Đề tài Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở Việt Nam

Chính sách kinh tế mới của Lênin được vận dụng ở Việt Nam là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tức là kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Qua gần 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Để đạt được những kết quả trên là do Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn vai trò quan trọng của chính sách kinh tế mới đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. Do Đảng ta đã vận dụng một cách khéo léo linh hoạt chính sách trên phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Với chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, phát huy được mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Mở rộng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường đã giúp phần đông lao động nhàn rỗi có việc làm, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Mở rộng quan hệ giao lưu buôn bán với nước ngoài góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu thị trường lao động, và học tập được kinh nghiệm quản lí kinh doanh, khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước. Với những thành tựu đạt được chúng ta thấy rằng việc vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Vì vậy chúng ta cần phải phát huy những mặt tích cực của chính sách này một cách triệt để hơn nữa để kinh tế nước ta phát triển đuổi kịp các nước khác trên thế giới; góp phần xây dựng dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lương thực mà hoàn toàn không phải dùng chế độ cưỡng bức, nông dân hài lòng, công nghiệp nhẹ đang trên đà phát triển, đời sống công nhân được cải thiện, công nghiệp nặng tuy còn khó khăn nhưng đã có sự cải thiện đáng kể vì đã tạo ra được một số vốn nhất định, chính quyền XôViết ngày càng vững vàng. Chính sách Kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa ngay tại thời điểm đó mà nó còn tạo điều kiện cho sự phục hồi kinh tế sau này của Liên Xô sau khi bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá nặng nề và đã đưa Liên Xô trở thành một cường quốc lớn trên thế giới. b. Đối với các nước Xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa với riêng nước Nga mà còn có ý nghĩa quan trọng với nhiều nước phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đó là việc xách định và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế. Qua đó đã cho thấy rằng: trong điều kiện một nền kinh tế có sự tồn tại của nhiều trình độ khác nhau thì việc cho phép tồn tại nhiều loại hình sản xuất kinh doanh (nhiều thành phần kinh tế) sẽ cho phép huy động mọi khả năng để khôi phục và phát triển kinh tế Việc kết hợp giữa kế hoạch và thị trường trong điều tiết kinh tế bằng sự tồn tại của quan hệ hàng hoá- tiền tệ như là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế. Tại Liên Xô thì bộ phận sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản chủ nghĩa hoạt động trên thị trường được nhà nước điều tiết bằng chính sách và pháp luật. Vấn đề vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật của sản xuất, quy luật lưu thông tiền tệ. Cho thấy rằng nếu một nền kinh tế muốn phát triển mà không giải quyết vấn đề tiền tệ thì sẽ gây khó khăn về mọi mặt. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn bằng giải quyết mối quan hệ giữa hai giai cấp công nhân và nông dân. Tạo lên mối liên hệ chặt chẽ giữa hai giai cấp bằng trao đổi buôn bán. c. Đối với Việt Nam. Những tư tưởng cơ bản trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, cho phép tư nhân được tự do kinh doanh dưới sự điều tiết của nhà nước vẫn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới của đất nước đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đó là xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tổng kết của quá trình 15 năm đổi mới bên cạnh những thành tựu đáng kể nước ta vẫn còn có nhiều yếu kém, khuyết điểm :Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả kinh tế thấp, mức sống của phần lớn nhân dân còn thấp … Nước ta hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một biểu hiện rõ rệt của việc áp dụng chính sách kinh tế mới của Lênin trong điều kiện tình hình hoàn cảnh của nước ta hiện nay là hoàn toàn phù hợp. Điều nàyđã thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. B. Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở việt nam. 1. Thực chất của Chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sau chiến tranh nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, hiện nay đang trong thời kì quá độ, mà đặc điểm to lớn nhất của nước ta trong thời kỳ này là nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.”[Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001-trang87] với mục tiêu hàng đầu của sự phát triển kinh tế thị trường nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mội nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cơ sở, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Để đạt được những mục tiêu trên, trong điều kiện của nước ta hiện nay là một vấn đề khá khó khăn. Nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất có nhiều trình độ khác nhau ứng với nó là có nhiều kiểu quan hệ sản xuất khác nhau phù hợp với trình độ của từng lực lượng sản xuất. Nhưng với nhưng nhận thức đúng đắn, và việc áp dụng một cách thích hợp những đặc điểm chủ yếu, tích cực của Chính sách Kinh tế mới phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta vượt qua được những khó khăn trước mắt va đạt được thành công trong tương lai. Điều này được thể hiện trong những tư tưởng và chính sách của Đảng và nhà nước ta đó là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và lần thứ VII đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần kinh tế. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định lại là trong điều kiện nước ta hiện nay nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sáu thành phần kinh tế này cùng tồn tại và phát triển trong một nền kinh tế thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. a. Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là sử hứu toàn dân và sở hữu nhà nước. Kinh tế nhà nước được quan niệm là phần tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Bao gồm: tài nguyên, khoáng sản, đất đai,..là tài sản quốc gia do nhà nước đại diên toàn dân làm chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, chịu sự quản lí trực tiếp của nhà nước. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, là lực lượng quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vừa là một biểu hiện vừa là một điều kiện kiên quyết của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Không củng cố và tăng cường kinh tế nhà nước thì không thể hướng tới chủ nghĩa xã hội. Trong việc củng cố và tăng cường kinh tế chúng ta phải thực hiện tốt nhất nhiệm vụ cấp bách trước mắt là sắp xếp tổ chức lại nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.Đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Làm cho các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế, thực sự phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất và chất lượng hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp nhận pháp luật. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phải được thực hiện theo những hướng sau: Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần phải nắm giữ 100% vốn và quyền kiểm soát. Giao, bán, cho thuê,…các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên. Về mặt quản lý kinh tế, Nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn liền với quyền tự chủ kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường; tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy phải thực hiện tốt và đầy đủ những biện pháp trên thì mới đảm bảo được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Mà kinh tế nhà nước có được vai trò chủ đạo thì mới có thể đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường. b. Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động các hộ sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô lĩnh vực và địa bàn. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tổng kết chuyển đổi và phát triển hợp tác xã theo luật hợp tác xã. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả tư nhân và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn. Họ cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Nguyên tắc phân phối là phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chủ yếu, bao gồm: lợi ích của các thành viên, lợi ích của các tập thể, lợi ích xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên và cho cả xã hội. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tế đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. Thực tiễn những năm đổi mới cho thấy, nước ta quá độ nên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư, vì vậy chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã. Vấn đề đặt ra ở chỗ, từ những tư tưởng cơ bản của Lênin về “chính sách Kinh tế mới” và quan điểm của ông về chế độ hợp tác xã trong nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta phải coi kinh tế hợp tác xã là một tế bào của kinh tế thị trường. Từ đó cho ta thấy: từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta quá độ nên chủ nghĩa xã hội, chúng ta chủ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt các biện pháp quá độ đặc biệt, gián tiếp chứ không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội được. Khi chúng ta chưa có nền công nghiệp đủ lớn, chưa có một nền sản xuất nông nghiệp đủ lớn thì sự tồn tại của thành phần kinh tế hợp tác là hoàn toàn khách quan, và là một tất yếu cần thiết. Hiện nay có nhiều loại hình hợp tác xã ra đời do nhu cầu khách quan của sản xuất trên cơ sở các hộ xã viên tự nguyện tham gia và góp cổ phần, lời ăn lỗ chịu. Vì vậy đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, giải quyết có hiệu quả hơn những việc mà cá nhân một gia đình xã viên không thể giải quyết được. Trong những năm qua ở nước ta, nét nổi bật của các hợp tác xã là chú trọng chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; từng bước khắc phục những thiếu sót trong tổ chức và trong hoạt động. Các hợp tác xã đã xác định lại tài sản, vốn quỹ, thu đủ hoặc tăng thêm vốn góp của xã viên, chấm dứt tình trạng chỉ có ghi vốn trên sổ sách, tích cực thu nợ để bổ sung vốn, quản lý vốn tốt hơn. Nhiêu hợp tác xã đã hoàn thiện phương án sản xuất kinh doanh, mở thêm ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, kết hợp giữa dịch vụ và kinh doanh tổng hợp. Không ít hợp tác xã đã đầu tư lớn, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, tạo ra giá trị sản phẩm hàng tỷ đồng, sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao động. Một số loại hình hợp tác xã mới ra đời mang tính đa dạng bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của các kinh tế nông hộ trong nông nghiệp. Nhiều mô hình hợp tác xã mới đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Kinh tế hợp tác ngày càng phát triển, góp phần làm tăng thu nhập cho nhân dân. ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phải dựa trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ trang trại, phát triển gắn liền với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, không ngừng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của kinh tế tập thể trong điều kiện nước ta hiện nay rất cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự hỗ trợ của Nhà nước. Bởi vậy, phải tăng cường lãnh đạo chỉ đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt luật hợp tác xã. c. Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư tiệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ là thành phần đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết nhiều việc làm cho người lao động- một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế, vừa giải quyết được nhiều việc làm cho đời sống xã hội. Trong những năm qua, thành phần kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ngư nghiệp tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ. Nó đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế- xã hội. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, kinh tế các thể tiểu chủ cho dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Do đó Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm “nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển hơn nữa” [Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang98]. d. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhiện nay thành phần kinh tế này có vai trò rất quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế năng động nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học công nghệ …cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả…là những hiện tượng thường xảy ra ở thành phần kinh tế này. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế này. Như chính sách của Đảng ta là:“khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.” [Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang98,99]. Kinh tế tư bản tư nhân phải được tạo điều kiện khuyến khích tồn tại phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay. Theo tư tưởng của Bác Hồ về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở nước ta thì: Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế của giai cấp tư bản dân tộc. Có bóc lột đối với công nhân nhưng cũng góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời còn non yếu. Tuy nhiên “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ”. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, sử dụng khoa học kỹ thuật … “nên Chính phủ cần trợ giúp họ phát triển. Nhưng phải phục tùng nền kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”. Theo nội dung của Chính sách kinh tế mới của Lênin thì phát triển kinh tế tư bản tư nhân không phải là quay về chủ nghĩa tư bản mà chỉ là lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế đất nước, thực chất là giành lấy những thành tựu vế khoa học kỹ thuật công nghệ, văn hoá, giáo dục của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta phải ta phải tạo mọi diều kiện cho chủ nghĩa tư bản tư nhân phát triển trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Nhưng phải đặt sự phát triển của thành phần kinh tế này dưới vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng ta. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt hạn chế nhữnh mặt tiêu cực của nó và dần dần có thể cưỡng bức họ phát triển theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Để làm được điều này đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo. Nhà nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế; cán bộ, Đảng viên của Đảng phải có phẩm chất, đạo đức lối sống trong sáng, phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh. e. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp đó là sự kết hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước trong các quá trình phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh. Hình thức biêủ hiện của thành phần kinh tế này là các doanh nghiệp liên doanh giữa nhà nước với các nhà tư bản mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham gia đầu tư kinh doanh nhưng phải dưới sự kiểm kê kiểm soát của nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mà Lênin rất coi trọng trong điều kiện một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin thành phần kinh tế này là Nửa xã hội chủ nghĩa và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở đó giai cấp công nhân phải chấp nhận để giai cấp tư sản bóc lột để một mức độ nào đó để học tập kinh nghiệm của nó. Lênin coi đó là sự trả học phí cho giai cấp tư sản. Hồ chí minh cũng rất coi trọng thành phần kinh tế này. Theo Bác: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn không cho họ bóc lột quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Điều này dã nói nên sự khác nhau cơ bản giữa nhà tư bản trong chủ nghĩa tư bản với nhà tư bản trong chủ nghĩa xã hội. Nó cũng thể hiện vai trò lãnh đạo của nhà nước đối với thành phần kinh tế này. Thành phần kinh tế này có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó giúp chúng ta tranh thủ được vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản, đặc biệt là tư bản nước ngoài; tạo được việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống của nhân dân. Thực tiễn của công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trong những năm qua đã chứng minh rằng: trong bối cảnh quốc tế hiện thời chúng ta không thể có đủ điều kiện để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối phát triển đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, việc tận dụng chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước, nhất là hướng nó vào con đường phát triển kinh tế tư bản nhà nước, lấy kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện để tăng nhanh lực lượng sản xuất, là một con đường triển vộng nhất và hiện thực nhất.Dưới hình thức kinh tế này chúng ta chúng ta chẳng những thu hút được những nhà tư bản nước ngoài đàu tư vào phát triển kinh tế nước ta mà còn thu hút được các nhà tư bản trong nước hùn vốn liên doanh liên kết và qua đó thúc đẩy kinh tế tư nhân tư bản phát triển hơn nữa. Phát triển thành phần kinh tế này giúp chúng ta tận dụng được các điều kiện thuận lợi ở bên ngoài đồng thời giữ được độc lập tự chủ, thực hiện hợp tác bình đẳng cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau. f. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể có 100% vốn đầu tư nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của ta. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “ tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài” [Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang99]. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong và ngoài nước.Phát triển mạnh mẽ hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nông thôn. Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn. 2. Sự phát triển sáu thành phần kinh tế trên dựa các hình thức sở hữu sau: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,sở hữu hỗn hợp, sở hữu cá thể. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Do đó trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,sở hữu hỗn hợp,sở hữu cá thể. Trong mỗi loại hình sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau vì thế trong nền kinh tế cũng vẫn còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân. Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất không tồn tại biệt lập mà đan xen và tác động lẫn nhau. Đa dạng hoá sở hữu, hay sự tồn tại của một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu là vấn đề tất yếu khách quan, lâu dài và xã hội càng phát triển thì càng có nhiều hình thức sở hữu, đó là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì mối quan hệ giữa người với người với người ngày càng phong phú. Vì vậy xã hội ngày càng phát triển thì ngày càng có nhiều hình thức sở hữu. ở nước ta trong những năm trước đây chúng ta đã ồ ạt tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới, để khắc phục hiện trạng đó, bằng cách thừa nhận vai trò của chế độ tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là bước ngoặt có tầm vóc chiến lược, thể hiện sự đổi mới của Đảng ta. Trong điều kiện nước ta hiện nay có nhiều loại hình sở hữu. Sở hữu không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sở hữu nhà nước được thiết lập trước hết đối với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các nguồn tài nguyên, các tài sản quốc gia…Sở hữu nhà nước còn được thiết lập trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: ngân hàng bảo hiểm, sản xuất và cung cấp điện … Đây là một trong các hình thức sở hữu cơ bản giữ vai trò chủ đạo trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Nhà nước ta là người chủ của hình thức sở hữu này. Hình thức sở hữu tư nhân là một trong những hình thức sở hữu cơ bản tồn tại trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Những tài sản vốn liếng của thành phần kinh tế này thuộc về các chủ thể tư nhân vừa và nhỏ và hộ cá thể. Hiện nay hình thức sở hữu này không còn là hình thức thống trị nhưng vẫn tồn tại đan xen với sở hữu nhà nước kể cả trong các lĩnh vực kinh tế then chốt như ngân hàng, bảo hiểm… Hình thức kinh tế này trong một thời gian dài hầu như không tồn tại ở rnước ta, nếu có thì cũng không đáng kể. Nó mới chỉ được phục hồi và phát triển trong thời gian gần đây. Hình thức này nếu xét theo tiêu thức có hay không có quan hệ quan hệ bóc lột người có thể chia thành hai hình thức sở hữu là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và hình thức sở hữu cá thể. Trông nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì thành phần kinh tế này phải hoạt động tuân theo pháp luật. Nhà nước điều tiết chung và hướng dẫn chúng bằng pháp luật. Hình thức sở hữu này ở nước ta cần được khuyến khích phát triển, nhất là trong giai đoạn hiện nay; đồng thời từng bước hướng hướng hình thức sở hữu này đi vào các dạng khác nhau của hình thức sở hữu tư bản nhà nước. Hình thức sở hữu tư bản nhà nước là hình thức mà nhà tư bản, trong nước và ngoài nước cùng góp vốn với nhà nước để sản xuất kinh doanh. Cả hai đều là chủ sở hữu. Trong thời kỳ chính sách kinh tế mới của Lênin ở Liên Xô trước đây, Lênin quan niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là mối quan hệ giữa nhà nước với nhà tư bản về sở hữu vốn, mà còn là mối quan hệ về sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước đối với tư nhân. Vì vậy hình thức sở hữu tư bản nhà nước phải có nội dung và phạm vi rộng lớn, nó gồm tất cả các nội dung: liên doanh liên kết, hỗn hợp, sở hữu tập thể của các hợp tác xã, sở hữu cổ phần trong các công ty cổ phần … Các hình thức sở hữu là cơ sở thực hiện lợi ích của cá chủ thể và tác động với nhau trên tất cả các phương diện tổ chức quản lý, phân phối thu nhập, năng suất…Lợi ích của các chủ thể còn đòi hỏi các hình thức sở hữu liên kết với nhau và từ đó, hình thức sở hữu hỗn hợp xuất hiện. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hoá trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi.Theo nguyên tắc trên, sản xuất và trao đổi chỉ có thể xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế có ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ sự trao đổi đó. Trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu nhưng nền tảng của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân,sở hữu tập thể sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp …song chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Các hình thức sở hữu trên có mối liên hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau, tạo cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong mối quan hệ đó, sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nó góp phần giữ thế ổn định để phát triển tổng thể nền kinh tế quốc dân theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân có vai trò quan trọng, nhất là ở nước ta sau những năm dài xoá bỏ nó nên được khuyến khích phát triển và được coi là một trong những động lực của nền kinh tế đang trong thời kì quá độ như nước ta. Sở hữu nhà nước giữ vai trò trung gian, quá độ mang tính phổ biến và tính linh hoạt cao, có tác dụng phát triển rút ngắn nền kinh tế về mặt thời gian, đưa nước ta từ một nước lạc hậu thành nước kinh tế phát triển theo định hướng kinh tế đã chọn. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nên nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, chúng ta phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác để trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có lãi hoặc ít lãi. 3. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. a. Sử dụng các quy luật kinh tế. Kinh tế hàng hoá là cách tổ chức kinh tế xã hội trong đó có quan hệ kinh tế giữa con người với nhau biểu hiện qua trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường. Trên cơ sở phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, kinh tế hàng hoá cũng ngày càng được mở rộng. Kinh tế hàng hoá ra đời tồn tại và phát triển qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Điều kiện ra đời của nó bao gồm: phân công lao động và sự tách biệt của các chủ thể kinh tế. Nền kinh tế hàng hoá chịu sự tác động của các quy luật: - Quy luật giá trị: sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá mỗi người sản xuất phải tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy muốn bán được hàng hoá bù đắp được chi phí và có lãi người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Quy luật giá trị giúp điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, nó biểu hiện thông qua giá cả của hàng hoá trên thị trường. - Quy luật cung cầu: là quy luật trực tiếp quyết định giá trị của mọi loại hàng hoá. Nó góp phần điêù chỉnh độ chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường. Sự biến đổi tương quan của quan hệ cung cầu dẫn đến sự nên xuống của giá trị thị trường. quy luật cung cầu của cơ chế thị trường trên nền tảng tự do kinh doanh, cạnh tranh tự do vừa tự điều chỉnh, vừa tự bảo vệ, vừa tự huỷ hoại môi trường kinh doanh. - Quy luật cạnh tranh: là quy luật về phương thức hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành lợi ích tối đa cho mình. Đây là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất trao đổi hàng hoá ở đó có cạnh tranh. Cạnh tranh giúp phân bổ lại các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu, giúp kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vì vậy cạnh tranh là một tất yếu không thể tránh khỏi. Vì thế để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa chúng ta phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch, chuyển đổi cao trên mọi phương diện từ thành phần kinh tế, ngành nghề sản xuất, lĩnh vực kinh doanh, quan hệ đầu tư, tiêu dùng tiết kiệm và đầu tư bao hàm cả đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài. Không chỉ dừng lại ở mức năng động là tái thiết cơ cấu nền kinh tế theo nghĩa tích cực, mà nền kinh tế thị trường đang phơi mình trước lối kinh doanh chụp giật của nó. Con người nhìn thấy, thừa nhận thất nghiệp cơ cấu thì cũng phải chấp nhận những biến đổi mang tính chất cơ cấu này, ở mức tồi tệ là khủng hoảng cơ cấu,chu kỳ kinh tế có thể xảy ra. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu cơ cấu kinh tế khi kết thúc thời kì quá độ cần đạt tới là hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp –dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sôi động. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. - Về cơ cấu kỹ thuật công nghệ: thực hiện sự kết hợp giữa hiện đại với truyền thống dân tộc, tạo nên mô hình hiện đại hoá thích hợp. Hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ truyền thống bằng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hướng về xuất khẩu thay rhế nhập khẩu nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các nước trên thế giới, muốn vậy công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với đi tắt đón đầu. - Về cơ cấu ngành kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công nông nghiệp dịch vụ và nông công nghiệp dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong hệ thống cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quyết định. Chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở cơ khí hoá nền sản xuất và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại tiến tới hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá trên tất cả các ngành kinh tế nhưng trước hết trong ngành sản xuất tư liệu sản xuất theo các quá trình cơ giới hoá, điện khí hoá, tự động hoá vì vậy chúng ta phải phát triển khoa học công nghệ. Theo phướng hướng trên, chúng ta phải quan tâm đến công nghiệp hoá đi liền với hiện đại hoá, phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Mở rộng thương mại và dịch vụ, du lịch ở cả thành thị và nông thôn. - Về cơ cấu kinh tế lãnh thổ: khai thác các thế mạnh riêng có của từng ngành trên các lãnh thổ. Khai thác thế mạnh và sức mạnh tổng hợp của các vùng kinh tế như: đồng bằng, trung du miền núi, ven biển…trong đó tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế, các thành phố, bến cảng lớn …quan trọng đối với nền kinh tế cả nước và các địa phương trên lãnh thổ đó. Xây dựng cơ cấu kinh tế về lãnh thổ phải đi từ thấp đến cao, từ các trọng điểm đến đồng bộ, toàn bộ, và sự đồng bộ của của các cơ cấu trong bộ phận trong hệ thống cơ cấu lãnh thổ. - Về cơ cấu lao động: cần tổ chức sắp xếp phân công và phân bổ lại lực lượng lao động hiện có theo hướng chuyển dịch đã được xác định là: coi trọng tính đồng bộ về cơ cấu lao động giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp dịch vụ, nâng cao chất lượng lao động trong ngành kinh tế thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng mở giữa các vùng miền trong nước và xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Chuyển dịch cơ cấu theo lao động phải gắn liền với giáo dục đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đó là phải giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng công nghiệp và đặc biệt là dịch vụ trong GDP. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý: đáp ứng đúng xu thế của thời đại, phù hợp với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan đặc biệt là các quy luật kinh tế thị trường và quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta trong thời kỳ quá độ hiện nay được xác định là cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại kết hợp với phân công lao động và hợp tác quốc tế. Xây dựng xong cơ cấu này chúng ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội. c. Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường trong thời kỳ hiện nay. Trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch sang cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam, các loại thị trường đang từng bước được hình thành như thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường hàng hoá dịch vụ,…các loại thị trường ở nước ta mới hình thành nên còn sơ khai và còn nhiều yếu tố tiềm ẩn đan xen chủ quan và khách quan. Thị trường chưa được hình thành một cách đồng bộ xét về tất cả các mặt. Một số loại thị trường như thị trường hàng hoá và dịch vụ thông thường đã phát triển nhanh chóng và phát huy được hiệu quả. Nhà nước chỉ còn can thiệp vào giá một số loại hàng hoá dịch vụ như xăng dầu, điện nước và một số cước phí của các loại hàng hoá do nhà nước nắm độc quyền. Thị trường lao động sơ khai tự phát hình thành ở nước ta dưới nhiều hình thức thuê mướn lao động cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế cá thể và tư nhân. Thị trường tài chính tiền tệ cũng được ra đời và phát triển nhờ quá trình cải cách hệ thống ngân hàng. Đặc biệt là từ năm 1990, thị trường này có bước phát triển mới, với các loại thị trường cụ thể như: thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán… Thị trường bất động sản hình thành và hoạt động rất mạnh. Thị trường khoa học công nghệ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên ở nước ta thị trường này mới hình thành và còn ở trình độ thấp. Trong khi đó vẫn còn có một số loại thị trừơng còn rất sơ khai hoặc hình thành một cách chưa đầy đủ và bị biến dạng, có thị trường bị bóp méo nhà nước khó kiểm soát. Vì vậy ở nước ta hiện nay phải phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Mở rộng giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới, mở rộng thị trường quốc tế, đầu tư ra nước ngoài và thu hút đầu tư vàoViệt Nam. Để phát triển đồng bộ hệ thống thị trường nhà nước cần tạo ra môi trường, thể chế phát triển đồng bộ các loại thị trường, phát triển các tổ chức hỗ trợ thị trường, tôn trọng các loại cạnh tranh thị trường vì có cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới tồn tại và phát triển được d. Trong điều kiện nước ta hiện nay, vận dụng chính sách kinh tế mới để phát triển xây dựng các chính sách phát triển kinh tế là một tất yếu. Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa Xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, hơn nữa nước ta lại mới thoát khỏi chiến tranh, đất nước còn rất nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, đời sống nhân dân khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém … Vì vậy các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta phải góp phần phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện: “chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.”[Đảng cộng sản Việt Nam – văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang87]. Nội dung của chính sách kinh tế mới được áp ụng ở Việt Nam một cách linh hoạt, khéo léo phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Vì nước ta và nước Nga trong những năm áp dụng chính sách mới của Lênin hoàn toàn khác nhau về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị. Nhưng cả hai nước đều chung mục đích là xây dựng một nền kinh tế phát triển ổn định, và cơ sở vật chất của để tiến lên chủ nghĩa Cộng sản một xã hội tốt đẹp nhất từ trước đến nay.Việc áp dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay là việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển một cách cao nhất. Các thành phần kinh tế được tự do phát triển nhưng dưới vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng chính sách và pháp luật, nhà nước giữ vai trò chủ đạo chung, nêu ra định hướng, đường lối phát triển chung cho tất cả các ngành kinh tế, còn các doanh nghiệp tự quyết định và chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhưng phải đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách thuận lợi và phát triển đúng định hướng Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt sắc tộc tôn giáo, thể chế chính trị, chế độ xã hội; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam, ban hành cơ chế, chính sách đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư vào trong nước để học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh, khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến của các nước tiên tiến để phát triển kinh tế nước ta. Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường trong nước và quốc tế. Sau gần hai mươi năm đổi mới chúng ta đã thu được những thành tựu đáng kể về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Đời sống nhân dân được nâng cao một bước cả về vật chất và tinh thần. 4. Kết quả. Việc áp dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam thông qua đường lối chính sách của Đảng đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã tổng kết kết quả của 15 năm đổi mới. Bên cạnh những một số thuận lợi nước ta cũng gặp rất nhiều khó khăn: Những yếu kém vốn có của nền kinh tế, thiên tai lớn liên tiếp, khủng hoảng tài chính, kinh tế ở một số nước châu á, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp có ảnh hưởng rất lớn đến nước ta, tuy vậy chúng ta cũng thu được những thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản xuất lương thực. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm là 13,5%. Hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng được phát triển, tăng cường. Các ngành dịch vụ nhập khẩu và xuất khẩu đều được tăng cường. Năm 2000 đã chặn được đà giảm xút mức tăng trưởng kinh tế. Các chỉ tiêu chủ yếu đươc đề ra ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đều đạt hoặc vượt mức đề ra. Văn hoá xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện: Giáo dục đào tạo phát triển về cả quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được tăng lên. Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân được đáp ứng tốt hơn. Mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động có việc làm. Công tác xoá đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt được những kết qua nổi bật. Các hoạt động uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các lão thành cách mạng, người có công với cách mạng … đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân. Tình hình kinh tế chính trị – xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường : các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn, vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới hải đảo được phát huy.Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có nhiều tiến bộ. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố: Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thực hiện phê bình và tự phê bình theo tinh thần của nghị quýêt trung ương 6 (lần 2) khoá VIII. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính quốc gia được cải cách một bước. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại không ngừng được mở rộng, hộ nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt đẹp: Nước ta tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước Xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các quốc gia đông nam á(ASEAN), và diễn đàn hợp tác châu á- thái bình dương (APEC); tăng cường hợp tác quan hệ với các quốc gia phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác; có quan hệ thương mại thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài. Đảng ta tiếp tục củng cố tình đoàn kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền ở một số nước. Những thành tựu của nước ta trong những năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. III. Kết luận 1. Những tư tưởng trong chính sách kinh tế mới thể hiện một tư tưởng lớn của thời đại Lênin – người thầy, người bạn tuyệt vời của nhân dân việt Nam cũng như nhân dân và giai cấp công nhân toàn thế giới. Những tư tưởng lớn của Người đã giúp giai cấp công nhân nhận thức rõ hơn vai trò quan trọng của mình trong việc giải phóng chính mình và giải phóng giai cấp cần lao toàn thế giới và sự phát triển của nhân loại. Đối với nước Nga sau cách cuộc nội chiến đầy ác liệt, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, kinh tế hoàn toàn trì trệ và gần như lâm vào tình trạng khủng hoảng. Việc Lênin đề ra chính sách kinh tế mới và áp dụng nó vào thực tiễn đã đưa kinh tế nước Nga lúc bấy giờ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảngvà có bước phát triển quan trọng không chỉ trong hiện tại mà sự phát triển của nước Nga lúc bấy giờ đã tạo nên tiền đề kinh tế xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật quan trọng trong tương lai. Với chính sách mở cửa thị trường, phát triển kinh tế thị trường, cho các thành phần kinh tế tự do phát triển nhưng vẫn có sự chỉ đạo của nhà nước, mở rộng quan hệ hàng hoá- tiền tệ… và những chính sách kinh tế xã hội khác phù hợp với tình hình đất nước đã thúc đẩy nền kinh tế Nga phát triển. Đối với Việt nam và một số nước khác trên thế giới đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng lớn của Lênin trong chính sách kinh tế mới là vô cùng quan trọng. Tuy mỗi nước có một điều kiện, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nhưng những tư tưởng trên đã được vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện của mỗi nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế các nước này phát triển theo đúng con đường Xã hội chủ nghĩa mà mình đã lựa chọn. Vì vậy ta có thể kết luận rằng: chính sách kinh tế mới thể hiện một tư tưởng lớn của thời đại. Từ năm1921 đến nay nó vẫn còn tác dụng to lớn đối với tất cả các nước Xã hội chủ nghĩa. 2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Chính sách kinh tế mới của Lênin được vận dụng ở Việt Nam là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tức là kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Qua gần 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Để đạt được những kết quả trên là do Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn vai trò quan trọng của chính sách kinh tế mới đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. Do Đảng ta đã vận dụng một cách khéo léo linh hoạt chính sách trên phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Với chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, phát huy được mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Mở rộng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường đã giúp phần đông lao động nhàn rỗi có việc làm, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Mở rộng quan hệ giao lưu buôn bán với nước ngoài góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu thị trường lao động, và học tập được kinh nghiệm quản lí kinh doanh, khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước. Với những thành tựu đạt được chúng ta thấy rằng việc vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Vì vậy chúng ta cần phải phát huy những mặt tích cực của chính sách này một cách triệt để hơn nữa để kinh tế nước ta phát triển đuổi kịp các nước khác trên thế giới; góp phần xây dựng dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tài liệu tham khảo Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX- Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội,2001. Bộ giáo dục đào tạo – giáo trình Kinh tế chính trị Mac- Lênin- Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội,2003. V.I.Lênin. Toàn tập- Nxb Tiến bộ, tập 43, tập 36. Tạp chí Cộng sản 2000,2001,2002-cơ quan ngôn luận và chính trị của TƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tạp chí lý luận chính – Tạp chí nghiên cứu của học viện chính trị Quốcgia Hồ Chí Minh. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35637.doc
Tài liệu liên quan