Mục lục
I. Tính cấp thiết, mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
II. Vấn đề ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay
1. Cơ sở lý thuyết vấn đề
a. Ngôn ngữ
b. Văn hóa
c. Chữ viết
2. Thực trạng vấn đề văn hóa ngôn ngứ của giới trẻ Việt Nam hiện nay
a. Thực trạng vấn đề
b. Nguyên nhân vấn đề
c. Đề xuất giải pháp
III. Kết luận
IV. Tài liệu tham khảo
V. Lập kế hoạch về nhân lực và tài chính
1. Danh sách những người tham gia đề tài
2. Phân công công việc
3. Kế hoạch tài chính
a. Dự toán kinh phí
b. Ngân sách nghiên cứu
C. Giải trình các khoản cụ thể
VI. Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu vấn đề
1. Nội dung công việc
2. Thời gian thực hiện và sản phẩm nghiên cứu
Mở đầu
“Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay ”
(Phạm Văn Đồng)
Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn hóa, kinh tế .) Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc. Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội.
Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội. Chính tiếng Việt, ở mặt nội dung ý nghĩa của nó, là nơi ghi lại, nơi phản ánh chủ yếu những tri thức, kinh nghiệm, những suy nghĩ, quan niệm v.v . từ ngàn đời của cha ông ta về mọi mặt của đời sống dân tộc, về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người. Cùng với quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiếng Việt cũng hình thành và phát triển, ngày nay đã trở thành một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú và độc đáo; đó là một công cụ rất có hiệu lực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều quan trọng nhất là mỗi chúng ta có ý thức sâu sắc về sự giàu đẹp của tiếng Việt, có tình cảm của người Việt Nam ta biết yêu và quý tiếng nói của dân tộc, nói rộng ra thì đó là ý thức và tình cảm đối với văn hóa dân tộc mình, đối với đất nước mình, nhân dân mình.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 9824 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Tính cấp thiết, mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay
1. Cơ sở lý thuyết vấn đề
a. Ngôn ngữ
b. Văn hóa
c. Chữ viết
2. Thực trạng vấn đề văn hóa ngôn ngứ của giới trẻ Việt Nam hiện nay
a. Thực trạng vấn đề
b. Nguyên nhân vấn đề
c. Đề xuất giải pháp
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lập kế hoạch về nhân lực và tài chính
1. Danh sách những người tham gia đề tài
2. Phân công công việc
3. Kế hoạch tài chính
a. Dự toán kinh phí
b. Ngân sách nghiên cứu
C. Giải trình các khoản cụ thể
Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu vấn đề
1. Nội dung công việc
2. Thời gian thực hiện và sản phẩm nghiên cứu
Mở đầu
“Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay …”
(Phạm Văn Đồng)
Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn hóa, kinh tế...) Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc. Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội.
Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội. Chính tiếng Việt, ở mặt nội dung ý nghĩa của nó, là nơi ghi lại, nơi phản ánh chủ yếu những tri thức, kinh nghiệm, những suy nghĩ, quan niệm v.v... từ ngàn đời của cha ông ta về mọi mặt của đời sống dân tộc, về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người. Cùng với quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiếng Việt cũng hình thành và phát triển, ngày nay đã trở thành một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú và độc đáo; đó là một công cụ rất có hiệu lực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều quan trọng nhất là mỗi chúng ta có ý thức sâu sắc về sự giàu đẹp của tiếng Việt, có tình cảm của người Việt Nam ta biết yêu và quý tiếng nói của dân tộc, nói rộng ra thì đó là ý thức và tình cảm đối với văn hóa dân tộc mình, đối với đất nước mình, nhân dân mình.
VĂN HÓA NGÔN NGỮ CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY
Tính cấp thiết, mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt lịch sử lâu dài đấu tranh vì chủ quyền dân tộc, vì độc lập tự do của đất nước, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam ta đã phấn đấu gian khổ như thế nào để thoát được hiểm họa diệt chủng về ngôn ngữ và văn hóa, để bảo vệ và phát triển được tiếng Việt, như Bác Hồ nói: "Thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc". Sức mạnh của Tiếng Việt là chìa khóa giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ - một sự thật không thể nào chối cãi. “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi. Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình …”
Lịch sử đã chứng minh rằng, Tiếng Việt đã trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam, thoát khỏi mọi vòng xiềng xích nô lệ để trở thành một quốc gia độc lập như ngày hôm nay. Không những thế, nó còn làm nên bản sắc Việt Nam, mà chúng ta hay nói đến một cách tự hào với cụm từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”. Từ trong quá khứ hào hùng ấy, ta thấy ánh lên một niềm tin tưởng mãnh liệt vào tương lai của ngôn ngữ dân tộc: “Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.” (Đặng Thai Mai) …
“Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay …” (Phạm Văn Đồng)
Trải qua rất nhiều thời kì, ngôn ngữ luôn luôn vận động và biến đổi, đây là 1 đặc tính quan trọng và cố hữu của ngôn ngữ. Và bản thân tiếng Việt cũng đã có sự vận động, biến đổi theo quy luật phát triển của nó và nhu cầu của người sử dụng. Nó thể hiện, diễn đạt tâm tư, suy nghĩ và mong ước của mọi người, mọi thế hệ đặc biệt là trong thế kỉ XXI – thế kỉ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sẽ mở ra cơ hộ tốt đẹp cho sự phát triển toàn diện của đất nước ta.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, sự giao thoa giữa các nền văn hóa và cơn lốc phát triển, hội nhập nền kinh tế trên thế giới cũng đã tạo ra một thế giới ảo – thế giới mạng Internet – nơi mà giới trẻ sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng – thứ ngôn ngữ “không đụng hàng” mà chúng ta thường hay gọi đó là “ngôn ngữ tuổi teen”, “ngôn ngữ thời @”, “tiếng Việt trong ngoặc kép” hay “ngôn ngữ riêng của giới trẻ”...
Hiện nay loại ngôn ngữ này đã, đang và sẽ lan truyền ngày càng rộng rãi trong giới trẻ, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Nhiều người cho rằng chẳng thể hiểu nổi giới trẻ nghĩ gì và viết những gì trên các chatroom, blog, các diễn đàn dành cho giới trẻ... Chính vì thế, đã có không ít các ý kiến trái chiều về việc sử dụng loại ngôn ngữ này xuất hiện nhiều trên các mặt báo, các phương tiện thông tin đại chúng và ngay cả trên các diễn đàn tuổi trẻ. Kiểu sử dụng ngôn ngữ này lan tràn hầu hết trên các diễn đàn, nhật kí trực tuyến nhất là khi tán gẫu qua mạng, tin nhắn điện thoại. Đối tượng sử dụng chủ yếu là giới trẻ, thuộc nhóm tuổi teen, trong đó phần lớn là học sinh phổ thông. Mối nguy hại lớn chính là ngôn ngữ này lan vào nhà trường một cách âm thầm. Kiểu ngôn ngữ khó hiểu như vậy hiện đang được giới trẻ sử dụng ngày càng rầm rộ trong việc giao tiếp, nó xa lạ với tiếng phổ thông và cũng chẳng giống với một ngôn ngữ nào trên thế giới. Nó bao gồm những ký hiệu phức tạp, tiếng lóng, xen lẫn ngoại ngữ và đặc biệt là nhiều từ được viết theo âm đọc, nhưng lại bị biến tướng một cách cực kỳ sai chính tả.
Văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ hay còn gọi là “ngôn ngữ teen” đang là vấn đề nóng trong xã hội, tuy nó không ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hay tính mạng con người nhưng về lâu dài nó sẽ hủy hoại đến nền văn hóa của quốc gia chúng ta. Từ tầm quan trọng và thực tiễn trên, chúng tôi xin chọn đề tài nghiên cứu: “Văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay” nhằm đánh giá đúng sự nghiêm trọng của vấn đề và đưa ra các giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề.
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu và tìm ra hướng đi hợp lý định hướng cho giới trẻ trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách có văn hóa là rất cần thiết và cấp bách nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ trong việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của tiếng Việt. Điều này góp phần giữ gìn nét đẹp trong văn hóa dân tộc, đây là một công việc bình thường, tự nhiên và thường xuyên, lâu dài trong suốt cả quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước tới nay và từ nay về sau, nhằm bảo vệ và phát huy cái bản sắc, cái tinh hoa của tiếng Việt, không để cho mất đi một cái gì vô cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt.
Đồng thời việc nghiên cứu những vấn đề trong văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ nhằm giữ gìn một xã hội văn minh trong tiếng nói. Bởi các bạn trẻ ở độ tuổi dở dở ương ương này dể bị tác động bởi các yêu tố bên ngoài dù yếu tố đó là tốt hay là xấu, nhiều khi các họ vẫn chưa thể tự quyết định được đâu là đúng đâu là sai; và đây cũng là giai đoạn hình thành nhân cách của mỗi con người, việc định hướng đúng sẽ tránh gây ra ảnh hưởng xấu đến tương lai sau này của các bạn cũng như xã hội.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ trên phạm vi thành phố Hà Nội. Đây là nơi mà văn hóa ngôn ngữ đã trở thành một vấn đề nổi cộm và mang tính nhức nhối. Các bạn trẻ, đặc biệt là những người dưới 18 tuổi, đây là lứa tuổi thiếu sự chín chắn nhưng lại là giai đoạn quan trọng để hình thành nhân cách một con người.
Vấn đề ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay
Cơ sở lý thuyết vấn đề
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép ẩn dụ, và một loại ngữ pháp theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó.
Ngôn ngữ có 3 chức năng chính: để chỉ nghĩa, để thông báo và để khái quát hóa (có quan hệ với tư duy) Chức năng chỉ nghĩa: để chỉ chính bản thân sự vật hiện tượng, để gắn với 1 biểu tượng nào đó của sự vật hiện tượng và có chức năng làm phương tiện cho sự tồn tại, truyền đạt và nắm vững các kinh nghiệm xã hội, lịch sử loài người.
Văn hóa
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện. Đó là quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Theo cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Như vậy văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người.
Văn hóa là một công cụ của giao tiếp. Nếu ngôn ngữ là một công cụ của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó. Văn hoá thường xuyên làm tăng độ ổn định xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. Văn hóa giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tai và phát triển. Do mang tính nhân sinh, văn hoá trở thành sợi dây nối con người với con người. Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục bằng những giá trị ổn định và cả những giá trị đang hình thành.
Chữ viết
Chữ viết là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo dạng văn bản, là sự miêu tả ngôn ngữ thông qua việc sử dụng các ký hiệu hay các biểu tượng. Nó phân biệt với sự minh họa như các phác họa trong hang động hay các tranh vẽ, đây là các dạng ghi lại ngôn ngữ theo các phương tiện truyền đạt phi văn bản, ví dụ như các băng từ tính trong các đĩa âm thanh. Chữ viết có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ. Người ta có thể không biết chữ nhưng vẫn có ngôn ngữ để giao tiếp. Nhiều dân tộc có ngôn ngữ riêng nhưng vẫn chưa có chữ viết.
Đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết có một vai trò rất to lớn. Chữ viết là phương tiện ghi lại thông tin, không có chữ viết thì không thể có sách, các phát minh, các thành tựu không thể truyền lại. Âm thanh hay lời nói là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ vẫn có những hạn chế nhất định, có giới hạn, không thể truyền đạt rộng rãi và chính xác, lưu giữ lâu dài như chữ viết. Âm thanh bị hạn chế về khoảng cách và thời gian theo kiểu "tam sao thất bản". Chữ viết khắc phục được những điểm trên là phương tiện hoàn hảo để truyền đạt thông tin, lưu giữ thông tin, kích thích sự sáng tạo, là thành quả kỳ diệu, vĩ đại của loài người.
Thực trạng vấn đề văn hóa ngôn ngữ của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay.
Thực trạng của vấn đề
Việc chửi tục, nói bậy không chỉ khiến cho tiếng Việt bị vẩn đục mà đáng báo động nữa là tình trạng giới trẻ sử dụng “ký hiệu teen” đang trở nên phổ biến. Việc các bạn trẻ dùng ký hiệu tràn lan, “tây, ta” lẫn lộn khiến cho cả các nhà ngôn ngữ học cũng phải “bó tay”. Trong thời đại thông tin hiện nay, việc sử dụng các ký hiệu đơn giản là không sai. Nhưng điều đáng nói là họ đã lầm lẫn khi biến nó thành ký hiệu chung để nói hoặc viết ở mọi nơi, mọi lúc.
Tiếng Việt đang bị bóp méo và xâm phạm đến đáng sợ. Tương lai của nó sẽ đi đến đâu, dưới bàn tay của “giới trẻ”, những chủ nhân tương lai của đất nước. Từ “bóp méo” mà mình dùng ở đây mang cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Những thực tế làm chúng ta cảm thấy thương cho ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam…
- Tiếng Việt bị bẩn:
Từ xưa, ông bà đã chú trọng rèn dạy lời ăn tiếng nói, rằng “tiên học lễ, hậu học văn”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Khi còn đi học, việc không nói tục, chửi thề là một trong những tiêu chuẩn thi đua hạnh kiểm ở trường. Vậy mà hiện nay, nhiều người có trình độ văn hóa đang tự biến mình thành người thiếu văn hóa. Khi nói tục, chửi thề, các em học sinh đang cố tình làm vấy bẩn tiếng Việt vốn vô cùng đẹp đẽ và thiêng liêng. Chắc chắn ai cũng phải thừa nhận rằng chuyện chửi thề, văng tục là một thói xấu, không văn hóa. Thế nhưng lại có không ít các bạn trẻ thường xuyên có những “phát ngôn khiến nhiều người phải giật mình và cảm thấy khó chịu, hơn hết là lo lắng rằng văn minh của họ ngày càng “ngắn” dần.
Nhiều bạn trẻ coi chửi bậy là sành điệu, không văng tục nói không lưu loát. Khi bực dọc một vấn đề nào đó họ chửi; bị điểm kém: chửi; không thích đứa bạn ngồi cùng bàn: chửi; không đến được buổi hẹn với bạn bè: chửi, thậm chí còn chửi yêu để bày tỏ tình cảm. Trong các câu chuyện phiếm và cả chuyện nghiêm túc, các teen cũng vận dụng triệt để từ bậy thay thế câu thông thường. Họ coi việc chửi bậy là để xả stress, xả bức xúc, thể hiện cảm xúc…, ai không biết chửi sẽ rất “quê”.
"Chửi bậy" đã trở thành chủ đề nóng trên nhiều diễn đàn của các trường, trên blog. Vấn đề này đã được các teen tranh luận rất thẳng thắn và đã có rất nhiều ý kiến trái chiều. Phần nhiều các teen tỏ ra ủng hộ, thông cảm, thậm chí coi chửi bậy là “một phần tất yếu”. Nhưng cũng có những ý kiến hoài nghi, lo lắng: “Chẳng nhẽ bây giờ lại thiếu văn minh hay sao? Em không hiểu được xã hội ngày nay như thế nào nữa? Đi đến đâu cũng thấy những lời nói bậy, nói tục, thiếu văn hoá. Ngay cả tại các trường chuyên lớp chọn bây giờ cũng không hề giữ được nếp sống văn minh như thời trước. Làm thế nào để hết những tệ nạn này đây!”
- Tiếng Việt không dấu:
Đơn giản là những kiểu viết không có dấu thanh. Nhiều người nghĩ viết thế cho nó nhanh gọn nhẹ, vả lại biết tiếng với nhau cả rồi, chẳng lẽ không dịch được? Nhưng hãy nghĩ lại: ví dụ như dòng chữ không dấu dưới đây: “Ban that la dam dang” – nên hiểu “Bạn thật là đảm đang” hay “Bạn thật là dâm đãng” đây??? Một tập hợp những con chữ không có dấu, phải dịch chán mới hiểu. Hay một nữ học sinh nhắn cho bạn: “Tau pun ngu we” (Tao buồn ngủ quá). Tin nhắn trả lời: “Bit oj, mey mep nhu heo hem bik seo pun ngu lu’m tje?” (Biết rồi, mày mập như heo không biết sao buồn ngủ lắm thế).
- Sự biến dạng của những từ ngữ, chữ viết:
Qua tìm hiểu được biết đây là “mốt” ngôn ngữ riêng của giới trẻ. Đọc một đoạn tin nhắn trên điện thoại di động, lướt qua vài trang blog hoặc diễn đàn của giới trẻ, dễ dàng bắt gặp những mẩu đối thoại khác người. Thật là nực cười cho những kiểu viết quái gở: từ “rồi” viết thành “roài”, “không” thành “hông”, “hem”, “biết” thành “bít”. Ồ, hãy thử lắp vào một câu xem: “The la cau hem bit roai, hihi” Nhưng, đó chỉ là những kiểu thay đổi “sơ khai”. Hẳn trí tuệ luôn luôn phát triển và họ dành nó để cho ra đời những đứa con tinh thần quái gở hơn, từ “bóp méo” đến lúc này đã có thể dùng theo nghĩa vốn có của nó. Chữ “a” viết thành 4, chữ e viết thành 3, i thành j, g đổi sang 9, o thành 0, c thành k, b thành p … Trên một diễn đàn, một nick name có tên “co_nang_ ngo_ngao” viết: “Hum ni là 14-2 đéy pà kon ạ, đư pợn na dwc twng hoa kua! Ko 1 fan twng hoa jo min nen thay zui zui, (Hôm nay là 14/2 đấy bà con ạ, đã bạn nào được tặng hoa chưa! Có một người hâm mộ tăng hoa cho mình nên thấy vui vui). Một số em không biết cách định dạng kiểu chữ tiếng Việt trên trang soạn thảo blog nên dùng sẵn những gì có ngay trên bàn phím để chữ viết có thêm dấu cho dễ đọc. Cũng tại một diễn đàn dành cho tuổi mới lớn, chúng tôi bắt gặp một nick name có tên “dang_yeu” tâm sự: “Ngoi` pun` hok bjk lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh dang lam` j` ” (Ngồi buồn không biết làm gì, vô tình nghĩ đến anh, không biết giờ này anh đang làm gì) … Đây là câu nói sau khí được “chế tác” lần 3: “Th3 l4 k4u h3m pjt r04j, hyhy”. Đó là một đống ký tự lộn xộn không dịch nổi và không biết có phải là ngôn ngữ không, chưa nói gì đến đó là ngôn ngữ của chính dân tộc chúng ta. Và óc sáng tạo vô bờ bến của tuổi trẻ hiện nay vẫn chưa dừng lại. Viết thì có 2 kiểu viết: viết in và viết thường, đó cùng là một kiểu “cá tính”. “ThE^ lA` kA^.u hEm pYt r0A`j nhA, hYhY”. Đến đây thì không còn là ngôn ngữ nữa, hãy hiểu rằng đó chỉ là một tập hợp ô hợp, hỗn độn những con chữ vô giá trị. Nhưng đến khi nó đã là trở thành nhếch nhác như … rác thải thì hình như các bạn trẻ vẫn không được buông tha cho Tiếng Việt. Có vẻ như viết ra chừng ngắn và kém độ hoành tráng “giới trẻ” đã biến chữ a phải thành Cl, @ hay là ã, Æ mới đủ hoành tráng, chữ q thì phải là v\/ mới sành điệu, p thành º]º mới “xì tin” … Hãy xem lại “đứa con tinh thần” của họ: “††|é ]_à ßạ]\[ ]<ú( đã ]_âµ \/ề \/ấ]\[ đề †]ế]\[(¬ \/]ệ† ßị ßó]º /v\éº, †|ô/v\ ]\[Cl¥ Pvả]\[†| Pvỗ] ]\[(¬ồ] \/]ế† \/ậ¥, (†|ỉ đơ]\[ (¬]ả]\[ ]_à ]\[†|ữ]\[(¬ §µ¥ ]\[(¬†|ĩ †ả]\[ /v\ạ]\[ ††|ô] …[/.
Sự lấn át của ngoại ngữ …
Từ xưa, Trung Quốc xâm lược Việt Nam và thiết lập chế độ Bắc thuộc đến cả 1000 năm, đó là điều tại sao Tiếng Việt chịu ảnh hưởng rất lớn của tiếng Hán, nhiều từ Việt hiện nay có gốc từ tiếng Hán. Nhưng điều đó có thể nói là mang tính khách quan và có nói thì … cũng không làm gì được, vì dù sao nó cũng là quá khứ rồi. Nhưng hiện tại thì sao? Nền văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam ngày một tăng, đặc biệt thông qua mạng Internet. Những mặt tích cực thì không ai có thể chối cãi, nhưng nó mang theo một hiện tượng mà người ta gọi là “sính ngoại”, tức là quá tôn sùng và ưa dùng ngôn ngữ nước ngoài. Mình xin nói cụ thể ở đây là Tiếng Anh … “Hiện nay, người ta viết rất ẩu và dùng nhiều chữ nước ngoài quá. Điều đó rất dở và rất bực... Bác Hồ thường phê bình: “Đã dốt lại hay nói chữ! Đúng quá, chính vì dốt mà hay nói chữ!" Nhưng theo nhận xét của mình hiện nay thì không giới hạn trong những cái thùng rỗng đó mà mở rộng ra nhiều rồi … “Người người chơi chữ, nhà nhà chơi chữ”. Nhưng chúng ta phải hiểu “chơi chữ” ở đây không phải thâm thúy, sâu cay như Trạng Quỳnh ngày xưa hay các cụ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Hoan mà nó chỉ đơn giản là … thích dùng tiếng nước ngoài.
Những từ Tiếng Anh hay được dùng nhất bây giờ là “xì tin” (chú thích là đã bị biến dạng, từ nguyên gốc là “style”, có nghĩa là phong cách), bên cạnh có một vài “dị bản” như tin, tyn, xì tyn, xì teen, hay … xì ten ). Không kém phần thông dụng là từ “pro” (viết tắt của từ Professional – nghĩa là chuyên nghiệp), các bạn trẻ cứ nghiễm nhiên dùng và cho nó một cái nghĩa là “siêu”, tất nhiên các “láng giềng” thì hẳn là nhiều đi rồi, prồ, prô, pzo, pzo`… Ồ, thật là muôn hình vạn trạng. Các “thuật ngữ” về trò chơi trực tuyến có thể nói là được ưa dùng nhất. Trong đó có thể kể tới những từ phổ biến như “server” (máy chủ), ks - kill steal (ăn cắp điểm kinh nghiệm giết quái vật), disconnect (ngắt kết nối với máy chủ), gọi là phổ biến vì là người ta dùng nhiều, chứ dùng đúng hay không phải xem xét Đúng nghĩa chưa nói chứ đúng từ thì thật là còn lắm gian truân … có những bạn hồn nhiên dùng từ “sever”, “disconect” mà không thèm nói Tiếng Việt như máy chủ hay ngắt kết nối. Ngay đến cách viết còn chẳng biết, đã đua nhau viết, ra chừng mình giỏi giang.
Nhưng những từ đó không gây đáng ngại cho lắm. Công nghệ thông tin là lĩnh vực Tiếng Việt đang bị dồn ép đến chân tường nhiều nhất… nhưng đó mới là một lĩnh vực , thực sự là đâu đâu cũng thấy việc người ta lạm dụng quá mức Tiếng Anh. “Siêu sao” thì dùng “superstar”, điện thoại di động thì “mobile phone”, “vụ bê bối” thì “scandal”. Ví dụ như câu “Vụ bê bối của các ngôi sao” thì lại viết kiểu “Tây” hơn như “Scandal của Superstar”. Dường như các bạn trẻ đã và đang tạo lập cho mình một "ngôn ngữ" riêng, lệch với chuẩn của ngôn ngữ mẹ đẻ, thậm chí các em còn tự tin xen rất nhiều từ tiếng Anh vào ngôn ngữ chính thống. Ở các nước sử dụng tiếng Anh, khi họ viết trong tin nhắn chữ "sk8board" thay vì viết đầy đủ là "skateboard" (ván trượt). Sở dĩ có sự viết tắt này là vì âm "ate" được phát ra nghe tương tự như "eight" (số 8). Còn ở Việt Nam, giới trẻ cũng có nhiều cách vận dụng ngôn ngữ thú vị và mặc dù biết tiếng Anh nhưng chúng tôi đã phải mất vài phút để hiểu các bạn nói gì. Ví dụ như: “Ugly tiger” nghĩa là “xấu hổ” (ugly = xấu, tiger = con hổ); “no have spend” nghĩa là “không có chi” (no = không, have = có, spend = chi, ví dụ như chi tiền!). Khi được đặt câu hỏi với một số bạn tại sao lại chọn cách diễn đạt bằng thứ tiếng Anh sai từ loại và ngữ pháp như vậy, thì nhận được câu trả lời: “chúng em quen dùng rồi”, “ngôn ngữ ấy đã phổ biến” và “vậy mới là... sáng tạo”.
Xuyên tạc ca dao, tục ngữ.
Tình trạng ca dao, tục ngữ “chế” ngày một phổ biến, và nó còn ảnh hưởng khá mạnh đến các em tuổi teen. Các bạn trẻ đã nhái lại nhiều thành ngữ, tục ngữ theo cách nói vần vè, phần lớn vô nghĩa, chủ yếu để gây cười. Những câu này chưa đạt tới chuẩn của thành ngữ. Số câu hay và sáng tạo, như: “Đã siđa còn xông pha hiến máu”, rất hiếm. Lại có một hai câu gây cười vô ý thức, xúc phạm tới người khác, chẳng hạn: “Bộ đội phải chơi trội”; “Hận đời cắt tóc đi tu, nghĩ đi nghĩ lại đi tù sướng hơn”. Nhìn chung, chúng là những “ranh ngôn” cho tuổi teen. “Nó học giỏi vì nó thường ăn tỏi”, hay khi thầy giáo khen bạn khác có ý chí học tập, lại có tiếng trả lời: “Nó có ý chí vì nó có lý”, đại khái là như vậy. Hay các dân nhậu khi lỉn xỉn rồi cũng có “thành ngữ”, ví dụ: “Không lai rai coi chừng đai”, “Vô vô vô, không vô cái mặt như cái tô”…
Ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay hầu như chỉ lưu hành trên mạng internet, trang web hay blog cá nhân và trên tin nhắn điện thoại. Điều này cho thấy rõ, sự ra đời của ngôn ngữ cua gioi tre hien nay gắn liền với mức độ phổ biến của công cụ máy tính và điện thoại di động đối với thế hệ trẻ. Nếu tách rời khỏi điện thoại và máy tính, ngôn ngữ cua gioi tre hien nay hầu như không phát huy được sức mạnh và sự cộng cảm lớn của đa số người sử dụng. Đồng nghĩa với việc, “sân chơi” của ngôn ngữ tuổi teen chỉ có thể trên “thế giới ảo” là mạng internet, chứ khó có thể “lấn sân” sang các “sân chơi” khác vì gặp phải thái độ cự tuyệt của cộng đồng, thậm chí có thể của chính bản thân những người đang sử dụng ngôn ngữ tuổi teen vốn rất yêu quý tiếng Việt. Điều này khiến chúng ta có thể yên tâm rằng, ngôn ngữ tuổi teen không đủ sức mạnh để thay thế hệ thống chữ viết tiếng Việt lưu hành hiện nay.
Nguyên nhân của vấn đề.
Ngôn ngữ chát, hay nói rộng ra, ngôn ngữ @ này là hiện tượng mới do giới tuổi teen hiện nay thường dùng. Ngôn ngữ này xuất hiện từ khi có sự bùng nổ của Internet đồng thời với sự thay đổi của xã hội, từ một xã hội khá bảo thủ sang một xã hội cởi mở. Đây là một hiện tượng bình thường của ngôn ngữ - xã hội, nó như là một quy luật tự nhiên. Xã hội cởi mở, dòng thông tin, lối sống phong cách phương Tây, phương Đông ồ ạt tràn vào Việt Nam. Giới trẻ là những người thích thú nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và làm ra cái mới của riêng họ, để thể hiện mình
Những hiện tượng đó có những nguyên nhân khách quan và chủ quan của nó. Về mặt khách quan, đó là những nguyên nhân ngoài ngôn ngữ như: xu hướng đổi mới, sự thay đổi, sự hội nhập, các trào lưu xã hội, sự bùng nổ của Interrnet…và trong ngôn ngữ, đó chính là quy luật tiết kiệm. Đó là quy luật không ai có thể phá vỡ nổi, không có đạo luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được, dù ghét nó người ta cũng phải nhượng bộ. Còn về mặt chủ quan thì giới tuổi teen muốn tìm sự khác biệt, mới lạ. Họ muốn khẳng định mình trước người lớn, để người lớn phải tôn trọng. Tư duy cần phải tạo nên sự khác biệt đã ăn sâu vào giới trẻ hiện nay”.
Xét từ góc độ tâm lí học, tuổi teen là lứa tuổi có đặc trưng tâm lí thích cái mới, thích khám phá và khẳng định “đẳngcấp” của bản thân mình. Do đó, lứa tuổi này dễ bị thu hút vào những trào lưu mới mang đặc trưng phong cách của lứa tuổi mình. Sử dụng ngôn ngữ tuổi teen chỉ là một trong hàng loạt những những trào lưu khẳng định bản thân như cách ăn mặc, kiểu tóc, cách giải trí vui chơi... Nói nôm na là, làm được một việc gì vừa khác với lứa tuổi con nít trước đây, lại vừa khác với người lớn, phù hợp với trào lưu giới trẻ lan rộng khắp nơi thì tuổi teen cảm thấy thỏa mãn nhu cầu khẳng định bản thân mình. Vì vậy, không hẳn việc xây dựng hệ thống quy ước kí tự đó sẽ khiến cho quá trình giao tiếp nhanh gọn tiện lợi hơn, mà ngược lại có khi còn phức tạp hơn, nhưng cái quan trọng là tuổi teen có thể làm chủ được một điều mới lạ mà người lớn không hề biết được. Tuổi teen cảm thấy thích thú và xem khả năng làm chủ đó thể hiện “đẳng cấp” của thế hệ mình.
Ngoài ra đó còn là những nguyên nhâm rất cơ bản khiến cho ngôn ngữ của giới trẻ lệch chuẩn là: Trong gia đình, cách nói năng giao tiếp giữa mọi người cũng không chuẩn mực; Trong giờ học, học sinh không nói bậy nhưng giờ ra chơi các em vẫn chửi bậy; Còn ở ngoài xã hội, việc nói tục, chửi bậy khá phổ biến nhưng rất ít người lên án. Đồng thời những nguyên nhân cơ bản khiến ngôn ngữ của giới trẻ bị biến dạng là: Thường xuyên xen tiếng nước ngoài vào bài viết, lời nói; quá lạm dụng từ viết tắt; dùng quá nhiều tiếng lóng. Chính lớp trẻ - đối tượng giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt - lại đang từng ngày bị đe dọa bởi thứ ngôn ngữ méo mó, quái dị đó.
Hiện nay Internet, điện thoại di động đang lan truyền toàn cầu, từ thành thị tới thôn quê, thậm chí cả vùng sâu ,vùng xa nữa, nơi nào không có Interrnet thì đã có sóng điện thoại di động. Vì vậy, giới trẻ có thể kết nối với nhau mọi lúc, mọi nơi, và họ học hỏi, cập nhật ngôn ngữ cho nhau rất nhanh. Ngôn ngữ @ nhanh chóng có thể lan truyền khắp nơi trong giới trẻ và tạo ra 1 làn sóng mạnh mẽ. Nếu mà nói một cách sòng phẳng thì đó là sự ô nhiễm ngôn ngữ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ @ đã đi quá giới hạn của tiếng Việt văn hóa, thậm chí tiếng Việt bình dân.
Đề xuất giải pháp
Trong các yếu tố tác động đến ngôn ngữ tuổi teen, yếu tố gia đình vẫn là quan trọng nhất. Bản thân gia đình cũng phải có ý thức rèn con cái từ lời nói đến hành vi. Bố mẹ, ông bà cũng phải nêu gương cho con cái. Bên cạnh đó, nhà trường phải chú ý rèn học sinh về ngôn ngữ, nói đúng, viết đúng chuẩn tiếng Việt, trong đó có viết đúng chính tả. Trước tiên, chúng ta phải giáo dục để các bạn hiểu rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ, chứ không nên lầm lẫn khi biến phương tiện làm việc thành phương tiện giao tiếp. Lời nói lệch chuẩn có thể dẫn đến tư duy, hành vi lệch lạc. Vì thế, việc làm méo mó ngôn ngữ tiếng Việt cần phải được lên án
Cần xây dựng phong trào giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt để các bạn trẻ hiểu và thực hiện theo. Việc giáo dục cần được bắt nguồn từ thực tế, những câu chuyện, tình huống thật xảy ra trong cuộc sống. Ví dụ như cầu thủ Rooney của CLB Machester United (Anh) chỉ vì trót văng tục trong một trận đá bóng đã bị Liên đoàn Bóng đá Anh (FA) xử phạt và cầu thủ này đã phải lên tiếng xin lỗi khán giả.
Ở một xã hội văn minh, họ không chấp nhận, thậm chí tẩy chay nếu những người nổi tiếng có những lời nói, hành vi xấu trước công chúng. Làm sao để các em hiểu thế nào là con người văn minh, lịch lãm, về điều này thì giáo dục của chúng ta lại chưa làm được. Các tờ báo, đặc biệt là báo mạng, cần đi đầu trong việc đưa ra những từ, ngữ, câu… đúng chuẩn và trong sáng. Kế đó là gia đình. Mới đây, ngành giáo dục Hà Nội triển khai chương trình “Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh” xuống các trường học. Đây phải chăng là một tín hiệu tốt để giải quyết một phần những bất cập trên?.
Bởi đặc trưng của tâm lý, độ tuổi nên các bạn trẻ ở thời kì ‘dở dở ương ương’ này nhiều khi vẫn chưa thể tự phân biệt rằng đâu là đúng đâu là sai, cái gì là nên hoặc không nên, do đó, họ cần phải có sự quan tâm, giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
Nhiều bạn trẻ nói như thế vì vốn từ vựng tiếng Việt của các bạn còn hạn chế. Trong lĩnh vực giáo dục, dường như chúng ta đã cung cấp cho học sinh quá nhiều kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Việt mà lại coi nhẹ phần kỹ năng giao tiếp tiếng Việt (nói và viết tiếng Việt, yếu tố thẩm mĩ, văn hoá trong giao tiếp tiếng Việt). Tôi cho rằng nếu phần kỹ năng giao tiếp tiếng Việt được vận dụng tốt trong nhà trường thì sẽ giúp học sinh biết nói đúng, viết đúng tiếng Việt, nói hay và viết hay tiếng Việt”. Thực tế là ngay cả một số quyển Từ điển tiếng Việt - phương tiện đối chiếu được xem là quy chuẩn, cũng chưa thống nhất. Theo Thạc sĩ Tăng Tấn Lộc đề xuất, các nhà Việt ngữ học cần ngồi lại để tìm tiếng nói chung về chuẩn tiếng Việt. Từ đó, có những biện pháp để bảo tồn những giá trị vốn có của tiếng Việt. Nhà nước cần có những quyết sách thống nhất về chuẩn tiếng Việt. Để bạn trẻ biết yêu, trân trọng ngôn ngữ của dân tộc thì cần phải đẩy mạnh giáo dục cho các em nâng cao vốn kiến thức về tiếng mẹ đẻ. Vì có yêu, có trân trọng thì tiếng Việt mới đẹp, trong sáng, ngày càng phong phú và đa dạng.
Kết luận
Ngôn ngữ chỉ là một công cụ để giao tiếp, còn việc sử dụng và giữ gìn nó như thế nào phần lớn phụ thuộc vào ý thức của người nói và viết, không ai có thể đặt ra một chuẩn mực là phải nói hay viết thế nào cho đúng. Vì vậy việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không phải là nhiệm vụ của riêng một ai, mỗi người hãy đóng góp một chút giúp tiếng Việt mãi là tiếng Việt, là ngôn ngữ đáng tự hào của dân tộc chúng ta.
Tài liệu tham khảo
Phạm Văn Đồng – Về vấn đề giáo dục - đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia. Năm 1999.
Nhiều Tác Giả - Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Năm 2006
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Lập kế hoạch về nhân lực và tài chính
Danh sách những người tham gia đề tài
Phạm Thị Quyên
Nguyễn Thu Quỳnh
Nguyễn Thị Sen
Lê Đức Thắng
Bùi Văn Thành
Vũ Đạt Thành
Cao Thị Phương Thảo
Nguyễn Thị Thu Thảo
Ninh Thị Hương Thảo
Phân công công việc
Phần I “Tính cấp thiết, mục đích nghiên cứu và phạm vi đề tài”:
Nguyễn Thị Sen
Phạm Thị Quyên
Cao Thị Phương Thảo
Phần II “Vấn đề ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay”:
Ninh Thị Hương Thảo
Nguyễn Thị Thu Thảo
Nguyễn Thu Quỳnh
Mở đầu và kết luận
Nguyễn Thu Quỳnh
Phần V ”Lập kế hoạch nghiên cứu và nhân lực và tài chính”:
Vũ Đạt Thành
Bùi Văn Thành
Thu thập xử lý thông tin xây dựng kế hoạch viết báo cáo tổng hợp:
Lê Đức Thắng
Vũ Đạt Thành
Nguyễn Thu Quỳnh
Kế hoạch tài chính:
Dự toán kinh phí:
Chi phí in ấn: 30 000
Chi phí liên lạc: 15 000
Ngân sách nghiên cứu:
Kinh phí dự trù:
Tiền in = 25 000
Tiền liên lạc = 10 000
à Tổng cộng = 35 000
Giải trình các khoản cụ thể:
Khoản 1:
Chi phí in bản xem thử: 10 000
Chi phí in bản cứng để nộp: 15 000
Khoản 2:
Chi phí liên lạc: 10000
à Tổng = 35 000
Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu vấn đề
Nội dung công việc:
Thu thập thông tin:
Sử dụng thông tin trên báo đài, tạp chí và internet.
Sử dụng thông tin điều tra trực tiếp.
Xử lý thông tin:
Xử lí qua quan sát thực tế xem xét độ chính xác và hữu dụng của các thông tin.
Chọn lọc những thông tin cần thiết.
Suy luận để tìm ra vấn đề.
Xây dựng kế hoạch viết báo cáo tổng kết
Xây dựng cơ sở lí thuyết cho vấn đề.
Phân tích và chỉ ra thực trạng thực tế của vấn đề.
Tìm ra nguyên nhân lý giải thực trạng của vấn đề.
Phân tích trên nhiều góc độ khác nhau để làm sánh tỏ vấn đề.
Xem xét hậu quả và tìm ra giải pháp.
Trình bày bài báo cáo và bảo vệ bài báo cáo.
Thời gian thực hiện và sản phẩm của nghiên cứu.
Thời gian thực hịện:
Nghiên cứu vấn đề trong khoảng thời gian là 20 ngày
Sản phẩm nghiên cứu:
Sản phẩm của nghiên cứu là: báo cáo đề tài thảo luận.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngamp244n ng7919 teen.doc