Đề tài Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đầy rẫy những biến động, đã tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Dưới sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục được đẩy mạnh một cách năng động và hiệu quả, thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội IX của Đảng đề ra là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tiếp đà quan hệ đối ngoại từ những năm trước, trên cơ sở phát huy những lợi thế có được từ đường lối đối ngoại đúng đắn, sự ổn định chính trị- xã hội và phát triển kinh tế năng động của đất nước, chúng ta đã thúc đẩy và mở rộng mạnh mẽ quan hệ hữu nghị hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi với các đối tác, tạo dựng khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài với nhiều nước, nhất là các nước láng giềng và các thành viên của ASEAN, các nước lớn và các đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Chúng ta tích cực tìm kiếm các giải pháp cho những vấn đề tồn tại, đồng thời khôn khéo và linh hoạt xử lý kịp thời những vấn đề đối ngoại mới nảy sinh trên trên cơ sở vừa đảm bảo lợi ích đất nước, vừa kiên định các nguyên tắc đối ngoại và hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc tiếp tục được thúc đẩy theo phương châm: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” . Quan hệ với Lào và Campuchia tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực; hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương giữa hai nước ngày càng hiệu quả. Quan hệ của Việt Nam với các nước còn lại trong ASEAN tiếp tục phát triểnvà ngày càng đi vào thực chất. Quan hệ với Mỹ cũng có những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong hợp tác kinh tế, thương mại. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước năm 2003 đạt gần 6 tỉ USD. Quan hệ với Nhật Bản tiếp tục được thúc đẩy, hai nước đang triển khai khuôn khổ quan hệ “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Quan hệ với các nước, các khu vực khác, nhất là châu Phi cũng được triển khai nhằm tăng cường quan hệ hợp tác, mở ra thị trường mới, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của lực lượng sản xuất- 15 2.2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 19 2.3. Mối liên hệ giữa sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới - 21 Kết luận 23 Tài liệu tham khảo 24 đặt vấn đề Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà cuộc Cách mạng tháng Mười Nga là “mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới”. Vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, khiến phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào đã có không ít người vốn nuôi hy vọng đi tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường bằng phẳng, êm ả, rốt cuộc lại nhanh chóng rơi vào tâm trạng bi quan, thất bại chủ nghĩa, nên đã vội vàng phủ nhận nội dung và tính chất cơ bản của thời đại hiện nay. Đương nhiên, sự khủng hoảng đổ vỡ đó phải khiến những người cách mạng cảnh tỉnh, nhưng không nên vội vàng đưa ra kết luận rằng nội dung và tính chất của thời đại đã thay đổi. chính sự hoang mang của những người cách mạng là một cơ hội cho sự phát triển của tư tưởng phủ nhận sự tồn tại xã hội xã hội chủ nghĩa, là cơ hội cho lực lượng phản động công kích, phá hoại chế độ của các nước đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, những người cách mạng cần tỉnh táo, phải có cái nhìn biện chứng duy vật để xem xét sự vận động của xã hội, mà trước hết là cái nhìn toàn diện. Là một người cách mạng, tôi cũng cần phải có cái nhìn biện chứng khách quan xem xét, đánh giá quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta để tư tưởng vững vàng hơn, tránh được sự gièm pha, dụ dỗ của những lực lượng phản động. Đề tài tôi nghiên cứu là: “Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”. Mục đích của đề tài là: trước hết, tự bản thân nhìn nhận biện chứng khách quan quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra những đánh giá chủ quan, tiếp đến, là góp phần xoá đi cái nhìn mơ hồ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Qua tiểu luận này tôi mong đây sẽ là một tài liệu tham khảo cho những ai muốn quan tâm đến vấn đề tôi vừa nghiên cứu. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài là rất rộng, không tránh khỏi những hạn chế. Kính mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến cho bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nội dung 1. Cơ sở lý luận 1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện 1.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trên thế giới tách rời nhau, cái nào riêng cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái khác; giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, hoặc nếu có thì chỉ là sự quy định lẫn nhau một cách giản đơn bên ngoài. Ngược lại, phép biện chứng duy vật xem xét mọi sự vật, hiện tượng là những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất, thống nhất ở tính vật chất vốn có, nên chúng luôn liên hệ chằng chịt lẫn nhau. Khái niệm “liên hệ” phản ánh sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau và quy định lẫn nhau của mọi sự vật, hiện tượng. Khái niệm “liên hệ” còn phản ánh sự tác động qua lại của chúng. Đó là kiểu liên hệ đặc biệt mà trong đó các sự vật, hiện tượng là đối tượng biến đổi của nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; nhờ đó, mà sự vận động, biến hóa của thế giới được thực hiện thường xuyên, liên tục. Không những các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau mà các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng cũng liên hệ hữu cơ với nhau; không những các giai độan trong một quá trình mà cả các qua trình trước và qua trình sau trong sự vận động, phát triển của thế giới nói chung và của từng sự vật, hiện tượng nói riêng cũng luôn luôn liên hệ vứi nhau: không chỉ trong tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần mọi sự vật, hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ thời gian nào, ở bất cứ lĩnh vực nào có những sự vật, hiện tượng tồn tại một chác hoàn toàn riêng rẽ, cô lập. Sự liên hệ đó là tính khánh quan và là tính phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Ngày nay, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, chúng ta càng thấy rõ hơn yếu tố quyết định hình thức tồn tại của sự vật, hiện tượng ở một dạng cụ thể nào đó là ở cách thức liên hệ với nhau của các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó. Còn yếu tố quyết định sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phậ cấu thành nó, mà chủ yếu là sự liên hệ tác động qua lại giữa cá mặt đối lập. Mặt khác, ban thân sự tồn tại của các sự vật hiện tượng cùng với sự liên hệ, tác động qua lại giữa chúng là cơ sở hiện thực để các sự vật, hiện tượng quy định lẫn nhau, phân biệt được với nhau. Hơn nữa, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ bộc lộ ra khi các sự vật, hiện tượng liên hệ, tác động qua lại với nhau. Tùy theo diện (rộng hay hẹp) và mức độ (nông hay sâu) của sự liên hệ, tác động mà bản chất của sự vật, hiện tượng được bộc lộ ra như thế nào. Chỉ có trên cơ sở như vậy, con người mới có thể ngày càng nhận thức được bản chất sâu sắc của sự vật, hiện tượng cùng với sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ, sinh động và vô cùng vô tận của thế giới vật chất. Trong thế giới khách quan, có vô vàn các mối liên hệ. Chúng rất đa dạng và giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ bên ngoài, tức là sự liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các hệ thống. Có mối liên hệ bên trong, tức là sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận ở bên trong sự vật, hiện tượng hay một hệ thống. Có những mối liên hệ chung cho toàn bộ thế giới hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới; lại có những mối liên hệ riêng biệt trong từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật, hiện tượng; lại có mối liên hệ gián tiếp, trong đó, các sự vật, hiện tượng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau thông qua một hay nhiều khâu trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên lại có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ cơ bản thuộc về bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật; lại có mối liên hệ không cơ bản, chỉ đóng vai trò bổ sung. Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật, có mối liên hệ chủ yếu, lại có mối liên hệ thứ yếu. Các sự vật, hiện tượng trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau; chính sự liên hệ, tác động qua lại của các giai đoạn kế tiếp nhau ấy quyết định tính liên tục trong quá trình vận động, biến đổi của chúng. Tùy theo sự tác động của đối tượng mà có mối liên hệ thuận chiều hay ngược chiều v.v.. Như vậy sự liên hệ, tác động qua lại của các sự vật, hiện tượng không những là vô cùng, vô tận mà còn rất phức tạp. Đặc biệt, trong lĩnh vực xã hội, tính chất phức tạp của sự liên hệ, tác động qua lại được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt lẫn nhau của vô vàn những hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì thế, mà tạo ra nhiễu loạn, che mờ bản chất của sự vật, hiện tượng, gây khó khăn cho nhận thức của con người. Nhưng mặt khác, tổng hợp các giao điểm của các mối liên hệ xã hội lại tạo thành những khuynh hướng tất yếu; chúng là cơ sở để con người nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội. Tùy theo tính chất và vai trò của từng mối liên hệ mà có thể khá quát bằng những khái niệm khác nhau. Sự khái quát này chỉ có nghĩa tương đối vì tính chất muôn vẻ và phức tạp của các mối liên hệ. Do đó, không thể xem xét một mối liên hệ tách rời khỏi hệ thống của nó, hay không thể tuyệt đối hóa bất kỳ mối liên hệ nào. Tất cả những hình thức liên hệ cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi, phát triển và chồng chéo lẫn nhau của chúng. Nghiên cứu các hình thức liên hệ riêng biệt trong từng lĩnh vực là công việc của các ngành khoa học cụ thể khác nhau, còn những mối liên hệ chung, phổ biến của thế giới là đối tượng của phép biện chứng duy vật. 1.1.2. Quan điểm toàn diện Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của phương pháp biện chứng Macxit. Theo nguyên tắc này, để nhận thức được đúng đắn sự vật, phải xem xét nó không chỉ ở ngay trong bản thân nó, mà còn trong sự liên hệ, tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác; nghĩa là phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Lênin ghi nhận: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và xem xét tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”. Nhưng để không tư mâu thuẫn với mình, Lênin còn chỉ rõ rằng: “Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Điều đó có ý nghĩa là trong một thời điểm nhất định, chúng ta không thể nắm được tất cả các mối liên hệ của sự vật, nhưng dù sao cũng cần phải tuân theo yêu cầu đó; chủ thể nghiên cứu cần phải sưu tầm lượng thông tin về đối tượng ở mức độ nhiều nhất có thể có được và chỉ có như vậy mới mong tránh khỏi sai lầm. Xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật không phải là xem xét một cách giàn trải, đồng loạt như nhau mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ. Từ trong tổng số những mối liên hệ ấy, trước hết phải rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu- những mối liên hệ quy định bản chất và phương hướng vận động, phát triển của sự vật đang chi phối những mối liên hệ khác, và do đó, cho phép thống nhất tất cả các mối liên hệ của sự vật thành một hệ thống hoàn chỉnh. ở đây, từ yêu cầu xem xét toàn diện chuyển sang yêu cầu xem xét có trọng tâm, trọng điểm. Nhờ đó mà nhận thức được bản chất của sự vật. Sau khi vạch rõ được mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, chủ thể phải xuất phát từ mối liên hệ ấy để giải thích các mối liên hệ khác của sự vật. Như thế từ việc xem xét có trọng tâm, trọng điểm lại chuyển thành việc lý giải toàn diện sự vật. Nhưng đến đây, tính toàn diện đã khác hẳn: nếu trước đây tất cả các mối liên hệ được xem xét cái này bên cạnh cái kia, có vai trò như là căn cứ đầy đủ để từ đó rút ra được một cách chính các mối liên hệ cơ bản, thì bây giờ chúng được xem xét trong mối liên hệ tác động qua lại với nhau phù hợp với mối liên hệ cơ bản, với vai trò như là điều kiện để giải quyết mối liên hệ cơ bản, bảo đảm tính đồng bộ trong việc nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn của sự vật, thúc đẩy sự vật phát triển. Tóm lại, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật, coi chúng là cơ sỏ, là căn cứ đầy đủ để từ đó rút ra được bản chất của sự vật. Từ chỗ hiểu được bản chất của sự vật, phải quy lại, giải thích được các mối liên hệ khác rồi liên kết chúng thành một hệ thống hoàn chỉnh. Chỉ đến khi đó, chủ thể mới hiểu được thấu đáo sự vật. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện, siêu hình, chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt. Cách xem xét như vậy sẽ không nhận thức được bản chất cảu sự vật một cách đúng đắn. 1.2. Quan điểm toàn diện trong phân tích hình thái kinh tế- xã hội Hình thái kinh tế- xã hội Hình thái kinh tế- xã hội là phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là sự thống nhất của tất cả các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động thông qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội đặt cơ sở nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó chỉ ra bản chất của một xã hội cụ thể, phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối liên hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù hình thái kinh tế- xã hội cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hìnhvà về mặt lịch sử. Khi nghiên cứu hình thái kinh tế- xã hội, nắm bắt được bản chất của một xã hội, ta sẽ vận dụng nó ngược trở lại để giải thích, nghiên cứu cho một xã hội hiện thực, đây là sự vận dụng quan điểm toàn diện vào phân tích hình thái kinh tế- xã hội. Hình thái kinh tế- xã hội có kết cấu phức tạp nhưng gồm các yếu tố cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ba yếu tố này có liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó: Quan hệ sản xuất là “bộ xương”, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế- xã hội này với hình thái kinh tế- xã hội khác. Nó đóng vai trò chi phối và quyết định các quan hệ xã hội khác của xã hội. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế- xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định. Kiến trúc thượng tầng: tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể sẽ hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội đó, mà trên đó hình thành một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chức năng chính trị- xã hội của kiến trúc thượng tầng này là duy trì, bảo vệ, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó, đấu tranh chống lại cơ sở hạ tầng cùng kiến trúc thượng tầng cũ. Ngoài ba yếu tố trên, khi xem xét một hình thái kinh tế- xã hội cần phải chú ý tới các yếu tố khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, gia đình, quốc tế v.v.. Sau đây là một số mối liên hệ cơ bản, bản chất giữa các bộ phận cấu thành một hình thái kinh tế- xã hội: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất: Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội- quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố tác động và cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Nó là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong mối liên hệ này, lực lượng sản xuất (nội dung) quyết định quan hệ sản xuất (hình thức). Lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt trước qua xa) sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn này. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng nào thì sẽ “sinh” ra kiến trúc thượng tầng ấy. Bởi lẽ, quan hệ sản xuất quyết định các quan hệ xã hội khác. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị- tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế. Cơ sở hạ tầng quyết định sự hình thành, tính chất của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng biến đổi, sớm hay muộn cũng dẫn đến những biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diẽn ra phức tạp trong qua trình chuyển đổi từ hình thái kinh tế- xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở chức năng xã hội của nó. Nghĩa là, kiến trúc thượng tầng thực hiện sự bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo hai hướng, hoặc là kìm hãm, hoặc là thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Sau đây, chúng ta phân tích sơ lược về hình thái kinh tế- xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Hình thái kinh tế- xã hội xã hội chủ nghĩa: Theo chủ nghĩa Mác, thì xã hội chủ nghĩa cộng sản là hình thái kinh tế- xã hội cuối cùng trong lịch sử loài người, căn cứ vào sự phát triển cụ thể của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với kiến trúc thượng tầng tương ứng, Mác- Ănghen đã phân các hình thái kinh tế- xã hội thành các giai đoạn phát nhất định. Mỗi giai đoạn ấy lại được phân chia thành các thời đoạn khác nhau. Hình thái kinh tế công sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Giai đoạn giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ xã hội này sang xã hội kia. Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản. Xã hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng sau: cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí; chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước kiểu mới, thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích quyền lực và ý chí của nhân dân lao động; chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện sự bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Từ việc nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, cương lĩnh của Đảng ta đã khái quát lên những nét đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa là: do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến đậm đã bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến một cách sâu sắc toàn diện những mặt, những bộ phận, những yếu tố của xã hội cũ, xây dựng và củng cố những yếu tố của xã hội mới (xã hội chủ nghĩa). Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại cả những yếu, những bộ phận của xã hội cũ và xã hội mới tác động qua lại, đan xen vào nhau. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong lực lượng vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có một số đặc điểm sau: trên lĩnh vực kinh tế, sự phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất trong thời kỳ này quy định tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó còn có những thành phần đối lập nhau; trên lĩnh vực xã hội, do kết cấu kinh tế trên đây quy định, trong xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp khác nhau trong đó có sự đối lập, đối kháng nhất định; trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hoá tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập lẫn nhau. Cùng với những bước tiến trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành phần, nhân tố mang tính chất xã hội sẽ ngày càng phát triển và vươn lên vị trí chi phối mọi lĩnh vực; nhưng con đường chủ nghĩa xã hội sẽ giữ vai trò chủ đạo. 2. Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Để phân tích cho đúng quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tất yếu phải xét xem nó đã vận động đúng theo quy luật khác quan hay chưa. Vì trên cơ sở mối quan hệ bản chất hay quy luật vận động cơ bản, ta áp dụng phân tích cho sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay. Cụ thể, cần nghiên cứu xem lực lượng sản xuất nước ta vận động như thế nào; quan hệ sản xuất vận động như thế nào, đã phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa; kiến trúc thượng tầng vận động như thế nào, đã phù hợp với cơ sở hạ tầng chưa; cuối cùng, là nghiên cứu mối liên hệ giữa sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. 2.1. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta ở nước ta trước đổi mới (1986) đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này. điều này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta. Từ đổi mới 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. điều này là hoàn toàn đúng với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, trình độ của lực lượng sản xuất nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều. Chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mới phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần chứa đựng trong bản thân nó mâu thuẫn. Đó là khuynh hướng tự phát đi lên tư bản chủ nghĩa và tự giác lên xã hội chủ nghĩa. Sau đây, ta phân tích cụ thể sự vận dụng quy luật, mối quan hệ bản chất vào quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta hiện nay: 2.1.1. Sự phát triển của lực lượng sản xuất Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng chỉ rõ phải tiến hành phát triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta đều nhất quán một quan điểm tiến hành công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và thứ IV, Đảng ta đưa ra quan điểm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng nhằm mục đích tạo ra những điều kiện vật chất tiền đề cho nền kinh tế theo mô hình của Liên Xô. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V cho đến nay, Đảng ta đã nhận thức được việc tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta không thể sao y nguyên mô hình của một nước khác mà phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Do đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã thay đổi quan điểm tiến hành công nghiệp hoá phải dựa vào lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, Đảng ta đã chủ động đưa nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện đồng thời ba chương trình kinh tế lớn của Đảng đó là chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Với quan điểm này, Đảng ta đã tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo mô hình hướng về xuất khẩu, có nghĩa là: phát huy và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp để tạo ra các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài, thu ngoại tệ rồi tiến hành chuyển giao công nghệ hay mua công nghệ mới phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Hai nhiệm vụ cơ bản của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là: vừa xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý vừa tiến hành từng bước đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá để tạo lập cơ cở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Từ hai nhiệm vụ trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định mục tiêu trước mắt cần tiến hành đó là: - Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp- nông thôn, quá trình này gắn liền với việc phát triển toàn diện nông- lâm- ngư nghiệp và chế biến sản phẩm nông nghiệp; - Tiến hành công nghiệp hoá nông thôn gắn liền với phát triển thuỷ lợi hoá, phát triển công nghệ sinh học, thực hiện cơ giới hoá và điện khí hoá nông thôn, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp nông thôn; - Phát triển công nghiệp gắn với nông thôn trên cơ sở xây dựng có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng nhưng đặc biệt quan tâm đến những ngành công nghiệp nhẹ như may mặc, giầy da, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản để một mặt hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển, nhưng, mặt khác để sử dụng nguồn vốn lao động nông nhàn ở nông thôn; - Đặc biệt phát triển nhanh các ngành du lịch, dịch vụ, trong đó cần tập trung cho hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm,.. nhằm trước hết đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ của nhân dân nhưng mặt khác để nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh; - Phát triển hợp lý cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ để khai thác những lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của từng vùng, lãnh thổ; - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, trong bối cảnh của nền kinh tế hội nhập, hoà nhập hiên nay trên khu vực và thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải có một chiến lược và chính sách kinh tế đối ngoại một cách hợp lý. Nước ta tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong điều kiện nguồn nội lực có nhiều khó khăn, vì vậy phát triển và mở rộng các quan hệ kinh tế là khai thông và tạo lập những cơ hộiđểchúg ta khai thác những lợi thế ngoại lực từ đối tác bên ngoài. Với nội dung cơ bản của công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nây là: Thứ nhất: phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ. Cốt lõi của công nghiệp hoá- hiện đại hoá là biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện sự cải biến này, cần phải thực hiện điện khí hoá, cơ khí hoá và tự động hoá sản xuất, trước hết là cơ khí hoá một cách phổ biến. Cơ khí hoá lao động, thay thế lao động thủ công là một trong những phương hướng chủ yếu của tiến bộ kỹ thuật trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá và là một nhân tố quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay trong việc nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ điều kiện lao động, nâng cao trình độ văn hoá của người lao động. Đối tượng của công nghiệp hoá- hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó, các ngành chế tạo tư liệu sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của những ngành khác. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá các ngành, các khâu của nền kinh tế đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ, cân đối, như vậy mới tạo được điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển thuận lợi với tốc độ nhanh đồng thời phát huy được hiệu quả của chính quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Thứ hai: quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả hơn. Cơ cấu kinh tế là tổng thể cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với xu thế phát triển của nền sản xuất hiện đại. Xu thế đó là: Tỷ trọng sản phẩm trong công nghiệp và dịch vụ tăng còn trong nông nghiệp giảm. Tổng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp- nông nghiệp ngày càng giảm tương ứng sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao động xã hội, với quá trình hình thành các ngành kinh tế, các vùng kinh tế chuyên môn hoá, các thành phần kinh tế. Các ngành, vùng, thành phần kinh tế ấy tồn tại và hoạt động trong tổng thể nền kinh tế thống nhất và tạo thành cơ cấu nền kinh tế quốc dân như một chỉnh thể. Cơ cấu kinh tế hợp lý đòi hỏi những ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối lưu thông phải phát triển tương ứng với các ngành khác mới có thể phục vụ tốt cho công nghiệp và nông nghiệp phát triển thuận lợi. Thứ ba: trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phải xây dựng đội ngũ lao động có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội cao với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá với giáo dục và đào tạo có mối liên hệ chặt chẽ, chúng luôn luôn có sự tác động, quy định lẫn nhau, nhất là trong điều kiện cánh mạng khoa học và công nghệ. Về thực chất, công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một quá trình mà trong đó con người- với những năng lực của mình như kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh… biết tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học- kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Theo đó, lực lượng tiến hành, hay nói khác, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá là những người lao động có chất lượng cao. Chính vì vậy mà Đảng ta coi trọng giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Thứ tư: phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ đang bùng nổ. Vì vậy mà Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ: Phải xác định rõ phương hướng cho việc phát triển khoa học công nghệ dựa trên cơ sở khai thác và sử dụng lợi thế tuyệt đối của nền kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng những công nghệ hiện có đồng thời tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài để phát huy những lợi thế so sánh của nền kinh tế. Chuyển giao công nghệ từ những nước tiên tiến đi trước cũng là một cách tốt trong việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Tuy nhiên trong chuyển giao công nghệ, Đảng và Nhà nước cũng chỉ rõ: cần có một quá trình lựa chọn tối ưu để đảm bảo cho những công nghệ nhập khẩu còn có tính chất tiên tiến trong quá trình hoạt động có nghĩa là sản phẩm do các công nghệ đó sản xuất ra phải tồn tại được trong cạnh tranh trong nước và quốc tế; công nghệ chuyển giao phải phù hợp với trình độ sử dụng của lao động hiện có ở Việt Nam; phải bảo đảm được thời hạn sử dụng và tính khấu hao. Thực tế, nước ta đã ngày càng chú trọng đến đầu tư cho khoa học- công nghệ: Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách Nhà nước tăng từ 0,78% (năm 1996) lên 2,13% (năm 2002). Năm 2003, tổng chi cho khoa học và công nghệ từ ngân sách Nhà nước đạt trên 3150 tỷ đồng, chiếm 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ. Nhờ đầu tư chiều sâu từ ngân sách, cho đến nay, 1/3 số thiết bị khoa học của các cơ quan nghiên cứu là những thiết bị thế hệ mới. 2.1.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên quan hệ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất là chủ yếu nhưng thời kỳ này chúng ta không thể nôn nóng, vội vàng áp đặt trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mà phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất phù hợp. Ngoài ra, theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, quan hệ sản xuất mới cần thoả mãn các điều kiện sau: quan hệ sản xuất mới phải có tính cách mạng và khoa học để mở đường cho quá trình phát triển kinh tế; xây dựng quan hệ sản xuất mới phải bảo đảm tạo ra sức mạnh kinh tế để cho nhà nước thực hiện chức năng tổ chức quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; quan hệ sản xuất mới phải phải đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước phát huy và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; xây dựng quan hệ sản xuất mới phải bảo đảm phát huy được nội lực của nền kinh tế, tranh thủ được ngoại lực từ bên ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội ở thời kỳ quá độ. Hiện nay, nước ta đang tồn tại ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp. Nhưng trong thực tế nó tồn tại dưới các hình thức cụ thể: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu cá nhân, sở hữu hỗn hợp. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam không tồn tại biệt lập mà đan xen và tác động qua lại với nhau. Sở hữu nhà nước được xác lập đối với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các nguồn tài nguyên và các tài sản quốc gia, đồng thời sở hữu nhà nước còn bao gồm tất cả các doanh nghiệp do nhà nước bỏ vốn hình thành, xây dựng, ngoài ra còn các hình thức như ngân hàng, tài chính mà nhà nước là chủ sở hữu, sử dụng và quản lý. Từ các hình thức sở hữu trên, nền kinh tế nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế cơ bản (theo tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng IX): kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tiểu chủ; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này tuy có đặc điểm, vai trò và vị trí khác nhau nhưng có mối liên hệ biện chứng- vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, chúng tồn tại trong xã hội Việt Nam một cách khách quan, không thể tự giác phủ nhận một thành phần kinh tế nào trong chúng. Đây là một quy luật mà trước kia Đảng và Nhà nước ra đã sai lầm phạm phải. Nhờ có tồn tại nhiều thành phần kinh tế mà mới có thể phát triển một cách hiệu quả hơn trước kia. Trong sáu thành phần kinh tế đó, thành phần kinh tế nhà nước được coi là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; nắm trong tay những ngành kinh tế then chốt; có lực lượng lao động đông đảo, tập trung và được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật và phát triển tri thức. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế này là: dù được xác định giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhưng tồn tại khá lâu trong cơ chế bao cấp cũ vì vậy hiệu quả hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước là thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật mang tính phổ biến, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác còn mờ nhạt. Cũng vì thế, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đổi mới phương thức quản lý các doanh nghiệp nhà nước mà ở đó đặc bệt quan tâm đến giải quyết quan hệ sở hữu. Hiện nay Đảng và Nhà nước có chủ trương và đang tiến hành cổ phần hoá một bộ phận lớn các doanh nghiệp nhà nước để chuyển doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, đó là cổ đông nhằm mục đích gắn quyền lợi và nghĩa vụ của chủ thể đối với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài chủ trương cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước đang tiến hành giao bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt để củng cố hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và gần đây đưa ra Luật doanh nghiệp sửa đổi và kèm theo Luật phá sản doanh nghiệp. Thành phần kinh tế tập thể có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sản phẩm tạo ra từ nó thường là lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu. Xu hướng phát triển của thành phần kinh tế này là: “Chuyển đổi và xây dựng các hợp tác xã kiểu mới” theo Luật hợp tác xã năm 1997, tiến hành đa dạng hoá các hình thức hợp tác bao gồm: các hợp tác xã phục vụ các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và cả các hợp tác xã tiêu thụ ản phẩm đầu ra, mỗi hợp tác xã đảm nhận những công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất. Thành phần kinh tế tư nhân gồm các xí nghiệp tư bản tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Thành phần kinh tế này có vai trò cần thiết, quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế tất yếu của nền kinh tế nước ta. Nghị quyết TW 5 (khoá IX) của Đảng đã đưa ra một Nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta nhằm tạo điều kiện khuyến khích cho kinh tế tư nhân phát huy năng lực, phát triển cùng các thành phần kinh tế khác trong cả nước. Thực tế cho thấy vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất, về giải quyết các vấn đền xã hội. Quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong nhiều năm qua không ngừng tăng lên. Năm 2001 tăng 23%, năm 2002 tăng 28%, trong 9 tháng đầu năm 2003 tăng 24%. Tỷ trọng sản phẩm đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân là: Năm 1996 2000 2001 2002 % 3.12 3.38 3.73 3.93 Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm các nhà sản xuất nhỏ, nhưng có vai trò đáng kể trong viẹc tạo ra một khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và trong việc giải quyết công ăn việc làm, nó hoạt động linh hoạt nên hiệu quả vốn cao. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước gồm các doanh nghiệp liên doanh liên kết giữa nhà nước với các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Đặc điểm của thành phần kinh tế này là có sức mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý sản xuất nên có sức cạnh tranh cao trong cả thị trường nội địa và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã và đang tạo ra môi trường đầu tư và môi trường kinh tế thuận lợi, hấp dẫn, đồng thời xây dựng hệ thống pháp luật ổn định, tạo hành lang pháp lý để hướng dẫn các các chủ thể trong thành phần kinh tế này phát huy năng lực của họ. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gồm các xí nghiệp đầu tư trực tiếp của các đối tác nước ngoài vào Việt Nam thông qua dòng vốn FDI, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực mà Nhà nước cho phép, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn. Do trong thời kỳ qua độ, nước ta có nguồn vốn nội lực đang gặp nhiều khoá khăn, vì vậy Đảng và Nhà nước ta cho rằng hình thành và phát triển thành phần kinh tế này là sự cần thiết khách quan để tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài . Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Hơn nữa chúng ta lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nghĩa là chúng ta chưa có tiền đề cơ sở vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đã qua chế độ tư bản hay chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức trung bình cũng không thể thiết lập ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế. Do vậy nước ta càng không thể xây dựng nhanh chóng chế độ công hữu mà phải trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, qua những nấc thang trung gian , qua độ. Thông qua mỗi bước đi, mỗi hình thức quá độ để tạo điều kiện cho chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng tăng lên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân và sự quản lý của nhà nước của dân, do dân, vì dân những cơ sở kinh tế công hữu được từng bước tạo ra do quá trình quốc hữu hoá và xây dựng mới. Điều này là cần thiết, bởi lẽ nếu không có những cơ sở kinh tế này thì không có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Vấn đề là phải thiết lập chế độ công hữu phải hợp lý, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Muốn thiết lập chế độ công hữu phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phải xã hội hoá sản xuất trong thực tế, phải thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất. Như vậy, khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, nước ta xây dựng quan hệ sản xuất, với ba hình thức sở hữu và tương ứng là sáu thành phần kinh tế, là phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ngược lại quan hệ sản xuất này có tác động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, biểu hiện cụ thể: phát triển các thành phần kinh tế khác nhau sẽ huy động được các nguồn lực trong xã hội như vốn, khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý,… Từ đó thúc đẩy nền sản xuất phát triển; thực hiện nhiều hình thức phân phối nhằm tạo ra động lực lao động và thúc đẩy sự đóng góp vào quá trình sản xuất của xã hội. 2.2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Kiến trúc thượng tầng của nước ta cũng bao gồm những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v.. cùng với những thiết chế xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng nước ta là do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa quyết định. Hay nói cách khác, kiến trúc thượng tầng được hình thành và quyết định bởi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nước ta đang phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh thế nhà nước, kinh tế hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo. Với một cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ và một kết cấu kinh tế đan xen nhiều thành phần kinh tế thì kiến trúc thượng tầng cũng phải xây dựng, củng cố, đổi mới cho phù hợp với cơ sở hạ tầng. Phát triển kinh tế nhiều thành phần không có nghĩa là nhất thiết phải đa nguyên chính trị. Bởi lẽ, trong kết cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thì kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể đóng vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác đều hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, nhu cầu khách quan đặt ra là kiến trúc thượng tầng của nước ta phải được đổi mới, phát triển theo hướng nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình- bảo vệ, duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó. Theo Nghị quyết hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1994) đã khẳng định chủ trương đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật đưa đất nước phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối phát triển kinh tế: Bằng các công cụ và lực lượng kinh tế, nhà nước tiến hành các hoạt động xã hội, các hoạt động kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa như hỗ trợ giúp đỡ cho các thành phần kinh tế khác phát triển và hỗ trợ, đầu tư cho các vùng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động; điều chỉnh quan hệ phân phối trong xã hội, thông qua các công cụ tài chính, tiền tệ như thuế, ngân sách, các quỹ phúc lợi xã hội để điều tiết thu nhập giảm tình trạng chênh lệch giàu nghèo; quản lý các hoạt động của đời sống xã hội bằng pháp luật, các tư tưởng, đạo đức,… Tư tưởng chính trị: Từ những năm 30- 40 của thế kỷ XX, Đảng ta đã xây dựng đất nước phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong thời gian qua, Đảng ta đã dựa trên tư tưởng và mô hình về xã hội chủ nghĩa của Mác- Lênin và áp dụng thực tiễn Việt Nam để tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã có lúc sai lầm về tư tưởng dẫn đén những hạn chế trong công cuộc xây dựng đất nước nhưng tư tưởng Mác- Lênin đã xuyên suốt, là kim chỉ nam trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của Đảng và Nhà nước. đén nay sự vận dụng có sáng tạo tư tưởng Mác-Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn nước ta trong tình hình quốc tế có nhiều biến động đã đem lại những thành tựu to lớn trong kinh tế cũng như trong chính trị. Đạo đức, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật: Nhìn chung tư tưởng đạo đức của nhân dân ta đặc trưng bởi nền văn hoá phương Đông. Mọi hành động đều bị chi phối bởi các tư tưởng đạo đức. Ngoài ra, Việt Nam còn có một nền văn hoá lâu đời. Chúng ta cần giữ gìn và phát huy nền văn hoá dân tộc và trong quá trình hội nhập với thế giới phải tiếp thu có chọn lọc văn hoá từ các nước khác. 2.3. Mối liên hệ giữa sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đầy rẫy những biến động, đã tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Dưới sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục được đẩy mạnh một cách năng động và hiệu quả, thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội IX của Đảng đề ra là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tiếp đà quan hệ đối ngoại từ những năm trước, trên cơ sở phát huy những lợi thế có được từ đường lối đối ngoại đúng đắn, sự ổn định chính trị- xã hội và phát triển kinh tế năng động của đất nước, chúng ta đã thúc đẩy và mở rộng mạnh mẽ quan hệ hữu nghị hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi với các đối tác, tạo dựng khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài với nhiều nước, nhất là các nước láng giềng và các thành viên của ASEAN, các nước lớn và các đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Chúng ta tích cực tìm kiếm các giải pháp cho những vấn đề tồn tại, đồng thời khôn khéo và linh hoạt xử lý kịp thời những vấn đề đối ngoại mới nảy sinh trên trên cơ sở vừa đảm bảo lợi ích đất nước, vừa kiên định các nguyên tắc đối ngoại và hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc tiếp tục được thúc đẩy theo phương châm: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” . Quan hệ với Lào và Campuchia tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực; hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương giữa hai nước ngày càng hiệu quả. Quan hệ của Việt Nam với các nước còn lại trong ASEAN tiếp tục phát triểnvà ngày càng đi vào thực chất. Quan hệ với Mỹ cũng có những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong hợp tác kinh tế, thương mại. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước năm 2003 đạt gần 6 tỉ USD. Quan hệ với Nhật Bản tiếp tục được thúc đẩy, hai nước đang triển khai khuôn khổ quan hệ “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Quan hệ với các nước, các khu vực khác, nhất là châu Phi cũng được triển khai nhằm tăng cường quan hệ hợp tác, mở ra thị trường mới, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế tiếp tục được coi trọng, đẩy mạnh và đang có những chuyển biến rất đáng khích lệ cả trong nhận thức cũng như trong hành động và hoàn thiện cơ sở pháp lý, đóng góp ngày càng hiệu quả vào sự phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế giới trong năm 2005 và hơn nữa sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong khi đó, nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta rất nặng nề. Đó là phải nỗ lực rất lớn để hoàn thành các mục tiêu do Hội nghị Trung ương lần thứ chín, khoá IX, đề ra cho những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội IX của Đảng. Hoạt động đối ngoại của chúng ta năm 2005 và sau này phải được triển khai mạnh mẽ trên cơ sở nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 và phát huy tối đa những thành tựu đã đạt được trong những năm qua nhằm tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho sự nghiệp phát triển của đất nước; đồng thời, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Kết luận Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chạy đua giữa hai khuynh hướng: tự phát lên tư bản chủ nghĩa và tự giác lên xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh vì định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra đã, đang và sẽ rất gay gắt. Từ khi một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì tương quan lực lượng giữa hai khuynh hướng này nghiêng về tư bản chủ nghĩa. Nước ta là một trong số ít nước vẫn kiên định công khai tiến lên xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển và sản sinh cho thế giới một lương hàng hoá khổng lồ, nhiều nhà cách mạng Việt Nam bị hoang mang và vội vàng nghi ngờ về nội dung và tính chất của thời đại, trong khi lực lượng phản động ngày càng tăng cường đả kích, nói xấu Đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam. Vì vậy, mỗi nhà cách mạng cần thiết phải tự mình xem xét biện chứng khách quan về sự vận động của xã hội để tư tưởng vững vàng hơn Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, bản thân tôi đã có được một cái nhìn toàn cảnh về sự vận động của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bản thân đứng trên quan điểm toàn diện đã chứng tỏ một cách biện chứng duy vật rằng đường của Đảng và Nhà nước hiện nây là hoàn toàn đúng đắn. Tuy trong quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta còn đôi chút sai sót nhưng đã được kịp thời sửa chữa. Tài liệu tham khảo 1 Tạp chí Cộng sản số 3, 1/2002. 2 Tạp chí Cộng sản số 9, 5/2004. 3 Tạp chí Cộng sản số 21, 11/2004. 4 Tạp chí Cộng sản số 22,11/2004. 5 Tạp chí Khoa học ĐHQG,KHXH&NV số 1 năm 2002 6 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 6 (217),6/1996 7 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 252,9/1999 8 Tạp chí Triết học số 3(121), 6/2001 9 Tạp chí Triết học số 9(127), 12/2001 10 Tạp chí Triết học số 7(146), 7/2003 11 Tạp chí Triết học số 12(151), 12/2003 12 Tạp chí Triết học số 5(156), 5/2004 13 Tạp chí Triết học số 7(158), 7/2004 14 Giáo trình Kinh tế chính trị NXBCTQG- 1999 15 Giáo trình Triết học Mác- Lênin (chương trình cao cấp) NXBCTQG- 2000 16 Giáo trình Triết học Mác- Lênin NXBCTQG- 2003 17 TS. Nguyễn Xuân Dũng: ‘Một số định hướng đẩy mạnh CNH-HĐH ở Việt Nam giai đoạn từ 2001- 2010’ NXBCTQG,2001 18 PGS.TS.Trần Văn Phòng (chủ biên): ‘Tìm hiểu môn học Triết học Mác-Lênin’ NXB Lý luận chính trị- 2003 19 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, 1986 20 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII, 1991 21 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII, 1996 22 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX, 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28277.doc
Tài liệu liên quan