Đề tài Vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước để phát triển hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Trong phạm vi bài viết này trên cơ sở phân tích thự trạng cũng như xu hướng quản lý chính sách lãi suất của NHNN, người viết mong muốn có những đóng góp nhất định đối với NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng trong việc xây dựng một chính sách lãi suất đảm bảo được các yêu cầu nói trên.

doc92 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước để phát triển hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân cư, các tổ chức kinh tế và tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm trong dân cư là một bộ phận rất nhạy cảm lại chịu nhiều quy chế quản lý như tỷ lệ dự trữ bắt buộc... nên khoản này chiếm tỷ lệ còn nhỏ trong cơ cấu vốn huy động. Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế chiếm phần quan trọng hơn.Theo qui định thì các tổ chức dân cư đều được phép mở tài khoản nhiều Ngân hàng, hơn nữa đứng về phía Ngân hàng, tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp là khoản không chịu ảnh hưởng sự biến động của tỷ giá (không chịu rủi ro về tỷ giá).Do đó ngày nay chi tiêu này được sử dụng để đánh giá qui mô khách hàng. Ngoài ra, vốn đi vay từ các Ngân hàng khác trên thị trường liên Ngân hàng và uỷ thác cũng là nguồn cấu thành nên vốn hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội. Các mặt hoạt động khác của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội: Ngay từ buổi đầu thành lập Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã chọn thị trường các doanh nghiệp quân đội là thị trường chính. Với hơn 75% đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp quân đội. Ngân hàng đã thực sự góp phần không nhỏ tăng trưởng kinh tế khu vực này. Bên cạnh làm tăng lợi nhuận của chính mình, Ngân hàng đã góp phần mở rộng thị trường các doanh nghiệp quân đội, hàng trăm công trình các đơn vị quân đội trúng thầu thi công, rất nhiều thiết bị hiện đại trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng, khai thác mỏ, sản xuất công nghiệp, được đầu tư bằng vốn Ngân hàng đang được khai thác rất có hiệu quả. Ngân hàng đã và đang từng bước mở rộng thị trường, thực hiện mục tiêu đa năng. Nghiệp vụ thanh toán và các dịch vụ đang dần dần hình thành uy tín của Ngân hàng và tạo được sự tín nhiệm với khách hàng ngoài quân đội như các doanh nghiệp thuộc bộ thương mại, bộ văn hoá...đến nay đã và đang góp phần đem lại thành công cho Ngân hàng trong hoạt động mở rộng thị trường. Về hoạt động quan hệ quốc tế, chúng ta thấy quan hệ quốc tế phục vụ rất nhiều công tác hỗ trợ doanh ghiệp tham gia xuất nhập khẩu. Ngoài việc phát triển quan hệ đại lý với hơn 100 Ngân hàng của các nước trên thế giới, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội ngày càng có uy tín trong quan hệ đối ngoại, mặc dù uy tín chung của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam có phần giảm sút do nhiều nguyên nhân, dẫn đến một số Ngân hàng nước ngoài dè dặt thận trọng thậm chí đình chỉ các quan hệ. Nhưng thực tế cho thấy Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã và đang từng bước vượt qua những mặc cảm về một Ngân hàng cổ phần bằng chính những cố gắng của bản thân để đảm bảo uy tín trong kinh doanh. Với một thái độ nghiêm túc sòng phẳng, giữ vững các cam kết và theo đúng các thông lệ quốc tế, trong ba năm qua đã có nhiều Ngân hàng nước ngoài hỗ trợ tích cực cho việc mở rộng kinh doanh của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội thông qua việc cung cấp hạn mức tín dụng, nghiệp vụ bảo lãnh, cung cấp thông tin miễn phí, đào tạo cán bộ, đặc biệt là các Ngân hàng lớn như HongKong Bank, CityBank, ANZ, BHF, ABD AmoBank.... III. Vận dụng chính sách lãi suất của nhà nước nhằm phát triển hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội. Trong phần I chương II và phần I chương III chúng ta đã xem xét thực trạng tình hình quản lý lãi suất của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua cũng như một số định hướng xây dựng chính sách lãi suất trong thời gian tới. ở phần này chúng ta sẽ tập trung xem xét trên cơ sở chính sách lãi suất hiện hành của Ngân hàng Nhà nước cũng như một số định hướng quản lý trong tương lai thì các Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội nói riêng sẽ có những biện pháp và kỹ thuật gì để sử dụng công cụ lãi suất của mình một cách có hiệu quả nhằm không ngừng thúc đẩy hoạt động của Ngân hàng. 1. Sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt: Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1988) là một mốc quan trọng đánh dấu sựchuyển biến của nền kinh tế nước ta từ cơ chế quản lý tập trung theo kế hoạch và mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta thừa nhận và tôn trọng các qui luật vận động của một nền kinh tế thị trường, chính vì vậy, trong điều hành nền kinh tế, các cơ chế quản lý mang tính chất mệnh lệnh, hành chính đã dần dần được loại bỏ, các điều kiện của một nền kinh tế thị trường đang dần dần được hình thành trên cơ sở có sự vận động của các qui luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường. như qui luật cung cầu, qui luật giá trị...Thực hiện chủ chương này chính sách tiền tệ nói chung và chính sách quản lý lãi suất nói riêng của Ngân hàng Nhà nước đã từng bước được điều chỉnh theo hướng dỡ bỏ dần sự áp đặt chủ quan của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện chủ động hơn cho các Ngân hàng Thương mại trong việc định giá kinh doanh của mình. Định hướng xây dựng một chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá, lãi suất được hình thành trên cơ sở cung cầu về vốn trên thị trường đã được thể hiện rõ và thực hiện từng bước trong đó lãi suất cơ bản đã được đề cập đến ở trên sẽ là một bước trung gian để tiến đến tự do hoá ở nước ta. Như vậy là chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã phần nào có định hướng rõ ràng. Vấn đề là các Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội nói riêng sẽ vận hành chính lãi suất của mình như thế nào? Thực tế cho thấy công cụ lãi suất linh hoạt được rất nhiều Ngân hàng Thương mại áp dụng thành công. Công cụ lãi suất linh hoạt là một tập hợp các biện pháp và kỹ thuật khác nhau mà Ngân hàng sử dụng nhằm thu được lợi ích tốt đa, nó bao gồm các biện pháp sau: 1.1 áp dụng các mức lãi suất trên cơ sở phân loại khách hàng Mỗi một khách hàng đến với Ngân hàng có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau về ngành nghề sản xuất kinh doanh (lĩnh vực hoạt động), về tư cách pháp nhân cũng như khả năng tài chính, về điều kiện thị trường hiện tại cũng như xu hướng phát triển của các ngành nghề, lĩnh vực đó trong tương lai. Ngược lại, về phía các Ngân hàng Thương mại, mỗi Ngân hàng có một thế mạnh riêng về huy động cũng như cho vay, trên cơ sở các điều kiện nội tại của mình mỗi Ngân hàng sẽ có một chính sách khách hàng, một thị trường mục tiêu khác nhau trong những giai đoạn thời kỳ khác nhau. Chính vì vậy trong mỗi một thời kỳ nhất định Ngân hàng phải xác định cho mình một mục tiêu nhất định, đồng thời có thái độ ứng xử thích hợp với từng đối tượng khách hàng đặc biệt là vấn đề giá cả hay lãi suất cho vay. Đối với các khách hàng khác nhau sẽ áp dụng các mức lãi suất khác nhau, chẳng hạn như với các khách hàng truyền thống, làm ăn có uy tín luôn thanh toán sòng phẳng, hoặc những khách hàng lớn có xu hướng phát triển tốt trong tương lai mà Ngân hàng cần phải duy trì mối quan hệ, thì Ngân hàng cần áp dụng một mức lãi suất ưu đãi hơn, hoặc vẫn áp dụng những mức lãi suất chung, nhưng có những phần thưởng nhất định chẳng hạn như áp dụng một tỷ lệ chiết khấu nhất định khi khách hàng thanh toán nợ. Cũng có những doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt trong tương lai nhưng hiện tại do một số điều kiện nào đó khách hàng đang gặp khó khăn thì ngân hàng có thể tạo điều kiện giúp đỡ khách hàng thông qua công cụ lãi suất của mình, làm được điều này, không những Ngân hàng đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, khách hàng mà còn tạo ra một mối quan hệ tốt, tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng. 1.2 Lãi suất để thâm nhập thị trường mới Chúng ta thấy rằng hiện nay khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội là các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế, đây chính là thị trường mục tiêu của Ngân hàng bởi lẽ, các doanh nghiệp này không chỉ là đối tượng chính Ngân hàng phục vụ mà còn là các cổ đông quan trọng hình thành nên nguồn vốn của Ngân hàng. Tuy nhiên, với mục tiêu không ngừng mở rộng thị trường và đa dạng hoá các loại hình hoạt động của mình, đòi hỏi Ngân hàng phải từng bước và thận trọng thâm nhập vào các ngành các lĩnh vực mơi đặc biệt là các ngành có triển vọng tốt trong tương lai. Để làm được điều này thì lãi suất xẽ là một công cụ quan trọng giúp cho Ngân hàng thực hiện mục đích của mình, khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất kỹ thuật, địa bàn hoạt động cũng như khả năng tài chính của mình. 1.3 áp dụng chính sách lãi suất biến đổi Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường đầy biến động, không ai có thể dám chắc được điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, thị trường càng phát triển thì mức độ biến động của nó càng cao điều đó có nghĩa là mỗi một khoản huy động, cho vay hay đầu tư đều chứa đựng những yếu tố rủi ro bất định không thể đoán biết trước điều này có thể đem lại thiệt hại cho Ngân hàng cũng như khách hàng khi áp dụng các mức lãi suất cố định. Để góp phần bảo vệ lợi ích của khách hàng cũng như Ngân hàng, tránh các rủi ro bất định xảy ra do tác động của thị trường, đồng thời tạo ra tâm lý yên tâm của khách hàng khi gửi tiền cũng như vay tiền của Ngân hàng. Nên chăng Ngân hàng áp dụng cơ chế lãi suất có thể thay đổi theo những biến động của thị trường nhằm bảo vệ giá trị thực cho các tài sản. Chẳng hạn một khách A có một khoản tiền nhất định gửi vào Ngân hàng với lãi suất 10%/năm trong khi tỷ lệ lạm phát cùng thời kỳ là 5% khi đó lãi suất thực dự tính mà khách hàng được hưởng là (10% - 5% = 5%). Nếu vào thời điểm khách hàng nhận tiền lãi tỷ lệ lạm phát lên đến 8%/năm thì lãi suất thực mà khách hàng được lĩnh là ( 10% - 8% = 2%). Như vậy là giá trị thực tế tài sản dự tính của họ giảm xuống (5% - 2% = 3%). Do đó để bảo vệ lợi ích cuả người gửi tiền cũng như tâm lý ổn định, Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất thay đổi trong trường hợp này lãi suất của Ngân hàng có tính đến sự gia tăng của tỷ lệ lạm phát tức là bằng 10% + 3% = 13% khi đó lãi suất thực mà khách hàng được hưởng được duy trì ở mức 5% (13% - 8% = 5%). 1.4 Sử dụng kỹ thuật kéo dài thời hạn của các nguồn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn Do đặc tính vốn có của các khoản tiền gửi và cho vay có kỳ hạn ngắn thì sẽ có mức lãi suất thấp, còn các kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao (điều này đã được làm rõ trong phần cơ sở lý luận), chính vì vậy nếu một Ngân hàng có thể huy động được càng nhiều nguồn vốn ngắn hạn ổn định (có lãi suất thấp) thì có thể sử dụng nguồn vốn ngắn hạn ổn định để cho vay dài hạn (có lãi suất cao) do đó có thể làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng. Vấn đề này được đưa ra trên cơ sở phân tích sự chênh lệch của các khoản tiền gửi bởi lẽ, tại Ngân hàng, ở mọi thời điểm, luôn có sự chênh lệch số dư giữa tiền gửi ngắn hạn và luồng tiền đến hạn, ngắn hạn rút ra vậy Ngân hàng có thể sử dụng số chênh lệch số dư này để cho vay trung dài hạn. Hoặc trên cơ sở phân tích khoảng thời gian thực tế của các khoản tiền gửi tại Ngân hàng, chẳng hạn như một khách hàng gửi một món tiền có kỳ hạn 6 tháng uy nhiên đến kỳ hạn mà lãi cứ nhập vào vốn mà không rút ra trong 3 năm, do đó kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi này là 3 năm. Vậy đây là khoản huy động ngắn hạn nhưng thực tế Ngân hàng có thể sử dụng để cho vay trung dài hạn. Vấn đề là ở chỗ Ngân hàng sẽ làm gì để hoán chuyển và kéo dài kỳ hạn thực tế của các khoản tiền gửi ngắn hạn. Hiện nay, tiền gửi giao dịch, thanh toán thông qua tài khoản ở Ngân hàng của khách hàng được xem là nguồn huy động có chi phí thấp, ở các nước thị trường phát triển các Ngân hàng Thương mại phát hành thẻ giao dịch đẻ thanh toán cho khách hàng chẳng hạn như thẻ Master Card, thẻ rút tiền tự động....do đó toàn bộ tiền mặt giao dịch thường xuyên của khách hàng được thu hút vào Ngân hàng và bằng kỹ thuật của mình các Ngân hàng chế biến chúng thành các món tiền cho vay với kỳ hạn lớn hơn, do đó góp phần không nhỏ nâng cao lợi nhuận cho Ngân hàng. Mặt khác chúng ta thấy khi Ngân hàng mà thu hút được nhiều tiền gửi giao dịch và thanh toán với lãi suất thấp nó có thể huy động các nguồn khác với lãi suất cao hơn mà chi phí huy động vốn bình quân của Ngân hàng vẫn không thay đổi, do đó làm tăng khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Trong trường hợp lãi suất huy động của các nguồn khác vẫn không thay đổi (nhu cầu vốn lưu động không thay đổi) thì chi phí bình quân lãi suất đầu vào sẽ giảm xuống, tạo điều kiện Ngân hàng giảm lãi suất đầu ra và tăng tính cạnh tranh. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút đến mức tối đa tiền giao dịch thường xuyên của dân cư hay tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế. Thực tế hiện nay tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp được hưởng lãi 0,4 - 0,5% 1 tháng, liệu có thể nâng mức lãi suất tiền gửi loại này lên cao hơn một chút nhưng vẫn thấp hơn lãi suất tiền gửi loại có kỳ hạn 3 tháng (hiện nay khoảng từ 0,7% - 0,9%/tháng) để thu hút nhiều hơn, bởi lẽ hiện nay ở nhiều doanh nghiệp tồn tại lượng tiền mặt khá lớn đáp ứng cho nhu cầu thanh toán trong thời gian ngắn nhưng lại không dám gửi có kỳ hạn vào Ngân hàng vì họ sợ khi nhu cầu thanh toán phát sinh chưa đến kỳ hạn rút tiền, trong khi lãi suất tiền gửi thanh toán lại chưa đủ hấp dẫn (để bù đắp các chi phí giao dịch phát sinh) vì vậy nâng lãi suất loại này lên một chút có thể khuyến khích họ mạnh dạng hơn khi gửi vào Ngân hàng. Còn với tiền giao dịch thường xuyên của dân cư, một yêu cầu đặt ra là mọi giao dịch của Ngân hàng đối với khách hàng phải được thuận tiện, giảm tối đa chi phí giao dịch đối với khách hàng bởi vậy Ngân hàng phải không ngừng trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, cung cấp các dịch vụ phục vụ khách hàng, mở rộng địa bàn hoạt động có nhiều chi nhánh, văn phòng phục vụ từ các khu vực đông dân cư, đảm bảo các giao dịch được nhanh chóng, thuận tiện, chi phí thấp. mặt khác chúng ta thấy rất nhiều cá nhân cũng như tổ chức gửi tiền vào Ngân hàng không chỉ với mục đích thu lãi (đặc biệt là những người có thu nhập cao) mà mục đích thiết thực hơn là được cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn tư vấn chứng khoán đầu tư...). Chính vì vậy việc mở rộng và hoàn thiện các dịch vụ khách hàng đặt ra như một yêu cầu cấp thiết đối với Ngân hàng nhằm theo kịp trình độ phát triển chung của nền kinh tế thị trường và đời sống dân cư ngày càng cao. 1.5 Tăng quy mô hoạt động để giảm lãi suất Vấn đề thứ năm liên quan đến qui mô hoạt động cũng như qui mô các khoản tín dụng của Ngân hàng: Chúng ta biết rằng một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng đó là chỉ tiêu lãi gộp trên đầu người (qui mô hoạt động của một Ngân hàng thể hiện ở tổng dư nợ cho vay cũng như tổng nguồn vốn huy động và các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng như: bảo lãnh,xuất nhập khẩu...). Bởi vậy, nếu Ngân hàng có thể mở rộng qui mô hoạt động của mình đồng thời với tiết kiệm chi phí hoạt động thì có thể hạ thấp lãi suất đầu ra mà vẫn duy trì mức thu nhập bình quân cũng như các qũi của mình hoặc nếu ngân hàng có nhiều khoản cho vay và đầu tư có qui mô lớn (tất nhiên phải bảo đảm qui định của Nhà nước là không được vượt quá 15% vốn tự có trên mỗi khoản cho vay) thì nó có thể giảm được chi phí hoạt động của mình là cơ sở để giảm lãi suất cho vay tăng, tính cạnh tranh trên thị trường. Như vậy chúng ta thấy rằng qui mô hoạt động của Ngân hàng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của chính sách lãi suất mà Ngân hàng áp dụng, vào những thời kỳ mà Ngân hàng có nguồn huy động dồi dào nó có thể tăng doanh số cho vay hay tổng dư nợ bằng cách giảm mức đầu ra. Ngược lại, khi mà nhu cầu vốn của thị trường đang cao, nguồn huy động khan hiếm nó có thể tăng giá cả đầu vào và giảm giá cả đầu ra hoặc tăng giá cả đâù vào và giữ nguyên giá cả đầu ra để mở rộng thị trường. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng qui mô hoạt động của mỗi một Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào điều kiện bản thân mỗi Ngân hàng cũng như các khung pháp chế của Nhà nước. Chẳng hạn như qui định: Vốn huy động của Ngân hàng phải nhỏ hơn hoặc bằng 20 lần vốn tự có của Ngân hàng. Do đó nhiều khi có Ngân hàng có khả năng rất tốt trong việc huy động vốn nhưng lại không dám sử dụng hết khả năng của mình vì nếu vi phạm qui định của Ngân hàng Nhà nước thì sẽ bị phạt. Do đó một trong những điều kiện để một Ngân hàng có thể mở rộng qui mô hoạt động của mình là phải không ngừng gia tăng vốn điều lệ của mình. Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội chính thức đi vào hoạt động từ cuối năm 1996 với số điều lệ ban đầu là 20 tỉ VNĐ cho đến cuối năm 2000 đã tăng lên 125 tỉ VNĐ có thể nói đây là một mức tăng trưởng tương đối cao với một Ngân hàng Thương mại cổ phần còn non trẻ. Tuy nhiên so với các Ngân hàng Thương mại khác thì con số đó chưa phải là lớn do đó trong tương lai, với mục tiêu không ngừng mở rộng thị trường đòi hỏi Ngân hàng phải đặc biệt chú trọng đến phát triển vốn tự có của mình. 1.6 Kỹ thuật vượt trần lãi suất Vấn đề cuối cùng liên quan đến việc quản lý theo trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước: Hiện nay Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách lãi suất của mình bằng việc qui định lãi suất trần cho vay tối đa, theo đó tất cả các Ngân hàng Thương mại không được cho vay với lãi suất quá mức trần qui định này. Vấn đề này trong thực tế đã nảy sinh nhiều bất cập (như đã nêu ra trong phần thực trạng) nhưng vì đó là qui định mang tính chất bắt buộc các Ngân hàng Thương mại không thể không thực hiện. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt khi mà các khoản cho vay có mức độ rủi ro cao hoặc chi phí phát sinh từ khoản cho vay đó cao hơn bình thường, hoặc khách hàng có thể sẵn sàng chấp nhận vay vốn Ngân hàng với mức lãi suất cao hơn so với trần lãi suất hiện hành, hoặc bất cứ một lý do nào khác đòi hỏi khách hàng phải chiụ một mức lãi suất cao hơn so với trần lãi suất qui định thì Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng vay vốn trả lãi trước hoặc phải đặt cọc theo một tỷ lệ nhất định tại Ngân hàng. Làm điều này trên danh nghĩa thì Ngân hàng vẫn tuân thủ qui định của Ngân hàng Nhà nước nhưng lãi suất thực tế trên khoản vay sẽ cao hơn (tất nhiên phải có sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng) do đó sẽ giúp cho Ngân hàng bù đắp chi phí của mình. Tuy nhiên, đây đúng là kỹ thuật mang tính chất tình thế áp dụng với những trường hợp thực sự cần thiết. Về mặt lâu dài không thể xem đây là biện pháp hay vì nó có thể ảnh hưởng đến uy tín cũng như thị trường của Ngân hàng. Như vậy, công cụ lãi suất linh hoạt bao gồm tổng thể nhiều phương pháp, kỹ thuật khác nhau, để sử dụng công cụ này một cách hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải có sự kết hợp một cách đồng bộ, áp dụng một cách thích hợp trong những trường hợp cụ thể khác nhau, có như vậy mới có thể phát huy hiệu quả thực sự của nó. 2. Quản lý khe hở lãi suất (hay rủi ro lãi suất): Ngân hàng Thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay vì thế khi lãi suất thay đổi, Ngân hàng phải chịu rủi ro từ hai phía, cả bên nguồn vốn (tài sản nợ) lẫn bên sử dụng vốn (tài sản có). Rủi ro lãi suất thể hiện: Thứ nhất, chi phí về nguồn vốn lớn hơn thu nhập từ việc sử dụng vốn khi đó Ngân hàng kinh doanh bị lỗ, bị chi phối do giảm giá của đơn vị tiền tệ trong thời gian cho vay, dẫn đến tình trạng vốn và lãi thu về sau một thời gian nào đó qui về giá trị hiện tại thời điểm cho vay không bằng giá trị bỏ ra (không bảo toàn được vốn) kinh doanh Ngân hàng bị lỗ, số lợi nhuận thu về thực chất là con số âm. Trong trường hợp này, rủi ro lãi suất của Ngân hàng thực chất là rủi ro do lạm phát...Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro này bằng cách đưa ra mức lãi suất có tính đến một tỷ lệ lạm phát dự kiến. ở đây chúng ta chủ yếu xem xét rủi ro lãi suất trên góc độ quản lý tài sản nợ và tài sản có của Ngân hàng bởi lẽ các tài sản này chịu sự chi phối ngược chiều nhau của các tài sản thuộc hai phía của bảng cân đối tài sản là cơ sở để xây dựng các công cụ quản lý rủi ro lãi suất, sao cho lợi tức ròng và giá trị ròng của tài sản không bị hao hụt phương pháp này gọi là phương pháp quản lý bảng tổng kết tài sản vì sự quản lý tập trung vào sự biến động của lãi suất nên còn gọi là quản lý rủi ro lãi suất. Để đạt được mục đích nói trên nhà quản lý Ngân hàng thường tiến hành các công việc theo một trình tự nhất định: Thứ nhất dự đoán lãi suất: Nhìn chung dự đoán lãi suất là đề ra Quyết định nên chọn mua tài sản nào, còn trong trường hợp này là để có thể loại trừ rủi ro lãi suất với các danh mục tài sản có của Ngân hàng. Đây là một công việc hết sức khó khăn bởi lẽ các mô hình dự đoán lãi suất sẽ thay đổi theo chiều hướng nào thực tế thường hết sức phức tạp, phụ thuộc vào nhiều biến số vận động trái ngược nhau, chính vì thế trên thực tế chưa có cách thức nào để dự báo chính xác sự thay đổi của lãi suất. Những dự đoán sai lầm có thể gây ra những thiệt hại to lớn, do đó ra Quyết định dựa trên dự đoán lãi suất có thể là một nguy hiểm. Sau khi có thể biết được xu hướng vận động của lãi suất phải tiến hành phân tích tính nhậy cảm với lãi suất của các tài sản, phân tích khoảng cách và khoảng thời gian tồn tại. Để đánh giá tính nhậy cảm với lãi suất của tài sản, người ta phải tiến hành phân tích mối quan hệ giữa mức thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản so với mức thay đổi của lãi suất thị trường trong mối quan hệ này người ta thường sử dụng hai phươg pháp đo rủi ro. Thứ nhất: giá trị thị trường của các tài sản thay đổi có thể tăng lên hay giảm xuống. điều đó đồng thời dẫn đến Ngân hàng có thêm thu nhập hoặc phải gia tăng chi phí của người nắm giữ tài sản so với mức thay đổi lãi suất thị trường. Trong danh mục tài sản có và tài sản nợ của Ngân hàng luôn bao gồm trong đó một số tài sản có độ nhạy cảm lãi suất là số dương, còn một số tài sản khác có độ nhạy cảm lãi suất bằng không. Loại thứ nhất bao gồm các tài sản có lãi suất có đặc tính thay đổi, chẳng hạn như các khoản cho vay với lãi suất thay đổi, các chứng khoán ngắn hạn, các chứng chỉ tiền gửi có lãi suất thay đổi, các tài sản tiền gửi trên thị trường liên Ngân hàng...Loại thứ hai bao gồm các tài sản có lãi suất cố định, chẳng hạn các tài sản cho vay dài hạn, các chứng khoán dài hạn, tiền gửi tiết kiệm dài hạn, các chứng chỉ tiền gửi dài hạn và vốn cổ phần. Ví dụ một Ngân hàng A nào đó có bảng tổng kết tài sản với tổng giá trị tài sản là 1 tỷ đồng, trong đó có 300 triệu các khoản loại nhậy cảm với lãi suất và 700 triệu còn lại là những khoản có lãi suất cố định. ở bên tài sản nợ (hay bên nguồn)tỷ lệ các tài sản hạy cảm và không nhạy cảm là như nhau đều là 500 triệu, khi đó khe hở lãi suất = tài sản loại nhạy cảm với lãi suất - Nguồn loại nhạy cảm với lãi suất (bằng 300 - 500 = - 200 triệu USD). Giả sử lãi suất tăng lên 5%/ năm thì thu nhập của Ngân hàng tăng (5% x 300 triệu) 15 triệu, đồng thời chi phí tăng (5% x 500 triệu) 25 triệu như vậy thu nhập của Ngân hàng giảm 10 triệu (25 triệu - 15 triệu) hay bằng (-200 triệu) x 5% = (-10 triệu). Ngược lại khi lãi suất giảm 5% thì thu nhập của Ngân hàng từ tài sản loại nhạy cảm với lãi suất giảm (-15 triệu) trong khi chi phí với nguồn loại nhạy cảm với lãi suất giảm 25 triệu (500 x 5%) do đó lợi nhuận của Ngân hàng tăng 10 triệu (25 triệu - 10 triệu) hay bằng (300 triệu - 500 triệu) x ( - 5%) = 10 triệu. Sự phân tích trên đây cho phép ta đi đến kết luận: Nếu một Ngân hàng có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất hơn là tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất thì một sự gia tăng của lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng khi đó một sự giảm lãi suất sẽ làm tăng lợi nhuận = (Tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất - Tổng tài sản nợ loại không nhạy cảm với lãi suất ) x mức thay đổi lãi suất. Hiệu số trong biểu thức trên gọi là khoảng cách hay khe hở. Phép phân tích này gọi là phân tích khoảng cách hay phân tích khe hở. Từ cách phân tích trên đây, nếu Ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ tăng lên trong tương lai thì Ngân hàng sẽ điều chỉnh kết cấu bảng tổng kết tài sản của mình sao cho khe hở lớn hơn không. Ngược lại nếu dự đoán lãi suất giảm xuống trong tương lai thì bảng tổng kết tài sản sẽ được điều chỉnh sao cho khe hở nhỏ hơn không. Tuy nhiên trong các tài sản nhạy cảm thì tài sản có lãi suất khác nhau cũng có độ nhạy cảm khác nhau. Do đó phép phân tích trên có thể được phát triển thêm theo hai hướng là phân tích ảnh hưởng của mức độ nhạy cảm đến lợi nhuận của các tài sản loại nhạy cảm với lãi suất có lãi khác nhau: Phân tích thành nhiều khoản mãn hạn; 1 - 3 năm, 3 - 10 năm, > 10 năm để tính thay đổi của lợi nhuận khi lãi suất thay đổi trong nhiều năm. Thứ hai: Phân tích thời gian tồn tại như trong phân cơ sở lý luận chúng ta đã đề cập. Giá trị hiện tại của các trái khoản chẳng hạn như trái khoán Coupor được xác định bằng công thức C = Trong đó i lãi suất chiết khấu (có mối liên hệ thuận với lãi suất thị trường) do đó giá trị của trái khoán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất. Rủi ro lãi suất ở đây được quan niệm như là sự dao động của giá cả thị trường của các tài sản tài chính (chẳng hạn như trái khoán Coupon nói trên), cũng tức là sự giao động của lượng tiền mặt chiết khấu được từ tài sản, khi lãi suất thị trường thay đổi qua thời gian. Do đó có thể định lượng lãi suất đối với người sở hữu một tài sản chứng khoán thông qua thời gian đáo hạn bình quân của tài sản đó trong mối tương quan với lượng tiền mặt triếu khấu ở mỗi giai đoạn với tư cách là tỉ trọng. Khoảng thời gian này gọi là kỳ hạn tồn tại hay khoảng thời gian tồn tại. Đây là khái niệm được Macanlay đưa ra vào năm 1938 khi phân tích rủi ro trái phiếu. Kỳ hạn tồn tại luôn không bao giờ lớn hơn thời hạn đáo hạn mà có quan hệ thuận chiều với thời gian đáo hạn và quan hệ nghịch với lượng tiền mặt thanh toán ở mỗi giai đoạn và với lãi suất. Người ta đã chứng minh được rằng: Thay đổi tính bằng % giá trị thị trường của chứng khoán xấp xỉ bằng với kết quả: ( Thay đổi % về lãi suất ) x ( khoảng thời gian tồn tại trong các năm). Nhờ khái niệm này, người ta có thể đo lường khoảng thời gian tồn tại trung bình của các tài sản có và tài sản nợ của Ngân hàng loại nhạy cảm với lãi suất, từ đó xác định mức rủi ro lãi suất đối với tài sản dòng của Ngân hàng theo công thức: Thay đổi giá trị dòng của tài sản = ( thay đổi % về lãi suất) x (kỳ hạn tồn tại trung bình của các tài sản có - kỳ hạn tồn tại trung bình của các tài sản nợ). Chẳng hạn xét với bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng A nói trên, giả sử khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản có của nó là 5 năm ( tức là thời gian sống trung bình của dòng thanh toán là 5 năm ) trong khi đó khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản nợ của nó là 3 năm với sự tăng thêm 5% lãi suất, giá trị thị trường của những tài sản có của Ngân hàng này giảm đi 25% ( =-5 năm x (-5%) và giá trị thị trường của những tài sản nợ này giảm sút 15% (=-5% x 3 năm). Kết qủa thực là giá trị dòng ( giá trị thị trường của những tài sản có trừ đi tài sản nợ ) giảm 10% (25% - 15%) so với tổng giá trị tài sản có ban đầu. Kết quả này cũng có thể tính trực tiếp hơn như là: ( thay đổi % về lãi suất ) x ( khoảng thời gian tồn tại trung bình của các tài sản có - thời gian tồn tại trung bình của tài sản nợ ), tức là - 5% x ( 5 năm - 3 năm ) = - 10%. Trong trường hợp này Ngân hàng có thể thu ngắn thời gian tồn tại của các tài sản có nhằm làm tăng tính nhạy cảm với lãi suất của chúng, hoặc kéo dài thời gian tồn tại của các tài sản nợ. Do sự điều chỉnh này Ngân hàng sẽ bớt đi tác động chao đảo của lãi suất. Như vậy cả 2 phần ở trên đều cho biết Ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất ở mức độ nào. Đây là căn cứ để Ngân hàng tiến hành các điều chỉnh tài sản nhằm loại trừ các rủi ro lãi suất. Một vấn đề khó khăn đặt ra cho các Ngân hàng Thương mại trong việc điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản để có lợi cho kinh doanh là ở chỗ có thể sẽ rất tốn kém đối với những hoạt động gắn hạn. Ngân hàng có thể bị ràng buộc vào các tài sản có và tài sản nợ với những khoảng thời gian tồn tại riêng biệt, bởi vì nó bị ràng buộc vào nhiều yếu tố. Trong điều kiện môi trường kinh tế luôn thay đổi, rủi ro lãi suất luôn có nguy cơ tăng lên vì thế đã thúc đẩy việc sáng tạo ra những công cụ tài chính mới giúp cho các nhà kinh doanh nói chung và kinh doanh Ngân hàng nói riêng hạ thấp thiệt hại do rủi ro lãi suất, những công cụ chủ yếu mà các Ngân hàng thường sử dụng đó là: Thực hiện trao đổi lãi suất (Snap) sử dụng các hợp đồng tài chính có kỳ hạn (thị trường giao dịch có kỳ hạn), sử dụng các công cụ nợ lựa chọn (thị trường giao dịch chọn lựa các công cụ nợ). Sau đây chúng ta sẽ xem xét các Ngân hàng sử dụng các công cụ này như thế nào để hạn chế rủi ro lãi suất của mình. 2.1 Sử dụng kỹ thuật trao đổi lãi suất (Swap lãi suất): Phương pháp đổi chéo lãi suất xuất hiện lần đầu tiên trên thị trường trái khoán Châu Âu năm 1981. Những sự đổi chéo lãi suất, giúp một tổ chức tài chính có nhiều tài sản có, loại nhạy cảm với lãi suất hơn so với tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất có thể trao đổi các dòng tiền thanh toán với một tổ chức tài chính có nhiều tài sản nợ, loại nhạy cảm về lãi suất hơn tài sản loại nhạy cảm với lãi suất nhờ vậy giảm được rủi ro về lãi suất cho cả 2 phía. Chẳng hạn với Ngân hàng A chúng ta xét trên. Để loại bỏ rủi ro lãi suất và làm tương xứng nhạy cảm về lãi suất của những tài sản có và tài sản nợ của mình, Ngân hàng A phải chuyển 200 triệu tài sản có, loại có lãi suất cố định thành 200 triệu loại có lãi suất thay đổi. Chẳng hạn 1 Ngân hàng khác, VD Ngân hàng B, có 200 triệu tài sản nợ, loại có lãi suất cố định và 200 triệu tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất do đó Ngân hàng này muốn loại bỏ rủi ro lãi suất, thành 200 triệu tài sản có, loại có tài sản cố định. Khi đó, một trung gian tài chính sẽ làm cho 2 bên cộng tác với nhau với một món lệ phí và đưa ra một hợp đồng, trong đó Ngân hàng A sẽ thanh toán cho Ngân hàng B tiền lãi thu được của 200 triệu tài sản có, loại có lãi suất cố định. Ngược lại, Ngân hàng B sẽ thanh toán cho Ngân hàng A tiền lãi thu được của 200 triệu tài sản có, loại nhạy cảm với lãi suất cuộc đối chéo lãi suất này sẽ dẫn đến việc loại bỏ hoàn toàn rủi ro lãi suất cho cả 2 phía. Ngân hàng A sẽ có thu nhập loại nhạy cảm với lãi suất của 200 triệu tài sản có, khoản tiền này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán 200 triệu tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất. (500 triệu - 300 triệu = 200 triệu). Ngược lại Ngân hàng B sẽ có thu nhập loại theo lãi suất cố định của 200 triệu, khoản tiền này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán loại theo lãi suất cố định của 200 triệu tài sản nợ. Cái hay của phương pháp này là ở chỗ nó không đòi hỏi Ngân hàng nào phải dàn xếp lại bảng tổng kết tài sản cuả mình, do đó các trao đổi lãi suất là phương pháp tương đối ít tốn kém để giảm rủi ro lãi suất. 2.2 Sử dụng công cụ hợp đồng tài chính kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn. Các Ngân hàng trong ví dụ phân tích ở trên có thể loại bỏ rủi ro lãi suất của mình bằng nghiệp vụ tự bảo hiểm, thông qua việc sử dụng các hợp đồng tài chính thời hạn hoặc giao sau. Các nghiệp vụ này thường rất phức tạp nhưng về cơ bản chúng hoạt động như sau: Giả sử Ngân hàng A trong ví dụ nêu trên dự đoán rằng lãi suất là âm (300 triệu - 500 triệu = - 200 triệu ) do đó họ đứng trước nguy cơ chịu rủi ro lãi suất, họ cần phải hoán chuyển 200 triệu tài sản có loại có lãi suất ổn định 200 triệu tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất. Hoặc là họ phải kí hợp đồng trao đổi lãi suất cho món tiền đó. Nhưng có thể lãi suất thực tế sẽ không tăng, thậm chí giảm. Trong cả hai trường hợp này, Ngân hàng đều không thu được lợi ích gì, thậm chí bị thiệt. Do đó đề phòng lãi suất thực tế sẽ tăng, mà không phải hoán chuyển các tài sản hoặc trao đổi lãi suất, Ngân hàng A có thể ký kết các hợp đồng tài chính kỳ hạn trong đó ấn định sẽ trao đổi phần tài sản có, có lãi suất cố định với Ngân hàng B tại một thời điểm ấn định trong tương lai, với giá cả ấn định trước, tức là sự giao nộp theo kỳ hạn. Như vậy sự gia tăng lãi suất sẽ không ảnh hưởng gì đến lợi nhuận của cả hai bên. Khó khăn ở đây là đòi hỏi các tài sản đem trao đổi phải được chuẩn hoá, do vậy có thể có sự xắp xếp trùng khớp như trong ví dụ. Mặt khác, hai bên lại không có quyền đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng còn sử dụng các hợp đồng lựa chọn trong đó có ấn định trước giá cả, nhưng có thể không thực hiện hợp đồng, tuy nhiên phải bỏ ra một chi phí để mua quyền chọn đó (ký hợp đồng thực hiện trong tương lai nhưng đến thời điểm đó căn cứ vào tình hình cụ thể của thị trường có quyền lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện hợp đồng, chi phí bỏ ra được gọi là giá của quyền chọn). Các giải pháp và công cụ đề cập đến ở trên đây mang nặng tính kỹ thuật và đòi hỏi sự hoàn thiện của thị trường tài chính, hiện nay nó mới chỉ được áp dụng chủ yếu ở các nước có thị trường tài chính phát triển ở đó có điều kiện kỹ thuật cũng như trình độ chuyên môn cao ở đó nó được sử dụng một cách rộng rãi. Còn ở nước ta hiện nay do điều kiện kinh tế - kỹ thuật chưa cho phép do đó các công cụ nói trên chưa được đưa vào sử dụng. Tuy nhiên với đà phát triển của một nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập khu vực và thế giới thì các Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội nói riêng phải sớm nghĩ đến những giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro lãi suất trong hoạt động của mình, để sẵn sàng đưa vào sử dụng khi các điều kiện của thị trường cũng như bản thân Ngân hàng cho phép. 3. Lãi suất điều hoà vốn trong nội bộ ngân hàng Do tính chất đặc thù của ngành, NHTMCPQĐ có một địa bàn hoạt động rất rộng lớn. Kéo dài từ Bắc vào Nam, từ các vùng núi cao, Tây nguyên đến các hải đảo xa xôi, cứ đâu có các doanh nghiệp quân đội hoạt động là ở đó có mặt của ngân hàng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn và thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Vì hoạt động trên một địa bàn rộng lớn như vậy, NHTMCPQĐ có những khó khăn, thuận lợi nhất định. Do mỗi khu vực, mỗi vùng hoạt động có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên có những tác động trực tiếp đến hoạt động huy động và cho vay của Ngân hàng, có những vùng, những khu vực có khả năng rất lớn trong việc huy động vốn nhưng lại không thể cho vay vì nhu cầu về vốn ở khu vực đó rất thấp, ngược lại có những vùng, những khu vực nhu cầu vay vốn rất cao nhưng khả năng huy động vốn lại không đáp ứng được. Xuất phát từ thực tế đó nên chăng NHTMCPQĐ thành lập riêng cho mình một quỹ điều hoà vốn nội bộ nhằm phát huy lợi thế, mà không phải ngân hàng nào cũng có được, đồng thời khắc phục những khó khăn về tình trạng huy động và cho vay không ổn định giữa các chi nhánh trong nội bộ hệ thống. Tuy nhiên, để tránh tình trạng các chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn nhưng việc cho vay hạn chế, bị thiệt thòi do chi phí huy động cao nhưng thu nhập từ lãi vay thấp. Trung tâm điều hoà vốn nội bộ nên áp dụng một mức lãi suất nhất định (ít nhất là cũng phải đủ để bù đắp các khoản chi phí của việc huy động), đối với các chi nhánh có vốn dư thừa chuyển về Trung tâm. Các khoản chi phí này sẽ do các chi nhánh có nhu cầu điều động vốn từ trung tâm gánh chịu. Làm được như vậy sẽ không những khắc phục tình trạng dư thừa, thiếu hụt vốn giữa các chi nhánh trong nội bộ hệ thống ngân hàng mà còn thúc đẩy sự phát triển chung, đặc biệt là trong tương lai, khi phải cạnh tranh với các ngân hàng lớn thì hoạt động của trung tâm này sẽ thúc đẩy qúa trình tích tụ, tập trung vốn một cách nhanh chóng, chi phí thấp, giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tham gia vào các dự án lớn hoặc các cơ hội kinh doanh có khả năng sinh lời cao. 4. Vấn đề đối với bản thân Ngân hàng Là một doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, lại kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm đó là kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đang gặp rất nhiều khó khăn, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng cũng như qui mô và thị trường hoạt động. Bởi vậy, để có thể tự vươn lên khẳng định mình trong điều kiện thị trường trong nước và quốc tế ngày càng khó khăn bên cạnh sự quan tâm giúp đỡ của các ban ngành, cơ quan hữu quan như Ngân hàng Trung ương, Bộ quốc phòng, Bộ tài chính đòi hỏi bản thân Ngân hàng phải không ngừng nỗ lực cố gắng lấy mục tiêu: “an toàn, hiệu quả, phát triển trong thế ổn định”. Để thực hiện được mục tiêu đó không có cách nào khác là thực thi một giải pháp mang tính đồng bộ từ việc hoàn thiện công tác quản trị điều hành, nâng cao chất lượng tín dụng đến việc hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên...Thực hiện điều này thời gian qua Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức tạo ra sự thống nhất đoàn kết cao trong nội bộ Ngân hàng từ công tác quản trị điều hành đên sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban, hàng năm Ngân hàng có tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi học các lớp ngắn hạn nhằm không ngừng cập nhật kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu mở rộng thị trường cũng như địa bàn hoạt động hàng năm Ngân hàng có tổ chức các đợt thi tuyển nhằm tuyển dụng đội ngũ cán bộ mới, trẻ, năng động có năng lực trình độ chuyên môn sâu, có trình độ ngoại ngữ, tin học. Có thể nói điều này đã góp phần không nhỏ và việc thúc đẩy sự phát triển chung của hoạt động Ngân hàng thời gian qua. Ngân hàng cũng không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động cũng như các chi nhánh của mình. Hiện nay Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội có Hội sở chính ở Hà Nội và hai chi nhanh ở Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh ngoài ra còn có các văn phòng đóng trên các địa bàn khác hau như Lý Nam Đế, Thanh Xuân Hà Nội...Với mục tiêu phát triển ổn định không ngừng tăng cường khả năng hoạt động cũng như cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi Ngân hàng cần tiếp thu hoàn thiện và làm tốt hơn nữa các công tác trên. Về công tác quản trị, điều hành phải nhanh chóng hình thành mô hình Ngân hàng hai cấp, trong đó Hội sở chính làm chức năng điều hành còn các chi nhánh sẽ thực hiện chức năng kinh doanh, trên cơ sở phân định rõ chức năng của các bộ phận sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như công tác quản trị điều hành. Không ngừng bổ túc và nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ công nhân viên đặc biệt là những kiến thức để đáp ứng nhu cầu của thị trường phát triển trong tương lai như các nghiêp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, đại lý phát hành, môi giới chứng khoán...Ngoài ra Ngân hàng cũng cần phải tiếp tục mở rộng các chi nhánh cũng như văn phòng đại diện, tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để Ngân hàng tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa có sự hiểu biết đầy đủ về Ngân hàng chính vì vậy phải giáo dục tuyên truyền sao cho mỗi cán bộ của Ngân hàng là một nhân viên Marketing, mỗi một khách hàng là một nhân viên Marketing đem đến sự hiểu biết của công chúng đối với hoạt động của Ngân hàng. IV. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước. Là một sinh viên thực tập, qua việc nghiên cứu tìm hiểu tình hình thực tế, tình hình quản lý và thực thi chính sách lãi suất của NHNN tại NHTMCPQĐ em thấy còn nẩy sinh một số vấn đề cần kiến nghị đối với NHNN như sau; 1. Vấn đề lãi suất nợ quá hạn Hiện nay nợ quá hạn đối với các ngân hàng thương mại nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo ngân hàng cũng như công tác tín dụng, bởi lẽ nó liên quan trực tiếp đến chất lượng công tác tín dụng cũng như hiệu quả hoạt động chung của Ngân hàng. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này người viết không đề cập đến những biện pháp để nâng cao chất lượng công tác tín dụng mà chỉ đề cập đến một góc độ có liên quan đến việc quản lý lãi suất của NHNN đó là vấn đề lãi suất nợ quá hạn. Hiện nay áp dụng đối với các khoản nợ quá hạn tại các NHTM do NHNN quy định một cách thống nhất bằng 150% lãi suất trần cùng loại của các khoản vay. Như vậy chúng ta thấy, trong khi việc quản lý lãi suất của NHNN đang được dần dần nới lỏng từng bước theo hướng tự do hoá nhằm tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong việc đề ra các mức lãi suất cụ thể của mình thì việc lãi suất nợ quá hạn vẫn bị quy định một cách cững nhắc, mang tính áp đặt chủ quan là điều chưa hợp lý và đi ngược lại xu hướng tự do hóa lãi suất. Việc người vay không trả nợ đúng hạn thì phải chịu một mức lãi suất cao hơn đối với khoản nợ quá hạn đó là một quy định được chấp nhận từ trước ở nước ta và cũng là thông lệ quốc tế. Tuy nhiên áp dụng một mưc snợ lãi suất quá hạn chung cho mọi đối tượng là điều không phù hợp bởi lẽ chúng ta biết rằng, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng nợ qua hạn của người vay, hơn nữa mưc sđộ thiệt hại do khách hàng không trả nợ đúng hạn đối với các Ngân hàng khác nhau thì khác nhau bởi vậy chỉ có bản thân các NHTM mới sbiết phải ứng xử nh cho phù hợp đối với các khoản nợ quá hạn trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như đối với những trường hợp do nguyên nhân khách quan: thiên tai, hoả hoạn cơ chế chính sách thay đổi ... thì nên đặt khoản tiền pạht thấp hoặc không áp dụng mức phạt nhằm giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn và duy trì mối quan hệ lâu dài. Hơn thế nữa, trong nhiều trường hợp việc quy định phạt nợ qúa hạn chỉ mang tính chất hình thức và không thể thực hiện được trong thực tế bởi lẽ, do gặp phải khó khăn bất khả kháng như các trường hợp nêu trên việc trả nợ đã không thể thực hiện được thì làm sao có thể trả được lãi suất phạt quá hạn. Do đó nếu cứ cố tình áp dụng như vậy thì chỉ làm cho tình hình trở nên căng thẳng. Ngược lại đối với những trường hợp bị mắc nợ qúa hạn do nguyên nhân chủ quan như kế hoạch sản xuất kinh doanh không hiệu quả, yếu kem trong quản trị điều hành... thì nên áp dụng một mức lãi suất nợ qua hạn cao hơn để cảnh tỉnh họ. Đối với những trường hợp khách hàng cố tình vi phạm tì cần phải áp dụng mức phạt thật cao để ngăn chặn, không cho tình hình đó tái diễn. Từ thực tế phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc quy định lãi suất nợ qua hạn đối với từng khoản nợ qúa hạn cụ thể nên giao cho các NHTM Quyết định thì sẽ hợp lý hơn và phản ánh đúng xu hướng tự do hoá lãi suất hiện nay. 2. Mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn - Trung dài hạn, giữa lãu suất nông thôn - thành thị Mối quan hệ giữa trần lãi suất ngắn hạn với lãi suất trung, dài hạn, giữa trần lãi suất cho vay nông thôn với trần lãi suất cho vay khu vực thành thị. Việc quy định trần lãi suất cho vay lãi suất trung, dài hạn cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn lãi suất cho vay khu vực thành thị là hoàn toàn hợp lý vì nó phù hợp với 2 nguyên tắc cơ bản trong tài chính đó là: " Một đô la hôm nay có giá trị hơn một đôla ngày mai và một đô la không có rủi ro có gía trị hơn một đô la rủi ro". Tuy nhiên trong thực tế việc áp dụng như vậy lại không khuyến khích các doanh nghiệp trong vay vốn đầu tư trung dài hạn để tái sản xuất mở rộng, đồng thời không thúc đẩy kinh tế khu vực nông thôn phát triển do đó có phần nào đi ngược lại chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, để đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế đồng thời thực hiện đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, cần có chính sách ưu đãi về vốn thông qua công cụ lãi suất đối với các ngành, lĩnh vực then chốt theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ nhất định, chẳng hạn như việc cấp bù chênh lệch lãi suất đối với các khoản vay theo kế hoạch nhằm đảm bảo lợi ích và khuyến khích các chủ thể thực hiện việc cho vay đó. 3. Vấn đề quản lý bằng trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Như đã nêu ra trong phần I Chương II, việc thực hiện quản lý lãi suất bằng trần lãi suất cho vay tối đa của NHNN đối với các NHTM là một bước tiến rất lớn trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý lãi suất ở nước ta theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên trong thực tế việc thực hiện còn nẩy sinh nhiều bất cập. Bởi vậy thay cho việc quy định mức lãi suất cứng nhắc, nên chăng Nhà nước áp dụng một biên độ trần lãi suất nhất định tương tự như quản lý ngoại tệ, NHNN không thả nổi lãi suất nhưng vẫn có thể quy định biên độ lãi suất trần nhằm giúp cho các NHTM chủ động hơn nữa trong việc định ra các mức lãi suất của riêng mình, vừa không bị động trong việc huy động và cho vay vừa không vi phạm chính sách lãi suất của NHNN. Mặt khác NHNN cũng vừa có thể điều chỉnh mức trần lãi suất cong bố, vừa có thể điều chỉnh biên độ lãi suất trần, tuỳ theo đặc điểm của từng thời kỳ khác nhau. Hoặc nếu NHNN thấy có thể bù lỗ được cho các NHTM quốc doanh thì ấn định trần lãi suất đối với các ngân hàng đó, đồng thời quy định thêm một biên độ dao động nhất định nào đó đối với các NHTMCP giúp cho các Ngân hàng này hoạt động ổn định bởi lẽ nó đâu có được bù lỗ như các NHTM quốc doanh. Việc xác định biên độ lãi suất trần có thể căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, có 3 yếu tố chính cần phải xem xét đó là: lãi suất huy động vốn bình quân, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN, mức chênh lệch bình quân đủ bù đắp chi phí, rủi ro và có lãi cho các NHTM. Chẳng hạn lãi suất huy động vốn bình quân của các NHTM là 0,8%/tháng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì lãi suất huy động bình quân sau dự trữ bắt buộc là 0,89%/tháng và mức ceenh lệch đủ để bù đắp chi phí, rủi ro ở mức độ trung bình là 0,3% thì lãi suất cho vay là 1,19%/tháng. Khi đó NHNN có thể quy định một biên độ lãi suất trần chẳng hạn là 10% thì lãi suất cho vay của các NHTM có thể dao độn từ 0,952%/tháng đến 1,119%/tháng và trong chiến lược huy động vốn của mình, mỗi NHTM sẽ dưa ra một mức lãi suất cạnh tranh nhất định. Còn đối với Nhà nước trong mỗi giai đoạn, thời kỳ nhất định, căn cứ vào tình hình cụ thể thị trường có thể đưa ra các mức lãi suất trần và biên độ dao động thích hợp. 4. Mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu kho bạc và lãi suất huy động vốn của hệ thống các NHTM. Hiện nay đay là 2 kênh huy động vốn chủ yếu trong công chúng. Trái phiếu kho bạc được phát hành với mục đích chủ yếu là bù dắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu ci tiêu đầu tư cho những dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước. Còn các NHTM huy động vốn nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình va gián tiếp phục vụ các chương trình của Chính phủ. Thuy nhiên lãi suất của 2 kênh huy động này là một vấn đề cần phải xem xét, bởi lẽ trong thực tế lãi suất huy động bằng trái phiếu kho bạc Nhà nước luôn cao hơn lãi suất các NHTM mặc dù trái phiếu kho bạc được xem như loại đầu tư an toàn và ít rủi ro, điều này đã gây ra không ít khó khăn đối với các NHTM trong việc huy động vốn của mình. Chẳng hạn như mới đây Ngân hàng đầu tư phát triển phát hành trái phiếu với lãi suất 12% mỗi năm, trả lãi trước tương ứng với 13,6%/năm nếu trả lãi sau, hoặc đợt phát hành công trái vừa rồi. Trong khi trần lãi suất được liên tục điều chỉnh giảm buộc các ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất huy động (mức trung bình cao nhất khoảng 9,5%/năm) điều này thực sự gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn, mặt khác chênh lệch qua scao giữa 2 loại lãi suất này đa xtạo ra các kênh chu chuyển vốn lòng vòng, các NHTM có thể kiếm lời mà không cần qua con đường tín dụng gây ra sự lãng phí nguồn lực. Chính vì vậy chênh lệch giữa hai loại lãi suất này là vấn đề cần phải xem xét. Kết luận Có thể nói việc chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liên bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một trong những bước ngoặt quan trọng trong công tác đổi mới quản lý ở nước ta, trước hết là ở góc độ nhận thưc stư duy lí luận. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó trong thực tiễn nó đòi hỏi một qúa trình lâu dài vừa thực hiện vừa tổng kết đúc rút kinh nghiệm, không thể cho rằng thực hiện được ngay một sớm một chiều. Việc quản lý và điều hành chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam thời gian qua đã có những bươc scr biến đáng kể theo hướng dần dần nới lỏng việc quản lý mang tính chất mệnh lệnh hành chính, từng bước tạo điều kiện tốt hơn cho các Ngân hàng thương mại trong việc chủ động đề ra các mức lãi suất của riêng mình, trên cơ sở về vốn cung cầu trên thị trường. Tuy vậy chính sách lãi suất hiện hành vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi việc quản lý mang tính chất chủ quan, ép buộc gây ra nhiều khó khăn cho các NHTM trong qúa trình thực hiện, cũng như việc thực hiện chức năng đòn bẩy kinh tế của công cụ lãi suất. Chính vì vậy trong xu hướng đổi mới tư duy của nền kinh tế chính sách lãi suất cũng cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng tự do hoa strên cơ sở thừa nhận và tôn trọng sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan. Nhiệm vụ của các NHTM là góp phần cùng NHNN thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy việc xây dựng một chế độ cụ thể vừa đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách quản lý của Nhà nước vừa đảm bảo tính cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của bản thân ngân hàng luôn là vấn đề đượcquan tâm của các NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng Trong phạm vi bài viết này trên cơ sở phân tích thự trạng cũng như xu hướng quản lý chính sách lãi suất của NHNN, người viết mong muốn có những đóng góp nhất định đối với NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng trong việc xây dựng một chính sách lãi suất đảm bảo được các yêu cầu nói trên. Mặc dù đã giành nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề song chắc chắn bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định cả về mặt nhận thức lí luận cũng như tình hình thực tiễn. Vì vậy em kính mong có được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa ngân hàng tài chính nói chung, Cô giáo Trần Thu Hà, người trực tiếp hướng dẫn em và các cô, các Chú, các Bác, các Anh, Chị tại NHTMCPQĐ để nhận thức của em về vấn đề nghiên cứu được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. Predric S. Mishkin. NXB Khoa học kỹ thuật, 1997 2. Ngân hàng thương mại Eward. W. read 7 Eward K. Gill, Xuaats banr 1995 3.Kinh tế học David Berg (Tập 2) 4. Lý thuyết tổng quát về việc làm - lãi suất - tiền tệ. John Maynard Keynes. Nxb Giáo dục, 1996) 5. Lãi suất trong nền kinh tế thị trường 6. Pháp luật ngân hàng (1992), Luật ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng (2000) 7. Các quyết định quản lý lãi suất của Ngân hàng Nhà nước 8. Các quyết định quản lý lãi suất của Ngân hàng thương mại CPQĐ 9. Tạp chí Ngân hàng. Các số 12/1998; 1, 3, 5, 6, 9, 11, 12/1999; số 3, 4, 5/2000 10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế 3/1998; 7/1998; 10/1998; 12/1998; các số 7, 9, 1/1999; 7/2000; 3/2001 11. Tạp chí Thị trường tài chính, tiền tệ 8/1998; 3/1999; 7/1999; 9/1999; 3/2000. 12. Tạp chí Tài chính Số 9, 10, 11/1999; 2/2001 13. Tạp chí Phát triển kinh tế 7/1999; 10/1999; 1/2000 mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0220.doc
Tài liệu liên quan