Đề tài Vi phạm về quyền sở hữu công nghiệp và biện pháp xử phạt ở Việt Nam

Có thể khẳng định rằng sở hữu công nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của mỗi đất nước.Từ khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được đưa vào hầu hết các thoả thuận đa phương cũng như song phương về tự do hoá thương mại cũng như hợp tác kinh tế giữa các quốc gia. Điển hình và khởi nguồn là việc đưa sở hữu công nghiệp trở thành một vấn đề chính của Tổ chức thương mại thế giới WTO.Với vai trò quan trọng đó,bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền này trở thành vấn đề cấp bách hiện nay.Đề tài mà em trình bày về vi phạm sở hữu công nghiệp và xử phạt vi phạm ở Việt Nam ở trên chỉ là một mảng nhỏ trong các vấn đề liên quan đến sở hữu công nghiệp.Qua việc nghiên cứu đề tài ta hiểu rõ hơn về các hành vi vi phạm sở hữu công nghiệp,cũng như việc xử phạt vi phạm ở nước ta.Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ các quyền sở hữu này,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vi phạm về quyền sở hữu công nghiệp và biện pháp xử phạt ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các vi phạm và xử phạt vi phạm bao gồm : "Đối tượng sở hữu công nghiệp" được hiểu là: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá (bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ), tên gọi xuất xứ hàng hoá. "Chủ sở hữu công nghiệp" được hiểu là: chủ văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, hoặc người được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ. "Văn bằng bảo hộ" được hiểu là: Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá. “Yếu tố vi phạm” được hiểu là: - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá đang được bảo hộ; - Dấu hiệu, chỉ dẫn vi phạm quy định về chỉ dẫn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nghĩa vụ sở hữu công nghiệp; - Bộ phận sản phẩm, sản phẩm hoặc quy trình sản xuất sản phẩm đồng nhất với bộ phận sản phẩm, sản phẩm hoặc quy trình sản xuất đang được bảo hộ là sáng chế, giải pháp hữu ích; - Bộ phận sản phẩm, sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp hoặc có chứa một hoặc các bộ phận là thành phần tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ. Yếu tố vi phạm đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là những thể hiện cụ thể kết quả của các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế,giải pháp hữu ích,kiểu dáng công nghiệp,nhãn hiệu thương mại,tên gọi xuất xứ hàng hoá.Chính những yếu tố này là căn cứ để khẳng định hành vi xâm phạm quyền.Các yếu tố vi phạm quyền cũng thể hiện rất đa dạng phụ thuộc vào đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.Trong thực tế,các yếu tố vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đó được thể hiện dưới các hình thức sau: Yếu tố vi phạm đối với sáng chế ,giải pháp hữu ích Yếu tố vi phạm đối với sáng chế ,giải pháp hữu ích là các sản phẩm hoặc các bộ phận của sản phẩm đồng nhất với sản phẩm đang được bảo hộ là sáng chế ,giải pháp hữu ích ,quy trình hoặc một bộ phận của một quy trình đồng nhất với quy trình đang được bảo hộ là sáng chế , giải pháp hữư ích ,sản phẩm hay bộ phạn sản phẩm đang sản xuất theo quy trình đồng nhất với quy trình đang được bảo hộ là sáng chế,giải pháp hữu ích Căn cứ để xác định yếu tố vi phạm là vi phạm bảo hộ sáng chế hoặc giải pháp hữu ích đươc xác định theo từng thời điểm của yêu cầu bảo hộ là Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.Để xác định có hay không có sự đồng nhất ,cần so sánh tất cả các dấu hiệu thuộc từng điểm trong yêu cầu bảo hộ với các dấu hiệu của sản phẩm ,bộ phận sản phẩm,quy trình,bộ phận của quy trình bị nghi ngờ vi phạm Chỉ khẳng định có sự đồng nhất khi tất cả các dấu hiệu thuộc ít nhất một điểm trong yêu cầu bảo hộ đều có mặt trong sản phẩm ,bộ phân của sản phẩm;trong quy trình ,hoặc bộ phận của quy trình bị nghi ngờ vi phạm có cùng bản chất ,cùng mục đích sử dụng ,cùng mối quan hệ với các dấu hiệu khác hoặc đã được biết đến trong lĩnh vực kĩ thuật tương ứng 1.2. Yếu tố vi phạm đối với kiểu dáng công nghiệp Yếu tố vi phạm đối với kiểu dáng công nghiệp là các sản phẩm ,hoặc bộ phận sản phẩm mà hìn dánh bên ngoài trùng toàn bộ hoặc trùng những điểm cơ bản quyết định kiểu dáng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ. Căn cứ xác định yếu tố vi phạm kiểu dáng công nghiệp là Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp .Để xác định một sản phẩm ,bộ phận của sản phẩm có yếu tố vi phạm hay không ,cần so sánh tất cả các đặc điểm tạo dáng thuộc phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với các đặc điểm tạo dáng của sản phẩm ,bộ phận sản phẩm bị nghi ngờ vi phạm Chỉ khẳng định có yếu tố vi phạm khi trên sản phẩm ,bộ phận của sản phẩm bị nghi ngờ vi phạm có tất cả các đặc điểm tạo dáng thuộc phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp hoặc có một số các đặc điểm cơ bản quyết định kiểu dáng thuộc phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp 1.3. Yếu tố vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá Yếu tố vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá gồm dấu hiệu đóng vai trò nhãn hiệu hàng hoá( chữ cái,chữ số,hình ảnh,biểu tuợng…)hoặc đóng vai trò tên gọi xuất xứ hàng hoá(địa danh),gắn trên hàng hoá,bao bì hàng hoá,phương tiện dịch vụ ,giấy tờ giao dịch,phương tiên quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác (kể cả phương tiện điện tử) trùng hoặc tương đương tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá,tên gọi xuất xứ đang được bảo hộ hoặc dấu hiệu đóng vai trò chỉ dẫn thương mại(thông tin dưới dạng chỉ dẫn ,lời chú,ký hiệu…)trình bày trên hàng hoá,bao bì hàng hoá,phương tiện dịch vụ ,giấy tờ kinh doanh,phương tiện quảng cáo,và các phương tiện khinh doanh khác(kể cả phương tiện điện tử)làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốcc mối liên hệ hàng hoá/dịch vụ hàng hoá có nhãn hiệu hàng hoá ,tên gọi xuất xứ đang được bảo hộ Căn cứ xác định yếu tố vi phạm là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá,Quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế,Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoặc Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ.Để xác định dấu hiệu vi phạm cần so sánh dấu hiệu nghi ngờ với nhãn hiệu/địa danh đồng thời so sánh dịch vụ,sản phẩm mang dấu hiệu đó với dịch vụ sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ Chỉ khẳng định có yếu tố vi phạm khi dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm trùng hoặc tương đương với nhãn hiệu /địa danh đang được bảo hộ hoặc dấu hiệu nghi ngờ có bản chất trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu địa danh đang được bảo hộ Xử phạt vi phạm đối với hành vi vi phạm quyền sở hữư công nghiệp 2.1. Cơ sở pháp lý thực hiện xử phạt Để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung,bảo vệ người sản xuất và tiêu dùng,Việt Nam đã tham gia Hiệp định về các khía cạnh bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đén thương mại (TRIPS) và cam kết thực hiện đầy đủ các quy định của hiệp định TRIPS.Các quy định này đã được nội luật hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 02/7/2002.nghị định106/NĐ-CP…Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt ,các hình thức xử phạt và thẩm quyền xử phạt của cơ quan quản lý nhà nước và của Hải quan Việt Nam trong lĩnh vực xử phạt các hành vi vi phạm Ngày 22 tháng 9 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp. Nghị định này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2006 và thay thế Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 1999. Nghị định gồm 5 chương và 37 Điều quy định về các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong phần 2 nói về thực trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp và xử phạt vi phạm ta sẽ tìm hiểu rõ hơn và cụ thể hơn nghị định này. 2.2. Thẩm quyền xử phạt của cơ quan Hải quan Cơ quan Hải quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm sở hữu công nghiệp xảy ra trong xuất khẩu,nhập khẩu hàng hoá Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc cục Hải quan tỉnh,thành phố,Đội trưởng đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng kiểm soát trên biển thuộc cục điều tra chống buôn lậu,chi cục trưởng Hải quan,Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh,thành phố,Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp đối với hoạt động xuất khẩu,nhập khẩu hàng hoá theo thẩm quyền quy định chi tiết tại khoản2,3 Điều 34 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008 quy địmh thẩm quyền xử phạt của cơ quan Hải quan. Cụ thể là: - Nhân viên hải quan đang thi hành công vụ có quyền xử phạt vi phạm hành chính: phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 200.000 đồng (trước đây nhân viên hải quan không có thẩm quyền xử phạt). - Ðội trưởng: được phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 5.000.000 đồng (trước đây chỉ được phạt đến 500.000 đồng). - Chi cục trưởng: được phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 20.000.000 đồng (trước đây được phạt đến 10.000.000 đồng) và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (không bị khống chế trị giá tang vật tịch thu như quy định trước đây). - Cục trưởng: được phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 70 triệu đồng... (trước đây chỉ có Cục trưởng Cục Ðiều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan được phạt đến 70 triệu đồng). PHẦN 2 . THỰC TRẠNG VI PHẠM VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP( HÀNH VI XUẤT NHẬP KHẨU ) VÀ VIỆC XỬ PHẠT CỦA VIỆT NAM A. Thực trạng vi phạm về quyền sở hữu công nghiệp Các tổ chức ,cá nhân không phải là chủ sở hữu công nghiệp,người có quyền sử dụng trước được chủ sở hữu công nghiệp cho phép là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp khi họ thực hiện các hoạt động xuất khẩu,nhập khẩu sau: 1. Có hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.Bao gồm các hành vi sau: a) Sản xuất (chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói) sản phẩm xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; b) Áp dụng quy trình xâm phạm quyền đối với sáng chế; c) Khai thác công dụng (dùng trong hoạt động kinh doanh) sản phẩm xâm phạm quyền đối với sáng chế. d) Bán, vận chuyển, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để bán sản phẩm xâm phạm quyền đối với sáng chế; sản phẩm xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp; đ) Nhập khẩu sản phẩm xâm phạm quyền quy định tại mục d và sản phẩm có chứa thiết kế bố trí xâm phạm quyền; e) Bán, cho thuê, tàng trữ để bán, vận chuyển, quảng cáo, chào hàng các bản sao thiết kế bố trí xâm phạm quyền, sản phẩm, hàng hóa chứa thiết kế bố trí xâm phạm quyền, thiết kế bố trí hoặc sản phẩm, hàng hóa chứa các đối tượng đó. 2. Có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại.Bao gồm các hành vi sau a) Gắn (in, dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng các hình thức khác) dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa; b) Bán, vận chuyển, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại; c) Nhập khẩu các loại hàng hóa, dịch vụ có yếu tố xâm phạm đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại; d) Sử dụng dấu hiệu trên sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa có yếu tố xâm phạm đối với tên thương mại. 3. Có hành vi sản xuất, vận chuyển, nhập khẩu, buôn bán vật mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ,tên gọi xuất xứ vi phạm.Cụ thể a) Xuất khẩu,nhập khẩu sản phẩm,bộ phận sản phẩm mang dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự .dễ gây nhầm lẫn vớ nhãn hàng hoá,tên gọi xuất xứ hàng hoá đang được bảo hộ cho hàng hoá cùng loại hoặc tương tự với sản phẩm đó,kể cả trường hợp dùng tên gọi xuất xứ hàng hoá được chuyển sang ngôn ngữ khác hoặc kèm theo các từ : “ loại”,”kiểu”,”phỏng theo” hay các từ tương tự như vậy b) Xuất khẩu,nhập khẩu hàng hoá là đề can,nhãn sản phẩm,mẫu nhãn hiệu,bao bì sản phẩm mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự,hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá ,tên gọi xuất xứ hàng hoá đang được bảo hộ cho hàng hoá cùng loại hay tương tự với sản phẩm đó,kể cả trường hợp dùng tên gọi xuất xứ hàg hoá hoặc kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ 4. Có hành vi sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý.Bao gồm các hành vi sau a) Sản xuất, nhập khẩu, in, dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng các hình thức khác lên sản phẩm, bao bì, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý b)Vận chuyển, tàng trữ sản phẩm, hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý c) Buôn bán, quảng cáo nhằm để bán, chào bán sản phẩm, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý B. Xử phạt vi phạm quyền sở hữu công nghiệp và xử phạt vi phạm ở Việt Nam 1. Nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt Cá nhân, tổ chức sẽ bị xử phạt vi phạm về sở hữu công nghiệp khi có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc công chức Hải quan khi phát hiện thấy các hành vi xuất nhập khẩu vi phạm quyền sở hữu công nghiệp phải kịp thời đình chỉ hoạt động xuất nhập khẩu và báo cáo lãnh đạo.Việc xử phạt phải được tiến hành nhanh chóng,công minh,triệt để đúng thẩm quyền Nghị định 106/2006/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 22/9 quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.Theo nghị định này,đối với mỗi hành vi vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. - Hình thức phạt cảnh cáo áp dụng đối với trường hợp: + Vô ý vi phạm + Vi phạm nhỏ, lần đầu + Do trình độ lạc hậu ,thiếu hiểu biết về quy định pháp luật sở hữu trí tuệ không gây thiệt hại đáng kể cho chủ sở hữu công nghiệp và người tiêu dùng + Do vi phạm của người khác gây ra mà người vi phạm không biết và không có lya do hợp lý để biết,kể cả trường hợp bị lừa dối trong qú trình thoả thụân ký kết,thực hiện hợp đồng sản xuất,kinh doanh và không có quy định buộc phải biết về vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan + Có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. - Hình thức phạt tiền áp dụng cho những hành vi vi phạm không thuộc trường hợp áp dụng hình thức phạt cảnh cáo.Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, người có thẩm quyền quyết định mức phạt tiền trong khung phạt đã quy định. Đối với hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó trong trường hợp không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng. Mức trung bình của khung tiền phạt được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu và mức tối đa. Vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống, nhưng không được giảm dưới mức tối thiểu của khung tiền phạt đã quy định. Vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên, nhưng không được tăng trên mức tối đa của khung tiền phạt đã quy định. - Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: + Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính + Tịch thu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý + Tịch thu văn bằng bảo hộ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu công nghiệp bị sửa chữa, tẩy xóa + Tịch thu giấy tờ, tài liệu bị sửa chữa, tẩy xóa hoặc giả mạo + Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ vi phạm - Ngoài các hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung nêu trên, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị buộc áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: + Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hóa, phương tiện kinh doanh; + Buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp; + Buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường; + Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng quá cảnh vi phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc buộc tái xuất hàng hóa vi phạm, hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hóa + Buộc bổ sung chỉ dẫn về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp + Buộc cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với các hành vi chỉ dẫn sai về quyền sở hữu công nghiệp + Buộc thu hồi tang vật, phương tiện bị tẩu tán. - Khi phát hiện hành vi vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm, giải thích rõ cho tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, các quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp có liên quan và yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các quy định của pháp luật - Trường hợp hành vi vi phạm phải áp dụng hình thức phạt cảnh cáo, thì người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản mà quyết định xử phạt ngay tại nơi xảy ra vi phạm, hình thức phạt cảnh cáo được quyết định bằng văn bản. - Trường hợp hành vi vi phạm phải áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp áp dụng theo thủ tục đơn giản, thì người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản vi phạm hành chính tuân theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, người lập biên bản phải tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trình bày ý kiến về hành vi vi phạm. - Việc quyết định xử phạt và nội dung quyết định xử phạt phải tuân theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Quyết định xử phạt phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ký. Trong trường hợp quyết định xử phạt bao gồm các hình thức phạt bổ sung dẫn tới phải tiến hành các thủ tục về xác lập, sửa đổi, đình chỉ, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, giấy chứng nhận liên quan thì quyết định xử phạt phải gửi tới Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Sở hữu trí tuệ để phối hợp theo dõi và thực hiện. - Trong trường hợp phát hiện hành vi vi phạm nhưng có tranh chấp, khiếu nại về chủ thể quyền, khả năng bảo hộ, phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cơ quan thụ lý vụ việc yêu cầu các bên liên quan giải quyết tranh chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết luận cuối cùng của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm kết luận về hành vi vi phạm. 2. Các mức phạt áp dụng Cũng theo nghị định Nghị định 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, mức phạt tiền là từ 100 ngàn đồng đến gấp 5 lần giá trị hàng hóa vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu mọi hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp phải được phát hiện, xử phạt kịp thời và bị đình chỉ ngay. Căn cứ theo các hành vi vi phạm nêu trong mục A đã nói ở trên mà áp dụng các mức phạt khác nhau. Cụ thể : 1. Đối với hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 lần đến 2 lần giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi xâm phạm nhằm mục đích kinh doanh, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cho xã hội hoặc không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền mặc dù đã được chủ sở hữu quyền yêu cầu trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa vi phạm có giá trị đến 20.000.000 đồng: Phạt tiền từ 2 lần đến 3 lần giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa vi phạm có giá trị từ trên 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Phạt tiền từ 3 lần đến 4 lần giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa vi phạm nêuểtên trong truờng hợp sản phẩm hàng hoá có giá trị từ trên 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng Phạt tiền từ 4 lần đến 5 lần giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa vi phạm có giá trị từ trên 60.000.000 đồng trở lên Ngoài ra còn có hình thức phạt bổ sung : Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, đình chỉ hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ xâm phạm từ một đến ba tháng đối với các hành vi vi phạm 2. Đối với các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 lần đến 2 lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại, gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; không chấm dứt hành vi vi phạm quyền mặc dù đã được chủ sở hữu quyền yêu cầu trong trường hợp hàng hóa vi phạm phát hiện được có giá trị đến 15.000.000 đồng Phạt tiền từ 2 lần đến 3 lần giá trị hàng hóa, dịch vụ vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ vi phạm có giá trị từ trên 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Phạt tiền từ 3 lần đến 4 lần giá trị hàng hóa, dịch vụ vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ vi phạm có giá trị từ trên 30.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng. Phạt tiền từ 4 lần đến 5 lần giá trị hàng hóa, dịch vụ vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ vi phạm có giá trị từ trên 45.000.000 đồng trở lên. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi gắn (in, dán, đính,đúc, dập khuôn hoặc bằng các hình thức khác) lên phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, bảng hiệu dấu hiệu vi phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý. Ngoài ra còn có hình thức phạt bổ sung : Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, đình chỉ hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ xâm phạm từ một đến ba tháng đối với các hành vi vi phạm 3. Đối với hành vi sản xuất, vận chuyển, nhập khẩu, buôn bán vật mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ,tên gọi xuất xứ vi phạm. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 lần đến 2 lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này trong trường hợp hàng hóa vi phạm phát hiện được có giá trị đến 20.000.000 đồng; Phạt tiền từ 2 lần đến 3 lần giá trị hàng hóa vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa vi phạm có giá trị từ trên 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Phạt tiền từ 3 lần đến 4 lần giá trị hàng hóa vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa vi phạm có giá trị từ trên 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng. Phạt tiền từ 4 lần đến 5 lần giá trị hàng hóa vi phạm phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa vi phạm có giá trị từ trên 60.000.000 đồng trở lên. Ngoài ra còn có hình thức phạt bổ sung : Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, đình chỉ hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ xâm phạm từ một đến ba tháng đối với các hành vi vi phạm 4.Đối với hành vi sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý Phạt tiền từ 1 lần đến 2 lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được đối với cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm đã nêu ở trên hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này trong trường hợp hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện được có giá trị đến 10.000.000 đồng Phạt tiền từ 2 lần đến 3 lần giá trị hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý có hành vi vi phạm đã nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện được có giá trị từ trên 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Phạt tiền từ 3 lần đến 4 lần giá trị hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện vi phạm dẫ nêu ở trên trong trường hợp hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện được có giá trị từ trên 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Phạt tiền từ 4 lần đến 5 lần giá trị hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện được quy định ở trên trong trường hợp hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý phát hiện được có giá trị từ trên 30.000.000 đồng trở lên Ngoài ra còn có hình thức phạt bổ sung : Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, đình chỉ hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ xâm phạm từ một đến ba tháng đối với các hành vi vi phạm. C. Đánh giá tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam Hiện nay, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng giả xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), hay nói rộng ra là quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), không chỉ có ở Việt Nam mà phổ biến trên toàn thế giới. Đó là nạn làm hàng giả, tức là nhái, copy những thành quả lao động và sáng tạo của người khác để đánh lừa người tiêu dùng và từ đó thu lợi nhuận. Tại Việt Nam, tình hình vi phạm quyền SHCN đang có xu hướng gia tăng, nhất là nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chỉ dẫn địa lý, bản quyền tác giả và nguồn gốc xuất xứ hàng hoá. Tình trạng hàng giả xâm phạm quyền SHCN nhập khẩu từ nước ngoài vào nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và dưới mọi hình thức: nhập lậu và nhập chính ngạch. Hành vi xâm phạm quyền SHCN thường xảy ra đối với những mặt hàng mới xuất hiện, được sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng. Hàng hoá làm giả thường nhái theo nhãn hiệu hoặc trùng kiểu dáng nhằm đánh lừa khách hàng. Đặc biệt, hàng giả xâm phạm quyền SHCN xuất hiện ngay cả trong những trung tâm thương mại, các siêu thị trong cả nước, ở nhiều ngành hàng, mặt hàng khác nhau, từ những sản phẩm đơn giản như hộp diêm, gói tăm đến những mặt hàng có giá trị như ti vi, tủ lạnh, xe máy. Tình trạng này tác động xấu đến môi trường cạnh tranh, đầu tư trong nước cũng như quyền lợi hợp pháp của các nhà sản xuất, kinh doanh, thiệt hại lợi ích người tiêu dùng. Nếu như trong 3 năm từ 1999 -2001, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra phát hiện và xử lý 9307 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả, trong đó gần 60% số vụ có liên quan đến SHCN, thì chỉ tính riêng trong năm 2002, các cơ quan quản lý thị trường phối hợp với công an kinh tế đã xử lý hành chính hơn 3000 vụ vi phạm quyền SHCN; Ngành toà án cũng xử lý hình sự hàng trăm vụ làm hàng giả, thanh tra khoa học công nghệ của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã xử lý hàng trăm đơn vị vi phạm, xử phạt hàng trăm triệu đồng và đã tiến hành huỷ bỏ các yếu tố vi phạm... Tuy vậy, việc xử lý các vi phạm và bảo vệ quyền SHCN, SHTT tại nước ta đang là một thách thức lớn không chỉ với các cơ quan chức năng nhà nước mà còn với tất các doanh nghiệp và các cá nhân là chủ SHCN. Riêng lĩnh vực sở hữu công nghiệp các hành vi xâm phạm chủ yếu vẫn là nhái nhãn hiệu kiểu dáng công nghiệp và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng...  Tại TP.Hồ Chí Minh lực lượng Quản lý thị trường đã xử lý 512 vụ liên quan đến hàng giả hàng nhái không rõ nguồn gốc xuất xứ. Tại Đồng Nai, Thanh tra Sở KH&CN  kiểm tra 100 đơn vị phát hiện tới 58 đơn vị vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ. Theo thống kê chưa đầy đủ 6 tháng đầu năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành KH&CN đã tiến hành thanh tra 2.650 cơ sở chủ yếu sản xuất hàng hóa thiết yếu như xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi... đã xử lý 437 đối tượng vi phạm. Theo ông Nguyễn Hùng Dũng Cục trưởng Cục Quản lý thị trường thì những vụ xâm phạm tập trung ở những loại hàng hóa như rượu, nước giải khát, mỹ phẩm - những mặt hàng được tiêu thụ nhiều. Hiện các doanh nghiệp chưa thật quan tâm đến việc xác lập các quyền về sở hữu công nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung, chỉ có 10% doanh nghiệp có ý thức tự bảo vệ sản phẩm, mới có 25% doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức chủ động trong việc phát hiện và ngăn chặn việc làm giả các sản phẩm, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi của mình. Có rất ít doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp so với tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Số doanh nghiệp nộp đơn đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp cũng không cao so với doanh nghiệp nước ngoài. Ðến năm 2005, số đơn xin cấp văn bằng bảo hộ sáng chế chỉ chiếm 4,5%, giải pháp hữu ích là 60%, kiểu dáng công nghiệp là 86,39% so với doanh nghiệp nước ngoài. Nền kinh tế Việt Nam hiện đang có những bước tiến cơ bản, một số mặt hàng đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và vươn ra thị trường ngoài nước như sữa Vinamilk, giầy dép Biti”s, bánh Kinh Đô, cà phê Trung Nguyên, Bóng Động Lực, gạch Đồng Tâm... Song trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam lao đao vì bị mất thương hiệu ở nước ngoài cùng những vụ kiện cáo về thương hiệu trong nước đã xảy ra. Đặc biệt, trong quá trình Việt Nam đang nỗ lực để chuẩn bị gia nhập WTO và thực hiện các điều khoản của hiệp định thương mại Việt - Mỹ thì vấn đề đăng ký bảo hộ quyền SHCN càng trở nên bức xúc, nguy cơ doanh nghiệp bị”nốc ao” ngay tại thị trường nội địa sẽ còn lớn hơn nhiều. Hàng hoá từ mọi nơi đều có thể nhanh chóng thâm nhập nước ta, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cạnh tranh với chính mình mà còn với vô số nhà sản xuất nước ngoài. Do vậy, trước khi muốn đưa hàng hoá vào bất kỳ thị trường nào, việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là đăng ký bảo hộ quyền SHCN. Theo các chuyên gia về SHCN bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam sau hàng loạt hàng hoá có tiếng của Việt Nam bị mất ở thị trường nước ngoài là do không đăng ký bảo hộ quyền SHCN. Còn ở trong nước đã có nhiều vụ kiện, tranh chấp sở hữu thương hiệu giữa các doanh nghiệp. Thực tế, chỉ khi nào thương hiệu bị xâm phạm, hoặc có nguy cơ bị xâm phạm hay bị mất trên thị trường thì doanh nghiệp mới tính đến việc làm thủ tục đăng ký. Hai doanh nghiệp Biti’s và Trung Nguyên được đánh giá là hai đơn vị tiên phong trong đầu tư xây dựng thương hiệu trong nước nhờ chất lượng và phong cách phục vụ độc đáo cũng mắc phải sai lầm khi đưa sản phẩm vào thị trường nước ngoài. Sản phẩm Biti’s vào thị trường quốc tế từ năm 1995, khi hình thành hệ thống phân phối sản phẩm, Biti’s mới đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để đảm bảo yêu cầu về pháp lý. Khi đó, một thương hiệu khác phát âm gần giống Biti’s đã được đăng ký bảo hộ trước. Còn với cà phê Trung Nguyên, do việc đăng ký thương hiệu được tiến hành sau khi xuất khẩu sản phẩm và nhượng quyền kinh doanh thương hiệu ở thị trường Nhật, Mỹ đã làm thiệt hại hàng triệu đô la cho Trung Nguyên vì các đối tác của Công ty đã đăng ký trước. Nhìn chung, các doanh nghiệp còn yếu về nhận thức pháp luật, các nhà sản xuất chỉ lo đến việc làm ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh và tìm được thị trường xuất khẩu, họ không hiểu rằng để tiến hành đăng ký bảo hộ quyền SHCN cho sản phẩm phải trước 6 tháng đến 1 năm khi muốn đưa sản phẩm của doanh nghiệp vào bất kỳ thị trường nào ở nước ngoài. Doanh nghiệp thường chỉ tiến hành đăng ký bảo hộ khi có sản phẩm, có thị trường xuất khẩu đó sẽ là quá muộn. Ngoài ra, nhiều thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bị xâm phạm do các đối tác nước ngoài lợi dụng sự yếu kém, thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm về pháp luật, nhẹ dạ cả tin để “nẫng”tay trên. PHẦN 3 . MỘT SỐ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ VI PHAM VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC XỬ PHẠT VI PHẠM A. Một số biện pháp hạn chế vi phạm quyền sở hữu công nghiệp,naang cao hiệu quả xử phạt Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có tỷ lệ vi phạm quyền sở hữu công nghiệp vào loại cao nhất thế giới. Các công trình phải mất rất nhiều thời gian, sức lực, kinh phí nhưng sản phẩm của người sáng chế vừa mới làm ra đã bị sao chép hoặc làm nhái. Tình trạng này đã đẩy không ít nhà sáng tạo vào tình thế “dở khóc, dở cười”, không còn muốn cống hiến cho nghiên cứu sáng tạo nữa. Do đó, đẩy mạnh công tác ngăn chặn đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.Dưới đây là một số biện pháp hạn chế và nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm 1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về sở hữu công nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao hiểu biết của xã hội,đặc biệt là các doanh nghiệp Sở hữu công nghiệp đối với các nước phát triển trên thế giới là môt vấn đè được quan tâm từ khá lâu rồi,tuy nhiên khái niệm này mới được đưa vào Việt Nam những năm gần đây và còn khá mới mẻ.Do đó việc hiểu biết và nhận thức về tầm quan trọng của sở hữu công nghiệp đối với việc thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh,phát triển kinh tế xã hội của các doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung còn rất hạn chế.Vì vậy cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục ,phổ biến pháp luật vế sở hữu công nghiệp đến đông đảo mọi người để họ hiểu rõ được tầm quan trọng của nó .Phải không ngừng nâng cao nhận thức của toàn xã hội về việc tạo ra và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Nội dung và tầm quan trọng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được tuyên truyền, tập huấn đến các tầng lớp trong xã hội, từ nhà quản lý đến các doanh nghiệp, người sáng tạo và người tiêu dùng thông qua việc tổ chức các hội thảo, lớp tập huấn đến các tầng lớp trong xã hội, từ nhà quản lý đến các doanh nghiệp, người sáng tạo và người tiêu dùng thông qua việc tổ chức các hội thảo, lớp tập huấn, các cuộc triển lãm, các chương trình tuyên truyền trên đài truyền hình, truyền thanh, báo viết.... Trên thị trường hàng hóa hiện nay,các mặt hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy, nhiều người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật thiếu sự tôn trong người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm có uy tín ,chất lượng,làm nhái kiểu dáng gây nhầm lẫn dối với người tiêu dùng. Do đó người tiêu dùng khi mua những sản phẩm này phải cảnh giác,có hiểu biết về các quyền sở hữu này mới bảo vệ được lợi ích chinh đáng của mình. Trong vi phạm sở hữu công nghiêp, doanh nghiệp là đối tượng được hưởng lợi và cũng là đối tượng bị xâm hại. Để hạn chế vi phạm về sở hữu công nghiệp,một nhân tố quan trọng quyết định đó chính là từ phía ban thân các doanh nghiệp.Các doanh nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn nạn làm hàng giả, bảo vệ quyền SHCN,hạn chế các vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Doanh nghiệp là chủ sở hữu các đối tượng SHCN cần hiểu rằng ngoài nỗ lực của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp cần phải quan tâm hơn nữa tới công việc bảo hộ quyền SHCN. Thường các doanh nghiệp không nghĩ rằng đăng ký bảo hộ quyền SHCN cũng như làm giấy khai sinh cho một đứa trẻ mới ra đời, không thể chờ đến khi trẻ đến tuổi đi học mới làm giấy khai sinh. Những doanh nghiệp có tư tưởng lớn làm ăn lâu dài, trứơc tiên phải đăng ký thương hiệu ở những thị trường có ý định quảng bá sản phẩm. Chỉ khi doanh nghiệp đăng ký quyền SHCN thì các cơ quan chức năng mới có cơ sở để bảo vệ họ, và lâu dài thì chính nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp... đăng ký đó sẽ trở thành tài sản của doanh nghiệp trong tương lai, thậm chí có giá rất lớn nếu công việc kinh doanh của họ phát đạt. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần có ý thức hợp tác với các cơ quan chức năng trong việc xử lý chống xâm phạm. Nhiều trường hợp, theo cơ quan công an phản ánh khi phát hiện được vi phạm đến doanh nghiệp thông báo thì họ lại ngần ngại không muốn bị lôi cuốn vào chuyện xử lý do tâm lý sợ nếu xử lý vi phạm thì hàng hoá của doanh nghiệp sẽ bị mang tiếng và việc tiêu thụ sẽ khó khăn hơn. Như vậy, nếu các doanh nghiệp muốn làm ăn lớn, muốn có thị trường xuất khẩu thì việc đăng ký bảo hộ quyền SHCN phải đi trước một bước trong chiến lược kinh doanh, điều này có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan và địa phương trong hoạt động thực thi quyền sở hữu công nghiệp Hiện nay, ở Việt Nam có tới 6 cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ gồm: công an, toà án, quản lý thị trường, hải quan, thanh tra chuyên ngành (khoa học công nghệ và văn hóa - thông tin), ngoài ra còn có UBND địa phương. Tuy đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ của từng ngành nhưng vẫn tồn tại thực tế là các ngành chức năng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chồng chéo, giẫm chân lên nhau, gặp đâu làm đấy, dễ làm khó bỏ, sự phối hợp còn hạn chế ,nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp.Mặt khác,hiện nay hoạt động vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ngày càng phức tạp, đa dạng và tinh vi cả về phương thức và thủ đoạn.Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả xử phạt và nhằm hạn chế việc vi phạm sở hữu công nghiệp cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan có chức năng, có sự phân công cụ thể ,rõ ràng chức năng,thẩm quyền của cá cơ quan này để tránh gây phiền hà cho các doanh nghiệp khi dến giải quyết các tranh chấp ,vi phạm. Các lực lượng thanh tra, hải quan, thị trường, biên phòng, công an... phải phối hợp cùng thực thi, đồng thời đào tạo kiến thức và tuyên truyền pháp luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết về vấn đề sở hữu trí tuệ. Việc tăng cường phối hợp, liên kết giữa các bộ, ngành sẽ giúp xử lý nhanh, gọn, đúng tiến độ các vụ việc vi phạm, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế thế giới Bên cạnh đó cũng cần phải sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi. Phân công lại chức năng, quyền hạn của từng cơ quan theo hướng bố trí một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận, thụ lý các đơn yêu cầu xử lý hành chính, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý có đủ các chế tài xử lý và có hình phạt cao về mức tiền và xử lý tang vật, quy định cụ thể hơn về việc tước giấy phép kinh doanh. Quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép, cơ quan phối hợp cưỡng chế sau khi có quyết định xử phạt hành chính. Doanh nghiệp cần chủ động phối hợp thường xuyên, kịp thời với các cơ quan chức năng trong việc đấu tranh chống tệ nạn này. Xây dựng một hệ thống tòa án có khả năng giải quyết các khiếu nại, tố cáo vi phạm sở hữu trí tuệ. Hải quan phải có quy định ghi tên nhãn hàng hóa nhập khẩu trên tờ khai, cơ quan thuế có quy định ghi tên nhãn hàng hóa trên hóa đơn mới coi là hóa đơn hợp lệ chi, như vậy hàng giả khó lưu thông trên thị trường. 3. Bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan để nâng cao hiệu quả xử lý, răn đe và trấn áp, kể cả các biện pháp hành chính như phạt tiền và xử lý hình sự Một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ngày một gia tăng nhiều hơn đó là các quy định về sở hữu công nghiệp và hành vi xâm phạm sở hữu công nghiệp còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tố tụng dân sự năm 2005, Luật Hải quan năm 2002… và trong nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật, pháp lệnh nêu trên. Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng và hành vi xâm phạm các quyền sở hữu này lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự với pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội sản xuất, buôn bán hàng giả chưa cập nhật được những nội dung mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, chưa phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, như Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Do đó nhằm tạo niềm tin cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả việc xử phạt ,giải quyết các vi phạn liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, tạo sự thông thoáng trong môi trường pháp lý,chúng ta cần phải ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các quy định về xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, hàng giả mạo; giải quyết các nội dung liên quan giữa tên miền (thuộc quản lý của Bộ Bưu chính-Viễn thông) và nhãn hiệu (thuộc quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ), giữa cạnh tranh không lành mạnh (thuộc quản lý của Bộ Thương mại) và cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp (thuộc quản lý của Bộ Khoa học và Công.Trên cở sở dó đáp ứng được các yêu cầu cấp bách của xã hội và phù hợp với các nước trên thế giới. Mặt khác,từ trước tới nay, vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu được xử lý hành chính. Đáng ra theo luật, vấn đề này cần phải kiện ra toà nhiều thì mỗi năm cũng chỉ có không quá 10 trường hợp được xử tại toà dân sự. Tỷ lệ này là quá ít, không cân đối, chưa đáp ứng với thông lệ quốc tế. Do số vụ xử lý bằng biện pháp hành chính là chủ yếu, các vụ kiện xử lý tại toà dân sự thì quá ít nên tính răn đe kém và khả năng bồi hoàn thiệt hại là rất thấp. Nếu theo quy định xử phạt hành chính thì khung mức độ xử phạt có thể đến 100 triệu đồng nhưng chưa có vụ vi phạm nào ở Việt Nam phạt đến ngưỡng này mà mới chỉ dừng ở mức 30-40 triệu đồng. Chính điều này là một trong những lý do để tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn cao với mức độ nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, các quy định mới đã đề cao trách nhiệm chủ thể quyền yêu cầu bên vi phạm chấm dứt và khuyến khích đưa ra xét xử tại tòa dân sự. Các chu trình đưa đến xử lý tại toà dân sự cũng rõ ràng hơn, chi ly cụ thể từng thiệt hại và có quy chuẩn. Mức phạt vi phạm sở hữu công nghiệp cũng đã thay đổi nặng hơn và có thể gấp đến 5 lần tổng giá trị hàng hoá vi phạm. Toà án cũng có thể đưa ra các biện pháp tạm thời thu giữ các đối tượng vi phạm. Tòa án có vai trò quan trọng trong xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trước khi xử phạt hành chính có hoạt động hòa giải, thương lượng. Nếu xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn vi phạm thì đề nghị ra cơ quan trọng tài. Mặc dù cùng với xử phạt hành chính thì theo Luật sở hữu trí tuệ có giải pháp đền bù thiệt hại gây nên cho chủ sở hữu hoặc người tiêu dùng. Việt Nam đang nghiên cứu đến xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự. Việc xử lý dân sự hay hình sự sẽ phải đưa ra tòa án.Sự tham gia của toà án trong việc giải quết các tranh chấp ,vi phạm về sở hữu công nghiệp mới có thể giải quyết dứt điểm còn xử lý hành chính và các giải pháp khác chỉ có tính chất ngăn chặn chứ không dứt điểm.Trên cơ sở đó có cò có tính chất răn đe,ngăn chặn cá hành vi vi phạm Đặc biệt trong Luật sở hữu trí tuệ, các Nghị định 105,106 mới đã có hẳn một Ban chỉ đạo về sở hữu trí tuệ tầm quốc gia, liên bộ thay vì trước đây chỉ có Ban 127 để chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, nhất là các quy định của pháp luật cho đội ngũ làm công tác bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp Trong giai đoạn hiện nay các hành vi vi phạm được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật /giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài. Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một số người còn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, công nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ đã gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người, tác động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại. Đội ngũ làm công tác bảo vệ sở hữu công nghiệp như nhân viên hải quan, quản lý thị trường, công an kinh tế…Đội ngũ này rất quan trọng không những bảo vệ tốt các quyền sở hữu này mà còn xử lý tốt các trường hợp lợi dụng, vì mục đích không lành mạnh gây thiệt hại cho các doanh nghiệp nước ngoài làm giảm uy tín của hệ thống pháp luật nước ta.Tuy nhiên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ này còn hạn chế. Do đó để có thể phát hiện và xử lý chính xác các hành vi vi phạm cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ công chức này có đủ khả năng,kiến thức, hỗ trợ về mặt kinh phí, thiết bị trong việc phát hiện, xử lý hàng hóa xâm phạm,giúp xử lý tốt công việc được giao. Ngoài ra cũng cần phải có một kế hoạch hành động cụ thể trong đào tạo kiến thức trong đó cần đào tạo trình độ cao hơn ở mức độ đại học. B. Hải quan trong việc nâng cao năng lực phòng chống các hành vi vi phạm sở hữu công nghiệp Là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, đấu tranh với các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, hải quan được xem là một trong những cơ quan thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp(SHCN)quan trọng nhất. Do có khả năng phát hiện, ngăn chặn được hàng hóa vi phạm quyền SHCN từ đầu nguồn trước khi thâm nhập vào các kênh thương mại, lực lượng hải quan luôn là một trong những cơ quan có khả năng bảo hộ quyền SHCN quan trọng, mang lại hiệu quả cao. Thời gian qua, lực lượng thực thi của Hải quan Việt Nam đã kiểm soát, phát hiện và xử lý thành công một số vụ vi phạm quyền SHCN tại cửa khẩu biên giới với giá trị lớn, tổng số tiền xử phạt lên tới hàng tỷ đồng, hàng hóa vi phạm đã bị xử lý tiêu hủy theo đúng quy định. Tổng cục Hải quan đã tiếp nhận và xử lý nhiều đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát có liên quan đến SHCN đối với hàng hóa của các nhãn hiệu nổi tiếng như Nokia, Chanel, Nike, Seiko, HP, Epson, Smirnoff, Gucci, Casio, Ensure, Oral-B, New Eracap… Công tác thực thi bảo hộ quyền SHCN của cơ quan hải quan bước đầu đã được cộng đồng doanh nghiệp và xã hội quan tâm. Tuy nhiên, trong bối cảnh hoạt động xâm phạm quyền SHCN tại cửa khẩu ngày càng phức tạp, đa dạng và tinh vi cả về phương thức và thủ đoạn, công tác đấu tranh bảo vệ quyền SHCN, chống hàng giả còn tương đối mới mẻ, việc xác định giá trị của lô hàng vi phạm chưa phù hợp giữa Luật hình sự và Luật SHTT để từ đó làm cơ sở cho việc xem xét, quyết định hay áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính hay xử theo luật hình sự.Cơ quan hải quan chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác khai thác, thu thập, phân tích thông tin và áp dụng quản lý rủi ro vào đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái có liên quan đến hàng hóa xuất, nhập khẩu.Một trở ngại không nhỏ đối với công tác thực thi là doanh nghiệp vẫn chưa thật sự quan tâm phối hợp với cơ quan hải quan trong việc bảo vệ quyền SHTT. Cụ thể là hoạt động trao đổi, phối hợp giữa cơ quan hải quan với các chủ sở hữu quyền SHTT, chủ nhãn hiệu hàng hóa trong việc cung cấp thông tin liên quan đến hàng hóa, người xuất khẩu, nhập khẩu vi phạm; hỗ trợ về mặt kinh phí, thiết bị trong việc phát hiện, xử lý hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, hàng giả; động viên kịp thời cá nhân phát hiện bắt giữ hàng hóa xâm phạm còn hạn chế. Một số chủ sở hữu quyền, đại diện pháp lý về SHTT của chủ sở hữu quyền chưa hiểu rõ hoạt động của cơ quan hải quan. Những điều bất cập trên dẫn đến hoạt động thực thi bảo hộ quyền SHCN của lực lượng hải quan thời gian qua đã phát sinh nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác. Do đó để công tác bảo hộ quyền SHCN của lực lượng hải quan thực sự hiệu quả, quan trọng nhất là sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời của các doanh nghiệp, chủ sở hữu quyền.Các doanh nghiệp, các chủ sở hữu quyền SHCN cần chủ động hơn nữa không chỉ trong việc cung cấp thông tin về bản thân doanh nghiệp, hàng hóa của mình mà còn chủ động trong việc phát hiện những hành vi vi phạm quyền SHCN của các cá nhân, tổ chức để cơ quan hải quan và các cơ quan thực thi kịp thời ngăn chặn, xử lý vi phạm.Mặt khác cũng cần tăng cường đào tạo,bồi dưỡng ,nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ hải quan ; trang bị thêm các trang thiết bị mới ,hiện đại phục vụ đắc lực cho công tác điều tra. KẾT LUẬN Có thể khẳng định rằng sở hữu công nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của mỗi đất nước.Từ khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được đưa vào hầu hết các thoả thuận đa phương cũng như song phương về tự do hoá thương mại cũng như hợp tác kinh tế giữa các quốc gia. Điển hình và khởi nguồn là việc đưa sở hữu công nghiệp trở thành một vấn đề chính của Tổ chức thương mại thế giới WTO.Với vai trò quan trọng đó,bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền này trở thành vấn đề cấp bách hiện nay.Đề tài mà em trình bày về vi phạm sở hữu công nghiệp và xử phạt vi phạm ở Việt Nam ở trên chỉ là một mảng nhỏ trong các vấn đề liên quan đến sở hữu công nghiệp.Qua việc nghiên cứu đề tài ta hiểu rõ hơn về các hành vi vi phạm sở hữu công nghiệp,cũng như việc xử phạt vi phạm ở nước ta.Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ các quyền sở hữu này,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị định 106/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp Nghị định 103/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp Luật sở hữu trí tuệ Luật Hải quan Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính Giáo trình kinh tế hải quan 1 MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31302.doc
Tài liệu liên quan