Việc quản lý căn cứ tính thuế của các hộ kinh doanh áp dụng theo phương pháp kê khai là quản lý trên sổ sách kế toán,hoá đơn chứng từ. Do đó, để ngăn chặn việc thực hiện không đúng theo quy định của Bộ tài chính thì Chi cục thuế Hoàn kiếm cần áp dụng những biện pháp sau:
- Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra đột xuất và thường xuyên việc sử dụng hoá đơn và ghi chép sổ sách của các đối tượng kinh doanh, đối chiếu giữa hoá đơn mua và bán với sổ sách kế toán, giữa sổ sách kế toán với hàng hoá thực tế tồn kho. Có như vậy thì việc quản lý căn cứ tính thuế mới đạt chất lượng, nhờ đó tránh được tình trạng trốn lậu thuế.
- Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra việc kê khai căn cứ tính thuế của từng tháng.Nếu phát hiện có sự chênh lệch giữa số liệu kê khai và số liệu quyết toán do nguyên nhân khách quan thì yêu cầu cơ sở kê khai bổ sung kịp thời. Đối với các trường hợp cố tình kê khai sai, cán bộ thuế phải tiến hành thu bổ sung và xử lí phạt theo quy định của pháp luật.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Về tình hình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm – Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ằm khuyến khích xuất khẩu.
Những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ trực tiếp cho sản xuất, tiêu dùng được áp dụng mức thuế 5%.
Các hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu và cần điều tiết được áp dụng mức thuế suất 20%.
Các hàng hoá, dịch vụ khác được áp dụng mức thuế suất 10% ( mức thuế suất được áp dụng với từng loại hàng hoá cụ thể).
Phương pháp tính thuế: Có 2 phương pháp tính thuế
Phương pháp khấu trừ thuế:
Đối tượng áp dụng: là tất cả các cơ sở kinh doanhđã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các qui định của chế độ hoá đơn chứng từ.
Xác định thuế GTGT phải nộp như sau:
Số thuế GTGT phải nộp =
Thuế GTGT đầu ra -
Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra
=
Giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
Thuế GTGT = Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng
đầu vào mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT
của hàng hoá nhập khẩu
Thuế GTGT đầu vào cơ sở kinh doanh được tính khấu trừ như sau:
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ.
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho.
Trường hợp cơ sở kinh doanh mua vật tư, hàng hoá không có hoá đơn, chứng từ, hoặc có hoá đơn chứng từ nhưng không phải hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn GTGT nhưng không ghi riêng số thuế GTGT ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế đầu vào.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo công thức sau:
Sổ thuế GTGT được khấu trừ
=
Giá thanh toán
x
Thuế xuất của hàng hoá dịch vụ đó
1 + thuế suất của hàng hoá, dịch vụ đó
Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nguyên vật liệu là nông sản thuỷ sản, lâm sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không có hoá đơn sẽ được tính khấu trừ thuế khấu trừ theo tỉ lệ phần trăm tính trên giá trị hàng hoá mua vào:
- 5% đối với sản phẩm trồng trọt thuộc các cây lấy nhựa, lấy mủ, lấy dầu, mía cây, chè búp tươi, lúa, ngô, khoai, sắn; sản phẩm chăn nuôi là gia súc, gia cầm, cá, tôm và các thuỷ sản khác.
- 3% đối với các loại sản phẩm là nông sản, lâm sản khác không nêu ở trên.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh cả hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng được thuế đầu vào được khấu trừ, thì thuế đầu vào được tính khấu trừ theo tỉ lệ phần trăm doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra.
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT:
Đối tượng áp dụng :
Các cá nhân sản xuất kinh doanh là người Việt Nam; tổ chức, cá nhân người nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ; các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp phải sử dụng hoá đơn thông thường (gọi là hoá đơn bán hàng). Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế GTGT.
Xác định thuế GTGT phải nộp như sau:
Số thuế GTGT phải nộp
=
GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó
GTGT của hàng hoá dịch vụ bán ra
=
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra
x
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng
Trong đó:
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra được cơ sở sản xuất kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra trong kì.
Vậy GTGT là số chênh lệch giữa giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
Hoàn thuế:
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
Cơ sở sản xuất kinh doanh trong 03 tháng liên tục:
+ Đối với doanh nghiệp mới thành lập.
+ Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định (TSCĐ) đã khấu trừ sau 03 tháng mà vẫn còn lớn thì được xét hoàn lại số thuế này.
Cơ sở sản xuất kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản mà có số thuế GTGT nộp thừa.
Cơ sở có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Hoàn thuế đối với các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức thì chủ dự án hoặc nhà thầu chính được hoàn lại thuế GTGT đã trả trong các giá mua hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho dự án hoặc là đã trả khi nhập khẩu.
Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, tiền viện trợ không hoàn lại của tổ chức cá nhân nước ngoài mua hàng hoá tại Việt Nam thì được hòan lại số thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng.
Miễn giảm thuế GTGT:
Đối tượng được xét miễn giảm thuế GTGT: là các cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tảihoạt động sản xuất kinh doanh bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT phải nộp theo từng năm và được thực hiện trong 03 năm (1999- 2001).
Mức thuế GTGT được xét giảm tương ứng với số lỗ nhưng không quá số chênh lệch giữa thuế GTGT phải nộp với số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây của năm được xét giảm thuế. Số thuế GTGT phải nộp được xác định ở đây không bao gồm thuế GTGT đã nộp ở khâu nhập khẩu.
Về nguyên tắc, không qui định việc miễn giảm thuế GTGT vì thuế GTGT là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu.
Tuy nhiên, chuyển đổi từ thuế doanh thu sang thuế GTGT do đó bị dồn từ việc nhiều mức thuế suất xuống ít mức thuế suất, một số ít doanh nghiệp sẽ có lợi, ngược lại có nhiều doanh nghiệp lại gặp khó khăn và bị lỗ trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, Luật thuế GTGt qui định một số đối tượng trong những năm đầu áp dụng thuế GTGT nếu bị lỗ sẽ được xét giảm thuế cho từng năm kể từ khi Luật thuế GTGT có hiệu lực thi hành.
Phần ii - tình hình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng (gtgt) đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận hoàn kiếm
Đặc điểm kinh tế xã hội và cơ cấu tổ chức bộ máy của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
Đặc điểm kinh tế xã hội của quận Hoàn Kiếm:
Hoàn Kiếm là một trong 7 quận của thủ đô Hà Nội, có vị trí quan trọng về Văn hoá - Chính trị - Kinh tế .
Diện tích: 4,47 km2.
Dân số khoảng: 185.800 người.
Đây là trung tâm buôn bán lâu đời của thủ đô như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bông, Hàng Gai, chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da... Ngoài ra quận còn là nơi tập trung những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước như ga Hà Nội, ga Long Biên, là nơi tập kết, trung chuyển hàng hoá lưu thông đi cả nước. Vì vậy, có thể nói quận Hoàn Kiếm đã phản ánh tương đối rõ nét tình hình hoạt động thương mại của thành phố và cả nước.
Song song với hoạt động của các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn của quận là một số doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển biến của cả nước, quận Hoàn Kiếm cũng có nhiều thay đổi ảnh hưởng tốt đến đời sống tinh thần và vật chất của mọi người dân và đang đi vào ổn định, phát triển.
2.Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
2.1 Nhiệm vụ của chi cục:
Phối kết hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức quản lý các đối tượng kinh doanh trên địa bàn, đảm bảo nguồn thu vào ngân sách thông qua các sắc thuế theo qui định của Nhà nước.
Phân loại và hướng dẫn các đối tượng kinh doanh kê khai đăng kí thuế, tính thuế, lập bộ thuế, đôn đốc nộp thuế vào ngân sách Nhà nước đúng kì hạn.
Giải quyết các khiếu nại, vướng mắc và xử lý những hành vi vi phạm, chống thất thu cho ngân sách Nhà nước trong phạm vi quyền hạn qui định của Luật.
Số đối tượng nộp thuế do Chi cục Hoàn Kiếm quản lý hiện nay là:
+ Hơn11.000 hộ cá thể, trong đó có khoảng 1.500 hộ được miễn thuế do có thu nhập thấp( số hộ được miễn thuế thay đổi theo từng thời điểm).
+35 công ty, doanh nghiệp tư nhân( nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp).
+25 đơn vị nộp phí và lệ phí.
2.2 Bộ máy tổ chức của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
Biên chế tổ chức gồm 317 cán bộ, nhân viên. Trong đó:
35 cán bộ đã tốt nghiệp đại học.
52 cán bộ đang học đại học.
Số còn lại đều đã tốt nghiệp trung cấp.
Thực hiện thông tư số 110/1998/TT – BTC và công văn số 98TCT/TCCB ngày 07/01/1999 của tổng cục thuế, cơ cấu bộ máy Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm bao gồm:
Về lãnh đạo Chi cục:
01 chi cục trưởng: phụ trách, theo dõi công tác tổ chức, kế hoạch.
03 phó chi cục trưởng: trực tiếp theo dõi điều hành công tác thu thuế theo khu vực, địa bàn đảm nhiệm theo sự phân công của chi cục trưởng.
Có 26 tổ, đội, trạm biên chế như sau:
21 đội thu thuế cố định, thực hiện nhiệm vụ quản lý thu các loại thuế trên phạm vi phường, chợ được phân công.
02 trạm kiểm soát, thu thuế khâu lưu thông.
01 tổ thanh tra, kiểm tra, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tình hình thực hiện Luật thuế của các đối tượng nộp thuế, xử lý các hiện tượng vi phạm, kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn của các đối tượng nộp thuế, kiểm tra việc chấp hành các chế độ thu, nộp thuế của các đội thuế, bộ phận tính thuế.
01 tổ kế hoạch nghiệp vụ thực hiện chức năng tham mưu cho lãnh đạo về việc phân bổ kế hoạch, xác định mức thuế ấn định, nhận xét đánh giá qui mô của từng phường chợ để tham mưu cho ban lãnh đạo duyệt bộ thuế, tính thuế, phát hành thông báo thuế, đối chiếu số thu với kho bạc, thực hiện công tác kế toán – thống kê thuế, quản lý và cấp phát sổ sách kế toán, ấn chỉ, hoá đơn.
01 tổ quản lý nhân sự, hành chính giúp lãnh đạo Chi cục điều hành công tác và thực hiện nhiệm vụ của toàn Chi cục.
Ngoài việc theo dõi quản lý thu, mỗi đồng chí phó Cục trưởng còn kiêm nhiệm một số công tác khác đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi cục.
Sơ đồ tổ chức bộ máy Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm.
Chi cục trưởng
07 đội quản lý phường chợ
Tổ thanh tra kiểm tra
02 trạm lưu thông
Tổ thu thuế nhà đất
07 đội quản lý phường chợ
Tổ kế hoạch- nghiệp vụ
07 đội quản lý phường chợ
Tổ quan trị nhân sự hành chính
Phó chi cục trưởng
Phó chi cục trưởng
Phó chi cục trưởng
ii.tình hìnhthực hiện luật thuế gtgt đối với hộ cá thể trên địa bàn quận hoàn kiếm.
Những năm gần đây, thuế ngoài quốc doanh nói chung, kinh tế cá thể nói riêng đã đem lại một nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương.
Qua thời gian triển khai Luật thuế GTGT, kết quả bước đầu đạt được tương đối tốt, những vướng mắc trong quá trình thực hiện được phát hiện và giải quyết kịp thời, việc sử dụng chứng từ, hoá đơn, kê khai nộp thuế đã dần đi vào nề nếp.
Biểu 1: Kết quả thu 12 tháng năm 1999 và năm 2000.
( Đơn vị: triệu đồng )
Loại thuế
Chỉ tiêu kế hoạch
Thực hiện
Tỷ lệ so sánh thực tế 99/KH 1999
Tỷ lệ so sánh thực tế 2000/KH 2000
Tỷ lệ so sánh thực tế 2000/1999
1999
2000
1999
2000
Thuế ngoài QD
97.230
106.953
93.004
121.000
95,65%
113,1%
130%
Thuế nhà đất
1.800
1.980
1.974
2.172
109,6%
109,6%
110%
Tiền thuê đất
9.600
10.560
9.036
10.764
94,12%
101,9%
119%
Phí, lệ phí
2.150
2.365
2.415
2.000
112,3%
84,56%
82%
Tổng cộng
110.780
121.858
106.429
135.936
96,07%
111,5%
127,7%
Qua biểu trên ta thấy, do chỉ tiêu của năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT chi cục đặt ở mức cao nên thực tế không đạt được. Sang năm 2000 chi cục đã nỗ lực điều tra đối tượng nộp thuế để đưa vào diện quản lý và khâu điều tra doanh thu tính thuế có hiệu quả hơn nên kết quả thu năm 2000 đã tăng 1,2 lần so với kế hoạch năm 2000 và tăng 1,15 lần so với năm trước. Qua đó ta thấy nguồn thu từ thuế GTGT ngày càng cao và có kết quả lớn hơn.
1. Quản lý đối tượng nộp thuế:
Do tính chất của kinh tế cá thể là luôn luôn biến động phụ thuộc vào qui luật cung cầu cộng với tính tự giác chấp hành luật pháp chưa cao của các hộ kinh doanh, nên ngay từ đầu, chi cục đã chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ kết hợp với các ngành chức năng như: Uỷ ban nhân dân, hội đồng tư vấn thuế các phường chợ, cơ quan thống kê, cơ quan cấp phát đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường rà soát phân loại và buộc các đối tượng kinh doanh chấp hành đăng ký thuế, nhằm đưa các đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh vào diện quản lý.
Bằng sự cố gắng, nỗ lực, với tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ, nhân viên trong chi cục, đặc biệt là sự giúp đỡ của các ngành liên quan nên tình hình quản lý đối tượng nộp thuế của chi cục thuế Hoàn Kiếm đã đạt được nhiều kết quả.
Biểu 2: Tình hình quản lý hộ đăng ký thuế.
Diễn giải
Số hộ thực tế kinh doanh.
(Số cơ sở kinh doanh)
Số hộ đăng ký kinh doanh. (Số cơ sở đăng ký thuế)
Tỷ lệ %
Năm 1999
11.091
10.424
93,98 %
Năm 2000
10.857
10.608
97,7 %
Từ biểu trên ta thấy:
Số hộ chưa đăng ký = Số hộ thực tế - Số hộ đăng ký
kinh doanh kinh doanh kinh doanh
Như vậy:
Số hộ chưa đăng ký = 11.091 - 10.424 = 667 (hộ)
kinh doanh năm 1999
Số hộ chưa đăng ký = 10.857 - 10.608 = 249 (hộ)
kinh doanh năm 2000
Từ đây, ta thấy số hộ chưa được quản lý của năm 2000 so với năm 1999 đã giảm đi 418 hộ chứng tỏ rằng tinh hình quản lý đối với các hộ kinh doanh trên địa bàn quận đã có tiến bộ rõ rệt.
Nhận thức công tác quản lý đối tượng nộp thuế là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời duy trì sự công bằng trong xã hội, nên việc bám sát địa bàn thường xuyên của cán bộ quản lý được chi cục thuế Hoàn Kiếm luôn đề cao, mục đích nắm sát tình hình, khả năng hoạt động, phát hiện những hộ mới ra kinh doanh, kịp thời hướng dẫn đối tượng kê khai, đăng kí thuế và đưa vào diện quản lý.
Để tránh tình trạng giảm, mất đối tượng nộp thuế do xin nghỉ kinh doanh, chi cục đã tăng cường công tác kiểm tra hộ xin nghỉ, giải thể bằng cách thực hiện chặt chẽ quy trình đối với hộ nghỉ như: phải có đơn xin nghỉ đã được hội đồng tư vấn thuế xác nhận, danh sách hộ nghỉ được kiểm tra thường xuyên, lãnh đạo chi cục ra quyết định miễn, giảm thuế hộ kinh doanh mới được miễn giảm thuế. Với những trường hợp đã xin nghỉ nhưng vẫn kinh doanh đã được xử lý thích đáng theo quy định của Luật.
Cụ thể:
Năm 1998, có 182 trường hợp vi phạm chế độ xin nghỉ đã bị xử lý.
Năm 1999, có 167 trường hợp vi phạm chế độ xin nghỉ đã bị xử lý.
Năm 2000, có 83 trường hợp vi phạm bị xử lý.
Qua số liệu trên cho thấy kết quả của việc tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ đã hạn chế được tình trạng giảm đối tượng nộp thuế.
Tuy vậy, công tác quản lý đối tượng nộp thuế của chi cục Hoàn Kiếm vẫn còn những hiện tượng bỏ sót hộ báo nghỉ thuế nhưng vẫn kinh doanh, là do một số nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan:
Trong công tác quản lý còn có những cán bộ chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình, thiếu sâu sát địa bàn, không phát hiện kịp thời những diễn biến phát sinh trong phạm vi địa bàn quản lý.
Đội thuế, cán bộ quản lý chưa chủ động với các cơ quan liên quan để tăng cường sự hỗ trợ, thiếu sức thuyết phục và chưa cương quyết trong việc xử lý sai phạm, cá biệt còn có những cán bộ “hợp pháp hoá” cho việc vi phạm của các đối tượng nộp thuế.
Do lực lượng cán bộ quản lý còn quá mỏng trong khi phải quản lý số lượng đối tượng nộp thuế quá lớn, hoạt động của cán bộ thuế thường phải làm việc đơn lẻ, phân tán đã gây khó khăn cho công tác quản lý.
Nguyên nhân khách quan:
Do ý thức của các đối tượng kinh doanh chưa tự giác thực hiện các yêu cầu của pháp luật, thậm chí cố tình lẩn tránh sự kiểm tra.
Số lượng đối tượng có qui mô nhỏ rất lớn, hoạt động không ổn định, không thường xuyên, luôn biến động.
Công tác cấp phát đăng ký kinh doanh chưa phát huy được hiệu quả, chưa triệt để xử lý nghiêm minh các đối tượng kinh doanh không đăng ký.
2. Quản lý doanh thu tính thuế:
Trong những năm gần đây, số hộ cá thể không chỉ biến động về số lượng mà còn biến động cả về qui mô kinh doanh. Qua phân tích về tình hình quản lý đối tượng nộp thuế, ta thấy chi cục thuế Hoàn Kiếm đã có những cố gắng trong việc chống thất thu về đối tượng nộp thuế, song cũng cần có những biện pháp để hoàn thiện khâu này, hạn chế tối đa việc thất thu về hộ bởi vì nó là tiền đề, là điều kiện cho việc quản lý các bước tiếp theo trong công tác quản lý thu thuế.
Để hiểu biết hết tình hình quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm, ta hãy xem xét nhân tố thứ hai của công tác quản lý thuế đó là doanh thu tính thuế .
Công tác quản lý doanh thu tính thuế tại chi cục thuế Hoàn Kiếm được tiến hành theo hai cách:
Phân loại theo ngành nghề kinh doanh.
Phân loại theo phương pháp thu thuế.
2.1 Phân loại theo ngành nghề kinh doanh:
Phân loại căn cứ theo ngành nghề kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho cơ quan thuế dễ so sánh tình hình sản xuất kinh doanh trong cùng ngành nghề, đồng thời có thể thấy được mức độ biến động của từng ngành nghề qua từng giai đoạn, giúp cho chi cục thuế chủ động chỉ đạo quản lý tốt hơn.
Ta có thể tham khảo mức độ biến động qua biểu sau:
Biểu 3: Tình hình quản lý thuế theo ngành nghề kinh doanh.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Ngành
Năm 1999
Năm 2000
So sánh năm 2000 với 1999
Doanh thu
% doanh thu so với tổng doanh thu
Doanh thu
% doanh thu so với tổng doanh thu
Số tuyệt đối
Số tương đối
Thủ công nghiệp
8.482.786
0,93%
7.896.423
0,75 %
-586.363
93,08%
Thương nghiệp
859.984.872
93,8%
985.738.856
94%
+125.753.984
114,6%
Ăn uống
25.807.144
2,8%
27.890.199
2,66%
+2.083.055
108%
Dịch vụ
22.211.780
2,4%
26.332.154
2,51%
+4.120.374
118,5%
Cộng
916.486.582
1.047.857.632
+131.371.050
114,33%
Mức độ biến động doanh thu giữa các ngành như sau:
Năm 2000 so với năm 1999 doanh thu tăng 131.371.050 nghìn đồng,tương ứng với 114,33 % chủ yếu ở các ngành:
+ Ngành thương nghiệp tăng: 125.753.984 nghìn đồng.
+ Ngành ăn uống tăng : 2.083.055 nghìn đồng.
+ Ngành dịch vụ tăng : 4.120.374 nghìn đồng.
Doanh thu của các ngành tăng lên là do: Sang năm 2000 chi cục đã tăng cường việc rà soát lại doanh thu đối với các đối tượng kinh doanh trong toàn quận để đưa vào tính thuế sát với thực tế hơn.
Riêng doanh thu của ngành thủ công nghiệp năm 2000 giảm so với năm 1999 là 586.363 nghìn đồng tương ứng với 93,08 % là do hàng ngoại nhập tràn vào thị trường Việt Nam nhiều cùng với sự phát triển của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ với dây truyền công nghệ hiện đại cho năng suất cao, tạo ra sản phẩm hàng loạt, mẫu mã đẹp, giá thành hạ nên có sức cạnh tranh hơn so với hàng hoá được sản xuất theo phương pháp thủ công. Vì vậy, người tiêu dùng thường hướng về hàng ngoại nhập nên hàng thủ công nghiệp chậm tiêu thụ dẫn tới việc hàng hoá bị tồn đọng và một số cơ sở sản xuất xin tạm nghỉ kinh doanh làm cho doanh thu năm 2000 của ngành này giảm.( Trừ một số mặt hàng đặc biệt như thủ công mỹ nghệ).
Cũng từ những số liệu này cho ta thấy tỷ lệ doanh thu tăng mạnh ở ngành du lịch là 18,5 % và ngành thương nghiệp là 14,6 %. Ngành thương nghiệp có doanh thu chiếm tỷ trọng 94 % so với tổng doanh thu của tất cả các ngành trong quận, chứng tỏ thế mạnh về kinh tế của quận Hoàn Kiếm là buôn bán, từ đó việc phân loại theo ngành nghề kinh doanh sẽ giúp cho chi cục nắm được tình hình biến động của thị trường để có biện pháp chỉ đạo tập trung và làm cơ sở cho việc lập, giao kế hoạch thu của từng khu vực, từng thời điểm được sát với thực tế của từng đội quản lý.
2.2 Phân loại theo phương pháp thu thuế theo doanh thu:
Đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể có nhiều loại hình khác nhau, mức độ và tính chất kinh doanh cũng khác nhau. Phần lớn hộ cá thể chưa mở sổ sách kế toán theo qui định hoặc mở không đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu độ tin cậy làm căn cứ tính thuế. Để khắc phục nhược điểm đó, hiện nay chi cục đang áp dụng 2 phương pháp chủ yếu để quản lý thuế:
Phương pháp kê khai doanh thu.
Phương pháp khoán doanh thu.
Để thấy rõ tình hình quản lý theo phương pháp khoán doanh thu 12 tháng năm 1999 và năm 2000 của chi cục, ta xem xét những vấn đề sau:
* Phương pháp khoán doanh thu:
Những hộ áp dụng phương pháp khoán doanh thu là những hộ kinh doanh nhỏ, chưa thực hiện việc chấp hành ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ được thì cơ quan thuế khoán mức doanh thu làm căn cứ tính thuế phải nộp từng tháng. Những hộ doanh thu nhỏ là những hộ có mức doanh thu bình quân tháng như sau:
Ngành sản xuất, xây dựng, thương nghiệp có doanh thu < 8 triệu đồng.
Ngành vận tải, kinh doanh ăn uống có doanh thu < 6 triệu đồng.
Ngành dịch vụ có doanh thu < 4 triệu đồng.
Mức doanh thu khoán được thực hiện theo trình tự sau:
Hộ kinh doanh tự kê khai mức doanh thu bình quân tháng của mình. Cán bộ thuế căn cứ kê khai của hộ kinh doanh kết hợp với điều tra doanh số trọng điểm của từng ngành hàng, từng địa bàn.
Xây dựng khung doanh thu ấn định cho từng ngành hàng trên cơ sở dữ liệu điều tra.
Mức doanh thu ấn định được thông qua hội đồng tư vấn thuế phường chợ tham gia ý kiến cho từng hộ.
Công khai niêm yết doanh thu dự kiến của từng hộ, nếu không có ý kiến thắc mắc của hộ kinh doanh thì mức doanh thu này được lãnh đạo chi cục duyệt và làm căn cứ tính thuế ổn định trong 6 tháng hoặc một năm.
Việc quản lý doanh thu đối với phương pháp khoán là rất phức tạp, để có được mức doanh thu khoán hợp lý cho từng hộ phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều bộ phận cùng tham gia xem xét. Nhưng nếu thực hiện tốt, sẽ mang lại hiệu quả cho việc quản lý doanh thu, đồng thời tạo được tâm lý ổn định cho các đối tượng nộp thuế theo phương pháp này.
Ta hãy xem xét kết quả quản lý doanh thu hộ khoán của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm qua biểu sau:
Biểu 4: Tình hình quản lý hộ khoán doanh thu.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
% so sánh giữa 2000 với 1999
Số hộ
5.520
5.304
96,08%
Doanh thu
38.798.266
43.814.113
112,9%
Thuế GTGT
464.506
517.336
111,3%
Biểu trên cho ta thấy mặc dù số lượng hộ nộp thuế theo phương pháp khoán doanh thu năm 2000 chỉ bằng 96,08% năm 1999 tương đương giảm 216 hộ, nhưng doanh thu năm 2000 lại tăng so với năm1999 là12,9% với số tăng tuyệt đối là 5.015.847 nghìn đồng là do:
Sang năm 2000, trong quá trình điều tra xác minh doanh thu, chi cục đã chuyển một số hộ có doanh thu lớn sang thu theo phương pháp kê khai.Do đó số hộ thu khoán của năm 2000 giảm.
Về doanh thu, năm 2000, chi cục đã thực hiện công tác ổn định lại mức doanh thu cho các hộ khoán trước khi quyết định mức doanh thu ổn định. Chi cục đã thực hiện chặt chẽ qui trình như: điều tra doanh thu điển hình của từng ngành hàng, tham khảo ý kiến hội đồng tư vấn thuế các phường, chợ, công khai mức doanh thu của từng hộ nên đã đưa được mức doanh thu của hộ khoán năm 2000 tăng lên đáng kể và sát với thực tế kinh doanh hơn.
* Phương pháp kê khai doanh thu:
Những hộ áp dụng phương pháp này là những hộ sản xuất kinh doanh lớn và nhỏ nhưng doanh thu bình quân tháng cao hơn hộ khoán và thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Trưòng hợp một số hộ sản xuất kinh doanh nhỏ nhưng thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ cũng được tính theo phương pháp kê khai.
Việc tính thuế theo phương pháp này có căn cứ chính xác hơn, tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự kê khai, tự nộp thuế, nên việc xác định doanh số tương đối sát với thực tế phát sinh. Từ đó tạo được cơ sở pháp lý và tâm lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế.
Biểu 5: Tình hình quản lý hộ kê khai doanh thu.
( Đơn vị: nghìn đồng).
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
% so sánh năm 2000 với 1999
Số hộ
4.904
5.304
108,1%
Doanh thu
190.021.755
264.716.824
139,3%
Thuế GTGT
2.240.050
2.420.544
108%
Nhận xét: Doanh thu năm 2000 tăng 39,3% tương đương với 74.695.087 nghìn đồng trong khi số hộ chỉ tăng 8,1% là do chi cục thuế Hoàn Kiếm đã thực hiện tốt những vấn đề sau:
Vận dụng tốt các công tác tuyên truyền vận động đối tượng nộp thuế hiểu và thực hiện chế độ sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai nộp thuế của đối tượng nộp thuế và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kê khai không đúng thực tế doanh số phát sinh.
Sang năm 2000, trong khi điều tra doanh số điển hình cho những hộ khoán đã đưa một số hộ có doanh số lớn trước đây đang thu khoán nay chuyển sang thu theo kê khai để thực hiện công bằng mức đóng góp.
Tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu khi thực hiện luật thuế mới của chi cục. Trong thực tế, vẫn còn những hộ cố tình kê khai doanh thu thấp hơn thực tế kinh doanh. Việc cố tình kê khai không chính xác thường được biểu hiện ở những nguyên nhân sau:
Đối tượng mua hàng của các hộ cá thể chủ yếu là người tiêu dùng do đó, việc đòi hoá đơn chưa trở thành thói quen và chưa thực sự cần thiết đối với người mua hàng.
Việc ghi chép hoá đơn không đúng qui định của đối tượng kinh doanh còn nhiều, trong khi đối chiếu giữa liên 1 và liên 2 là rất khó khăn đối với cán bộ quản lý thuế.
Một số hộ sản xuất kinh doanh hoạt động dưới hình thức “ môi giới” hay “ giao tay ba” do hàng hoá mua của cơ sở này song lại vận chuyển giao ngay cho cơ sở khác, cán bộ thuế rất khó phát hiện doanh thu ẩn lậu.
Việc quản lý hoá đơn của cơ quan thuế còn lỏng lẻo, tạo kẽ hở cho các đối tượng kinh doanh, có trường hợp khai báo mất hoá đơn giả để qua hiện tượng mất hoá đơn này, cơ sở giấu được doanh số, nhất là những tờ có doanh sô lớn.
Từ những hiện tượng trên đã gây ảnh hưởng không ít đến việc quản lý doanh thu của chi cục thuế Hoàn Kiếm.
Để chứng minh được điều này, ta xem xét kết quả kiểm tra doanh thu điển hình của một số hộ sau:
Biểu 6: Bảng số liệu do cơ quan thuế điều tra.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Tên hộ kinh doanh
Ngành nghề
Doanh số kê khai
Doanh số điều tra
% doanh số chênh lệch
Đặng Thị Lan
Vàng bạc
101.300.000
123.000.000
21,7%
Trần Anh Tuấn
Vật liệu xây dựng
11.500.000
14.000.000
25%
Lê Thị Sang
Bún ngan
9.000.000
11.000.000
20%
Nguyễn Bích Loan
Gội đầu
4.000.000
5.000.000
10%
Cộng
125.800.000
153.000.000
27,2%
Ta thấy: doanh số điều tra so với doanh số kê khai tăng 27,2% như vậy tình hình thất thu trên toàn quận còn nhiều. Vì vậy, chi cục cần duy trì thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai nộp thuế của đối tượng nộp thuế và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm kê khai không đúng thực tế doanh số phát sinh để hạn chế tình trạng thất thu và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách.
3. Quản lý thu nộp tiền thuế và nợ đọng:
Sau khi đã làm tốt công tác quản lý đối tượng nộp thuế, doanh thu tính thuế thì công tác quản lý thu nộp có ý nghiã quyết định đến hiệu quả của tất cả các công tác trên, vì nó thể hiện số thực nộp vào ngân sách Nhà nước từ đó khẳng định hiệu quả công tác của chi cục thuế Hoàn Kiếm cao hay thấp.
Để quản lý thu nộp tiền thuế được tốt, chi cục thuế Hoàn Kiếm đã tổ chức công tác lập bộ thuế hàng tháng, nhiệm vụ do tổ kế hoạch nghiệp vụ của chi cục thực hiện.Nhiệm vụ của bộ phận lập bộ thuế là tiếp nhận tờ khai nộp thuế của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp kê khai và danh sách ấn định doanh thu tính thuế đối với những hộ nộp thuế theo phương pháp khoán từ các đội quản lý chuyển về sau đó kiểm tra lại các phần đã ghi trong tờ khai xem các hộ đã ghi đúng, đủ chưa, nếu đã đúng, được chuyển vào bộ để phát hành thông báo thuế.
Căn cứ vào sổ bộ thuế đã được lãnh đạo chi cục duyệt, bộ phận kế hoạch nghiệp vụ phát hành thông báo thuế, thông báo thuế được chuyển đến các hộ trước ngày 15 hàng tháng, các đội thuế chịu trách nhiệm đôn đốc các đối tượng nộp thuế đúng thời gian và số thuế đã ghi trên thông báo vào kho bạc Nhà nước quận Hoàn Kiếm.
Biểu 7: Kết quả quản lý thu thuếGTGT hộ cá thể năm 1999 và năm 2000
( Đơn vị: nghìn đồng)
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
Ghi thu
35.289.488
39.090.666
Thực thu
32.117.434
35.288.252
Thu nợ
2.288.092
3.604.680
Nợ
883.962
197.734
% Nợ so với ghi thu
2,5%
0,51%
Dựa vào kết quả thu thể hiện ở số liệu trên ta thấy tình hình thu nộp thuế qua 2 năm 1999 và 2000 của chi cục thuế Hoàn Kiếm đều có số nợ đọng.Tỷ lệ % so sánh năm 2000 với năm 1999 là 22% nguyên nhân là do:
Cán bộ quản lý chưa đôn đốc triệt để các đối tượng nộp thuế vào Ngân sách kịp thời, chưa nghiêm khắc xử lý các trường hợp cố tình nộp chậm thuế.
Số thuế nợ chủ yếu rơi vào những hộ buôn bán nhỏ, khó thu và những hộ có nợ nhưng đã nghỉ hẳn, không có khả năng đòi.
Việc quản lý thu nộp thuế hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn là do pháp luật thuế của chúng ta chưa được mọi đối tượng nhìn nhận, chấp hành nghiêm chỉnh, nhiều trường hợp vi phạm không được xử lý thích đáng, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp liên quan.
Mặc dù còn nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến kết quả thu của chi cục nhưng chúng ta phải thừa nhận sự cố gắng của chi cục trong thời gian qua. Tuy vẫn còn nợ đọng nhưng qua số liệu ở biểu trên ta thấy tỷ lệ nợ của năm 1999 là 2,5% tương đương 883.962 nghìn đồng nhưng sang năm 2000 đã giảm xuống 0,51% tương đương 197.734 nghìn đồng. Đây là việc làm đáng biểu dương của chi cục.
Công tác thanh tra, kiểm tra:
Đây là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng, thường xuyên, nhằm đưa việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh của các đối tượng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế vào nề nếp, đưa công tác quản lý thu nộp thuế theo đúng chính sách và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng vi phạm chế độ thu nộp thuế của cán bộ thuế. Đồng thời thông qua công tác kiểm tra chi cục phát hiện được các hộ có mức doanh thu, thuế chưa hợp lý và điều chỉnh thực hiện công bằng xã hội trong nghĩa vụ nộp Ngân sách.
Trong thời gian qua, công tác kiểm tra của chi cục thuế Hoàn Kiếm đã thu được những kết quả, làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước nhưng mới chỉ ở những việc kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh, phát hiện hộ mới ra kinh doanh và giải quyết một số đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền. Bên cạnh những việc đã làm được, công tác thanh tra kiểm tra của chi cục thuế Hoàn Kiếm còn một số vấn đề đáng nói như:
Việc kiểm tra tình hình chấp hành nộp thuế của đối tượng nộp thuế, thực hiện quy trình quản lý của cán bộ thuế chưa thường xuyên. Hàng tháng, quý chưa có kế hoạch cụ thể, nội dung sự việc chưa báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để có biện pháp khắc phục, xử lý. Đối với những hộ nợ đọng thuế không chấp hành chính sách chế độ Nhà nước, chưa có sự kết hợp, hỗ trợ, xử lý triệt để.
Song song với công tác quản lý đối tượng nộp thuế, quản lý doanh số thì công tác kiểm tra thu thuế là một việc làm rất cần thiết trong quản lý thu, bởi vì nếu chỉ thực hiện mà không có kiểm tra sẽ dễ dẫn đến sai phạm và không có hiệu quả, cần chú trọng tăng cường công tác kiểm tra và kiểm tra phải có kế hoạch, nội dung cụ thể thì sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
Những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện Luật thuế GTGT:
Thuận lợi:
Thuế GTGT là loại thuế tính trên phần giá trị tăng thêm nên tránh được thuế đánh chồng lên thuế, khuyến khích được các đối tượng kinh doanh mở sổ sách kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ, thu thuế ở khâu sau có thể kiểm tra được nộp thuế ở khâu trước.
Luật thuế mới cho phép ổn định mức thuế từ 6 tháng đến 1 năm đối với những hộ nộp theo phương pháp khoán, tạo điều kiện cho người kinh doanh biết được mức thuế đóng góp của mình trong một thời gian nhất định tạo được tâm lý yên tâm, chủ động kinh doanh, đồng thời giúp cho cơ quan thuế có điều kiện tập trung quản lý sâu sát các đối tượng kinh doanh lớn nộp thuế theo phương pháp kê khai.
Đối tượng quản lý của chi cục thuế Hoàn Kiếm chủ yếu là các hộ cá thể do vậy mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp hầu hết là 32% và 25%, thuế GTGT có ít mức thuế suất đã giúp cho mọi đối tượng dễ hiểu, dễ tính toán, cán bộ thuế và cơ quan chức năng dễ kiểm tra.
Luật thuế mới có nhiều điểm thuận lợi, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay nên được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp trong xã hội.
Khó khăn:
Các hộ kinh doanh cá thể hầu hết chưa nhận biết đúng mức và chưa chấp hành nghiêm chỉnh chế độ sổ sách, hoá đơn. Loại hình này chủ yếu thu theo phương pháp khoán, căn cứ tính thuế rất khó chính xác dẫn đến thất thu còn nhiều.
Trình độ năng lực của cán bộ thuế còn hạn chế ý thức trách nhiệm cán bộ chưa cao trong khi Luật thuế GTGT đòi hỏi trình độ quản lý của cán bộ phải cao hơn, địa bàn quản lý rộng, số đối tượng kinh doanh đông vì vậy cán bộ thuế không bao quát hết được nguồn thu, thậm chí có hiện tượng thông đồng với đối tượng kinh doanh làm mất số thu, mất hộ.
Hệ thống văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung của Nhà nước và các ngành chức năng quá nhiều, chồng chéo, không kịp thời làm cho việc thực hiện của cán bộ thuế gặp nhiều khó khăn, dễ nhầm lẫn.
Thu thuê khâu lưu thông chưa hợp lý ở chỗ: đặc điểm của thuế GTGT là thu vào phần giá trị tăng thêm của hàng hoá nhưng ở loại hình kinh doanh buôn chuyến lại phải nộp thuế trước khi vận chuyển hàng đi, như vậy, đối tượng kinh doanh phải nộp thuế khi chưa phát sinh GTGT, không đúng với đặc điểm của thuế GTGT.
Đối với những hộ có nhu cầu nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, đủ điều kiện thì được chi cục thuế chấp nhận. Nhưng theo Luật thuế GTGT, chỉ được khấu trừ số thuế đối với những hàng hoá mua vào từ khi được chấp nhận nộp theo phương pháp khấu trừ và phải là hoá đơn GTGT còn những hàng hoá mua từ trước khi được chấp nhận thu theo phương pháp khấu trừ thì sẽ không được khấu trừ khi bán ra, vì vậy, các hộ phải nộp thuế GTGT số hàng hoá này với thuế suất 5%, 10% hoặc 20%( tuỳ theo từng mặt hàng) trên số doanh thu bán hàng hoá đó, dẫn đến số thuế phải nộp rất cao là không phù hợp.
Chương trình quản lý thuế GTGT trên máy tính còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với diễn biến thực tế như:
+ Cách tính phạt nộp chậm phức tạp.
+ Số thuế nợ được báo theo phương pháp luỹ tiến, với những hộ nợ nhiều tháng sẽ khó xác định được số thuế nợ của những tháng nào.
+ Lực lượng cán bộ sử dụng máy tính chưa được đào tạo cơ bản, thiếu đồng bộ.
+ Chương trình còn nhiều lỗi kỹ thuật, gây khó khăn không ít cho công tác quản lý thuế trên máy tính của chi cục.
Việc áp dụng Luật thuế mới trên địa bàn quận Hoàn Kiếm đã nảy sinh những khó khăn, vướng mắc kể trên, vấn đề cần đặt ra là các nhà quản lý thuế phải có những giải pháp phù hợp trong việc quản lý để sao cho Luật thuế mới phát sinh được hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh cá thể có khả năng phát triển, cạnh tranh bình đẳng trong xã hội và làm tăng nguồn thu cho NSNN.
phần iii - những tồn tại và một số biện pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế gtgt đối với
hộ kinh tế cá thể
I. Việc thực hiện luật thuế GTGT đối với các hộ kinh tế cá thể còn những tồn tại sau:
Thất thu về số hộ còn lớn.
Công tác thu thuế vẫn còn yếu kém dẫn đến nợ đọng.
Các hộ kinh doanh tìm cách lẩn tránh không muốn xuất hoá đơn để tính thuế.
Khách hàng chưa có thói quen yêu cầu người bán phải xuất hoá đơn cho họ.
Doanh thu tính thuế chưa chính xác.
Phối hợp giữa các bộ phận của cơ quan thuế chưa chặt chẽ.
II. Một số kiến nghị cụ thể:
Về công tác quản lý đối tượng nộp thuế:
Quản lý đối tượng nộp thuế là khâu quan trọng đầu tiên trong công tác quản lý thu thuế. Số thuế thu được phụ thuộc lớn vào số hộ đã được đưa vào diện quản lý. Qua phân tích số liệu ở phần II ta thấy rằng công tác quản lý đối tượng nộp thuế ở chi cục thuế Hoàn Kiếm vẫn còn gặp nhiều khó khăn nên có một số đề xuất để khắc phục như sau:
Cán bộ thuế phải tăng cường giải thích, tuyên truyền để đối tượng kinh doanh hiểu rõ trách nhiệm trong việc kê khai, chấp hành nộp thuế.
Để quản lý được đối tượng nộp thuế đòi hỏi cán bộ thuế phải bám sát địa bàn để điều tra và nắm bắt được tình hình diễn biến của các đối tượng kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của mình và phát hiện những hộ mới phát sinh, chủ động kết hợp với cơ quan liên quan nhằm tăng cường sự hỗ trợ cho công tác quản lý của mình.
Hiện nay, cơ quan cấp phát đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý đối tượng nộp thuế độc lập với nhau nên việc nắm bắt đối tượng nộp thuế ra kinh doanh không kịp thời. Mỗi hộ khi muốn đủ điều kiện để được kinh doanh và đóng góp đúng qui định của pháp luật phải làm thủ tục khai báo với hai cơ quan. Nên chăng, giao việc cấp phát đăng ký kinh doanh cho cơ quan thuế để giảm bớt thủ tục phiền hà cho người kinh doanh, đồng thời cấp đăng ký kinh doanh rồi đưa vào diện quản lý ngay, giúp cho cơ quan thuế quản lý đối tượng kinh doanh kịp thời mỗi khi có hộ mới ra kinh doanh.
Trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế, ta có thể chia làm 2 loại:
Quản lý đối với những hộ đã quản lý được:
Đối với những hộ kinh doanh đã ở trong diện quản lý( đã được theo dõi trên bộ của chi cục). Đối với những hộ này, nếu xin tạm nghỉ kinh doanh thì chỉ giải quyết khi có lý do chính đáng. Thủ tục giải quyết phải theo đúng qui trình như: phải có đơn xin nghỉ trình bày lý do, đơn phải được thông qua hội đồng tư vấn thuế phường, chợ xác nhận, phải có quyết định miễn, giảm thuế của cơ quan thuế mới được chấp nhận không phải nộp thuế, trong thời gian nghỉ kinh doanh phải được kiểm tra liên tục và nếu trong thời gian này muốn tiếp tục kinh doanh, phải khai báo với cơ quan thuế, nếu không khai báo sẽ bị xử lý như hành vi cố tình khai man, trốn thuế.
Đối với những hộ xin nghỉ kinh doanh nhiều tháng, ngoài việc phải thực hiện đầy đủ thủ tục như trên, nên tạm thu giữ đăng ký kinh doanh và hoá đơn bán hàng nhằm tránh việc hoạt động ngầm.
1.2 Đối với những hộ chưa quản lý được:
Cơ quan thuế, cụ thể là đội thuế, cán bộ thuế phải tích cực bám sát địa bàn, kết hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương để điều tra xác định rõ số hộ kinh doanh không có giấy phép và chưa đăng ký nộp thuế. Cụ thể:
Đối với những hộ buôn bán cố định nếu chưa tiến hành đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế thì cán bộ thuế phải có trách nhiệm nhắc nhở, đôn đốc buộc các hộ này đăng ký nộp thuế để đưa vào bộ quản lý.
Đối với những hộ kinh doanh ngoài vỉa hè, kinh doanh không có chỗ ngồi ổn định thì biện pháp trước mắt là lập danh sách đưa vào quản lý trong bộ phụ, cần theo dõi thường xuyên, có thể thu thuế định kì một tuần một lần hoặc thu theo từng ngày để tránh mất nguồn thu dần dần đưa vào sổ bộ chính để quản lý.
Đối với những hộ cố tình chống đối hoặc những hộ núp bóng tập thể để kinh doanh thì ngoài những biện pháp xử lý hành chính thông thường, nếu vi phạm nhiều lần, mặc dù đã được nhắc nhở thì có thể truy tố trước pháp luật.
Đối với trường hợp quá khó quản lý do tính chất và đặc điểm của từng ngành nghề như: bán hàng ăn sáng, tối, hàng hoa, hàng thịt thì nên áp dụng chế độ thu góp theo từng ngành nghề kinh doanh hoặc có thể thu dưới dạng lệ phí.
Đối với những hộ hoạt động buôn chuyến, do đặc điểm của loại hộ này buôn bán theo từng chuyến hàng, muốn quản lý được ta có thể thực hiện như sau:
+ Với hộ nằm trong địa phương quản lý ( phạm vi quận, huyện) cần tăng cường quản lý bằng cách cấp đăng ký kinh doanh dưới hình thức kinh doanh thương mại, cấp mã số thuế, môn bài, yêu cầu thực hiện sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn khi bán hàng và phải đăng ký với cơ quan thuế mỗi lần vận chuyển hàng đi, về và hàng tháng kê khai nộp thuế như hộ kinh doanh thương mại.
+ Đối với những đối tượng không có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cố tình hoạt động, cần tăng cường xử lý nặng buộc đối tượng phải kê khai, xin cấp đăng ký và đưa vào diện quản lý theo địa phương.
Với những biện pháp nói trên, có thể giúp cho cơ quan thuế quản lý được đối tượng hoạt động kinh doanh theo loại hình này, rồi tuỳ theo từng đối tượng cụ thể mà áp dụng phương pháp thu khấu trừ hay trực tiếp. Như vậy mới phù hợp với tính chất của Luật thuế GTGT là thuế chỉ thu vào phần giá trị tăng thêm của hàng hoá.
2.Quản lý về căn cứ tính thuế:
Căn cứ để tính thuế là doanh thu và GTGT. Quản lý tốt căn cứ tính thuế sẽ góp phần đảm bảo số thu sát với thực tế, vừa tăng thu cho NSNN, vừa đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh.
Qua phân tích thực trạng công tác quản lý căn cứ tính thuế ở chi cục thuế quận Hoàn Kiếm, ta thấy rằng việc quản lý căn cứ tính thuế còn rất nhiều hạn chế. Như vậy, để có căn cứ tính thuế chính xác, đảm bảo kế hoạch được giao, thực hiện công bằng cho các hộ nộp thuế, theo tôi cần thiết phải áp dụng một số biện pháp riêng cho từng loại hộ như sau:
Đối với hộ kinh doanh theo phương pháp khoán:
Đối với hộ kinh doanh theo phương pháp này thì cơ quan thuế phải căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ để xác định mức doanh thu ấn định.Như vậy để đảm bảo số thu sát với thực tế cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
-Phải nắm được diễn biến của thị trường và quy mô sản xuất kinh doanh của từng hộ,mặt khác căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của Cục thuế giao cho.Việc điều tra doanh thu tính thuế phải tuân thủ theo đúng quy trình,cán bộ thực hiện nhiệm vụ phải vô tư,khách quan,có trách nhiệm.
-Công khai và ổn định mức thuế đối với các hộ kinh doanh là một biện pháp rất có hiệu quả,nếu thực hiện nghiêm túc.Trước khi ổn định,mức thuế được đưa ra cho các tổ ngành hàng,tổ dân phố đề nghị mức thuế của từng hộ một cách công khai,dân chủ.Có sự tham gia của tổ ngành hàng,tổ dân phố,hội đồng tư vấn thuế sẽ tạo được sự đồng tình ủng hộ của chính quyền,nhân dân địa phương,của chính những đối tượng nộp thuế và điều cốt lõi là đã tạo ra sự công bằng cho việc xác định mức thuế đóng góp của từng hộ và giúp cho họ yên tâm hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Có như vậy việc áp dụng Luật thuế GTGT mới mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy, Chi cục thuế Hoàn kiếm cần phải làm tốt các vấn đề sau:
Cần tăng cường công tác tuyên truyền nội dung, tính ưu việt của luật thuế mới và chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ. Giúp đối tượng kinh doanh hiểu được sự cần thiết phải mở sổ sách kế toán. Có như vậy mới duy trì được sự công bằng trong đóng góp ngân sách Nhà nước và giám sát được tình hình hoạt động của chính mình.
Chi cục thuế Hoàn Kiếm cần có kế hoạch vừa động viên vừa bắt buộc các hộ kinh doanh có qui mô lớn phải mở sổ sách kế toán.
Phải thường xuyên tổ chức hướng dẫn cho các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khoán biết cách mở sổ sách kế toán, sử dụng, bảo quản hoá đơn chứng từ. Có như vậy, khi chuyển sang áp dụng phương pháp kê khai mới khỏi bỡ ngỡ, sai sót.
Đối với hộ kinh doanh nộp theo phương pháp kê khai:
Việc quản lý căn cứ tính thuế của các hộ kinh doanh áp dụng theo phương pháp kê khai là quản lý trên sổ sách kế toán,hoá đơn chứng từ. Do đó, để ngăn chặn việc thực hiện không đúng theo quy định của Bộ tài chính thì Chi cục thuế Hoàn kiếm cần áp dụng những biện pháp sau:
Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra đột xuất và thường xuyên việc sử dụng hoá đơn và ghi chép sổ sách của các đối tượng kinh doanh, đối chiếu giữa hoá đơn mua và bán với sổ sách kế toán, giữa sổ sách kế toán với hàng hoá thực tế tồn kho. Có như vậy thì việc quản lý căn cứ tính thuế mới đạt chất lượng, nhờ đó tránh được tình trạng trốn lậu thuế.
Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra việc kê khai căn cứ tính thuế của từng tháng.Nếu phát hiện có sự chênh lệch giữa số liệu kê khai và số liệu quyết toán do nguyên nhân khách quan thì yêu cầu cơ sở kê khai bổ sung kịp thời. Đối với các trường hợp cố tình kê khai sai, cán bộ thuế phải tiến hành thu bổ sung và xử lí phạt theo quy định của pháp luật.
3. Về công tác quản lý thuế:
Để quản lý tốt hơn đối tượng nộp thuế đảm bảo không thất thu về hộ. Cán bộ thuế phải đôn đốc thu nộp thường xuyên theo đúng thời gian, số thuế, địa điểm ghi trên thông báo, không để cho các hộ dây dưa tiền thuế. Đối với những hộ nợ thuế kéo dài hoặc không chấp hành nghiêm chỉnh các qui định cần có các biện pháp cần thiết theo luật qui định.
Cưỡng chế các hộ kinh doanh nộp thuế.
Phạt nặng nộp chậm, dây dưa.
Thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh.
Công tác thanh tra - kiểm tra:
Đây là một nhiệm vụ quan trọng. Nếu chỉ thực hiện mà không có kiểm tra sẽ dẫn đến những sai phạm lệch lạc, vì vậy, công tác kiểm tra phải được duy trì thường xuyên và phải được xây dựng thành kế hoạch, có nội dung, phạm vi, thời gian cụ thể. Hàng tháng nên tổ chức khoanh vùng địa bàn cần kiểm tra và nội dung kiểm tra phải bao gồm tổng thể mọi mặt hoạt động, kể cả tình hình sản xuất kinh doanh, chế độ sử dụng sổ sách hoá đơn chứng từ, kê khai nộp thuế của đối tượng nộp thuế và việc thực hiện qui trình quản lý, xác định doanh thu, đôn đốc thu nộp của cán bộ thuế. Có như vậy mới giúp chi cục nắm bắt được tình hình hoạt động, công tác của cả đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế, để từ đó có biện pháp uốn nắn, hướng dẫn thực hiện Luật thuế nghiêm túc.
Xử lý vi phạm:
Đối với hộ kinh doanh: Trong trường hợp các hộ cố tình vi phạm không chịu nộp thuế cũng như không chịu trả tiền thuế nợ, cán bộ quản lý phải thực hiện đầy đủ qui trình đôn đốc nợ đọng,lập hồ sơ chuyển các cơ quan chức năng kịp thời, tránh tình trạng để dây dưa, tràn lan.
Đối với cán bộ thuế : Những cán bộ thuế để nợ đọng nhiều( do nguyên nhân chủ quan) thì phải cắt thi đua hàng tháng, quý. Nếu vi phạm nhiều lần, cần xem xét lại khả năng, có thể chuyển công tác khác.
Đối với cán bộ có hành vi xâm tiêu tiền thuế và chuyển thành nợ đọng, số tiền thuế không nộp đúng thời gian qui định này phải được xử phạt theo luật định, đồng thời xử lý kỷ luật theo qui định của ngành. Muốn phát hiện được những hiện tượng này, chi cục cần có kế hoạch kiểm tra, đối chiếu chứng từ nộp thuế của các đối tượng nộp thuế thường xuyên hoặc định kì trên từng khu vực và hàng tháng phải duy trì việc đối chiếu tình hình nợ giữa các đội quản lý với tổ kế hoạch nghiệp vụ. Thông báo cho các đối tượng nộp thuế phải yêu cầu cán bộ thuế cấp ngay biên lai sau khi nộp thuế. Bên cạnh đó, chi cục cần có công tác khen thưởng kịp thời với những cán bộ có thành tích hoàn thành nhiệm vụ quản lý thu nộp thuế.
Một số biện pháp nhằm hoàn chỉnh về chính sách thuế GTGT:
Thực tế cho thấy, Luật thuế GTGT về cơ bản đã khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu. Song bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề nảy sinh cần giải quyết đó là:
Có những cơ sở trong hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào họ cũng chỉ quan hệ với các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn GTGT để được khấu trừ thuế đầu vào mà họ còn có quan hệ với những doanh nghiệp khác sử dụng hoá đơn thông thường. Như vậy, những hàng hoá mua vào bằng hoá đơn thông thường họ sẽ không được khấu trừ, từ đó dẫn đến bất bình đẳng trong kinh doanh. Để tạo điều kiện mở rộng cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động mang lại lợi nhuận cao, Nhà nước cần có qui định cho phép được khấu trừ với những hàng hoá mua vào bằng hoá đơn thông thường.
Hệ thống luật thuế của nước ta hiện nay chưa đồng bộ, sửa đổi, bổ sung nhiều vì thế cơ cấu tổ chức quản lý thu không kịp thay đổi so với sự thay đổi này và trong một chừng mực nào đó làm ảnh hưởng đến công tác thu. Do đó đòi hỏi Nhà nước cần ban hành đồng bộ hệ thống luật thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thuế và các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật thuế.
Tăng cường công tác tuyên truyền chính sách, luật thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giúp cho mọi đối tượng đều hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Nhà nước cần nghiên cứu chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ ngành thuế để họ yên tâm công tác, hạn chế được tiêu cực, tăng nguồn thu cho NSNN.
kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế cá thể đã và đang phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Nhưng sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước ngày càng tăng, đã làm cho công tác thuế trở nên phức tạp và nhiệm vụ trở nên nặng nề hơn nhiều, điều này đặt ra cho toàn ngành thuế nói chung cũng như từng cán bộ thuế nói riêng ngày càng phải hoàn thiện để nâng cao chất lượng công tác phát huy vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý thu thuế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, những khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý thuế đối với hộ cá thể của yêu cầu đặt ra đối vơí công tác quản lý thu thuế với các hộ này là làm sao phải hoàn thành nhiệm vụ thu thuế đã đề ra, phải khai thác được mọi nguồn thu, chống thất thu, phát huy vai trò tích cực của luật thuế mới, động viên đầy đủ kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Xuất phát từ mục đích trên, qua phân tích đánh giá tình hình thu thuế đối với các hộ cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, trong thời gian thực tập vừa qua, ẹm đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Tình hình thực hiện Luật thuế GTGT đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm – thành phố Hà Nội” và đề xuất một số giải pháp nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách thuế ở nước ta nói chung và ở chi cục thuế Hoàn Kiếm nói riêng đạt hiệu quả cao hơn trong quản lý thuế đối với khu vực kinh tế cá thể.
Với trình độ lý luận có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót.Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện và có tính khả thi.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn TS – Trần Trọng Khoái cùng toàn thể cán bộ công nhân viên chi cục thuế quận Hoàn Kiếm.
Hà Nội ngày tháng năm 2001
Sinh viên
Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Phần I: Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể
I. Những lý luận cơ bản về thuế GTGT
1 - Sự ra đời của Luật thuế GTGT
2 - Khái niệm về GTGT và thuế GTGT
3 - Những đặc điểm cơ bản của thuế GTGT
4 - Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT
Phần II: Tình hình thực hiện Luật thuế GTGT đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0127.doc