Thêm vào đó, xét về đối tượng cụ thể của kiểm toán báo cáo tài chính là các báo cáo kế toán và các bảng tổng hợp tài chính đặc biệt khác. Các bảng tổng hợp này vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế rộng rãi tổng quát, vừa phản ảnh cụ thể tưng loại tài sản, nguồn vốn với những biểu hiện về kinh tế, pháp lý và được lập ra theo những trình tự xác định với những chuẩn mực cụ thể trong quan hệ với các nghiệp vụ phát sinh. Do vậy, kiểm toán báo cáo tài chính thường là kiểm toán liên kết và hình thành các loại thử nghiệm (tests) với việc sử dụng liên hoàn các phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra ý kiến đúng đắn về các bảng tổng hợp tài chính này.
123 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng thủ tục phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst và Young Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những kĩ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán, là cơ sở tiến hành các thủ tục kiểm tra chi tiết. Như đã biết, trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên có 7 cách để thu thập bằng chứng:
Kiểm tra vật chất (kiểm kê)
Gửi thư xác nhận
Xác minh tài liệu
Quan sát
Phỏng vấn
Kĩ thuật tính toán lại.
Kĩ thuật phân tích.
Mỗi kĩ thuật thu thập bằng chứng đều có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng một cách linh hoạt. Thủ tục phân tích được xem là kĩ thuật thu thập rất hữu ích.
Với kĩ thuật phân tích kiểm tra tính hợp lý, kiểm toán viên đã phát hiện được những biến động lớn hoặc những chênh lệch lớn trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chẳng hạn, với khách hàng Smiledi, thông qua việc so sánh doanh thu thực tế với doanh thu dự kiến của 3 dòng sản phẩm đóng góp chủ yếu vào doanh thu của công ty, kiểm toán viên đã phát hiện ra sự chênh lệch lớn giữa doanh thu thực tế và doanh thu dự toán của dòng sản phẩm DQJ_B14. Mặc dù đã tìm được sự giải thích hợp lý cũng như cơ sở bảo đảm cho sự giải thích đó, kiểm toán viên vẫn đề xuất trong thư quản lý việc công ty Smiledi Việt Nam đã không thông báo sự dao động bất thường này với tập đoàn Smiledi toàn cầu. Đây là một kiến nghị hữu ích để tập đoàn Smiledi toàn cầu quản lý tốt hơn các công ty con của mính, cụ thể là trong việc phê duyệt doanh thu dự toán trong thời gian tiếp. Cũng với khách hàng Smiledi Việt Nam, kĩ thuật so sánh chi tiết số đơn vị hàng hóa đã được chuyển giao với doanh thu được ghi nhận và các ghi chép về sản lượng trong quan hệ với giá bán trung bình đã chỉ ra một sự biến động hợp lý của doanh thu: số lượng sản phẩm được chuyển giao càng nhiều thì doanh thu càng lớn và ngược lại. Đặc biệt, kĩ thuật so sánh doanh thu được ghi nhận với ước tính của kiểm toán viên là kĩ thuật kiểm tra tính hợp lý phổ biến và quan trọng nhất. Chẳng hạn, với khách hàng Smiledi Việt Nam, kiểm toán viên căn cứ vào số lượng hàng bán ra do bộ phận bán hàng cung cấp và mức giá trung bình được quy định trên các hợp đồng kinh tế, kiểm toán viên xây dựng được mức doanh thu ước tính. Doanh thu ước tính này mặc dù có chênh lệch với doanh thu thực tế nhưng thấp hơn “mức ngưỡng” (threshold) nên được coi là không trọng yếu. Các kĩ thuật này cùng với kĩ thuật kiểm tra chi tiết bổ sung đã khẳng định sự hợp lý trong ghi nhận doanh thu của công ty Smiledi Việt Nam. Tương tự, với ngân hàng APB, kiểm toán viên đã thực hiện thủ tục phân tích với thu nhập từ lãi cho vay và các tài sản mang lại lãi khác. Kiểm toán viên đã phát hiện chênh lệch giữa lãi thực thu và lãi ước tính. Điều này được lí giải hợp lý là do kiểm toán sử dụng tỷ lệ lãi suất trung bình trong khi ngân hàng sử dụng tỷ lệ lãi suất riêng được quy định theo từng hợp đồng tín dụng hoặc theo từng giấy nhận nợ. Chênh lệch của các tài khoản thu nhập khác cũng không trọng yếu. Cũng với ngân hàng APB, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích sơ bộ đã chỉ ra sự bất thường của tài khoản 7084 – Thu nhập từ chuyển giao chi phí cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên đã chi tiết (breakdown) tài khoản và phân tích bản chất của các tiểu khoản (gồm thu nhập từ các tài khoản không có giao dịch trong thời gian dài, thu nhập phát sinh từ duy trì tài khoản của khách hàng, và thu nhập từ chênh lệch giữa lãi tính cho chi nhánh cấp dưới và lãi phái trả cho Ngân hàng Lào).Từ đó cũng khẳng định doanh thu đã được ghi nhận hợp lý.
Với kĩ thuật phân tích xu hướng, kiểm toán viên đã phân tích sự thay đổi theo thời gian của số dư tài khoản, số phát sinh của các khoản mục với mục đích tìm ra biến động bất thường. Chẳng hạn, với khách hàng Smiledi Việt Nam, kiểm toán viên đã phân tích quy mô doanh thu trong tháng cuối cùng so với tổng doanh thu để xem xét có tồn tại khả năng doanh thu bị khai khống trong những tháng cuối cùng hay không. Bảng số liệu doanh thu theo tháng chỉ ra doanh thu những tháng cuối năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu. Kế toán đã giải thích là do số sản phẩm làm theo hợp đồng kí kết trong tháng 7/2006 tăng dần vào cuối năm. Tương tự, khoản lỗ từ giao dịch ngoại tệ của ngân hàng APB trong năm 2006 đã được lý giải cụ thể qua biểu phân tích lãi/lỗ từ kinh doanh ngoại tệ hàng tháng.
Với kĩ thuật phân tích tỷ suất, kiểm toán viên thu được bằng chứng từ số dư tài khoản, số phát sinh các khoản mục hoặc những loại hình nghiệp vụ trên cơ sở tính toán các tỷ suất, tỷ lệ. Chẳng hạn, với khách hàng Smiledi Việt Nam, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phụ trách đã có đánh giá khái quát về hệ số thanh toán nhanh, vòng quay nợ phải thu và tỷ suất sinh lời ROE.
Hai là, thủ tục phân tích giảm rủi ro kiểm toán, giúp kiểm toán viên soát xét, nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán. Ngay trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, thủ tục phân tích trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh đã xác định các khoản mục có khả năng sót. Chẳng hạn với khách hàng Smiledi Việt Nam, các khoản mục chứa đựng rủi ro cao trên bảng cân đối kế toán là hàng tồn kho, phải thu khách hàng, phải trả người bán và trên báo cáo kết quả kinh doanh là doanh thu và giá vốn hàng bán. Từ đó, trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên tập trung các thủ tục phân tích kĩ hơn và các thủ tục kiểm tra chi tiết liên quan tới các khoản mục trên để đảm bảo cơ sở dẫn liệu. Kĩ thuật phân tích doanh thu và tỷ lệ doanh thu trong 3 tháng cuối cùng so với tổng doanh thu tại công ty Smiledi Việt Nam là một trong những kĩ thuật đảm bảo cho việc doanh thu không bị khai khống trong những tháng cuối cùng. Nhờ vậy, ở giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên đã khẳng định sự hợp lý của toàn bộ các vấn đề liên quan tới doanh thu đã được đặt ra trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: cơ sở dẫn liệu sự hiện hữu, tính trọn vẹn và đo lường được đảm bảo.
Ba là, thủ tục phân tích được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Tham khảo hồ sơ kiểm toán ở công ty Ernst & Young Việt Nam, có thể nhận thấy rằng hầu hết các hồ sơ đều được lập kế hoạch qua Bảng ghi nhớ chiến lược kiểm toán (Audit Strategies Memorandum) và đưa ra kết luận cuối cùng trong Biên bản hoàn tất hợp đồng kiểm toán (Summary Review Memorandum).
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, qua biểu phân tích tổng thể các khoản mục (Overall Analytical Review), kiểm toán viên có thể phát hiện những chênh lệch lớn và biến động bất thường trong từng khoản mục.
Với lợi thế từ một tập đoàn hàng đầu thế giới, cơ sở vật chất cực kì hiện đại, nguồn thông tin tài chính và nhiều dữ liệu ngành được cập nhật liên tục, việc vận dụng thủ tục phân tích trong quá trình kiểm toán được sử dụng tối đa tại công ty Ernst & Young Việt Nam. Qua đó, kiểm toán viên thấy được tình trạng tài chính của khách hàng, có được những đánh giá về những tài khoản hay những nhóm tài khoản thiết yếu phải quan tâm dựa trên sự hiểu biết về tình hình kinh doanh hiện tại của khách hàng, đặc điểm bản chất của khoản mục cũng như những phân tích sơ bộ để đánh giá mức độ hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính. Nhờ đó, khoanh vùng được những biến động cần quan tâm, giảm bớt được rủi ro kiểm toán và tiết kiệm thời gian của cuộc kiểm toán.
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên áp dụng thủ tục phân tích đối với từng khoản mục cụ thể nhằm phân tích tính hợp lý của từng khoản mục cũng như phát hiện những biến động bất thường để điều tra nguyên nhân của chúng. Với khoản mục doanh thu, kiểm toán viên tập trung phân tích tỷ lệ lãi gộp theo tháng/quý, biến động doanh thu theo dòng sản phẩmtrả lời cho những nghi vấn đã được đặt ra trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên sử dụng thủ tục phân tích để rà soát lại lần cuối tình hợp lý của toàn bộ báo cáo tài chính. Với riêng quá trình sử dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán khoản mục doanh thu, kiểm toán viên phụ trách đưa ra kết luận đã có được trong suốt quá trình kiểm tra các tài khoản hay các khoản mục liên quan tới doanh thu. Kết luận này bao gồm cả bút toán điều chỉnh doanh thu nếu có. Với toàn bộ hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra Bảng ghi nhớ hoàn tất hợp đồng kiểm toán (Summary review memorandom) để đánh giá, soát xét lại toàn bộ hợp đồng kiểm toán. “Bảng ghi nhớ hoàn tất hợp đồng kiểm toán” bao gồm các nội dung sau:
Phạm vi công việc (Scope of work)
Các vấn đề kế toán và kiểm toán quan trọng (Significant accounting and auditing issues)
Những sự kiện quan trọng trong năm (Significant events during the year)
Phân tích soát xét lại tổng thể (Overall analytical review)
Tóm tắt chênh lệch số liệu đã kiểm toán (Summanry of audit differences)
Những điểm nổi bật cần lưu ý (Outstanding points)
Ý kiến (Opinion)
Bốn là, về xác định mức độ trọng yếu, theo chương trình kiểm toán toàn cầu, các kiểm toán viên của Ernst & Young Việt Nam đã quan tâm tới:
Kích cỡ và thành phần của một khoản mục.
Kích cỡ và tính phức tạp của các nghiệp vụ riêng lẻ xảy ra ở một tài khoản hay khoản mục.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên đã xác định PM – mức trọng yếu kế hoạch, TE – tổng sai sót các tài khoản chủ yếu, SAD- mức chênh lệch kiểm toán, Nominal amount. Cả PM và TE đều được sử dụng để cân nhắc tính trọng yếu nhưng PM liên quan đến toán bộ Báo cáo tài chính trong khi TE xét cho cấp độ các khoản mục. Thông thường, PM bằng 5% thu nhập trước thuế và TE bằng 50% - 75% PM. Khi tiến hành kiểm toán. Nếu phát hiện có chênh lệch, kiểm toán viên yêu cầu khách hàng điều chỉnh. Nếu khách hàng không chấp nhận điều chỉnh chênh lệch và chênh lệch vượt quá mức Nominal Amount thì kiểm toán viên sẽ đưa chênh lệch này vào SAD (Summary of audit differences). Nominal amount thường bằng 1% - 5% của PM.
Chẳng hạn, với ngân hàng APB
Chỉ tiêu
Hội sở
Chi nhánh
PM
430
214
TE
215
54
Threshold (25% TE)
54
12
SAD
21
Năm là, kiểm toán viên đã trình bày đầy đủ các cơ sở quan trọng (tài liệu thủ tục phân tích) cho những kết luận rút ra từ thủ tục phân tích đã thực hiện. Do thủ tục phân tích là thủ tục kiểm toán không đi sâu vào từng nghiệp vụ cụ thể mà chỉ có tác dụng ở mức độ tổng thể, bằng chứng kiểm toán từ thủ tục phân tích là loại bằng chứng do kiểm toán viên tạo ra sẽ không cho một giá trị cao nếu kiểm toán viên không trình bày đuợc đầy đủ các cơ sở quan trọng cho kết luận rút ra từ thủ tục phân tích mà kiểm toán viên đã thực hiện. Trong tài liệu cho thủ tục phân tích, có thể thấy kiểm toán viên của công ty Ernst & Young Việt Nam đã đảm bảo các nội dung sau:
Các bảng biểu phân tích, tính toán.
Sự thuyết minh của kiểm toán viên về phương pháp phân tích, các tính toán, các giả thiết
Nguồn thông tin làm cơ sở cho việc phân tích (có thể đính kèm những bằng chứng để xác minh tính tin cậy của thông tin).
Những giải thích cho các chênh lệch trọng yếu.
Kết luận rút ra từ thủ tục phân tích.
Nhược điểm
Có thể nói áp dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính để thu thập bằng chứng kiểm toán là điểm mạnh của công ty Ernst & Young Việt Nam nhưng quá trình vận dụng thủ tục phân tích không thể tránh khỏi những nhược điểm.
Một là, các loại hình thủ tục phân tích áp dụng còn nghèo nàn. Các loại kĩ thuật phân tích được công ty Ernst & Young Việt Nam sử dụng nhiều bao gồm:
So sánh số liệu kì này với kì trước hoặc giữa các kì với nhau.
So sánh số liệu thực tế với ước tính của kiểm toán viên.
So sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán.
So sánh tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu và khoản mục trên báo cáo tài chính
Cụ thể, với kiểm toán khoản mục doanh thu, công ty Ernst & Young Việt Nam thường sử dụng các kĩ thuật phân tích:
So sánh tỷ lệ lãi gộp theo dòng sản phẩm/vị trí địa lý giữa các kì với nhau (chính là so sánh tương quan doanh thu – giá vốn, doanh thu – lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
So sánh doanh thu thực tế với doanh thu dự kiến hoặc doanh thu kế hoạch.
Phân tích quy mô doanh thu hoặc tỷ lệ doanh thu trong tháng cuối cùng so với tổng doanh thu.
So sánh chi tiết số đơn vị hàng hóa đã được chuyển giao với doanh thu được ghi nhận.
So sánh doanh thu được ghi nhận và ước tính của kiểm toán viên.
So sánh doanh thu được ghi nhận hàng ngày trong giai đoạn ngắn trước và sau thời điểm khóa sổ
So sánh doanh thu với các khoản phải thu.
Các tỷ suất tài chính có được sử dụng nhưng còn ở mức độ hạn chế và không phải áp dụng cho tất cả các khách hàng. Các tỷ suất tài chính thường được sử dụng là: số vòng quay các khoản phải thu, số vòng quay hàng tồn kho, ROE, hệ số thanh toán nhanh. Thực trạng này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, không phải mọi ngành nghề kinh doanh đều có bộ giá trị chuẩn cho các tỷ suất tài chính. Hiện tại bộ giá trị chuẩn được nhiều kiểm toán viên của công ty Ernst & Young Việt Nam áp dụng bao gồm 30 ngành nghề kinh doanh. Các tỷ suất tài chính được đánh giá tốt hay xấu tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp được đánh giá theo số lượng lao động, doanh thu thuần, vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Về mặt chủ quan, việc đánh giá tỷ suất tài chính tốt hay xấu còn phụ thuộc phán xét nghề nghiệp và kinh nghiệm thực tế của kiểm toán viên. Trong hai khách hàng được minh họa ở trên, chỉ có hai tỷ suất tài chính (vòng quay nợ phải thu, vòng quay hàng tồn kho) của khách hàng Smiledi được đánh giá trong giai đoạn lập kế hoạch.
Bên cạnh đó, kĩ thuật phân tích dựa trên số liệu bình quân ngành ít được sử dụng. Nhược điểm này không chỉ tồn tại ở công ty Ernst & Young Việt Nam mà còn ở đa số các công ty kiểm toán khác đang hoạt động tại thị trường Việt Nam, do các nhân tố khách quan quy định. Nếu năm hiện hành là năm kiểm toán đầu tiên, kiểm toán viên có thể sử dụng số liệu bình quân ngành làm cơ sở so sánh. Việc so sánh tỷ lệ lãi gộp của khách hàng với dữ liệu bình quân ngành cung cấp cho kiểm toán viên một cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Thông thường, khách hàng có vị trí trung bình trên thị trường và tỷ lệ lãi gộp của khách hàng xấp xỉ số liệu bình quân ngành. Nếu tỷ lệ lãi gộp của khách hàng cao hơn nhiều hoặc thấp hơn nhiều số liệu bình quân ngành, trừ khi phải có sự giải thích hợp lý, nếu không con số lãi gộp này là ảo. Sự giải thích cho những biến động bất thường như vậy có thể khách hàng do có lợi thế ngành hoặc gặp phải bất lợi ngành. Nếu không thu được sự giải thích cho những biến động đó, kiểm toán viên nên cân nhắc giả thiết doanh thu đã bị khai khống (overstated) hoặc khai thiếu (understated). Sau đó, kiểm toán viên sẽ thiết kế các thủ tục kiểm toán để kiểm tra giả thiết này. Ở nước ngoài, số liệu bình quân ngành có thể dễ dàng thu được vì thông tin được công khai, nhưng ở Việt Nam, hầu như rất khó để tìm được những thông tin như vậy.
Hai là, kiểm toán viên chưa thực sự gắn thủ tục phân tích với kiểm tra chi tiết khi phát hiện những dấu hiệu bất thường. Việc thường xuyên sử dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính là điểm mạnh của công ty Ernst & Young Việt Nam, tạo ra sự khác biệt của phương pháp kiểm toán Ernst & Young so với phương pháp kiểm toán của các công ty kiểm toán nội địa nhưng chính điều này cũng tạo ra bất cập đối với vận dụng thủ tục kiểm tra chi tiết. Trong một vài trường hợp, kiểm toán viên có xu hướng tìm lời giải thích cho những chênh lệch ở bộ phận kế toán thay vì ở một bộ phận khác, nắm rõ vấn đề hơn và khách quan hơn bộ phận kế toán. Sau khi được giải thích, kiểm toán viên lại không có động tác kiểm chứng những giải thích đó, xem như chênh lệch đã được giải thích thoả đáng. Chẳng hạn, trong trường hợp của công ty sản xuất bình nóng lạnh Anzo, khi thực hiện phân tích tỷ trọng doanh thu theo tháng so với tổng doanh thu, kiểm toán viên đã phát hiện doanh thu trong tháng 11 và 12 của Anzo cao hơn hẳn doanh thu trong các tháng khác. Kế toán đã giải thích sự tăng đột biến này là do 3 hợp đồng kí kết trong tháng 10. Kiểm toán viên phụ trách chỉ kiểm tra hai trong ba hợp đồng (giá trị lớn hơn) và xem như sự tăng đột biến doanh thu trong hai tháng 11 và 12 được giải thích thỏa đáng. Quá trình thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên không phát hiện sai sót. Chỉ sau khi nhận được thư xác nhận từ khách hàng của Anzo, khoản chênh lệch 100.000 USD (từ quy định trong điều khoản Incoterm) được phát hiện. Dù khoản chênh lệch này không trọng yếu so với lợi nhuận trước thuế nhưng đã cho thấy rủi ro kiểm toán nếu không áp dụng triệt để thử nghiệm kiểm tra chi tiết.
Ba là, đôi khi sự theo dõi kiểm tra đối với biến động của kiểm toán viên không thích hợp. Khi phát hiện những chênh lệch bất thường, kiểm toán viên thường có xu hướng tìm kiếm lời giải thích cho những chênh lệch chỉ ở đội ngũ kế toán chứ hiếm khi tìm ở những bộ phận khác phù hơn, khách quan hơn, hiểu rõ vấn đề hơn bộ phận kế toán. Một đặc điểm nữa là sau khi được giải thích, kiểm toán viên có thể không có động tác kiểm chứng lại những chênh lệch, xem như chênh lệch đã được giải thích thỏa đáng.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC VẬN DỤNG THỦ TỤC PHÂN TÍCH VỚI KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC DOANH THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH ERNST & YOUNG VIỆT NAM
Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện việc vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Sự cần thiết hoàn thiện vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã trở thành thành viên của các tổ chức lớn trong khu vực như ASEAN, ASEM, APECTháng 1/2006, sau nhiều nỗ lực phấn đấu và đàm phán, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Việt Nam đang cố gắng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Tốc độ phát triển kinh tế cao cùng lợi thế ổn định về chính trị đã tạo sức hút lớn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường chứng khoán mới ra đời, bước những bước đi đầu tiên, chưa ổn định, nhưng nhu cầu kiểm toán để niêm yết trên thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp đang nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Nhà nước đã ban hành luật kế toán, kiểm toán, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhưng việc hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực này còn nhiều lúng túng. Bộ tài chính cần thúc đẩy quá trình hoàn thiện chế độ kế toán đạt mục tiêu như đã cam kết.
Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 đã kéo theo sự phát triển ồ ạt của các công ty. Theo nghị định này, Chính phủ quy định: đơn vị được kiểm toán có quyền chọn doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên có đủ điều kiện hành nghề hợp pháp tại Việt Nam để kí hợp đồng kiểm toán, trừ trường hợp hợp đồng có quy định khác. Từ 2 công ty chuyên cung cấp dịch vụ kế toán – kiểm toán, tới nay đã có hơn 130 công ty cung cấp dịch vụ này. Hàng loạt công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ đã ra đời bên cạnh các tên tuổi lớn trong ngành kiểm toán như Ernst & Young, KPMG, PwC, Deloitte Touche Tohmatsu, Grant ThorntonĐiều này làm cho sự cạnh tranh trên thị trường kiểm toán Việt Nam trở lên khốc liệt hơn bao giờ hết. Để đứng vững trên thị trường, các công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra mức phí kiểm toán hợp lý.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, thủ tục phân tích là một thủ tục kiểm toán có nhiều ưu điểm. Thủ tục phân tích có thể áp dụng cho tất cả các khoản mục, đặc biệt là khoản mục doanh thu và chi phí, có thể sử dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp tốt, việc thực hiện thủ tục phân tích có thể giúp kiểm toán viên không sa vào các nghiệp vụ cụ thể mà vẫn đảm bảo không xảy ra các sai sót trọng yếu. Do đó, giảm được thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán, nâng cao hiệu quả cạnh tranh.
Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam là đại diện tại thị trường Việt Nam cho một hãng kiểm toán có quy mô toàn cầu với số lượng khách hàng ngày càng tăng. Các khách hàng của Ernst & Young Việt Nam thường có quy mô lớn, nghiệp vụ phát sinh nhiều và phức tạp nên việc áp dụng thủ tục phân tích là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của Ernst & Young Việt Nam vô cùng hiện đại và đội ngũ nhân viên gồm cả các chuyên gia quốc tế. So với các công ty kiểm toán nội địa, các công ty kiểm toán nước ngoài như Ernst & Young Việt Nam có thế mạnh của việc sử dụng phương pháp kiểm toán thống nhất toàn cầu “base on control”, giảm thủ tục kiểm tra chi tiết. Việc phát huy thế mạnh này sẽ giúp Ernst & Young Việt Nam giữ vững được tốc độ tăng trưởng như hiện nay trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Việc phát huy thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính có ý nghĩa chiến lược đối với công ty Ernst & Young Việt Nam trong khi quá trình áp dụng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yêu cầu hoàn thiện quy trình phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và trong kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng do công ty Ernst & Young Việt Nam thực hiện là điều tất yếu.
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện quy trình phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Để đáp ứng được những yêu cầu về quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán báo cáo tài chính nói riêng thì việc vận dụng thủ tục phân tích cần được hoàn thiện cho phù hợp. Quá trình hoàn thiện này cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
Một là, quá trình hoàn thiện cần phù hợp với lộ trình phát triển của Việt Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều gì diễn ra khi chúng ta tham gia tổ chức này. Trong hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị phát triển các loại hình dịch vụ: “Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tư vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán. Nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển dịch vụ”.
Hai là, quá trình hoàn thiện cần phù hợp với các chuẩn mực kế toán, kiểm toán đã ban hành và các thông lệ quốc tế. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 520 (ISA 520), chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330, 500 và 520 (VSA 330, VSA 500, VSA 520) là một trong số các chuẩn mực kế toán – kiểm toán đề cập nhiều đến thủ tục phân tích. Kiểm toán viên vận dụng thủ tục phân tích hay kiểm toán viên phụ trách hoàn thiện quy trình vận dụng thủ tục phân tích trước hết cần lưu ý các chuẩn mực này để thực hiện công việc được đồng bộ, thống nhất và hữu ích.
Ba là, quá trình hoàn thiện cần phù hợp với yêu cầu quản lý của nhà nước, trực tiếp là Bộ tài chính, đối với các hoạt động kiểm toán hiện nay. Trong các cuộc trao đổi với báo chí, ông Bùi Văn Mai – Vụ trưởng Vụ kế toán và kiểm toán – Bộ tài chính – đã khẳng định giai đoạn phát triển cao nhất và đẩy đủ nhất của ngành kiểm toán Việt Nam từ năm 1994 trở lại đây. Các chủ trương, chính sách mới Bộ tài chính đưa ra đều nhằm mục tiêu nâng cao vị trí của ngành kế toán – kiểm toán Việt Nam trên trường quốc tế. “Trước đây, kế toán, kiểm toán chủ yếu phục vụ cho cơ quan quản lý Nhà nước nhưng càng ngày nó càng trở thành công cụ điều hành thiết thực cho doanh nghiệp, nhà đầu tư, chủ sở hữu vốn và các thành phần kinh doanh của nền kinh tế thị trường”.
Bốn là, quá trình hoàn thiện cần phù hợp với điều kiện, đặc điểm của công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam và có ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán của công ty. Một trong những thuận lợi đáng kể cho quá trình này đó là Ernst & Young Việt Nam có cơ sở vật chất hiện đại cũng như sự hỗ trợ tài chính hùng mạnh do công ty là đại diện chính thức tại Việt Nam cho một trong bốn hãng kiểm toán lớn nhất thế giới, có quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, chính đặc điểm này cũng tạo ra những lưu ý hết sức quan trọng cho việc hoàn thiện quy trình vận dụng thủ tục phân tích tại Ernst & Young Việt Nam: quy trình kiểm toán của công ty tuân thủ phương pháp kiểm toán toàn cầu (Global Audit Methedology). Việc tuân thủ này là tất yếu để phục vụ công tác quản lý của nhà quản lý cấp cao của Ernst & Young toàn cầu cũng như bảo đảm sự đồng nhất về chất lượng dịch vụ mà Ernst & Young cung cấp cho các khách hàng trên toàn thế giới.
Năm là, trong quá trình hoàn thiện vận dụng thủ tục phân tích, cần cần nhắc giữa chi phí hoàn thiện và lợi ích việc vận dụng thủ tục phân tích đem lại với kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng và với kiểm toán báo cáo tài chính nói chung. Mặc dù thủ tục phân tích là một kĩ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán có hiệu quả: có thể sử dụng đối với tất cả các khoản mục, trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán, giúp kiểm toán viên không sa vào các nghiệp vụ cụ thể và không phải một kĩ thuật quá phức tạp, nhưng với khách hàng có nghiệp vụ ít và đơn giản, việc sử dụng thủ tục phân tích với tính chất “định hướng” xem ra sẽ tốn thời gian và chi phí hơn là thực hiện ngay các thủ tục kiểm tra chi tiết. Ngoài ra, nếu chi phí bỏ ra cho việc thu thập nguồn dữ liệu đáng tin cậy quá lớn, kiểm toán viên không nên tập trung vào thủ tục phân tích.
3.2. Giải pháp hoàn thiện việc vận dụng thủ tục phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Có thể thấy rằng những nhược điểm được phát hiện liên quan tới vận dụng thủ tục phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty Ernst & Young Việt Nam thực hiện là những nhược điểm nhỏ. Nhìn chung, công ty đã thực hiện tốt các bước kiểm toán theo quy trình chuẩn (Global Audit Methedology) của Ernst & Young toàn cầu, tuân thủ ISA 520 và VSA 520.
Để có thể vận dụng thủ tục phân tích tốt hơn nữa trong kiểm toán báo cáo tài chính, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với công ty Ernst & Young Việt Nam:
Một là, công ty nên đa dạng hóa các kĩ thuật phân tích được sử dụng. Các tỷ suất tài chính cần được kết hợp với nhau nhuần nhuyễn hơn. Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có khả năng đưa ra ý kiến đánh giá sai nếu không kiểm tra các tỷ suất tài chính có liên quan khác. Chẳng hạn, số vòng quay nợ phải thu có xu hướng tăng trong khi vòng quay hàng tồn kho có xu hướng giảm. Trong thực tế, tuổi nợ của các khoản phải thu này đang tăng và một phần hàng tồn kho bị lỗi. Tuy nhiên, cả hai nhân tố này lại có ảnh hưởng tích cực lên tỷ suất thanh toán hiện hành. Nếu kiểm toán viên chỉ tính toán tỷ suất thanh toán hiện hành, kiểm toán viên có khả năng đưa ra kết luận sai về khả năng đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn của khách hàng.
Tỷ suất thanh toán hiện hành = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn
Nói chung một tý suất thanh toán hiện hành cao chỉ ra khả năng đảm bảo trang trải tốt các khoản nợ ngắn hạn.
Vòng quay nợ phải thu = Doanh thu / Phải thu bình quân
Tỷ suất tài chính này chỉ ra trong một năm doanh nghiệp thu hồi được bao nhiêu món nợ từ khách hàng.
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán / Hàng tồn kho bình quân
Tỷ suất tài chính này chỉ ra mức độ luân chuyển của hàng tồn kho trong một năm tài chính.
Mặt khác, trong điều kiện hiện tại, việc sử dụng dữ liệu bình quân ngành để so sánh gặp nhiều khó khăn do nguồn thông tin không được công khai và đầy đủ. Tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam, việc sử dụng dữ liệu ngành không phải là không được đề cập, nhưng mức độ sử dụng còn hạn chế. Có thể thấy bên mảng kiểm toán ngân hàng, bộ giá trị chuẩn đã được kiểm toán viên sử dụng khi thẩm định khoản vay (Loan Review). Bộ giá trị chuẩn này phân chia các ngành nghề sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành 30 lĩnh vực. Quy mô doanh nghiệp lớn – nhỏ - trung bình tùy theo lĩnh vực hoạt động, với căn cứ phân chia là vốn chủ sở hữu, lao động, doanh thu thuần và tổng tài sản. Các tỷ suất tài chính cũng được đánh giá theo quy mô. Dựa trên bộ giá trị chuẩn này, kiểm toán viên đưa ra các nhận định về tình hình tài chính, khả năng hoạt động và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp được ngân hàng cho vay vốn, từ đó phân loại khoản vay theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS. Việt Nam đã gia nhập WTO hai năm, việc chuẩn hóa các giá trị và nguyên tắc theo thông lệ quốc tế là điều rất cần thiết để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong tương lai không xa, các thông tin kinh tế của Việt Nam sẽ minh bạch, công khai và đáng tin cậy. Do đó, các kiểm toán viên của công ty Ernst & Young Việt Nam có thể lưu ý hơn các thủ tục phân tích so sánh các chỉ tiêu (chẳng hạn tỷ lệ lãi gộp) của khách hàng với số liệu bình quân ngành khi kiểm toán khoản mục doanh thu. Kiểm toán viên nên lưu ý đối chiếu thêm quan hệ biến động giữa doanh thu và hàng tồn kho để kiểm tra tính hợp lý của việc ghi nhận doanh thu.
Hai là, triệt để tăng cường mối quan hệ giữa thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 520: Trong quá trình kiểm toán, nhằm giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thực hiện quy trình phân tích hoặc kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp cả hai. Nhằm xác định thủ tục kiểm toán thích hợp cho một mục tiêu kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xét đoán hiệu quả của từng thủ tục kiểm toán. Bản thân thủ tục phân tích, dựa trên hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng tốt, chỉ có tác dụng khoanh vùng rủi ro cho kiểm toán viên. Kiểm toán viên chỉ nên sử dụng thủ tục phân tích một mình đối với các khoản mục không trọng yếu, có rủi ro thấp. Việc vận dụng thủ tục kiểm tra chi tiết song song với thủ tục phân tích có nhiều nguyên nhân.
Trước hết là do mức độ tin cậy của thủ tục phân tích phụ thuộc vào nhiều nhân tố:
Tính trọng yếu của tài khoản hay loại nghiệp vụ. Chẳng hạn, hàng tồn kho là trọng yếu thì không chỉ dừng lại ở quy trình phân tích mà còn thực hiện một số thủ tục kiểm tra chi tiết khác trước khi kết luận. Ngược lại khoản mục nợ phải thu được coi là không trọng yếu thì có thể chỉ căn cứ vào kết quả phân tích để kết luận...
Các thủ tục kiểm toán khác có cùng một mục tiêu kiểm toán. Chẳng han, thủ tục kiểm tra nghiệp vụ thu tiền sau ngày khóa sổ của các khoản phải thu sẽ khẳng định hoặc phủ nhận kết quả của quy trình phân tích nợ phải thu theo thời hạn,..
Độ chính xác có thể dự kiến của quy trình phân tích. Chẳng hạn, kiểm toán viên thường so sánh, phân tích tỷ lệ lãi gộp giữa năm nay với năm trước hơn là so sánh các chi phí bất thường giữa năm trước với năm nay...
Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Chẳng hạn, nếu việc kiểm soát nội bộ của bộ phận bán hàng là yếu kém thì nên dựa vào kiểm tra chi tiết hơn là dựa vào quy trình phân tích...
Ngoài ra, những hạn chế khách quan của bản thân thủ tục phân tích cũng là nguyên nhân đòi hỏi kiểm toán viên cần tiến hành thêm các thủ tục kiểm tra chi tiết. Thủ tục phân tích khó có thể phát hiện những sai sót có giá trị nhỏ hoặc giá trị lớn nhưng vận động ngược chiều, bù trừ nhau. Thực tế kiểm toán đã chứng minh hạn chế này của thủ tục phân tích. Trong trường hợp của khách hàng Lucas hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản do Ernst & Young Việt Nam kiểm toán cho năm tài chính kết thúc vào 31/12/2006, trong suốt quá trình thực hành kiểm toán, mặc dù tất cả các thủ tục phân tích đã được sử dụng, kiểm toán viên phụ trách vẫn không phát hiện ra khoản doanh thu 500.000 USD đã bị Lucas ghi tăng. Việc phát hiện ra sai sót đền từ thư xác nhận của khách hàng của Lucas. Khách hàng này nhận được hàng vào ngày 28/12/2006, các vận đơn và hóa đơn đều chứng minh điều này. Tuy nhiên, rủi ro xảy ra mất hàng vẫn thuộc về Lucas nên theo điều khoản Incoterm 2000, Lucas chưa được ghi nhận khoản doanh thu này. Như vậy, kết hợp triệt để thủ tục phân tích với kiểm tra chi tiết, không đơn thuần chỉ là một yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 520, mà là điều vô cùng cần thiết.
Ba là, công ty cần cụ thể hơn các kĩ thuật phân tích được sử dụng trong chương trình kiểm toán và yêu cầu kiểm toán viên phụ trách phải hiểu và tuân thủ hết sức chặt chẽ quy trình vận dụng thủ tục phân tích. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 520 chỉ quy định: “Trong quá trình thực hiện quy trình phân tích, kiểm toán viên được phép sử dụng nhiều phương pháp khác nhau từ việc so sánh đơn giản đến những phân tích phức tạp đòi hỏi phải sử dụng các kỹ thuật thống kê tiên tiến. Quy trình phân tích cũng được áp dụng đối với báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tài chính của đơn vị thành viên hoặc từng thông tin riêng lẻ của các báo cáo tài chính.
Việc lựa chọn quy trình phân tích, phương pháp và mức độ áp dụng tùy thuộc vào sự xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên”.
Kiểm toán viên nhận thức được yêu cầu áp dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính từ chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 520, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 520 và trong chương trình kiểm toán chung trên server của công ty nhưng trong một số trường hợp, kiểm toán viên tiến hành thủ tục phân tích dựa theo chương trình hoặc thói quen mà không biết tại sao phải tiến hành. Điều này thể hiện kiểm toán viên không xác định được mục tiêu rõ ràng trước khi thực hiện thủ tục phân tích dẫn đến kết quả thu được từ tiến hành thủ tục phân tích không như mong đợi.
Bốn là, kiểm toán viên có thể tìm kiếm lời giải thích cho những chênh lệch ở bộ phận khác bên cạnh bộ phận kế toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 520 (VSA 520) quy định: Trường hợp quy trình phân tích phát hiện được những chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng, hoặc có chênh lệch lớn với số liệu dự tính, kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục điều tra để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
Cũng theo VSA 520, điều tra các khoản chênh lệch trọng yếu hay mối liên hệ không hợp lý thường bắt đầu bằng việc yêu cầu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán cung cấp thông tin, tiếp theo là thực hiện các thủ tục:
- Kiểm tra lại những câu trả lời của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) bằng cách đối chiếu với những bằng chứng kiểm toán khác đã thu được trong quá trình kiểm toán;
- Xem xét, thực hiện các thủ tục kiểm toán khác nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) vẫn không thể giải thích được, hoặc giải thích không thỏa đáng.
Xu hướng phổ biến khi phát hiện có chênh lệch bất thường đó là kiểm toán viên trao đổi với phòng kế toán. Trong một số trường hợp, lời giải thích của bộ phận kế toán mang áp đặt chủ quan hoặc không cặn kẽ bằng bộ phận khác trực tiếp liên quan. Bộ phận marketing có thể giải thích rất chi tiết từng khoản mục chi phí quảng cáo, lý do chọn hình thức xúc tiến sản phẩm này mà không phải các hình thức xúc tiến khác. Bộ phận nghiên cứu thị trường có thể giải thích tại sao sản phẩm A lại được giới trẻ ưa thích hơn sản phẩm B, sôcôla được tiêu thụ mạnh vào mùa hèTrong trường hợp lĩnh vực kiểm toán đòi hỏi kiến thức chuyên ngành sâu, kiểm toán viên có thể tham khảo ý kiến chuyên gia hoặc các nhà tư vấn.
Kiến nghị hoàn thiện việc vận dụng thủ tục phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Kiến nghị về phía công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
Chính sách nhân sự của công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam về cơ bản được đánh giá là tốt, theo đúng tinh thần của Ernst & Young toàn cầu “People first”. Do đó, trong điều kiện khủng hoảng nhân lực ngành kiểm toán và cạnh tranh thu hút chất xám, nhân lực của công ty không có sự biến động mạnh và nhân viên giữ được niềm đam mê trong công việc.
Tuy nhiên, công ty cần xem xét thận trọng hơn sự luân chuyển nhân sự giữa hai mảng kiểm toán ngân hàng và sản xuất. Sự luân chuyển này một mặt đáp ứng nguyện vọng của nhân viên, mặt khác cũng gây trở ngại cho một số hợp đồng kiểm toán khi các nhân viên này là các nhân sự chủ chốt, đã được giao thực hiện một số phần hành trong nhiều năm
Riêng với sử dụng thủ tục phân tích, kiểm toán viên nên thu hẹp hơn đối tượng được phân tích. Đối tượng được phân tích càng cụ thể, càng ở phạm vi hẹp thì việc phân tích sẽ càng chính xác do chịu ảnh hưởng của yếu tố ngoại vi ít hơn. Chẳng hạn, việc phân tích ở mức độ chi phí bán hàng sẽ chính xác hơn ở mức độ tổng chi phí.
Kiến nghị về phía các cơ quan chức năng
Để đảm bảo cho quá trình hoàn thiện của các công ty kiểm toán, điều kiện tiên quyết là Việt Nam cần xây dựng một khung pháp lý kế toán, kiểm toán đồng bộ, phù hợp với thông lệ trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, thiết lập địa vị pháp lý của các hiệp hội nghề nghiệp cũng có thể tạo thuận lợi cho các công ty kiểm toán thuận trong quá trình này.
Mặc dù Bộ tài chính đã ban hành các chuẩn mực kế toán và kiểm toán, Quốc hội đã thông qua Luật kế toán, chính phủ đã ban hành các thông tư, nghị định hướng dẫn song hệ thống pháp lý này còn nhiều bất cập so với các hệ thống khác (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp), thậm chí mấu thuẫn nhau và thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa có một cơ chế kiểm tra, giám sát nào đối với chất lượng cuộc kiểm toán.
Vì vậy, để có thể hỗ trợ tốt nhất cho các công ty kiểm toán, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần phải
Trước hết, hoàn thiện và đổi mới hệ thống văn bản pháp luật về kế toán, kiểm toán.
Công việc này được thực hiện dựa trên mục tiêu xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật hoàn chình, đồng bộ, thỏa mãn yêu cầu của nền kinh tế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế phổ biến. Các chuẩn mực kế toán – kiểm toán đã được công bố cần kịp thời có các thông tư hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tính khả thi đối với các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế.
Các cơ quan chức năng cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giải thích các chuẩn mực kiểm toán đối với các doanh nghiệp được kiểm toán và các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Vì vậy, mặc dù các chuẩn mực kiểm toán đều nói rõ các doanh nghiệp được kiểm toán và các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán phải có những hiểu biết cần thiết về những quy định trong chuẩn mực song việc hiểu biết về hoạt động kiểm toán của các đối tượng này còn hạn chế, nhiều khi còn hiểu sai gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của các công ty kiểm toán.
Ngoài ra, Bộ tài chính cần phải nhanh chóng ban hành các chuẩn mực kế toán công áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp cũng như nghiên cứu xây dựng các hệ thống kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh đặc thù, các đơn vị sự nghiệp có thu, các lĩnh vực mới như Ngân hàng, chứng khoánKhi xây dựng các chuẩn mực kế toán náy, ngoài việc phải bảo đảm việc hội nhập quốc tế, cần đảm bảo tính đặc thù kinh tế, đảm bảo tính đồng bộ với các văn bản pháp luật khác. Trong quá trình biên soạn các chuẩn mực và tư vấn trong việc ban hành các chế độ kế toán – kiểm toán, Bộ tài chính cần chủ động đề nghị sự tham gia của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán (như VAA, ACCA)
Bên cạnh việc đổi mới, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần thường xuyên rà soạt lại hệ thống văn bản pháp luật, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán để tìm ra những vấn đề còn bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đồng bộ với hệ thống pháp luật khác để kịp thời điều chỉnh và bổ sung.
Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động kiểm toán ở các công ty, tổ chức kiểm toán.
Để đảm bảo hoạt động kiểm toán tại các công ty và tổ chức kiểm toán có chất lượng cao, nhà nước cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra bằng cách:
Hàng năm phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán Việt Nam tổ chức kiểm tra giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ kiểm toán, đánh giá và phân loại chất lượng báo cáo kiểm toán đã thực hiện trong năm.
Tổ chức các cuộc hội thảo, điều tra thăm dò, lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán, các chuyên gia tư vấn và các cơ quan quản lý kế toán, kiểm toán về chất lượng các cuộc kiểm toán và quản lý chất lượng kiểm toán.
Ba là, nâng cao vai trò của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán.
Các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán tại Việt Nam đã ra đời và có vai trò khá quan trọng trong sự phát triển của ngành kế toán và kiểm toán nước ta như Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA)...Vừa qua Bộ tài chính đã có bước đổi mới quan trọng bằng việc ban hành quyết định 47/2005/QĐ-BTC, chuyển giao chức năng hành nghề kế toán, kiểm toán cho VAA và VACPA. Phương hướng hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán Việt Nam là tiếp tục phát triển, đổi mới và hoàn thiện, xứng đáng là tổ chức nghề nghiệp, tự quản; góp phần quan trọng vào sự phát triển và hoàn thiện hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam.
Cụ thể:
Các tổ chức này cần tăng cường công tác tuyên truyền hoạt động của mình thông qua nhiều hình thức. Chẳng hạn, VAA quán triệt điều lệ tổ chức tới tất cả các hội viên; đổi mới và phát triển Tạp chí Kế toán, Tạp chỉ kiểm toán về hình thức và nội dung, tiến tới phát hành hàng tháng và mở rộng mạng lưới phát hành để tăng số lượng phát hành mỗi kỳ; tăng cường viết bài cho báo chí, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí của Liên hiệp Hội và bản tin khu vực AFA.
Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức. Chẳng hạn, phát triển tổ chức tại các tỉnh, rà soát lại danh sách hội viên, kiên quyết xóa tên các hội viên không tham gia sinh hoạt đều đặn hoặc vi phạm kỉ luật; đôn đốc các đơn vị từ Trung ương đến cơ sở sinh hoạt đều đặn, khen thưởng kịp thời các thành viên có thành tích xứng đáng
Chủ động đề nghị với Bộ tài chính tham gia công tác đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán và tư vấn kế toán của các công ty kế toán, kiểm toán độc lập
Tăng cường hoạt động nghiên cứu và tư vấn khoa học kế toán, kiểm toán. Chẳng hạn, sưu tầm, biên dịch các thông tin về lý luận và kinh nghiệm của các nước; chủ động mở các hội thảo, hội nghị kế toán – kiểm toán để bồi dưỡng nghiệp vụ cho không chỉ hội viên mà cả những cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành.
Tăng cường quan hệ đối ngoại với các tổ chức kế toán – kiểm toán trong khu vực và trên thế giới. Chẳng hạn, tăng cường trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức nghề nghiệp trong khu vực và quốc tế qua các hội thảo, diễn đàn; thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên với các tổ chức khu vực và quốc tế (như báo cáo về hoạt động nghề nghiệp, thực hiện các nghị quyết, tham gia các kì họp, thực hiện nghĩa vụ tài chính)
Kiến nghị về phía khách hàng kiểm toán
Trong một cuộc kiểm toán, sự hợp tác của khách hàng có vai trò rất quan trọng. Điều này không chỉ đảm bảo tiến độ của cuộc kiểm toán mà còn chất lượng của cuộc kiểm toán khi hai bên có sự hợp tác ăn ý.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, khái niệm kiểm toán vẫn còn khá lạ lẫm với các doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp chỉ xem kiểm toán là hoạt động kiểm toán là hoạt động bắt buộc theo quy định của pháp luật Việt Nam (chẳng hạn các công ty con của các tập đoàn xuyên quốc gia, các công ty muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán). Họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp tỏ ra ngại ngần khi công khai các dữ liệu tài chính, thậm chí gây khó khăn trong cung cấp tài liệu.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm toán thường diễn ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại chưa hoàn thành các báo cáo tài chính của công ty mình và kiểm toán viên đôi khi vô tình trở thành người lập báo cáo tài chính của khách hàng.
Do đó, các công ty kiểm toán và các cơ quan chức năng cần tuyên truyền tốt hơn để các doanh nghiệp nhận thức được vai trò to lớn của kiểm toán trong việc lành mạnh hóa tính hình tài chính. Các doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao hệ thống kiểm soát nội bộ; lập báo cáo tài chính đúng hạn; hợp tác và cung cấp thông tin cho kiểm toán viên một cách kịp thời, chủ động.
KẾT LUẬN
Qua một thời gian ngắn thực tập tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam – chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy thủ tục kiểm toán trong các chu trình nói chung và với kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán,
Việc nghiên cứu và áp dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán là rất quan trọng và góp phần to lớn đến hiệu quả, chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong điều kiện cạnh tranh của thị trường kiểm toán Việt Nam, các công ty kiểm toán buộc phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ của mình cũng như đảm bảo thời gian và chi phí ở mức tối ưu. Các thủ tục phân tích hiện vẫn là những thủ tục kiểm toán hiện đại, mang tính khoa học không chỉ tiết kiệm thời gian và chi phí mà còn giảm bớt các rủi ro kiểm toán.
Do đó, đề tài nghiên cứu về vận dụng thủ tục phân tích với kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán báo cáo tài chính thực sự là một đề tài hấp dẫn và phức tạp nhưng bản thân với kinh nghiệm ít ỏi và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài này không tránh khỏi những hạn chế.
Em hi vọng sẽ có điều kiện nghiên cứu sâu sắc hơn về vấn đề này và cũng hi vọng thủ tục phân tích ngày càng được áp dụng chặt chẽ để nâng cao chất lượng của các báo cáo kiểm toán.
Em chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ths. Nguyễn Thị Mỹ và các anh chị trong công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam – chi nhánh Hà Nội đã tận tình định hướng và giúp em tìm tài liệu trong suốt thời gian em thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Hình
Nội dung
2.1
Mô hình tổ chức quản lý của công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
2.2
Kết quả kinh doanh của công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam trong 3 năm qua, từ 2005 – 2007
2.3
Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
2.4
Bảng phân tích tổng thể các khoản mục trên báo cáo tài chính của khách hàng Smiledi Việt Nam
2.5
So sánh tỷ lệ lãi gộp theo dòng sản phẩm với số liệu năm trước tại Smiledi
2.6
So sánh doanh thu thực tế và doanh thu dự kiến
2.7
Phân tích doanh thu theo tháng ở công ty Smiledi Việt Nam
2.8
Phân tích doanh thu được ghi nhận và lượng hàng được chuyển giao của sản phẩm DQJ_A10
2.9
Minh họa mô hình đưa ra doanh thu ước tính
2.10
Minh họa thủ tục phân tích tổng thể khoản mục doanh thu
2.11
So sánh ước tính của kiểm toán viên và lãi thực thu theo tháng của tài khoản 7015
2.12
(Trích) tính lãi từ dịch vụ cho khách hàng thấu chi và so sánh với lãi thực thu
2.13
So sánh lãi thực thu liên quan tài khoản 1841 và ước tính của kiểm toán viên
2.14
Minh họa thủ tục phân tích đối với các khoản doanh thu từ phí và hoa hồng
2.15
Bảng số liệu kết quả giao dịch ngoại tệ hàng tháng
2.16
Thủ tục phân tích cho giao dịch ngoại tệ 2006
2.17
Tỷ giá hối đoái cuổi năm 2006 giữa đồng USD và THB so với đồng KIP
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KTV : Kiểm toán viên
IFAC : Liên đoàn kế toán quốc tế
VAS : Chuẩn mực kế toán Việt Nam
VSA : Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
IAS : Chuẩn mực kế toán quốc tế
ISA : Chuẩn mực kiểm toán quốc tế
GL : Sổ cái
GM : Tỷ lệ lãi gộp
PM : Mức trọng yếu kế hoạch
TE : Tổng sai sót các tài khoản chủ yếu
SAD : Mức chênh lệch kiểm toán
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÁO
Tiếng Việt
GS.TS Nguyễn Quang Quynh (2005), “Giáo trình Lý thuyết kiểm toán”, NXB tài chính.
GS.TS Nguyễn Quang Quynh – TS Ngô Trí Tuệ (2006), “Giáo trình kiểm toán tài chính”, NXB Đại học kinh tế quốc dân.
Công ty Ernst & Young Việt Nam (tháng 4/2007), Tạp chí Spotlight on Business – số 48.
Công ty Ernst & Young Việt Nam (tháng 7/2007), Tạp chí Spotlight on Business – số 49.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (2007)
Website www.ey.com/vn
Website www.webketoan.com.vn
Tiếng Anh
William F.Messier (2005), “A systemantic approach”, Mc-Graw Hill Publisher.
Ernst & Young LLP (2007), “Global Audit Methedology”.
International Audit Stadards (2007).
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC
PL 01: Phân tích doanh thu được ghi nhận và lượng hàng được chuyển giao của sản phẩm DQJ_B14
Sản phẩm DQJ_B14
Doanh thu (USD)
Sản phẩm DBJ_B14
Số lượng được chuyển giao (x100)
2,738,470
16,204
1,620,396
3,105,431
18,375
1,837,533
3,490,313
20,653
2,065,274
3,543,399
20,967
2,096,686
3,513,498
21,423
2,142,322
3,672,355
22,392
2,239,229
3,729,192
22,739
2,273,898
3,957,878
24,133
2,413,340
4,167,239
26,543
2,654,292
4,250,160
27,071
2,707,108
4,660,578
29,685
2,968,502
4,860,657
30,960
3,095,960
45,689,170
281,145
28,114,540
PL 02: Phân tích doanh thu được ghi nhận và lượng hàng được chuyển giao của sản phẩm DQJ_D12
Sản phẩm DQJ_D12
Tháng
Doanh thu (USD)
Sản phẩm DQJ_D12(đvị)
Số lượng được chuyển giao (x100)
Tháng 1
424,700
2,296
229,568
Tháng 2
425,431
2,300
229,963
Tháng 3
440,313
2,380
238,007
Tháng 4
433,399
2,477
247,657
Tháng 5
434,340
2,482
248,194
Tháng 6
452,335
2,585
258,477
Tháng 7
459,192
2,624
262,395
Tháng 8
459,770
2,673
267,308
Tháng 9
467,239
2,717
271,651
Tháng 10
480,160
2,792
279,163
Tháng 11
490,548
2,852
285,202
Tháng 12
500,657
2,911
291,080
Tổng
5,468,084
31,089
3,108,665
PL 03: Chi phí lãi ghi đảo
Mã CN Tên CN 00.7084000.00001
ADP_02 Thủ đô Vientiane 385,340,895
ADP_03 Tỉnh Savanakhet 3,447,650
ADP_04 Tỉnh Luangprabang 928,800
ADP_05 Tỉnh Vientiane 12,383,315
ADP_06 Tỉnh Bokeo 216,996
ADP_07 Tỉnh Chiengkhang 22,722,082
ADP_08 Tỉnh Bolikhamxay 5,269,803
ADP_09 Tỉnh Saibabouly 4,385,308
ADP_11 Tỉnh Khammouane 300,000
ADP_13 Tỉnh Oudomsai 494,318
ADP_16 Tỉnh Attapeu 1,358,500
ADP_19 Tỉnh Paksong (Salavanh) 2,088,492
ADP_20 Tỉnh Moeungkhong 120,000
ADP_21 Tỉnh Phongsaly 4,320,197
ADP_23 Tỉnh Hatsayfong 9,141
ADP_24 Tỉnh Xaithany 6,218,570
ADP_27 Tỉnh Sangthong 733,315
ADP_32 Tỉnh Songkhone 1,309,257
ADP_34 Tỉnh Khongxedone 7,951,653
ADP_35 Tỉnh Laongam 12,263,922
ADP_40 Tỉnh Xanakham 1,504,670
Tổng cộng 473,366,884
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
......
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
......
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2708.doc