bản là 30-40%, ở Hàn Quốc 25-30%, ở Đài Loan 9%. Trong khi đó, như ở Nhật Bản, lao động Trung Quốc thuộc diện này chỉ 1,02%, Indonesia: 5,58%, Philipines, Thái Lan cũng chỉ ở mức trên dưới 1%. Nhiều trường hợp vì bất đồng ngôn ngữ, vì chủ sử dụng lao động đối xử ngược đãi, trả lương không đúng với hợp đồng nhưng không có cơ quan nào đứng ra bênh vực bảo vệ nên họ đành tìm cách liên lạc với người thân và bỏ trốn.
2.3.1.2. Cung ứng lao động và trình độ lao động
Lao động Việt Nam đang mất dần thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lao động nước ta đi xuất khẩu đa phần là không có tay nghề hoặc tay nghề thấp, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, chủ yếu là lao động phổ thông, chưa có nhận thức đúng về quan hệ chủ - thợ trong cơ chế thị trường. Phần lớn chưa có trình độ ngoại nhữ cần thiết để giao tiếp với chủ sử dụng lao động trong làm việc.
Do không có tay nghề hoặc tay nghề thấp, lao động Việt Nam chủ yếu được bố trí làm việc trong các nhóm ngành nghề không đòi hỏi nhiều về trình độ chuyên môn và tay nghề, điều kiện về sinh an toàn lao động, thu nhập không cao. Số lao động xuất khẩu làm các công việc cần đến trình độ tri thức cao như chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp còn tương đối ít. Lao động Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh gay gắt với lao động các nước đã đi trước và đã có chỗ đứng, có uy tín trên thị trường.
Theo thống kê, từ năm 1998 đến năm 2005, trong số 400.000 lao động Việt Nam sang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có khoảng 27% lao động có nghề, còn lại là lao động phổ thông và không nghề. Đáng chú ý là chất lượng lao động đang có xu hướng tỷ lệ nghịch với số lao động. Năm 2003, chỉ có 16% trong tổng số 78.000 lao động xuất khẩu được đánh giá là có tay nghề.
2.3.1.3. Mở rộng thị trường
Phần lớn nước ta mới xuất khẩu lao động đi các thị trường có thu nhập thấp, công việc đơn giản, môi trường làm việc năng nhọc, độc hại, kém hấp dẫn. Những thị trường cần nhiều lao động có ngoại ngữ, chuyên môn kỹ thuật cao lại chưa đáp ứng.
Ở những thị trường có thu nhập cao đang trong tình trạng thiếu lao động và có nhu cầu khá lớn về lao động nước ngoài, thì lao động Việt nam chiếm rất ít. Do thị trường này đòi hỏi chất lượng cao, nên khả năng tiếp cận của người lao động nước ta còn hạn chế. Ví dụ như thị trường Nhật Bản: do tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam ở Nhật Bản bỏ hợp đồng rất cao (tỷ lệ đó có lúc lên tới 35%) gây khó khăn trong quan hệ lao động Việt Nam – Nhật Bản. Năm 2008, cả nước giải quyết việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800) và Nhật Bản (5.800).
Nếu so sánh với Philipin thì Philipin có số người trong độ tuổi lao động như Việt Nam, nhưng hiện nay nước này đã có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở hơn 56 nước, đông nhất là Mỹ, Ả - Rập Xê-út, Canada, Nhật Bản, Malaysia Trong khi đó nước ta mới đưa lao động đi làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ.
2.3.1.4. Rủi ro trong xuất khẩu lao động
* Rủi ro doanh nghiệp gặp phải:
Về phía môi giới: Có rất nhiều doanh nghiệp không ký được hợp đồng cung ứng lao động trực tiếp với chủ sử dụng lao động nước ngoài, phần lớn đều phải qua các đại lý, các công ty hoặc cá nhân trung gian môi giới nhiều người trong số này không phải đối tác thật. Nhiều doanh nghiệp mới do thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn không có điều kiện ra nước ngoài để tìm hiểu tại chỗ, nhờ các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thẩm định cụ thể các điều kiện của đối tác. Hợp đồng ký ở trong nước tốn kém về thời gian, chi phí tiếp khách, đàm phán, đào tạo lao động nhưng cuối cùng không đưa lao động đi được chỉ vì không gặp đối tác thật.
Lao động bỏ trốn làm doanh nghiệp mất uy tín với đối tác và bị đình chỉ hoạt động xuất khẩu lao động, vừa mất đi khoản phí dịch vụ được thu theo quy định của nhà nước.
Cũng vì lao động bỏ trốn mà tâm trạng doanh nghiệp luôn ở trong trạng thái không yên, chiến lược xuất khẩu lao động luôn tiềm ẩn rủi ro. Trong khi đó, vì lợi ích nhỏ mà người lao động đã quên những gì cam kết với doanh nghiệp, những gì đã được học gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng mất thị trường lao động. Khi lao động ra nước ngoài làm việc, doanh nghiệp phải mở lớp đào tạo (luật pháp nước sở tại, ngoại ngữ, định hướng), trong đó chú tâm đào tạo định hướng; có nghĩa là khuyên răn người lao động không nên bỏ trốn (vì làm thế sẽ gây thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp và chiến lược xuất khẩu lao động nói chung). Khi lao đọng bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp thì doanh nghiệp và cơ quan quản lý đến nước sở tại nghe họ phản ánh, rồi sau đó tìm cách đưa lao động bỏ trốn về nước, tránh để gây thêm rắc rối. Còn người lao động bị đưa về nước đã không bị xử lý hoặc chịu bất kỳ trách nhiệm nào về việc mình gây ra mà thậm chí còn đổ lỗi cho doanh nhgiệp, tiếp tục gây ra các vụ kiện.
* Rủi ro người lao động gặp phải:
Do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động xử lý thiếu chuyên nghiệp làm kéo dài thời gian chờ đợi cho người lao động. trong khi đó trước khi đi người lao động phải bỏ ra rất nhiều chi phí cho việc học ngoại ngữ, giáo dục định hướng Ví dụ: việc 18 doanh nghiệp xuất khẩu lao động bị phia Đài Loan từ chối vừa qua, vì chưa đăng ký với Ủy ban lao động Đài Loan về việc xin cấp giấy phép mới. Mặc dù 21/3/2006, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã có công văn 255 gửi các doanh nghiệp XKLD sang Đài Loan (Theo quy định của Đài Loan, các công ty môi giới lao động nước ngoài phải đăng ký và được Ủy ban Lao động Đài Loan cấp giấy phép mới thời gian 2 năm) và đề nghị các doanh nghiệp Việt Nam liên hệ với Phòng thị trường lao động của Cục để lấy mẫu đăng ký. Thế nhưng, các doanh nhiệp vẫn chậm trễ và đã xảy ra hậu quả trên dẫn đến việc làm nhỡ các chuyến bay của người lao động, họ lại phải chờ đợi trong thời gian dài có thể lên đến 2 năm.
Thực tế cho thấy vấn đề rủi ro trong xuất khẩu lao động ngày càng bộc lộ rõ. Vì thế ngoài việc nâng cao chất lượng lao động thì vấn đề nâng cao kỷ luật lao động và trách nhiệm của người lao động cũng là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu.
2.3.2. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra cho xuất khẩu lao động của Việt Nam
2.3.2.1. Về thông tin
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của nước ta không có nhiều thông tin, chủ yếu vẫn phải dựa vào trung gian, môi giới và phải trả phí môi giới khá cao, khiến thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng. Nhiều doanh nghiệp làm ăn không trung thực đưa ra thông tin sai lệch về điều kiện làm việc khi tuyển dụng, công việc nặng nhọc, pháp luật nước sở tại nghiêm khắc, lao động bị trục xuất khiến người lao động mất lòng tin, cho đây là thị trường khó khăn, khắc nghiệt.
Nhận thức về xuất khẩu lao động của một số cấp ủy Đảng, chính quyền ở các địa phương còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng địa phương chưa sâu rộng, thông tin thị trường, tư vấn pháp luật và nghề nghiệp còn hạn chế; giải quyết thủ tục hồ sơ cho người đi xuất khẩu lao động còn chậm.
2.3.2.2. Đào tạo, giáo dục định hướng
Sau 15 năm doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động, đến nay, nguồn nhân lực có tay nghề rất hạn chế, ngay cả lao động phổ thông cũng khó tìm. Các công ty phải lùng sục tận miền núi, đến nơi xa xôi nhất. Việc lấy lao động từ các trường nghề sẵn có hoặc liên kết với các trường để đào tạo cũng không dễ. Nhiều học sinh rất muốn đi, nhưng khi nói đến khoản lên phí phải trả thì e ngại. Hơn nữa, làm theo cách này, doanh nghiệp bị động, có thể bỏ lỡ nhiều đơn hàng giá trị. Rất nhiều doanh nghiệp muốn có trường dạy nghề riêng, nhưng không dễ xin được đất và quan trọng nhất là không đủ khả năng bỏ ra ít nhất 10 tỷ đồng. Trong khi đó, thu hồi vốn từ đào tạo nghề rất chậm, thậm chí nếu không chiêu sinh đủ so với thiết kế thì còn bị lỗ.
Theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được thẩm định hợp đồng mới được phép tuyển lao động, rồi tiến hành đào tạo, giáo dục định hướng, bị động trong việc đáp ứng yêu cầu của đối tác nước ngoài. Mặt khác tâm lý người lao động ai cũng nghĩ khi tập trung đào tạo là đã trúng tuyển và được đưa đi ngay. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đào tạo nâng cao chất lượng, tạo nguồn lao động dự trữ.
2.3.3.3. Về chế tài xử lý
Các chế tài xử lý cá nhân, tổ chức vi phạm chưa đủ mạnh, chưa có sức răn đe, nhất là chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Nhà nước đã tiến hành sửa đỏi, bổ sung quy định, chính sách trong lĩnh vực xử lý đối với người lao động bỏ trốn như ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, Nghị định 81/2003/NĐ-CP, Quyết định 68/2001/QĐ-TTg xử lý lao động bỏ trốn, Quyết định 163/2004/QĐ-TTg về quỹ hỗ trợ lao động kết hợp với tuyên truyền giáo dục mạnh mẽ. Tuy nhiên, mọi việc đâu lại hoàn đấy, sau nhiều năm, tỷ lệ lao động vi phạm, bỏ trốn vẫn không được cải thiện là mấy. Có thể nói, nguyên nhân xuất phát từ cả phía doanh nghiệp xuất khẩu, rồi ý thức người lao động, nhưng đáng nói là cơ chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực này vừa thiếu, không đồng bộ và nhất là không đủ mạnh, đủ sức răn đe.
Theo thông tư liên tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 07/11/203 quy định mức đặt cọc: đối với một số thị trường lao động, nếu xét thấy tiền đặt cọc theo quy định không đủ để thực hiện việc bồi thường, doanh nghiệp có thể thỏa thuận với người lao động về biện pháp ký quỹ hoặc để thực hiện nghĩa vụ của người lao động theo hợp đồng ký kết với doanh nghiệp và chủ sử dụng lao động nước ngoài. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp đều thu tiền đặt cọc nhiều hơn (1 lượt vé máy bay và 2 tháng lương) khi đưa lao động sang Hàn Quốc; nhiều hơn (1 lượt vé máy bay và 3 tháng lương) khi đưa lao động sang Nhật Bản. Dẫn dến lượng tiền đặt cọc của người lao động rất lớn, chi phí đi lớn nhưng nếu doanh nghiệp không thu mức phí cao như vậy thì khả năng chi trả cho đối tác khi lao động bỏ trốn là rất khó.
2.3.3.4. Những vấn đề khác
Do cơ chế, chính sách của các nước tiếp nhận lao động, sự biến động của thị trường lao động ngoài nước, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động trong khu vực ngày càng gay gắt
Do nhận thức chưa thống nhất, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn hạn chế, dẫn đến nhận thức của một bộ phận người lao động chưa đúng. Các doanh nghiệp chưa đủ mạnh cả về năng lực tài chính và đội ngũ cán bộ, có những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tiêu cực, thiếu công khai, minh bạch. Quản lý nhà nước từ Trung ương đến cơ sở còn yếu.
Pháp luật về xuất khẩu lao động hiện hành, ngoài 8 điều trong Bộ luật Lao động, chủ yếu được quy định trong các Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/07/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài và Nghị định số 141/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005 về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài), đã bước đầu có một số quy định khá cụ thể nhằm quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế, pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này còn bất cập và chưa đồng bộ thể hiện ở một số điểm sau:
Phạm vi, đối tượng điều chỉnh chưa bao quát được các hình thức đưa người đi làm ở nước ngoài, trong đó có việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức tập trung nâng cao tay nghề đang xuất hiện trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Điều kiện để doanh nghiệp được phép hoạt động trong lĩnh vực này chưa phù hợp, vì vậy chưa hạn chế được một số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng; cạnh tranh không lành mạnh; thiếu trách nhiệm đối với người lao động.
Quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa được quy định cụ thể, đặc biệt là những quy định liên quan đến các loại phí. Cả chi phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn cao
Nhà nước chưa có chính sách đầu tư cho họat động này, đặc biệt là đầu tư cho phát triển thị trường, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu.
Quy định chưa đầy đủ các hành vi vi phạm và việc xử lý vi phạm phù hợp với tính chất và đặc thù của lĩnh vực này.
Là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan đến chính trị, đối ngoại và nhiều ngành luật khác, nhưng vấn đề cơ bản mới chỉ quy định trong các văn bản dưới luật, hiệu lực pháp lý thấp, chưa đủ độ về giáo dục phòng ngừa và xử lý vi phạm.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của Việt Nam đến năm 2020
3.1.1. Mục tiêu xuất khẩu lao động
Tốc độ tăng lực lượng lao động của nước ta trong giai đoạn 2006 – 2009 là trên 2,5% /năm và đến năm 2010 số lao động ước tình tăng trên 5 triệu người so với năm 2005.
Chỉ tiêu quốc hội đề ra đến năm 2020 phải đưa trên 1 triệu lao động đi xuất khẩu. Bởi vi, hàng năm số lao động dư thừa của Việt Nam vào khoảng tren 1,5 triệu lao động.
Theo hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam, mục tiêu xuất khẩu lao động trong cả nước trong năm 2008 là 85.000 lao động. Tuy nhiên do ảnh hưởng của khủng hoang kinh tế thế giới nên mục tiêu này chưa hoàn thành. Khủng hoảng kinh tế cũng là khó khăn lớn nhất trong xuất khẩu lao động của nước ta trong năm 2009. Mục tiêu năm nay có thể la đưa từ 70.000 – 80.000 lao động đi xuất khẩu. Nguồn thu ngoại tệ do người lao động ở nước ngoài chuyển về nước ước tính đạt 1,7 tỷ USD, và kỳ vọng vao các thị trường như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia và một số thị trương mới ở khu vựcTrung Đông. Cố gắng đẩy mạnh khai thác các thị trường trên biển, tăng số lượng cung ứng các thủy thủ vận tải, thuyền viên đánh cá; đầu tư cho đào tạo y tá, điều dưỡng viên đủ tiêu chuẩn chuyên môn, ngoại ngữ để cung ưng cho Đài Loan, Nhật Bản và Bắc Mỹ (Canađa, Mỹ ).
Cùng với việc phát triển và mở rộng thị trường châu Âu, châu Mỹ và ở các nước châu Á khác, khu vưc Trung Đông cũng sẽ là một thị trường xuất khẩu lao động quan trọng. Việt Nam cần triển khai thí điểm việc đưa lao động sang các thị trường mới để có thể nâng số thị trường xuất khẩu lao động lên trên 50 quoccs gia và vùng lãnh thổ.
Phấn đấu ký kết thêm nhiều các văn bản thỏa thuận về hợp tác lao động với Italia, CHDCND Lào, Nga, Lybia Tổ chức thêm nhiều đợt hội thảo tại Nhật Bản và Hàn Quốc để quảng bá lao động Việt Nam.
Với kế hoạch đầu tư 930 tỷ đồng, Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội đặt mục tiêu đưa khoảng 100-200 nghìn lao động đi xuất khẩu, nâng tổng số lao động có nghề trong xuất khẩu lao động hàng năm lên 70%, đến năm 2015 chủ yếu xuất khẩu lao động có tay nghề chuyên môn kỹ thuật cao (100% được đào tạo về ngoại ngữ và giáo dục định hướng). Xuất khẩu lao động trở thành ngành mũi nhọn để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động.
3.1.2. Phương hướng xuất khẩu lao động đến năm 2020
Tập trung phát triển và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động và chuyên gia nhằm phục vụ mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020. Lao động xuất khẩu phải đào tạo, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, ngoại ngữ, thể chất, tác phong và kỉ luật lao động; 100% lao động có nghề, lao động có trình độ cao và chuyên gia cho xuất khẩu lao động chiếm trên 50%. Đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo cho xuất khẩu lao động, trong đó tập trung cho các trường dạy nghề đầu ngành có chất lượng cao. Sắp xếp, đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyên môn hóa hoạt động dịch vụ này, đa dạng hóa hình thức sở hữu doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Thực hiện việc xuất khẩu lao động theo hướng đa dạng hóa: đa dạng hóa thị trương xuất khẩu lao động và chuyên gia, đáp ứng được nhu cầu lao động tại các thị trường, phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Cung cấp lao động cho mọi ngành nghề, với trình độ tay nghề khác nhau. Đa dạng hóa thành phần tham gia xuất khẩu lao động, bên cạnh việc củng cố các tổ chức xuất khẩu lao động và chuyên gia thì mở rộng thêm các doanh nghiệp có đủ điều kiện trực tiếp xuất khẩu lao động dưới các hình thức. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân đang công tác, học tập và nghiên cứu, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tìm việc và thu hút thêm lao động orwtrong nước. Đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động thế giới.
Mô hình liên thông gắn kết trách nhiệm, quyền lợi của địa phương và doanh nghiệp xuất khẩu lao động được nhân rộng ra khắp các tỉnh thành trong cả nước. Các địa phương và doanh nghiệp làm tốt công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu, xúc tiến mạnh công tác thị trường, đặc biệt ladf thị trường có thu nhập cao cho người lao động. Tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài, xử lý nghiêm các vi pham.
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam xây dựng được uy tín trên thị trường có thu nhập cao như: châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông. Tập trung đầu tư dài hơn cho công tác thị trường; lấy hiệu, quả chất lượng là chính, không chạy theo số lượng.
Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp với các quốc gia để tuyển chọn số lượng lớn lực lượng lao động kỹ thuật, kỹ sư, chuyên gia. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới, tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới.
3.2. Giải pháp với xuất khẩu lao động của Việt Nam
3.2.1. Về phía Nhà nước
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu lao động và chuyên gia, tránh những thủ tục quá rườm rà ảnh hưởng đến quá trình này. Ban hành các chính sách, chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. Cần có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng tiêu cực.
Nhà nước cần làm cho người lao động xuất khẩu yên tâm khi ra đi thuận lợi cũng như được bảo vệ về quyền và sự an toàn của họ tại nước ngoài thông qua hệ thống đại sứ quán Việt Nam ở các nước và thông qua Hiệp định song phương về hợp tác xuất khẩu lao động. Trước mắt thành lập Trung tâm Hỗ trợ nguồn nhân lực kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Việt Nam tham gia thị trường Hàn Quốc.
3.2.1.1. Phí dịch vụ:
Nhà nước phải tạo khung pháp lý và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đựoc thu các khỏan theo quy định của pháp luật, nhưng phải công khai, minh bạch. Quy định rõ ràng, công khai các khoản thu của doanh nghiệp, từng bước giảm phí dịch vụ cho người lao động; đồng thời xử lý nghiêm những doanh nghiệp không chấp hành đúng quy định của Nhà nước.
3.2.1.2 Đổi mới chính sách về thị trường lao động:
Cần có cơ chế mới đầu tư cho doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu đi tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động mới.
Có chính sách, cơ chế khuyến khích, ưu đãi; xây dựng mạng lưới thông tin về thị trường lao động ở nước ngoài; mở rộng hợp tác quốc tế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm định chất lượng dạy nghề cho lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Với những thị trường mới thì Chính phủ Việt Nam phải xúc tiến đàm phán với Chính phủ nước sở tại nhằm ký kết hiệp định, hiệp ước về lao động. Đổi mới chính sách thị trường lao động, bao gồm các chính sách đông bộ về thông tin thị trường lao động, tuyển dụng, hợp đồng lao động, dịch vụ việc làm, hỗ trợ chuyển đổi công việc Chính sách dạy nghề cũng phải theo sát sự chuyển đổi này, bao gồm việc dạy nghề cho đối tượng mới gia nhập thị trường lao động, đối tượng phải đào tạo lại để chuyển đổi công việc và cả đào tạo nâng cao tay nghề cho đối tượng đang làm việc cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường nước ngoài.
3.2.1.3. Xây dựng quan hệ lao động lành mạnh:
Điều chỉnh luật pháp và chính sách về quan hệ lao động cho phù hợp với thực tiễn, hoàn thiện thiết chế về quan hệ lao động để cơ chế ba bên và hai bên phát huy hiệu quả trong việc xây dựng quan hệ lao động lành mạnh. Tăng cường năng lực đối thoại xã hội của các tổ chức đại diện cho các bên tham gia quan hệ lao động, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
3.2.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Việt Nam có thế mạnh là lực lượng lao động trẻ và giá nhân công rẻ, nếu ta chỉ dừng lại ở yếu tố lao động rẻ thì sẽ không thể biến thế mạnh đó thành cơ hội bởi nhiều quốc gia khác đang sẵn sàng cạnh tranh bằng yếu tố này. Lao động rẻ không là lợi thế đối với nước phát triển, sử dụng công nghệ cao. Vì vậy, nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, phát triển vốn con người đây là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam. Nhà nước phải có cơ chế chính sách đồng bộ, lâu dài để giải quyết những yếu điểm về chất lượng lao động, đồng thời phát huy được những thế mạnh của lao động Việt Nam, tạo nên sức cạnh tranh với các nước xuất khẩu lao động và sự hấp dẫn với những nước có nhu cầu lao động nước ngoài.
Chỉ đạo cho các trường dạy nghề tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa dụng cụ, trang thiết bị, cải tiến chương trình và các phương tiện giảng dạy, phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên tham gia thị trường lao động, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề trong quá trình hoạch định chính sách về đào tạo và bồi dưỡng nguồn lực. Cần khuyến khích, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Để cạnh tranh với lao động ở các nước khác, cần chú trọng việc đào tạo những ngành nghề có lợi thế xuất khẩu và phát triển thành ngành nghề xuất khẩu mạnh, mang tính chuyên môn cao.
3.2.1.5.Công tác thực hiện nhiệm vụ và quản lý người lao động:
Chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thường xuyên tổ chức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩch vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tạo nguồn và giới thiệu người lao động có ý thức tổ chức, kỷ luật, chấp hành tốt các quy định của pháp luật để tham gia dự tuyển đi lao động ở nước ngoài. Khen thưởng các đơn vị, cá nhân, gia đình có thành tích xuất sắc trong hoạt động đưa người lao động đi nước ngoài làm việc; công bố công khai danh sách những người bị xử phạt, tạo dư luận xã hội phê phán những người vi phạm; vận động gia đình người lao động vi phạm động viên họ tự nguyện về nước.
Cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, chính sách và phương thức tiếp nhận lao động nước ngoài của các nước để đề xuất với Chính phủ. Hướng dẫn các doanh nghiệp tiếp cận thị trường, ký kết hợp đồng hợp tác lao động theo đúng pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của đại diện các doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài về trách nhiệm pháp lý, xử lý các vấn đề phát sinh đối với người lao động. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động làm việc ở nước ngoài; xử lý đối với hành vi vi phạm của người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo quy định của Việt Nam. Báo cáo về kiến nghị cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết đối với những trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật Việt Nam. Phối hợp với các cơ quan chức năng Việt Nam và nước sở tại, với doanh nghiệp đưa lao động vi phạm về nước.
3.2.2. Về phía người lao động
Người đi xuất khẩu lao động là người hơn ai hết nhận thức đầy đủ về việc đi xuất khẩu lao động của mình. Khi đi phải biết tiếng nước ngoài, phải có tay nghề, phải có chí. Tự mình rèn luyện phẩm chất đạo đức tốt, khi gặp những khó khăn trong công việc đều phải vững vàng tìm cách vượt qua, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có trách nhiệm cộng đồng cao. Không những thế mà còn phải học lấy một nghề, phải tiếp kiệm, vừa có tiền để trả nợ vay khi đi và có vốn khi trở về làm ăn. Tránh tình trạng làm thuê mà ăn tiêu hơn ông chủ như đã từng xảy ra ở một số nơi; tránh tình trạng bỏ trốn hoặc những hành động vi phạm pháp luật của nước sở tại.
Tìm hiểu kỹ chủ trương của Nhà nước và doanh nghiệp mình định tham gia xuất khẩu lao động để tránh những rủi ro có thể xảy ra. Phải bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, chuyên môn khi tham gia xuất khẩu lao động.
Để đảm bảo chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài, hơn ai hết người lao động phải có đủ sức khỏe, tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài.
Muốn đi XKLĐ, việc đầu tiên mà người lao động cần làm là tìm hiểu kỹ thông tin về thị trường đó. Nếu không thể đến đăng ký trực tiếp với doanh nghiệp, người lao động nên đăng ký thông qua sự giới thiệu của cơ quan đoàn thể địa phương nơi mình sinh sống. Người lao động cần yêu cầu công khai các khỏan chi phí phải nộp trước khi quyết định đăng ký.
Bản thân người lao động phải thực hiện đúng các quy định về XKLĐ, không được làm theo kiểu đi tắt, đi cửa sau (để có hiệu quả nhanh hơn) nên vô hình chung đã tiếp tay cho bọn lừa đảo.
3.2.3. Về phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam đưa ra các ý kiến đóng góp và một số thắc mắc phù hợp với thực tế xuất khẩu lao động trong khi xây dựng chính sách
Đơn vị làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động cần phải có chính danh là một doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, thực hiện công khai minh bạch trong lĩch vực này, đồng thời có trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm đối với số lao động do mình đưa đi xuất khẩu. Nghiêm trị những đơn vị làm ăn lừa đảo, vô trách nhiệm đem con bỏ chợ, tạo thành thương hiệu làm ăn có tín nhiệm, từ việc dạy tiếng, dạy nghề, dạy tác phong.
3.2.3.1. Tìm hiểu và mở rộng thị trường:
Các doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm thị trường mới, tiếp thị, học hỏi kinh nghiệm của các nước và từng bước hòa nhập vào thị trường quốc tế. Chấp nhận chi những khoản kinh phí lớn để cử cán bộ đi các thị trường mới, những thị trường được đánh giá là khó tính, để tìm đối tác. Chiến lược thâm nhập vào thị trường nước ngoài phải được xem như một chiến lược toàn diện. Phải đặt ra những mục tiêu, những chính sách để hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ dài. Tuy từng thị trường và đặc điểm của doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức (trực tiếp hoặc gián tiếp qua trung gian) đưa người lao động đi cho phù hợp.
Việc đưa người lao động sang các thị trường mới đòi hỏi phải hết sức thận trọng, phải xem xét kỹ hợp đồng có phù hợp với các quy định của pháp luật nước ta và pháp luật nước nhận lao động hay không, phải tính toán kỹ để hạn chế tối đa các vấn đề có thể phát sinh và rủi ro có thể xảy ra. Các doanh nghiệp phải chủ động đàm phán để đạt được các điều kiện tốt nhất. Giải trình rõ được việc quản lý lao động như thế nào, biện pháp chống lao động bỏ trốn để tạo lòng tin với đối tác.
3.2.3.2. Công tác tuyển chọn, giáo dục và quản lý người lao động:
Các doanh nghiệp trực tiếp tuyển chọn lao động; phối hợp với chính quyền địa phương thông báo công khai về số lượng lao động tuyển chọn, giới tính, độ tuổi, ngành nghề, thời hạn hợp đồng, điều kiện làm việc và sinh hoạt, tiên công, tiền làm thêm giờ và các khỏan thu nhập khác nếu có, bảo hiểm xã hội, các khoản chi phí mà người lao động phải nộp trước khi đi và trong thời gian làm việc ở nước ngoài.
Thị trường Malaysia vẫn là thị trường tiềm năng đối với lao động Việt Nam. Việc Malaysia ngừng tiếp nhận lao động nước ngoài cũng là thời điểm tốt để các doanh nghiệp Việt nam làm tốt công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động, để khi bạn có nhu cầu là có thể đáp ứng ngay. Tuy nhiên, Malaysia vẫn tiếp nhận những lao động có lệnh cấp visa, cho nên các doanh nghiệp vẫn tiếp tục đưa số lao động có diều kiện này di làm việc.
Với những khác biệt của thị trường lao động vùng vịnh nói chung và Ả-Rập Xê-út nối riêng, các doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam sang khu vực này cần rất cẩn trọng và chặt chẽ với những nguời môi giới là người khu vực Tiểu lục địa Ấn Độ, vì họ có rất nhiều thủ đoạn khiến đối tác thua thiệt. Cần tìm cách nghiên cứu trước luật lao động của nước sở tại. Chưa nên đưa lao động nữ sang giúp việc gia đình. Các nghề làm việc ngoài trời (xây dung, cầu đường, vệ sinh đường phố), không đưa lao động sang mùa hè để tránh bị sốc vì nắng nóng đột ngột. Chú trọng cung cấp cho người lao động sự hiểu biết về những điều cấm kị liên quan đến tôn giáo phong tục tập quán. Lao động cần học tiếng Ả-Rập Xê-út ở mức tối thiểu.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia đã góp phần quan trọng trong chiến lược giải quyết và tạo việc làm cho người lao động đồng thời nó mang lại lợi ích kinh tế cho người lao động, cho gia đình họ, cho tổ chức và doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như quốc gia.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và phát triển cả về mặt chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng vốn có của hoạt động này. Có thể thấy mặc dù chất lượng lao động của nước ta ngày càng được nâng cao nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đáng chú ý là công tác quản lý đã được tăng cường nhưng vấn đề rủi ro của các doanh nghiệp và người lao động, vấn đề vi phạm kỷ luật lao động vẫn xảy ra. Công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm còn hạn chế. Pháp luật về xuất khẩu lao động hiện hành đã bước đầu có một số quy định cụ thể nhằm quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế, pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này vẫn còn bất cập và chưa đồng bộ. Điều này gây cản trở lớn cho lao động nước ta khi tham gia thị trường lao động quốc tế và khó có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải có những biện pháp đồng bộ, thống nhất hơn nữa trong đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức của người lao động.
Để phát triển, quản lý chặt chẽ hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và xử lý nghiêm các vi phạm cần thiết phải xây dựng cơ cấu chính sách đồng bộ về hoạt động xuất khảu lao động và chuyên gia. Cần thực hiện tốt Luật xuất khẩu lao động; xử lý các vi pham một cách công khai, minh bạch, làm rõ trách nhiệm quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Khuyến khích ngày càng nhiều người đi làm việc ở nước ngoài với chất lượng cao hơn nhằm giải quyết thất nghiệp trong nước, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam với lao động quốc tế để có thể phát triển và mở rộng thêm thị trường mới đạt được những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tổng kết công tác của cục quản lý lao động ngoài nước
Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của chính phủ
Quyết định số 68/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
Thông tư liên tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 07/11/2003
Luật xuất khẩu lao động Việt Nam
Các trang Web
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6107.doc