Đề tài Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.

doc23 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế thế giới đang có sự biến đổi và phát triển không ngừng. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, nền kinh tế Việt Nam cũng không ngừng biến đổi vận động.Cho đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn hai thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cần phải được giải quyết. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với tình hình khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin vào quá trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế ở Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn. Thực tiễn nghiên cứu quan điểm lịch sử cụ thể sẽ giúp chúng ta tránh lặp lại những sai lầm cũ và vận dụng những kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào quá trình xây dựng nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, trong tiểu luận triết học của mình, em đã chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. B. NỘI DUNG 1. Quan điểm lịch sử cụ thể 1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nương tựa, qui định lẫn nhau làm tiền đề điều kiện cho sự phát triển của nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy và còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Đó là mối liên hệ khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trong các quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật hiện tượng không thể tồn tại biệt lập, tách rời, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác đinh. Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và phong phú, có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu. 1.2. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng chung thống trị thế giới. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian quá khứ - hiện tại- tương lai. 1.3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau đó. 1.4.Quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn: Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, vỡi những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại. Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử cụ thể. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử cụ thể là tái tạo sự vật hiện tượng qua lăng kính ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó. Nguyên tắc lịch sử cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích những thuộc tính, mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng. Nguyên tắc lịch sử cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vât, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hoá thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó. Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng, cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển sản xuất và thành tựu khoa học trước đó. Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử cụ thể là cần tháy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng, tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng tránh khuynh hướng tuyệt đối hoá tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu. 2. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1. Sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam 2.1.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam Đại hội lần thứ VI của Đảng được xem như một cột mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc là từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, Đảng ta đã đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề “ có ý nghĩa chiến lược và mang tín quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội “. Tổng kết hai năm thực hiện nghị quyết đại hội VI, nền kinh tế đã có những sự phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản. Đó là những căn cứ để tiến tới một bước cao hơn trong những năm tiếp theo. Đại hội lần thứ VII, Đảng đã khẳng định: “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thàn phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” . Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tế hơn qua hơn 10 năm đổi mới ở nước ta đã chứng tỏ quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đổi mới tất yếu, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thời đại nhưng cũng là quá trình phức tạp lâu dài. Đó là quá trình khởi đầu bằng ý nguyện của quần chúng, được Đảng nắm bắt, tổng kết, định hướng bằng cơ chế, chính sách. Đó cũng là sự dũng cảm nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm từ mô hình cũ với những quan điểm giản đơn trong cách nghĩ, từ đó quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đề sống còn của dân tộc, chấp nhận sự tìm tòi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách đây vài chục năm trong tư duy kinh tế còn là cuộc đấu tranh gay gắt. Những chuyển đổi đó thực sự tạo ra bước ngoặt kinh tế. Kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá này càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước ổn định về chính trị và có những bước phát triển đi lên. Tổng sản phầm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, từ chỗ thiếu lương thực triền miên, đến nay chúng ta đã không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà xuất khẩu đứng vị trí thứ hai trên thế giới. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng . 2.1.2. Đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa KTTT theo định hướng XHCN là một khái niệm kép. Định hướng theo nghĩa danh từ là nền kinh tế thị trường vận động và trong nó hàm chứa và bị chi phối bởi tính chất XHCN. Và theo nghĩa động từ là tiến trình chế định nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc XHCN nhằm phục vụ CNXH. Tổng hoà các nghĩa đó, KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của KTTT vừa dựa trên những dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất CNXH, thể hiện trên ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. 2.2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Trước tiên cần phải tìm hiểu khái niệm KTTT. KTTT được hiểu là một mô hình kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá,tiền tệ, với quan hệ cung - cầu. Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là những mắt xích, khâu trung gian. Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm riêng. Trong các giai đoạn đó đã từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Cho đến khi nước ta đổi mới, nền kinh tế nước ta đã xác định được một định hướng đúng đắn cho nền KTTT đó là định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với KTTT tư bản chủ nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế do nhân dân, vì nhân dân, lấy đời sống nhân dân và công bằng xã hội làm mục tiêu trong quá trình tăng trưởng kinh tế. 2.3. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường Đến đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng KTTT do các đại hội trước đề ra, đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của KTTT: cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều phải được hạch toán một cách rõ ràng. Các thành phần kinh tế hoạt động theo phương thức lãi hưởng, lỗ tự bù. Chính điều này đã kích thích các thành phần kinh tế hăng hái hơn trong mọi hoạt độnh củ mình. Ưu điểm của kinh tế thị trường thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết chính là ở thành tựu kinh tế mà nhân dan ta đã đạt được trong nhưnhx năm vừa qua. Có thể nói việc chuển sang cơ chế quản lý nền kinh tế theo định hướng thị trường là một tất yếu khách quan. 2.4. Những hạn chế của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng KTTT chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu, như làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó đòi, thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập vào cả các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hoá,...làm cho giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng thời đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người; sự phân hoá giàu nghèo và bất công trong xã hội có chiều hướng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. Bởi vậy, đảng ta chỉ rõ: “Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền KTTT là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục đích xây dựng XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN”. [ Tạp chí triết học số 4 (110), tháng 8 năm 1999]. 2.5. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội hay không ? Phải khẳng định rằng kinh tế thị trường hòan toàn có thể được thực hiện dưới CNXH. Không nên đồng nhất KTTT với CNTB, bởi những lý do sau đây: Một là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của TBCN, KTTT là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh mà loài người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của cải xã hội. Hai là, do KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của CNXH là hệ thống quan hệ sản xuất XHCN dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Ba là: kinh tế thị trường và CNXH có thể dung hoà. Vấn đề căn bản để hình thành KTTT là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy, trong điều kiện chế động công hữu XHCN cũng có thể thực hiện được chế độ kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong việc phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, làm thế nào để có thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giàu nghèo, giảm bớt thất nghiệp,...đang là vấn đề buộc các nhà quản lý phải quan tâm. 2.6. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể. Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu,...đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhậy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo...và có cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, là nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại mà trước hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 3. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể 3.1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3.1.1. Những điều kiện trong nước Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài ngày rất lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát. Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền KH - CN, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém. Hệ thống giao thông vận tải vốn không được tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh nên ngày càng xuống cấp. Công nghiệp, dịch vụ hầu như không phát triển, chiếm tỷ trọng chưa đến 50% GDP. Bên cạnh đó còn có một hậu quả nặng nề khác là với cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi ích của mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo của con người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp và đặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu tính năng động quyết đoán ăn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế. Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều. Đặc điểm ở cấp vĩ mô: do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai miền Nam - Bắc còn có sự khác biệt không nhỏ hoặc khác biệt giữa các vùng, các khu vực xa xôi hẻo lánh với những vùng có đô thị tập trung. Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.” Trong tác phẩm Lutuch Phviobac và sự các chung của triết học cổ điển Đức. Lênin đã chỉ rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì không qua giai đoạn TBCN, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu của công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực phản động không ngừng tìm cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXH ở nước ta. Về văn hoá xã hội: Nói đến văn hoá xã hội của một dân tộc là nói đến bản sắc riêng có thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hoá của dân tộc đó. Theo định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện đại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình. với chiều dài mấy ngàn năm lịch sử, nước ta có một nền văn hoá lâu dài với các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp. Các giá trị tinh thần truyền thống vừa là kết quả vừa là cơ sở, động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hoá lâu dài của dân tộc, góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc và nhân cách con người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, lòng thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính cần kiệm khiêm tốn, giản dị, thủy chung,...trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, là giá trị cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc, là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân ta...Với bề dầy văn hoá đó cùng với chế độ chính trị đúng đắn là CNXH, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, nền KTTT năng động và khắc nghiệt rất cần những nhà quản lý kinh tế tài giỏi, sáng tạo, năng động thì chúng ta lại chưa có được. Nhân dân ta yêu nước, sẵn sàng xả thân vì tổ quốc nhưng trong hoạt động kinh tế thì nhân dân ta vẫn còn thiếu tính năng động, thiếu tính quyết đoán, thiếu những phẩm chất rất quan trọng của một nhà quản lý kinh tế. 3.1.2. Những điều kiện thế giới và khu vực Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay, không một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU,... Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Inđônêsia đều đã tiến hành nền KTTT được mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC). Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng XHCN. 3.2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể 3.2.1. Giai đoạn 1986 - 1991 Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đã có một số chính sách chưa đúng. Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi lúc này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, công nghệ còn quá lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học tài giỏi. Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nông sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,... Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất lượng còn chưa tốt. Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới. Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển. Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổimới. 3.2.2. Giai đoạn 1991 đến nay Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện, nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể: Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến giai đoạn nàyGDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng được cải tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá đã đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi. Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam đã bước đầu hội nhập được với nền kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các tổ chức kinh tế ở khu vực cũng như thế giới như Asean (1995), afta (1996) và đặc biệt là việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc moẻ rộnh thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiến tới tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền KTTT của ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc gia khác. KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn phát triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam. 4. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn đề bức thiết. Cụ thể : Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. KẾT LUẬN Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác. Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có thêm tự tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội mới. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát triển trong tương lai không xa. MỤC LỤC Trang A- LỜI MỞ ĐẦU 1 B - NỘI DUNG 2 1- QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ 2 1.1Nguyên lý về mối quan hêphổ biến của phép biện chứng duy vật. 2 1.2.Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật 2 1.3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể. 2 1.4. yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể. 3 2.QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN 2.1.Sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 3 2.1.1.Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 3 2.1.2.Đổi mới kính tế ở Việt Nam trở thành nền KTTT theo định hướng XHCN. 5 2.2.Thế nào là KTTT theo định hướng XHCN. 5 2.3.Ưu điểm của KTTT. 6 2.4.Những hạn chế của KTTT. 6 2.5.Có thể thực hiện được KTTT dưới CNXH hay không? 7 2.6. TẠI SAO PHẢI VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM. 8 3.QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN DƯỚI GÓC NHÌN CỦA QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ. 9 3.1NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. SÁCH: - Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996. - Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1997. 2. TẠP CHÍ: - Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998. - Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998. - Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997. - Cộng sản số 4 (2-2000). - Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997. - Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999. Và một số tạp chí khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8980.doc
Tài liệu liên quan