Đề tài Về quyền giám sát tối cao của quốc hội

Nhà nước cần phải sớm ban hành và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật,phải pháp chế hoá các quan hệ xã hội.Đó là một trong những yếu tố đầu tiên để Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát tối cao của mình.Hiến pháp và pháp luật là một trong những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.Hiện nay còn nhiều lĩnh vực,nhất là trong hoạt động quản lý,Nhà nước chưa có luật để điều chỉnh các quan hệ đó hoặc những quy định của pháp luật cũ đã lạc hậu so với thực tế xã hội.Điều đó gây khó khăn lớn cho hoạt động giám sát của Quốc hội,nhất là việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động,quản lý của Chính phủ.Cần phải nâng cao kỹ thuật lập pháp hơn nữa .Mỗi khi có một văn bản luật được trình Quốc hội xẽ xét thì Chính phủ phải gửi kèm theo luôn những văn bản hướng dẫn thi hành luật đó.Quốc hội chưa nắm được hết số lượng văn bản pháp quy của Chính phủ thì cũng không thể kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản đó

doc89 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 921 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Về quyền giám sát tối cao của quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng Bên cạnh những mặt được nêu trên,công tác giám sát của Uỷ ban cũng bộc lộ nhiều hạn chế.Chính sách về KHCNMT ban hành trong thời gian vừa qua rất phong phú,đa dạng nhưng công tác giám sát của Quốc hội,Hội đồng nhân dân chưa theo kịp, hiệu quả giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu.Có lĩnh vực mà Uỷ ban chưa tích cực tiến hành giám sát,theo dõi như các mảng về khoa học xã hội và nhân văn.Các chuyên đề mà Uỷ ban lựa chọn để giám sát còn dàn trải,thiếu tập trung vào các vấn đề lớn. Một số lĩnh vực còn giám sát yếu,chưa được quan tâm thích đáng như việc thực hiện ngân sách cho KHCN đặc biệt là ngân sách KHCN ở địa phương,về đề tài khoa học xã hội và nhân văn ở địa phương,việc lựa chọn nhập công nghệ nước ngoài để thúc đẩy sản xuất công nghiệp,việc phát triển công nghệ nuôi cấy mô kém hiệu quả(do công tác chuẩn bị chưa tốt) ở các địa phương,vấn đề lũ đồng bằng sông Cửu Long,về mối quan hệ giữa Bộ KHCNMT với địa phương,vấn đề tổ chức hoạt động KHCNMT ở cấp cơ sở...Uỷ ban cũng chưa thường xuyên phối hợp với Bộ,ngành hữu quan và các chuyên gia đầu ngành trong việc giám sát nhằm đạt hiệu quả cao hơn.Việc sắp xếp các đoàn đi làm việc nhiều khi còn gấp gáp,việc lên kế hoạch, phối hợp với Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội còn chưa thực hiện được thường xuyên.Kiến nghị giám sát của Uỷ ban còn ít được hồi âm vì Uỷ ban chưa tích cực theo dõi,đôn đốc,mặt khác một số cơ quan và địa phương chưa thực sự quan tâm giải quyết hoặc trả lời thoả đáng.Việc phân định trách nhiệm của Chính phủ,Quốc hội còn chưa thật rõ mà nguyên nhân chính là thiếu những quy định cụ thể về giám sát của Quốc hội.Một số thành viên có trọng trách của Uỷ ban còn ít tham gia giám sát ” 2.. Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Để khắc phục tình trạng trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội,trước hết cần phải tìm,xác định được đúng những nguyên nhân chủ yếu đã hạn chế những hoạt động giám sát của Quốc hội.Đứng về khoa học quản lý nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng khi thành lập một cơ quan,xác định chức năng,quyền hạn của các cơ quan đó thì phải tính đến các mặt sau đây : - Phải tổ chức cơ quan đó như thế nào để phù hợp với yêu cầu khách quan,tất yếu của công việc mà cơ quan đó phải đảm nhận , nghĩa là phải xác định về mặt tổ chức , phân định chức năng,quyền hạn và mối quan hệ trong cơ quan và ngoài cơ quan như thế nào . - Phải tuyển chọn người lãnh đạo cơ quan và nhân viên cơ quan như thế nào để họ có đủ khả năng về chuyên môn,sức khoẻ và các điều kiện khác để họ có thể đảm đương được công việc của họ . - Phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất và những điều kiện pháp lý cần thiết để cơ quan hoạt động được . Vì vậy,khi có một chức năng nào đó không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu lực thì phải tìm nguyên nhân trong những yếu tố trên . 2.1. Một số đại biểu Quốc hội được bầu ra theo cơ chế cũ (luật cũ)chưa có đủ điều kiện để đảm đương công tác giám sát của Quốc hội trong công tác đổi mới ở nước ta . Theo quy định của Điều 3,luật Tổ chức Quốc hội:“ Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo thực hiện bằng hiệu quả hoạt động của các kỳ họp Quốc hội, hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội ”.Như vậy,hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội trước hết phụ thuộc vào hoạt động giám sát của các đại biểu Quốc hội. Trong lĩnh vực giám sát trách nhiệm của đại biểu Quốc hội lại càng nặng nề vì đó là việc phải xem xét và quyết định những vấn đề đã,đang và sẽ xảy ra trong thực tế đời sống xã hội chứ không còn nằm trên văn bản như các luật của Nhà nước.Để đảm đương được công tác giám sát này người đại biểu Quốc hội cần có được những điều kiện sau : Người đại biểu phải thực sự là người đại diện cho nhân dân,do dân tín nhiệm bầu ra một cách hợp pháp . - Người đại biểu phải có năng lực làm công tác quản lý xã hội,cụ thể là có năng lực làm công tác giám sát tức là ít nhất cá nhân đại biểu phải có trình độ pháp lý nhất định,hiểu biết sâu sắc Hiến pháp,tất cả các luật,Pháp lệnh,Nghị quyết của Quốc hội đã ban hành vì đó là công cụ,là chuẩn mực để đối chiếu với hoạt động thực tế.Không có công cụ này thì đại biểu Quốc hội không thể nhận xét và quyết định thế nào là đúng, là sai,và người đại biểu phải am hiểu một cách sâu sắc thực tiễn ở những vấn đề giám sát . - Đại biểu cần có những điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của mình được tiến hành:thời gian,thông tin,cơ sở vật chất . - Do phần lớn đại biểuQuốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên đại biểu Quốc hội rất ít thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu nói chung và làm nhiệm vụ giám sát nói riêng .Trong khi đó công tác giám sát đòi hỏi có nhiều thời gian và sự tập trung thời gian là cần thiết . - Cũng do hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên phần lớn đại biểu Quốc hội đã hưởng lương theo công việc của mình ngoài ra nhận thêm phụ cấp đại biểu ít ỏi việc cung cấp thông tin các phương tiện vật chất cần thiết bảo đảm cho đại biểu hoạt động cũng bị hạn chế thể hiện rõ nhất là trong các kỳ họp Quốc hội,tài liệu,báo cáo gửi cho các đại biểu thường chậm ,quá sát thời gian họp và thảo luận về vấn đề đó.Khi ở địa phương ,không phải nơi nào cũng có đủ trụ sở cho đoàn đại biểu Quốc hội làm việc ,làm nhiệm vụ tiếp dân và tiếp xúc với cử tri.Muốn giám sát thì phải có phương tiện giao thông ,thông tin cần thiết thì mới thực hiện được,nhưng trụ sở còn thiếu thì nói gì đến những điều kiện đó - Vì vậy hiệu quả hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội có bị hạn chế là lý do ý thức trách nhiệm của đại biểu nhưng nguyên nhân chính là Nhà nước đã không quan tâm một cách đúng mức và hợp lý đến những điều kiện cần và đủ để đại biểu Quốc hội thực hiện được đúng và đầy đủ quyền hạn của mình nhất là trong hoạt động giám sát 2.2.Cơ cấu tổ chức của Quốc hội và cách làm việc của Quốc hội chưa tương ứng với những yêu cầu của công tác giám sát Như trên đã trình bày ,Quốc hội có chức năng giám sát tính hợp hiến hợp pháp của tất cả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước ban hành và giám sát tính hợp pháp,hợp lý trong hoạt động của cơ quan Nhà nước,đơn vị vũ trang,tổ chức xã hội và công dân .Như vậy ,chúng ta thấy đối tượng giám sát của Quốc hội là rất rộng ,nội dung mà Quốc hội cần giám sát cũng rất đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị,kinh tế,quân sự, ngoại giao Để thực hiện việc giám sát đó,theo quy định của Hiến pháp năm 1980 chúng ta nhận thấy : - Quốc hội giao cho viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật theo Điều 138 và phải báo cáo trước quốc hội theo Điều 141. - Quốc hội giao cho Hội đồng nhà nước giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật, công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo Điều 100,điểm 7,Hiến pháp 1980 và giám sát Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Điều 100, điểm 9. - Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc và các uỷ ban Thường trực của Quốc hội giúp quốc hội thực hiện việc quyền giám sát tối cao theo Điều 91 và Điều 92,Hiến pháp năm 1980. Và Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền giám sát trong các kỳ họp quốc hội . Quốc hội mỗi năm chỉ họp 2 kỳ nên trên thực tế thì chức năng giám sát của Quốc hội do Hội đồng nhà nước, có sự giúp đỡ của Uỷ ban Thường trực đảm nhận và chịu trách nhiệm phải báo cáo trước quốc hội.Hội đồng nhà nước chỉ có 12 thành viên, không phải tất cả thành viên đều hoạt động chuyên trách, với một khối lượng công việc lớn và nội dung đa dạng,phức tạp nhất là trong hoạt động quản lý thì không thể đủ khả năng đảm đương một khối lượng công việc như vậy;các Uỷ ban Thường trực của Quốc hội phần lớn cũng do các đại biểu kiêm nhiệm đảm nhiệm do đó cũng không thể giúp Hội đồng Nhà nước trong một khối lượng công việc lớn như vậy.Mặt khác ,chúng tôi nhận thấy ngay trong luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước quy định về quyền hạn ,chức năng của các Uỷ ban trong hoạt động giám sát cũng không xác định cụ thể và rõ ràng .Chúng ta đều biết rằng hoạt động giám sát của Quốc hội được thể hiện ở hai mặt: - Giám sát tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước ban hành.Trong tình hình hiện nay ,số lượng các văn bản đó rất lớn nhưng cho đến nay Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách nào đảm đương nhiệm vụ xem xét tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật do Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ)ban hành và những hướng dẫn thi hành luật và các văn bản pháp quy khác do Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành . Đối với những văn bản pháp quy dưới luật mà Hiến pháp đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát tính hợp hiến và hợp pháp và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội,vậy cơ quan của Quốc hội sẽ kiểm tra,giám sát công tác này của Viện kiểm sát nhân dân . -Về mặt giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động thực tiễn của Hội đồng Bộ trưởng,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Những cơ quan này có chức năng và nhiệm vụ quyền hạn rất rộng lớn và đa dạng ,nhất là hoạt động quản lý của Hội đồng Bộ trưởng(Chính phủ)với một tổ chức có số người ít mà lại không có chuyên trách như Hội đồng Nhà nước và các Uỷ ban Thường trực của Quốc hội thì làm thế nào mà giám sát được.Vì vậy ,trên thực tế hoạt động giám sát của Hội đồng Nhà nước đối với các cơ quan này chủ yếu dựa vào việc nghe báo cáo là chính . Việc phân định chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của các Uỷ ban Thường trực của Quốc hội có phần chưa rõ ràng ,cần phải quy định rõ chức năng và thẩm quyền cho các Uỷ ban thường trực của Quốc hội nhất là trong hoạt động giám sát . 2.3. Về các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát Muốn thực hiện được quyền giám sát tối cao ,Quốc hội phải tiến hành các hoạt động xem xét,theo dõi,đi kiểm tra thực tếđể làm được việc đó Quốc hội cần có những điều kiện cơ bản : + Để tiến hành được các hoạt động giám sát một cách có hiệu quả các cơ quan của Quốc hội cần có trụ sở làm việc,phương tiện giao thông và thông tin,có thư viện và bộ phận lưu trữ về các tài liệu giám sát của Quốc hội,trước hết là các văn bản pháp quy của các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội,cho đến nay,những điều kiện vật chất cần thiết đó vẫn chưa được đáp ứng.Nhất là về mặt thông tin,tư liệu và việc xử lý các thông tin tư liệu đó . + Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa được hoàn thiện và tình hình kinh tế –xã hội lại luôn luôn biến động đòi hỏi phải có luật và sự sửa đổi ,bổ sung luật kịp thời . Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì trước hết phải có Hiến pháp và một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh ,hay nói một cách khác phải có căn cứ vững chắc để nhận xét , đánh giá một văn bản pháp quy nào đó là đúng hoặc sai hay để kết luận một vụ việc nào đó là đúng hoặc sai đều phải dựa vào căn cứ pháp luật . Trong khi đó ,mặc dù công tác làm luật của nước ta đã được tăng cường và đẩy mạnh nhưng vẫn còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội chưa có luât điều chỉnh .Ta còn thiếu luật về kinh tế và luật hành chính Vậy trong những trường hợp chưa có luật điều chỉnh hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ được thực hiện như thế nào ? Thực sự đó cũng là một khó khăn trong công tác giám sát của Quốc hội . Mặt khác ,nước ta đang trong thời kỳ đổi mới ,chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới mà trước hết là sự chuyển sang cơ chế thị trường trong sản xuất kinh doanh .Nhiều quy định của luật trước đây không còn phù hợp nữa ,nhưng vẫn chưa được sửa đổi .Vậy trong những trường hợp này nhận xét đánh giá là khó khăn cho công tác kiểm soát việc tuân theo pháp luật hiện nay nhưng đồng thời cũng có khó khăn trong hoạt động giám sát của Quốc hội. CHƯƠNG III Những phương pháp tăng cường độ hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Như trên đã trình bày, để thực hiện đựơc đúng chức năng và quyền hạn của Quốc hội phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản là: - Quốc hội cần có một số lượng đại biểu Quốc hội và số lượng những những chuyên viên giúp việc hợp lý và những người đó phải có đủ những điều kiện về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,về độ tuổi và sức khỏe,về phẩm chất đạo đức để có khả năng thực thi công vụ được giao.Điều đó đúng với mọi cơ quan Nhà nước nhưng đối với Quốc hội thì vấn đề đó càng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng vì đaị biểu Quốc hội là người trực tiếp đại diện cho quyền lợi của nhân dân,tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Nhà nước . - Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội (kể cả cơ quan giúp việc)phải được tổ chức chặt chẽ tức là phải có sự phân định thẩm quyền,chức năng và nhiệm vụ cho từng đại biểu Quốc hội và cụ thể khi hoạt động,Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội phải tuân theo những nguyên tắc hoạt động chặt chẽ,đảm bảo được sự phối hợp hoạt động của những cơ quan đó khi thực thi công vụ. Tức là phải có một cơ chế tổ chức và hoạt động hợp lý.Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc là ở chỗ nó đảm bảo mọi công việc của Quốc hội phải có cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm và thực thi công vụ đồng thời phải có cơ sở để đánh giá,nhận xét và xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan đó trong việc thực thi công vụ mà Quốc hội giao cho - Quốc cần có những điều kiện cần thiết về mọi mặt để đảm bảo cho việc thực thi nhiệm vụ và quyền hạn của mình.Trước hết là tài chính chi cho các hoạt động hàng năm của Quốc hội và những cơ sở vật chất khác như trụ sở,nhà làm việc , phương tiện giao thôngtương ứng với công việc phải hoàn thành.Tất cả những vấn đề trên phải được giải quyết một cách đồng bộ vì chúng quan hệ chặt chẽ với nhau,do đó khi tìm nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của Quốc hội thì cần phân tích xem những vấn đề trên dã được giải quyết như thế nào và muốn tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì một lúc vừa phải giải quyết những vấn đề chua hợp lý về con người vừa phải giải quyết về cơ chế hoạt động và những điều kiện vật chất cần thiết trong việc thực hiện chức năng,quyền hạn của Quốc hội nói chung và việc thực hiện quyền giám sát tối cao nói riêng Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng, nhất là trong lĩnh vực giám sát là một quá trình.Không thể nào ngay một lúc có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của Quốc hội theo ý chí chủ quan của bất cứ ai mà phải dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể về đời sống kinh tế- văn hoá - chính trị xã hội cho phép.Vì vậy những vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc hội nêu ở đây được viết theo quan điểm lịch sử cụ thể có những việc cần phải làm ngay nhưng cũng có những việc phải phụ thuộc vào thời gian và điều kiện lịch sử.Do đó trước hết xuất phát từ thực tiễn của hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện lịch sử cụ thể về mọi măt của nước ta và tiếp thu tri thức của các nước khác trong quản lý xã hội bằng pháp luật.Muốn tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội có lẽ nên tiến hành một số phương pháp : 1 . Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội. 1.1. Đổi mới tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội . “ Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc Hội”(Điều 4,Luật tổ chức Quốc hội 2001). Như vậy hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới những phương thức sau: - Thông qua hoạt động của các kỳ họp Quốc hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội , của đoàn đại biểu Quốc hội,các đại biểu Quốc hội Luật tổ chức Quốc hội mới có những quy định thể hiện rõ nét sự đổi mới về quyền thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Những quy định về quyền sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong luật là khá rõ,nhất là thẩm quyền giám sát của các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội.So với Hiến pháp 1980 và luật Tổ chức cũ thì đây là một bước tiến đáng kể.Nhưng để Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định thì cách tổ chức và hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội như trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý ở chỗ: Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội thì Quốc hội có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng dân tộc và bảy Uỷ ban của Quốc hội(Uỷ ban pháp luật;Uỷ ban kinh tế và ngân sách;Uỷ ban quốc phòng và an ninh;Uỷ ban văn hoá,giáo dục,thanh niên thiếu niên và nhi đồng;Uỷ ban về các vấn đề xã hội;Uỷ ban khoa học,công nghệ và môi trường;Uỷ ban đối ngoại)làm việc thường xuyên và có thẩm quyền giám sát trông phạm vi nhất định.Nhưng những cơ quan trên của Quốc hội không đủ thẩm quyền để giải quyết những việc sau: Theo quy định của Điều 91,điểm 5 tại Hiến pháp 1992:“Giám sát việc thi hành Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội , pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,giám sát hoạt độngcủa Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định huỷ bỏ các văn bản đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.”Trong khi đó yêu cầu khách quan của hoạt động giám sát với tính cách là một hoạt động quản lý cần có sự xem xét và quyết định chính xác,kịp thời mà“Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập” (Điều 86).Vậy trong thời gian Quốc hội không họp,vấn đề triệu tập trên nếu xảy ra thì cơ quan nào của Quốc hội giải quyết? Triệu tập Quốc hội họp bất thường theo quy định của Điều 86 về một văn bản pháp quy nào đó thì bị coi là bất hợp hiến,là điều không thực tế và Quốc hội không thể luôn luôn họp bất thường được Trong trường hợp Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao không đồng ý với kết luận và kiến nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước nói trên ban hành thì ai giải quyết hay phải chờ đến kỳ họp Quốc hội gần nhất.Làm thế nào để bảo đảm tính khách quan và đúng đắn của các quyết định và kiến nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban Thường vụ quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp cuả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước trên ban hành khi mà cơ quan ban hành đó chỉ có nghĩa vụ phải chấp hành những Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các kiến nghị của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội . Trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội xét thấy có vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể trên nhất là những người giữ chức vụ cao trong các cơ quan đó thì kiến nghị giải quyết như thế nào ? Những vấn đề chưa hợp lý trên có thể giải quyết theo hai hướng:Một là, tăng thêm thẩm quyền cho các các quan của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát. Hai là lập ra một cơ quan mới của Quốc hội để đảm nhiệm những công việc mà các cơ quan hiện có của Quốc hội hiện chưa làm được . Trước hết như đã trình bày,kỳ họp Quốc hội là một hình thức tổ chức thực hiện quyền giám sát quan trọng nhất của Quốc hội.Để đáp ứng yêu cầu khách quan trong công tác giám sát của Quốc hội nên quy định trong luật tổ chức Quốc hội về quyền quyết định kế hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội . Vấn đề này thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của luật Tổ chức Quốc hội tại Điều 11.Cũng như chức năng lập pháp, giám sát cũng là một chức năng rất quan trọng của Quốc hội và có quan hệ hữu cơ với chức năng lập pháp. Vì sao kế hoạch giám sát hàng năm được Quốc hội thông qua còn kế hoạch giám sát lại do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và quyết định. Kế hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội phải do Quốc hội quyết định vì hai lý do:Thứ nhất,việc quyết định cần tập trung hoạt giám sát của Quốc hội vào vấn đê gì phải đươc các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua và đó là sự thể hiện quyền lực của nhân dân trong lĩnh vực giám sát. Thứ hai,công tác giám sát có quan hệ chặt chẽ với công tác lập pháp,là một khâu không thể thiếu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội như trên đã trình bày do đó kế hoạch lập pháp hàng năm của Quốc hội không thể tách rời kế hoạch giám sát hàng năm đó.Và vấn đề cuối cùng là Quốc hội cần quyết định vấn đề tài chính chi cho hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát của Quốc hội.Nếu không có kế hoạch và dự trù ngân sách cho hoạt động giám sát trong năm đó thì kế hoạch đó thiếu đi một điều kiện quan trọng để triển khai thực hiện.Cũng như chương trình,kế hoạch xây dựng luật,chương trình hoạt động giám sátcủa Quốc hội cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị và Quốc hội thông qua.Chương trình,kế hoạch đó phải ghi rõ:những vấn đề cần tập trung giám sát trong năm,người và cơ quan thực hiện,thời gian thực hiện, kinh phí và phương tiện để thưc hiện kế hoạch đó . Trên cơ sở của chương trình đó,mỗi Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội cần có trình và kế hoạch giám sát của Hội đồng và Uỷ ban trong phạm vi giám sát mà luật đã quy định . Mặt khác,cần tăng cường số lần họp trong một năm của Quốc hội và thời gian của mỗi kỳ họp cũng phải kéo dài hơn.Như chúng ta đã biết,Quốc hội của các nước khác có thời gian họp kéo dài hơn thời gian họp của nước ta rất nhiều.Trong điều kiện kinh tế–xã hội như nước ta hiện nay,nhất là số đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm vẫn là chủ yếu thì việc kéo dài quá thời gian họp của mỗi kỳ họp hoặc có quá nhiều kỳ họp trong một nămlà điều khó có thể thực hiện được.Vì vậy trước mắt cần tăng số lượng các kỳ họp Quốc hội trong một nămtừ hai lên ba lần và thời gian của mỗi kỳ họp có thể kéo dài tới một tháng.Thực tiễn hoạt động của Quốc hội khoá IX trong năm 1992 cho ta thấy hoàn toàn có thể thực hiện được vấn đề trên.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta,chế độ hoạt động kiệm nhiệm của đại biểu Quốc hội và số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm sẽ còn tồn tại lâu dài và vì vậy,khả năng kéo dài thời gian họp Quốc hội như ở các nước khác là điều rất khó thực hiện.Do đó,giải pháp thực tế nhất là tăng dần số kỳ họp Quốc hội trong một năm lên tới bốn lần thì có thể tiến tới đạt được những yêu cầu khách quancủa hoạt động giám sát của Quốc hội . - Theo quy định của luật Tổ chức Quốc hội thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội,thẩm quyền giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được quy định trong luật khá rõ như đã trình bày ở trên.Nhưng theo luật định,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng chưa có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến , hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và trong các văn bản pháp quy của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương.Cùng với việc tăng số lượng các kỳ họp của Quốc hội trong một năm nên hướng của Quốc hội là tăng thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát.Trước đây , theo quy định của Hiến pháp 1946 thì ban thường trực Quốc hội đã có quyền biểu quyết thông qua các sắc luật của Chính phủ.Đó chính là sự giám sát trực tiếp tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành .Vì vậy,việc tăng thẩm quyền giám sát cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không phải là một vấn đề mới . Trong tình hình xây dựng văn bản pháp luật như ở nước ta hiện nay thì văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đóng một vai trò rất quan trọng.Chính những văn bản pháp quy đó đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.Do đó cần quy định trong Hiến pháp và pháp luật thêm thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Uỷ ban thườngvụ Quốc hội có quyền xét và quyết định về tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan nhà nước nói trên ban hành và trình Quốc hội phê chuẩn.Cần sớm khắc phục tình trạng thực tế hiện nay là các văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không được Quốc hội giám sát chặt chẽ . - Về thẩm quyền và phương pháp giám sát của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội tuy đã được luật định khá rõ nhưng thực chất các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội vẫn là giúp Quốc hội giám sát vì các uỷ ban chỉ có quyền kiến nghị chứ chưa có quyền quyết định và xử lý những đối tượng chịu sự giám sát của các Uỷ ban theo luật định . Cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền giám sát của các Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để phát huy tính độc lập,năng động trong hoạt động giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội.Có thể quy định cho cho các Uỷ ban của Quốc hội có quyền đình chỉ việc thự hiện các văn bản pháp quy của Chính phủ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và trình Quốc hội và quyết định tính hợp hiến , hơ pháp trong các văn bản pháp quy.Tất nhiên đó chỉ là những văn bản pháp quy về những vấn đề của Uỷ ban đó có quyền giám sát theo luật định . - Vấn đề thành lập Uỷ ban giám sát của Quốc hội . Có các ý kiến thành lập một cơ quan mới của Quốc hội để thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội gọi là Uỷ ban giám sát của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội,Uỷ ban này có thể giải quyết những vấn đề nói trên.Vấn đề này theo điều tra xã hội học của Trường hành chính Trung ương thì : “ a, Lập Hội đồng bảo vệ tính hợp hiến : + Nên:261 phiếu 54 % + Chưa:79 phiếu 16 % .” - Quan điểm của chúng tôi là:Trong điều kiện của nước ta khi chưa thành lập được Toà án Hiến pháp thì cần có Uỷ ban giám sát Hiến pháp có chức năng, quyền hạn giống như Toà án Hiến pháp ở các nước khác chủ yếu là hai chức năng: - Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp, quyết định về tính hợp Hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chính phủ,Chủ tịch nước,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời gian Quốc hội không họp và không chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội - Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,lúc Quốc hội không họp,giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan Nhà nước;Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao:giải quyết những khiếu nại về tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy mà cơ quan Nhà nước nói trên không đồng ý với Nghị quyết và kiến nghị cua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1992,cũng có nhiều ý kiến muốn thành Hội đồng giám sát Hiến pháp với chức năng quyền hạn trên.Chúng tôi nhận thấy quan điểm đó có nhiều điểm hợp lý sau: Một là:Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức năng và quyền hạn của Quốc hội,cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận vì:thứ nhất,bất kỳ một công việc nào cũng có sự chuyên môn hoá cao mới có khả năng làm tốt công việc;thứ hai việc chia nhỏ một chức năng giám sát cho những cơ quan của Quốc hội đảm nhận là một điều rất hạn hữu trong khoa học quản lý vì càng nhiều đầu mối thì bộ máy càng phình ra, khó theo dõi và điều hành công việc.Quốc hội có Uỷ ban của pháp luật tại sao không có Uỷ ban giám sát? Phải chăng giám sát bị coi nhẹ . Hai là:Công tác lập pháp tuy ngày được đẩy mạnh nhưng xã hội ta đang vận động nhanh,mạnh theo cơ chế thị trường.Cần giám sát kịp thời bổ sung,sửa luật cho phù hợp vói thực tiễn xã hội.Nếu chậm thì tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế,xã hội không phải là nhỏ.Nếu cứ như cơ chế hiện nay thì không đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội không thể cứ luôn luôn họp bất thường chỉ để sửa luật hoặc đình chỉ việc thi hành đạo luật nào đó . Ba là:Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công,phân cấp rành mạch,tức là mỗi cơ quan Nhà nước làm việc theo quyền hạn do luật định.Vì vậy Quốc hội tuy là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao nhưng cũng phải làm theo luật kể cả trong hoạt động giám sát nếu Chính phủ,Toà án nhân dân tối caocho là mình không vi phạm Hiến pháp,không đồng ý với các kết luận của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thì họ cũng phải được trình bày trước Quốc hội và Quốc hội có cơ quan giám sát là Uỷ ban giám sát Hiến pháp để giải quyết những vấn đề trên.Hội đồng giám sát Hiến pháp tuy chưa phải là cơ quan tài phán như Toà án Hiến pháp của một số nước tư sản nhưng là cơ quan giúp Quốc hội giải quyết những vấn đề trên. 1.2. Đổi mới phương pháp giám sát của Quốc hội . Như trên đã trình bày để giám sát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo quy định của luật Quốc hội sử dụng những phương pháp sau:xét báo cáo,chất vấn,kiểm tra thực tế giải quyết đơn thư và thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.Những phương pháp trên cần đổi mới theo phương hướng : - Báo cáo là một hình thức cung cấp thông tin bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước đến với Quốc hội.Báo cáo giúp Quốc hội nắm được thông tin chính xác,đầy đủ kịp thời tình hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Mặt khác chế độ báo cáo là một hình thức quan trọng trong việc nhắc nhở và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước Quốc hội về việc thực hiện các chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước đó.Để đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội là có được thông tin chính xác đầy đủ và kịp thời củacác cơ quan Nhà nước cần quy định trong luật về chế độ báo cáo,hình thức báo cáo,những quy định về nội dung,hình thức và số lượng của văn bản báo cáo,quy trình thẩm tra báo cáo và quy định về trách nhiệm nếu báo cáo không đạt tiêu chuẩn như thông tin sai lệch,thông tin không đầy đủ,thông tin chậm . - Về chế độ báo cáo:nên quy định rõ phải có ba chế độ báo cáo là:báo cáo thường kỳ hàng năm trong kỳ họp Quốc hội;báo cáo thường kỳ hàng tháng, hàng quý cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp,báo cáo khi có sự kiện chính trị,kinh tế–xã hội tác động lớn đến đời sống xã hội khi Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu hoặc do chính các cơ quan Nhà nước yêu cầu theo quy định của luật - Về hình thức báo cáo,yêu cầu về một bản báo cáo:tất cả các báo cáo đều phải dưới hình thức văn bản,có chữ ký và con dấu của cơ quan báo cáo.Nếu là báo cáo thường kỳ thì nội dung của bản báo cáo phải cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo chức năng , quyền hạn mà luật quy định(cần quy định những mẫu báo cáo cả về nội dung và hình thức).Cần ấn định số lượng báo cáo tuỳ theo sự cần thiết cho người đọc báo cáo đó.Cần quy định về thời gian phải nộp báo cáo.Nếu là báo cáo khác thì do Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu.Nội dung các báo cáo nhất thiết phải có mục:chi tiêu khoản ngân sách mà Nhà nước cấp cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước đó , vì giám sát được tình hình tài chính thì cũng giám sát được toàn bộ hoạt động của cơ quan đó(hoạt động thì phải có tiền).Mặt khác,nội dung báo cáo phải có sự phân tích tình hình,nguyên nhân,quy kết trách nhiệm và phương hướng khắc phục . - Về cách thẩm tra báo cáo:sau khi nhận được báo cáo,những người và cơ quan có thẩm quyền đọc,xem xét và cần trao đổi trước những vấn đề cần hỏi, góp ý cho báo cáo sau đó mới mời cơ quan có báo cáo đến trình bày xét thấy cần thiết.Khi họp để thẩm tra,không cần cơ quan đó đọc lại bản báo cáo mà chỉ trả lời những vấn đề mà những người,cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.Cũng có thể không cần họp mà chỉ trao đổi bằng văn bản.Nếu thấy cần thiết,có thể đi thực tế kiểm tra những điểm mà báo cáo chưa nêu rõ hoặc có những mâu thuẫn với những thông tin khác thu nhận được qua đơn thư hoặc phương tiện thông tin đại chúng.Có thể công khai nội dung của các báo cáo trước công luận nếu xét thấy cần thiết . - Về trách nhiệm ngoài những quy định của bộ luật hình sự thì cần quy định trách nhiệm của những người và cơ quan báo cáo khi báo cáo chậm thông tin không chính xác,không đầy đủ,không kịp thời . - Chất vấn là một phương pháp giám sát rất quan trọng của Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội,Hiến phápđã có nhiều quy định rõ và chặt chẽ về vấn đề này . Tuy nhiên cần bổ sung một số điểm:Về hình thức chất vấn:nên quy định và phân loại nội dung,vấn đề nào thì bắt buộc phải chất vấn bằng văn bản,vấn đề nào có thể bằng văn bản hoặc bằng lời nói để nâng cao trách nhiệm và chất lượng của nội dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội . Về trách nhiệm và hình thức trả lời chất vấn:cần quy định mọi chất vấn phải được trả lời công khai trước đại biểu Quốc hội trong kỳ họp Quốc hội bằng văn bản nếu đó là chất vấn bằng văn bản hoặc có thể bằng lời nói nếu chất vấn được thể hiện bằng lời nói.Nếu không phải trong kỳ họp thì phải bắt buộc trả lời bằng văn bản và văn bản này phải được gửi tới tất cả các đại biểu Quốc hội . Nên quy định về tranh luận công khai trong kỳ họp Quốc hội nếu như nội dung các chất vấn không trả lời đầy đủ và chính xác,nếu như đại biểu có chất vấn đưa ra lý lẽ và chứng cứ chứng minh một điểm nào đó trong báo cáo hoặc trong nội dung trả lời chất vấn của cơ quan có báo cáo và bị chất vấn thì người đứng đầu cơ quan Nhà nước đó phải có trách nhiệm trả lời.Có thể tiến tới áp dụng chế định đối thoại trong một tương lai không xa để tăng cường trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan Nhà nước Trung ương về hoạt động của các cơ quan đó trước Quốc hội . - Về kiểm tra thực tế của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc Uỷ ban lâm thời do Quốc hội thành lập . Kiểm tra thực tế là một phương pháp để xem xét lại những thông tin Quốc hội nhận được có chính xác và đầy đủ không.Muốn đạt được mục đích đó,Quốc hội cần có quy định trong luật về chế độ kiểm tra,các hình thức đi kiểm tra, trình tự và thẩm quyền kiểm tra . - Về chế độ kiểm tra nên có chế độ kiểm tra thường kỳ với mục đích định ra thời hạn kiểm tra trong một năm đối với các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội.Việc kiểm tra thường kỳ có thể thông báo trước cho các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội biết trước và chuẩn bị báo cáo . Mặt khác,khi cần thiết Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể đi thực tế địa phương , kiểm tra những vấn đề mà Quốc hội xét thấy cần phải thẩm tra.Với chế độ kiểm tra đó,Quốc hội đã đặt các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội vào tình trạng hoạt động trong sự giám sát,kiểm tra thường xuyên của Quốc hội chứ không phải chỉ đến kỳ họp Quốc hội các cơ quan Nhà nước trên mới bị đặt trong tình trạng bị giám sát . - Về hình thức kiểm tra:có thể là kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau khi Quốc hội nhận được báo cáo.Việc kiểm tra của Quốc hội không thể như hoạt động giám sát của Viện kiểm sát nhân dân hoặc hoạt động thanh tra của Chính phủ. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đi thực tế địa phương trước hết là nghe các cơ quan Nhà nước ở địa phương báo cáo,đặt ra những câu hỏi cần thiết và đến xem tình hình thực tế,có thể tiếp xúc với cử tri và nghe tâm tư,tình cảm, nguyện vọng của cử tri.Việc kiểm tra nhằm mục đích thu nhận thông tin chính xác chứ không phải xử lý tình huống.Những thông tin đó làm cơ sở thực tế cho việc chất vấn các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Nhà nước về những vấn đề chưa chính xác trong báo cáo của các cơ quan Nhà nước đó . Về trình tự và thẩm quyền kiểm tra và trách nhiệm của những cơ quan Nhà nước cung cấp thông tin : hiện nay chưa có những quy định cụ thể về vấn đề này,cần phải xây dựng những quy định đó để phân định hoạt động đi thực tế, kiểm tra của các cơ quan của Quốc hội khác với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và hoạt động thanh tra của Chính phủ . Về việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân và việc thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng . Hiện nay,Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách đảm nhận công việc này , việc giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân do các Uỷ ban của Quốc hội đảm nhận trong phạm việc giám sát của Uỷ ban đó.Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay , vấn đề mở rộng dân chủ đòi hỏi những đơn thư của công dân gửi đến Quốc hội cần phải được xử lý kịp thời.Vì vậy cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận việc này,có thể thành lập cơ quan đó với tên gọi là Thanh tra Quốc hội.Thanh tra Quốc hội có chức năng, nhiệm vụ tiếp nhận và xử lý các đơn , thư của công dân gửi đến Quốc hội,theo dõi tình hình mọi mặt của đời sống xã hội qua các phương tiện thông tin đại chúng để nghiên cứu,kiến nghị những biện pháp cần thiết đối với những việc việc phạm pháp luật nghiêm trọng,ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội xét về bản chất,Thanh tra Quốc hội cũng có thể có tên gọi khác là Uỷ ban dân nguyện của Quốc hội vì cơ quan đó cũng là giúp Quốc hội trong việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của Quốc hội,Thanh tra Quốc hội cũng có thể tổ chức và hoạt động như các Uỷ ban khác của Quốc hội nhưng chỉ trong lĩnh vực giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân và thu thập tin tức về tình hình thi hành pháp luật được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng . Những phương pháp trên chủ yếu là dùng để giám sát hoạt động thực tế của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Nhưng cũng có thể áp dụng để thực hiện việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước trên ban hành.Tuy nhiên,để đạt được điều đó thì cần quy định trong việc báo cáo bằng văn bản,các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội phải cung cấp và báo cáo về những văn bản do cơ quan Nhà nước đó ban hành.Trong các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội phải có một bộ phận chuyên trách để theo dõi và nghiên cứu những văn bản pháp quy đó . 2 . Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điểu kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát . Để thực hiện được nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp,pháp luật và nghị quyết của Quốc hội,cả đại biểu Quốc hội cần đáp ứng được những yêu cầu sau : - Phải thực sự là người đại diện cho ý chí của nhân dân . - Phải am hiểu thực tế sâu sắc về lĩnh vực mà mình giám sát - Phải hiểu biết sâu sắc về Hiến pháp , luật , Nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề mà mình giám sát Về vấn đề này,luật bầu cử đại biểu Quốc hội mới được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992 và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có những đổi mới đáng kể so với luật bầu cử cũ. uật bầu cử đại biểu Quốc hội mới rất chú trọng đến chất lượng và tiêu chuẩn của đại biểu.Điều 3,luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:“đại biểu Quốc hội phải là người trung thành với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới,làm cho dân giầu,nước mạnh, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,có phẩm chất và đạo đức tốt,gương mẫu chấp hành pháp luật,được nhân dân tín nhiệm”đây là quy định mới của luật,tuy chưa thể khái quát hoá được trình độ và năng lực làm nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội là trình độ và năng lực về vấn đề gì,nhưng luật cũng thể hiện sự cần thiết phải nâng cao năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội vì xét đến cùng,năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,vì đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả giám sát của Quốc hội,vì đại biêủ Quốc hội là người trực tiếp thay mặt cử tri thực hiện quyền lực Nhà nước . Năng lực trí tuệ của đại biểu Quốc hội bao gồm rất nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong hoạt động giám sát đại biểu Quốc hội cần có trình độ hiểu biết về lý luận và thực tiễn về vấn đề mà mình giám sát và trình độ biểu biết về luật,Nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề mình tham gia giám sát.Mỗi đại biểu Quốc hội có một trình độ và năng lực hiểu biết về lý luận và thực tế khác nhau nhưng để giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đòi hỏi đại biểu Quốc hội nào cũng phải nắm vững nội dung Hiến pháp và luật mà Quốc hội đã thông qua.Nhưng không phải đại biểu nào cũng đều là luật gia,do đó Quốc hội cần có những hình thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ luật cho đại biểu,ở các nước tư sản cũng không phải mọi nghị sĩ Quốc hội đều có bằng cử nhân luật,vấn đề là cách giải quyết.Trong quy chế của đại biểu Quốc hội nên có những quy định về hình thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ pháp luật của đại biểu Quốc hội.Các hình thức đó là: - Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp đầy đủ tư liệu và tài liệu về những dự án luật và luật đã có hiệu lực pháp luật.Cần có những hình thức phong phú để đại biểu tham gia vào việc thảo luận và tham gia thông qua luật và nhất là phải được các Uỷ ban của Quốc hội thuyết trình về những dự án luật đó . - Cần tổ chức những lớp học ngắn Nhà nước hạn để đại biểu Quốc hội được học tập một cách có hệ thống về những văn bản luật,về Hiến pháp và luật Tổ chức bộ máy Nhà nước . - Về chế độ và điều kiện làm việc của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội cũng có những đổi mới rõ nét , nhất là vấn đề đại biểu Quốc hội làm việc chuyển trách,theo quy định tại Điều 37 của luật:“trong số các đại biểu Quốc hội,có những đại biêủ làm việc chuyên trách và có đại biểu làm việc theo ché độ không chuyên trách.Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định”và Điều 52:“lương và các khoản phụ cấp khác của đại biểu Quốc hội do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.” - Về vấn đề thứ nhất,quan niệm của chúng tôi là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Uỷ ban,Hội đồng của Quốc hội phải do các đại biểu Quốc hội làm việc chuyên trách đảm nhận vì:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội được luật quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ kể cả nhiệm vụ giám sát,để thực hiện được nhiệm vụ giám sát,các cơ quan trên của Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không làm việc theo chế độ thủ trưởng như trong cơ quan hành chính của Nhà nước.Do đó ,để đảm bảo cho các cơ quan này của Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ của mình,đưa ra dựoc những kiến nghị đúng và kịp thời thì thành viên của những cơ quan đó phải là chuyên trách.Nếu tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm quá nhiều thì không đảm bảo sự hoạt động thường xuyên của các cơ quan đó được;mỗi Uỷ ban và Hội đồng có một lĩnh vực giám sát chuyên sâu.Nếu không chuyên môn hoá cao thì ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định và kiến nghị của Uỷ ban. - Vấn đề thứ hai,trong khi Nhà nước ta chưa có cải cách căn bản về chế độ tiền lương thì quy định như ở trong luật là một giải pháp đúng.Tuy nhiên ,vì đây là vấn đề cấp bách cần phải giải quyết do đó cũng cần tham khảo thêm về vấn đề này ở một số nuớc . Trong điều kiện ở nước ta thì nên để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định về vấn đề lương của đại biểu còn phụ cấp của đaị biểu thì nên lấy từ ngân sách hoạt động của Quốc hội,tuỳ theo yêu cầu và kế hoạch hoạt động hàng năm của Quốc hội mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể ra những quyết định khác nhau về vấn đề này : Để đại biểu Quốc hội làm được nhiệm vụ giám sát,Hiến pháp 1992 còn quy định hai vấn đề quan trọng nữa là:Quyền được thông tin của đại biểu Quốc hội theo Điều 100 Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức quy định ở Điều 46 Trong điều kiện ở nước ta,luật cần quy định trách nhiệm Chính phủ phải thông tin cho đại biểu Quốc hội chứ không nên quy định như trong Điều 46 của luật hiện nay nhất là đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.Nên quy định Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối caophải gửi tài liệu (trước hết là:các văn bản pháp quy do các cơ quan đó ban hành ,các tài liệu tham khảo và các tạp chí thông tin của các cơ quan đó)về thư viện của Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ in và chuyển đến các đại biểu Quốc hội những tài liệu nói trên và lưu trữ một phần ở thư viện của Văn phòng Quốc hội .Thực tế nhiều năm qua cho thấy,vì không có quy định này,nên thư viện của Văn phòng Quốc hội không có những tư liệu nói trên để phục vụ hoạt động của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội cũng không thể biết những cơ quan Nhà nước nói trên đã ban hành những văn bản nào mà yêu cầu.Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội quy định ở Điều 49,quy định như vậy là chặt chẽ . Tóm lại,những tiêu chuẩn và điều kiện để đại biểu Quốc hội làm được đúng chức năng,nhiệm vụ của mình ,trong đó có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ,Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội mới đã có những đổi mới sâu sắc và mạnh mẽ . 3 . Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định Về vấn đề này,quan niệm của chúng tôi là 3.1. Tăng cường và đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội . Nhà nước cần phải sớm ban hành và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật,phải pháp chế hoá các quan hệ xã hội.Đó là một trong những yếu tố đầu tiên để Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát tối cao của mình.Hiến pháp và pháp luật là một trong những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.Hiện nay còn nhiều lĩnh vực,nhất là trong hoạt động quản lý,Nhà nước chưa có luật để điều chỉnh các quan hệ đó hoặc những quy định của pháp luật cũ đã lạc hậu so với thực tế xã hội.Điều đó gây khó khăn lớn cho hoạt động giám sát của Quốc hội,nhất là việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động,quản lý của Chính phủ.Cần phải nâng cao kỹ thuật lập pháp hơn nữa .Mỗi khi có một văn bản luật được trình Quốc hội xẽ xét thì Chính phủ phải gửi kèm theo luôn những văn bản hướng dẫn thi hành luật đó.Quốc hội chưa nắm được hết số lượng văn bản pháp quy của Chính phủ thì cũng không thể kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản đó 3.2.Cần phải có luật về hoạt động giám sát của Quốc hội Trước hết,về một văn bản ,Quốc hội cần có luật về giám sát chứ không phải là quy chế hoạt động của Quốc hội hoặc văn bản pháp quy khác vì:giám sát là một chức năng,quyền hạn quan trọng của Quốc hội,hoạt động giám sát của Quốc hội tác động đến nhiều cơ quan Nhà nước cấp cao:Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối caoNói cách khác ,Quốc hội có quan hệ với các cơ quan cao cấp của Nhà nước trong khi thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội.Những nghị quyết của Quốc hội trong công tác giám sát tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói trên kể cả về mặt trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan đó.Vì vậy,cần phải quy định rõ mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan Nhà nước;Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Viện kiểm sát nhân dân tối caoquan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan Nhà nước ,quan hệ giữa các cơ quan giúp việc của Quốc hội với cơ quan giúp việc của cơ quan Nhà nước nói trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội . tài liệu tham khảo Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 9 - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Kết luận và kiến nghị về hoàn thiện cơ chế thanh tra,kiểm tra,giám sát -Thanh tra Nhà nước Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội (PTS Phạm Ngọc Kỳ ) -Nhà xuất bản chính trị Giáo trình Luật Hiến Pháp -Nhà xuất bản Công an nhân dân Luật Hiến Pháp Việt Nam -Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh (PGS –PTS luật học Nguyễn Đăng Dung và Ngô Đức Tuấn Luật Hiến Pháp 1992 -Nhà xuất bản chính trị quốc gia Lý luận Nhà nước và pháp luật --Đại học khoa học xã hội và nhân văn Luật sửa đổi luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 Nghị quyết sửa đổi ,bổ sung một số điều Hiến pháp 1992 thông qua ngày 25/12/2001 Luật Tổ chức Chính phủ Luật Tổ chức Toà án nhân dân Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Luật sửa đổi ,bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thông qua ngày 25/12/2001 Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khoá X do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An trình bày Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội khóa 10(1997-2002) Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội khoá 10(1997-2002) Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban khoa học ,công nghệ và môi trường Quốc hội khoá X Báo cáo về hoạt động đối ngoại của Quốc hội và công tác của Uỷ ban đối ngoại nhiệm kỳ khoá X Báo cáo tổng kết công tác của Uỷ ban pháp luật nhiệm kỳ khoá X Báo cáo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khoá X Báo cáo tổng kết hoạt động của Uỷ ban về các vấn đề xã hội nhiệm kỳ khoáX Công tác xây dựng luật,pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X 23 . Tạp chí nghiên cứu lập pháp : 2001 24 . Tạp chí nghiên cứu Người đại biểu nhân dân : 2001 25 . Tạp chí nghiên cứu dân chủ và pháp luật : 2001 Mục lục Lời nói đầu Chương I: Cơ sở lý luận quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam I.Vị trí pháp lý của Quốc hội,bản chất,nội dung và phương thức thực hiện. 1.Vị trí pháp lý của Quốc hội 2.Bản chất,nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội 3.Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội II.Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội,sự khác nhau quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của cơ quan Nhà nước khác 1.Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội 2.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác Chương II:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992 II.Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002 ,những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và bài học 1.Thực trạng tình hình hoạt động của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002 2.Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Chương III: Những phương pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội 1.Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội 2.Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điều kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát 3.Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện làm cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định Kết luận Tài liệu tham khảo Trang 1 1 1 2 9 11 11 14 18 18 22 22 51 56 57 65 67 69 72

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0119.doc
Tài liệu liên quan