Đề tài Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn, nhng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát triển, bị kìm hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta - Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu nh: Mọi đờng lối, chính sách, phơng hớng mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải đợc xuất phát từ thực tế điều kiện nớc nhà. Thứ hai chúng ta phải phát huy cao độ vai trò tích cực của ý thức hay chính là vai trò năng động chủ quan của con ngời. Xây dựng hệ động lực tinh thần mạnh mẽ cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đaịo của toàn Đảng và nhân dân ta. Đó chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu nớc, ý chí quật cờng, phát huy tài trí của ngời Việt Nam, quyết tâm đa nớc nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu”.

doc20 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI NóI ĐầU Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện đợc mục tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng đợc một nớc Việt Nam mà theo cách nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Và cũng chỉ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn tột cùng, ham muốn cuối đời của Ngời đó là : “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đợc học hành ...”. Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Từ thực tế hiện nay cùng với con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa t bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập trờng, quan điểm, phơng pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nớc ta. Có nh thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu đợc quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra đợc đờng lối, phơng châm, bớc đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình nớc ta. Làm đề tài tiểu luận này, vơí t cách là một sinh viên, một công dân của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng mọi ngời tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác - Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Mặt khác, tôi cũng muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội- mà nền tảng t tởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là, mọi sách lợc, chiến lợc cách mạng của chúng ta phải đợc xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy đợc tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây đợc coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đờng đi tới chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Điều này sẽ đợc lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài. 1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. 1.1. Vật chất quyết định ý thức. Trớc tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc đem lại cho con ngời trong cảm giác và đợc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’. nh vậy định nghĩa vật chất của Lê-nin nổi lên một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thứcvà không phụ thuộc vào ý thức. Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con ngời khi bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con ngời. Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, t duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó còn là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc ngời. Bộ óc ngời là cơ quan vật chất của ý thức. Khoa học cũng đã chứng minh đợc rằng, thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trớc khi xuất hiện con ngời và bộ óc ngời, rằng ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con ngời và bộ óc ngời. Hoạt động ý thức của con ngời diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não ngời. Bộ não ngời bao gồm khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên vô số các mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Không chỉ có thế, vận động của ý thức, t duy trên thực tế cũng là sản phẩm của sự vận động của vật chất. Điều đó đợc chứng minh một cách khá rõ ràng ở hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội. Vai trò cơ sở, quyết định của vật chất còn đợc thể hiện ở chỗ nó quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức. Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật chất mà cái cảm giác, t duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà ta thấy rằng nội dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Hay nói nh chủ nghĩa duy vật macxit : ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con ngời. Chính vì vậy mà thế giới khách quan nh thế nào thì ý thức phản ánh nh thế ấy, không nên phản ánh một cách xuyên tạc, h ảo, bóp méo sự thật về thế giới khách quan nh việc tô vẽ hình tợng các vị thần linh. Nói cách khác, nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách quan quy định. Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của bộ não ngời. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, do đó khi bộ não bị tổn thơng thì hoạt động ý thức sẽ không đợc bình thờng hoặc bị rối loạn. Mặt khác, trong hoạt động của con ngời, nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con ngời trớc hết phải đợc thoả mãn nhu cầu vật chất tối thiểu : ăn, ở, mặc rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí, các hoạt động tinh thần.Tức là, hoạt động nhận thức của con ngời trớc hết hớng tới mục tiêu cải biến tự nhiên để thoả mãn nhu cầu sống. Cuộc sống tinh thần của con ngời phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật chất và những điều kiện vật chất hiện có. ý thức con ngời không thể tạo ra các đối tợng vật chất, cũng không thay đổi đợc quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục tiêu ớc muốn của con ngời không dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh đất hiện thực đều là ớc mơ chủ quan, không tởng. Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của nớc ta. Trớc kia do không nhận thức đợc rằng mọi chủ trơng đờng lốiđều phải dựa trên điều kiện vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ trơng phát triển công nghiệp nặng trong khi mọi tiền đề vật chất thì cha có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại. Không chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý thức còn đợc thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Nó quy định khả năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào hoạt động của con ngời. Nó tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích, chủ trơng, biện pháp mà con ngời đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục đích, chủ trơng biện pháp đó. Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác dộng trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. 1.2. ý thức tác động trở lại vật chất. ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tơng đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con ngời. ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con ngời. Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu cầu của mình. ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con ngời có tác động tiêu cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không nhận thức đợc điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thờngvà bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức về thực cất là nói tới vai trò của con ngời bởi ý thức là ý thức của con ngời. Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con ngời thành động lực của lịch sử, Cácmac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xa nay, t tởng không thể đa ngời ta vợt ra ngoài trật tự thế giới cũ đợc, trong bất cứ tình huống nào, t tởng cũng chỉ có thể đa ngời ta vợt ra ngoài phạm vi t tởng của trật tự thế giới cũ mà thôi”. Thật vậy, t tởng căn bản không thể thực hiện đợc cái gì hết. Muốn thực hiện t tởng thì cần có những con ngời sử dụng lực lợng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con ngời muốn thực hiện các quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn các quy luật đó, phải có ý chí và phơng pháp để tổ chức hành động. Nh vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó giúp con ngời đề ra chủ trơng, đờng lối, chính sách, những mục đích, kế hoạch, biện pháp, phơng hớng phù hợp với thực tế khách quan. Nói nh vậy có nghĩa là cũng có những ý thức khoa họcvà những ý thức không khoa học so với hiện thực khách quan, tơng ứng với nó là hai tác động trái ngợc nhau tích cực và tiêu cực của ý thức đối với vật chất. Vai trò tích cực của ý thức, t tởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó hình thành đợc mục đích, phơng hớng, biện pháp đúng đắn đồng thời có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt dộng của mình. Sức mạnh cuả ý thức con ngời không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của con ngời và xã hội. Con ngời nhận thức và phản ánh thế giới thế giới khách quan càng đầy đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có hiệu quả bấy nhiêu. ở đây vai trò năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con ngời có vị trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì trệ hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ chính là kìm hãm sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích cực sáng tạo của ý thức. Mặt khác, do có tính vợt trớc, nên ý thức giúp cho hoạt động của con ngời trở nên tự giác, tích cực, chủ động hơn nh trong việc dự báo, lập kế hoạch, đề ra đờng lối, phơng pháp hành động. Vai trò của ý thức còn thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra đợc. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với công việc, khả năng sáng tạo và vợt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có ảnh hởng to lớn đến hoạt động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm. Tuy nhiên, ý chí, tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim chỉ làm cho hoạt động thực tiễn. Bởi vì, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên và xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo ý thức. Chính vì vậy phải biết kết hợp giữa tri thức, trí tuệ, khoa học với ý chí, tình cảm. Bởi tri thức càng đợc tích luỹ, con ngời ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Nếu nh thế giới vật chất – với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con ngời thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không đợc lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không đợc lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lợc và sách lợc cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Không chỉ có thế, khi vai trò chỉ đạo của ý thức phạm sai lầm thì tinh thần, dũng cảm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm cũng làm cho hoạt động thực tiễn thất bại một cách nhanh chóng. Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con ngời nh sau: Mọi hoạt động của con ngời ( cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy đợc tính năng động sáng tạo của ý thức, t tởng, của nhân tố chủ quan của con ngời và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. 2. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đờng lối, chủ trơng, chính sách, kế hoạch, phơng hớng, mục tiêuđúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Chúng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa t bản nh chủ nghĩa t bản đã thay thế chế độ phong kiến. Đó là quy luật khách quan của lịch sử loài ngời. ở nớc ta, chủ nghĩa xã hội cũng nhất định sẽ đợc xây dựng thành công trong sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ đâu và đi theo con đờng nào? Chỉ có thể và phải xuất phát từ những điều kiện – hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nớc Việt Nam và con ngời Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực thế giới hiện đại, theo quy luật chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra. Thực tế là, chúng ta bớc vào con đờng xã hội chủ nghĩa từ một xuất phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp - nhất là lực lợng sản xuất. Đó là tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá phổ biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn cha trở thành phổ biến, thị trờng bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín kể cả trong kinh tế đối ngoại. Phơng thức tổ chức, quản lý nền kinh tế dựa trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực lợng sản xuất, đổi mới phơng thức, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm. Muốn phát triển lực lợng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, tạo đờng băng để đất nớc “cất cánh” một cách hiện thực hớng tới năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp hoá chứ không dừng lại ở phơng hớng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chơng trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, chú trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm, cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ Trong chiến lợc phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng ta đã khẳng định : con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nớc ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nớc đi trớc, vừa có những bớc tuần tự vừa có những bớc nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nớc, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bớc phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của ngời Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân tố con ngời đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lợng sản xuất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đờng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, tức là, chúng ta lựa chọn, sử dụng những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên phơng diện này cần phải xem chủ nghĩa t bản không chỉ là một đối trọng mà quan trọng hơn đồng thời là một đối tác. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì không thể không sử dụng chủ nghĩa t bản với t cách là một nấc thang văn minh nhân loại. Nh Mac đã nói: “ chúng ta đau khổ vì chủ nghĩa t bản và cũng đau khổ vì không có nó”. Tức là, chúng ta đau khổ vì quan hệ sản xuất sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất, nhng có lẽ chúng ta còn đau khổ hơn nếu nh không có lực lợng sản xuất khổng lồ của nó, đó chính là: “Tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác và Ph.Ăngghen). Định hớng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế thừa và sử dụng lực lợng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong điều kiện của xã hội t bản chủ nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa học, kỹ thuật, và công nghệ –môi trờng, là cơ chế thị trờngvới nhiều hình thức cụ thể tác động vào quan điểm phát triển kinh tế, nhất là những mặt tích cực của nó. Nói nh vậy không có nghĩa là lặp lại hoàn toàn quá trình xây dựng lực lợng sản xuất đó trong lịch sử. ở nớc ta, lực lợng sản xuất cần phát triển song hành hai phơng thức: tuần tự (từ thủ công đến nửa cơ khí rồi cơ khí) và nhảy vọt theo lối đi tắt, đón đầu (từ thủ công đi thẳng vào hiện đại) sao cho trong một thời gian ngắn, thậm chí rât ngắn chúng ta đạt trình độ với các nớc tiên tiến trong khu vực Song chúng ta phải biết rằng, lực lợng sản xuất chỉ có thể phát triển gắn liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nớc ta đã chủ trơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, phát triển lực lợng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lợng sản xuất hiện đại tới mức xã hội hoá gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị trờng có định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nớc. Nhà nớc ta là nhà nớc xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trờng, áp dụng các hình thức kinh tế và phơng pháp quản lý của kinh tế thị trờng để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy đợc mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng, bảo vệ lợi ích của ngời lao động, của toàn thể nhân dân. Muốn đảm bảo cho nền kinh tế thị trờng có điều kiện tồn tại và phát triển, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên và khách quan của các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế. Vì nó là cái khách quan nên chúng ta phải chú ý không nên đi ngợc lại nếu không thì chẳng bao giờ có thể xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Nhng bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế thị trờng là: phát triển nhanh lực lợng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập của ngời lao động lên thì mặt trái của nó trong một vài năm trở lại đây đang đợc phát huy một cách mạnh mẽ, sự chênh lệch thu nhập dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong lao động, tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nớc Trớc thực tế đó, Đảng và nhà nớc cần có những biện pháp phân phối hợp lý, không chỉ có phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà còn phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Ngoài ra chúng ta cần có những biện pháp khuyến khích làm giàu một cách chính đáng. Đối với thu nhập, nhà nớc cần có cơ sở điều tiết thu nhập (thuế thu nhập), cải cách cơ bản chế độ tiền lơng. Đối với ngời nghèo và có hoàn cảnh khó khăn cần có chính sách xã hội hợp lý: bàn cách làm giàu mặt khác cần kiên quyết chống những thu nhập bất chính. Đáng sợ hơn đó là tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức của nhiều cán bộ, công chức nhà nớc nằm ngay trong bộ máy nàh nớc, nó gây ra bất công xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở vai trò của công tác xây dựng Đảng, nhà nớc trong sạch, vững mạnh là hết sức quan trọng. Nói chung, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị của chủ nghĩa t bản không phải là không có kế thừa và chọn lọc những quan hệ sản xuất, những hình thức kinh tế t bản chủ nghĩa khi nó cha hết tác dụng tích cực ngya trong thời kỳ quá độ. Đây chính là những “cây cầu nhỏ”, những bớc trung gian quá độ đa chúng ta tới “phòng chờ” trực tiếp đi và chủ nghĩa xã hội. Về nặt kiến trúc thợng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để xây dựng nhà nớc hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế thị trờng. Chúng ta xác định mục tiêu: chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một chế độ xã hội vì con ngời và do con ngời. Để tiến hành đến mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với tăng trởng kinh tế, với công bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực hiện các chính xác xã hội. Đảng ta khẳng định: “chính xác xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con ngời là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tại của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, bởi “không có đầu t nào có lợi nh đầu t cho con ngời ”. Chính sách xã hội của Đảng đợc thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan tâm chăm sóc đối với những ngời có công với cách mạng, chính sách đền ơn đáp nghĩa (xây nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa). Trong kihn tế, tạo ra nhiều công ăn việc là mới cho ngời lao động, cải cách chế độ tiền lơng theo hớng xoá bỏ thu nhập bình quân, tiền tệ hoá tiền lơng, khuyến khích tài năng, đâu t đúng mức cho các ngành: y tế, giáo dục, văn hoá- nghệ thuật, nghiên cứu khoa học. Thực hiện chính sách dân số là một mục tiêu hết sức quan trọng trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Nhng dù sao đó mới chỉ là những chủ trơng, đờng lối đối với tình hình trong nớc. Vậy còn quốc tế thì sao? Thứ nhất, cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bớc nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Nớc ta một mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nớc phát triển, cải thiện vị thế của mình. Đồng thời đứng trớc nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ đợc cơ hội, khắc phục đợc những yếu kém để vơn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào trong kinh doanh, có nh thế mới mong có cơ hội phát triển. Thứ hai, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nớc, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nớc ta cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy đó. Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào xu thế toàn cầu hoá lại vừa có thể giữ vững đợc nền kinh tế độc lập tự chủ. Trớc tiên phải tính đến vai trò của bộ máy nhà nớc. Theo chỉ dẫn của Lênin thì bộ máy nhà nớc cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng rắn: “Ngày nay cần có sự mềm dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn ứng biến một cách mềm dẻo thì bộ máy phải thực sự cứng rắn”. Phải mềm dẻo vì đây là thời kỳ quá độ, biện pháp quá độ. Phải cứng rắn vì đây là cuộc “chiến tranh kinh tế”, cuộc chiến tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa xã hội. Bởi kẻ nào nắm thống trị về kinh tế thì dần dần sớm muộn cũng sẽ thống trị cả về chính trị (áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thợng tầng). Thứ hai, đó là chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc dân tộc vận hành trớc xu thế toàn cầu hoá, chủ động mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhng phải giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì không có bản lĩnh và không có bản sắc độc đáo riêng đợc giữ gìn, bảo vệ và phát huy thì không thể đứng vững trong giao lu hợp tác và hội nhập quốc tế. Phải làm cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý, ý thức dân chúng, là nội dung của kinh tế, chinh trị , xã hội trong phát triển. Văn hoá ở trong kinh tế chính trị là vậy. Mà giá trị cao nhất, sâu nhất của văn hoá lại là con ngời. Nó phải là chỗ quy tụ của mọi đờng lối, chủ trơng, chính sách, cơ chế, giải pháp. Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò của con ngời trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Vì vậy nớc ta phải đầu t hơn nữa cho việc phát triển con ngời mà cụ thể là sự nghiệp giáo dục- đào tạo phải đợc: đổi mới phơng pháp giảng dạy ở tất cả các bậc học từ mầm non tới sau đại học. Chú trọng đến giáo dục đào tạo ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Bởi “không có cái lợi nào bằng cái lợi đầu t cho con ngời”. Mặt khác, ta còn phải nâng cao năng lực và hiệu quả chủ động hội nhập quốc tế theo hớng đẩy nhanh tốc độ và khả năng nội sinh hoá những sức mạnh bên trong nhằm thâu thức, tích tụ và tăng cờng nội lực đất nớc để hội nhập một cách mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc mà vẫn giữ đợc bản sắc Việt nam. Hiện nay, các thế lực thù địch với những “diễn biến hoà bình” vẫn đang đe dọa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Từ thực tế đó đòi hỏi Đảng và nhà nớc ta phải ra sức tăng cờng an ninh quốc phòng, ra sức đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nớc, của thời đại. 2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan duy ý chí. Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đa đất nớc ta vững bớc trên con đờng xã hội chủ nghĩa nh đã trình bày ở trên, ta không thể không kể đến vai trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nnghĩa xã hội tiến nhanh và xa hơn đó là tính năng động, chủ quan, đó là khối đại đoàn kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho đợc xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nớc Việt Nam. Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính năng động chủ quan. Đó chính là những phát minh vĩ đại, những đờng lối chính sách đứng đắn có tính chất quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại của đông đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì không thể thực hiện đợc những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp cha từng có trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí cách mạng hiện nay phải gắn liền với chi thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở khoa học, sự phát triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc. Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ nguồn lực trí tuệ thì không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy tụ mọi tài năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc. Đây phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý chí chỉ đạo, bản lĩnh giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại. Bớc vào thế kỷ XXI, chúng ta tin chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, tin chắc chủ nghĩa xã hội nhất định thành công, nhất định tiếp tục đi theo con đờng đã chọn, dù một thế kỷ hay lâu hơn nữa cũng không nao núng. Đó phải chăng là sự khẳng định một ý chí lớn, một niềm tin lớn, một quyết tâm lớn mà nếu không có thì sẽ không tiếp tục cụ thể hoá và từng bớc đa vào cuộc sống những điều ghi trong cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội cũng nh trong Đại hội Đảng lần thứ IX. Với ý chí “quyết tâm đa nớc ta thoát khỏi nghèo làn, lạc hậu”, thhì không thể chậm chễ trong công nghiệp hoá, hiện đại hhoá đất nớc, để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa nớc ta với các nớc phát triển. Trong khi đề cao vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, nhiệt tình, cách mạng cũng cần phải phân biệt với t tởng chủ quan duy ý chí. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nhng ý thức xã hội lại có tác động ngợc lại đến tồn tại xã hội, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Khi con ngời xuất phát ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế thì nó sẽ trở thành một vận cản đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà trớc mắt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta không thể tiến hành theo quan niệm cũ, cách làm cũ (trớc 1986). Mà mọi đờng lối, kế hoạch đều phải dựa vào tình hình thực tế, những điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Nêu cao, bồi dỡng ý chí cách mạng và phê phán t tởng chủ quan duy ý chí là hai mặt của một vấn đề. Nêu cao ý chí cách mạng là khuyến khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám tạo ra những bớc đột phá có tính cách mạng để phát triển chứ không phải là kích thích những hành động chủ quan nóng vội, bất chấp quy luật khách quan. Phê phán t tởng chủ quan duy ý chí là nhằm hớng tới sự tỉnh táo khoa học và tính thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không phải là làm nhụt ý chí cách mạng. Kết luận Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn, nhng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát triển, bị kìm hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta - Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu nh: Mọi đờng lối, chính sách, phơng hớng mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải đợc xuất phát từ thực tế điều kiện nớc nhà. Thứ hai chúng ta phải phát huy cao độ vai trò tích cực của ý thức hay chính là vai trò năng động chủ quan của con ngời. Xây dựng hệ động lực tinh thần mạnh mẽ cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đaịo của toàn Đảng và nhân dân ta. Đó chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu nớc, ý chí quật cờng, phát huy tài trí của ngời Việt Nam, quyết tâm đa nớc nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu”. Đồng thời, chúng ta cũng cần tránh t tởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành phần kinh t bản lại vừa tránh đợc nguy cơ chệch hớng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết mà Đảng và nhà nớc ta cần có phơng hớng đi sao cho phù hợp. Gần đây có một số ý kiến cho rằng: Mục tiêu đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp của Đảng ta là chủ quan duy ý chí, là nóng vội, không tuân theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, rằng nớc ta cha đủ điều kiện để có thể đề ra một mục tiêu không tởng nh vậy. Đứng trớc tình hình này, Đảng và nhà nớc ta cần có biện pháp, bớc đi nh thế nào? Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học Mác - Lênin (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội) 2. Triết học Mác - Lênin (NXB giáo dục) 3.Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB Sự thật, Hà Nội, năm 1991. 4. Chủ nghĩa Lênin và công cuộc đổi mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nớc ta (NXB Thông tin lý luận, năm 1995). 5. Lê Khả Phiêu: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng” (NXB Chính trị quốc gia, năm 2001). 6. Lý luận chính trị số 1- 2002. 7. Tạp chí Cộng sản số 22 - 2000. 8. Tạp chí Cộng sản số 5 - 2001. 9. Tạp chí Cộng sản số 6 - 2001. 10. Tạp chí Cộng sản số 8 - 2001. 11. Tạp chí Triết học số 5 – 2002. 12. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9. NXB Chính trị quốc gia, năm 2001. Mục lục Nội dung Trang Lời nói đầu 1 1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức ...2 1.1. Vật chất quyết định ý thức 2 1.2. ý thức tác động trở lại vật chất4 2. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. .7 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đờng lối, chủ trơng, chính sách, kế hoạch, phơng hớng, mục tiêuđúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay.7 2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan duy ý chí....12 3. Kết luận 15 4. Phụ lục ..16 5. Tài liệu tham khảo 17

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9623.doc
Tài liệu liên quan