Trong qua trình tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành đề tài trên, Một lần nũa đã khẳng định rằng: việc lamg và thất nghiệp đang là vấn đề nóng bỏng và bức xúc nhất trong các vấn đề xã hội ở nước ta hiện nay. Trong bài viết em đã nêu ra những lý luận chung về việc làm để thấy rằng việc làm và chính sách việc làm có vị trí và vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống xã hội. Đồng thời em cũng đau ra những số liệu về tình hình việc làm ở nước ta trong những năm vừa qua. Và cuối cùng là một số giải pháp nhằm giải quyết và tạo việc làm ở nước ta trong thời gian tới.
Do thời gian và trình độ hạn chế, cho nên trong bài viết sẽ khó tránh khỏi những sai sót, do đó em rất mong được sự chỉ bảo và những ý kiến hướng dẫn cảu thầy để em hoàn thành tốt hơn đề tài này và những đề tài sau nữa. Một lần nũa em xin chân thành cảm ơn thầy Đỗ Hoàng Toàn đã giúp em hoàn thành đề tài này.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việc làm ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ kinh tế vĩ mô, việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng. Lao động, việc làm luôn là bài toán hóc búa cho các quốc gia, dù phát triển cao, hay còn ở trình độ lạc hậu. Trạng thái của một nền kinh tế có thể được đánh giá qua khẳ năng tạo và giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.Tạo được nhiều việc làm tốt và ổn định, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp là 2 nội dung của mục tiêu việc làm. Đối với nước ta giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế, xã hội được đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Sau đây là vài nét về tình hình lao động ở nước ta hiện nay.
1 Về số lượng và cơ cấu lao động .
Về số lượng lao động .
Tính đến ngày 1.7.2000 tổng số nhân khẩu đủ từ 15 tuôỉ trở lên thực tế thường trú trong toàn quốc là 54.269.789 người, chiếm 69,85% dân số thường trú của cả nước. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 16 đến 60 tuổi , nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi ) là 46.249.428 người , chiếm 59, 53%
Năm 2000, khu vực thành thị số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên chiếm 73,59% dân số thường trú thực tế trong khu vực, nhân khẩu trong độ tuổi lao động chiếm 64,41% ở khu vực nông thôn, các con số này là 68,15% và 58,03%
Về cơ cấu lao động.
Lao động ở thành thị có xu hướng tăng. Năm 1996, lực lượng lao động ở thành thị chiếm 19.06%, năm 1997 tăng lên 20,20%, năm 1999 là 22,28%, năm 2000 là 22,56%. Lực lượng lao động ở nông thôn vận động theo xu hướng ngược lại – tỷ lệ giảm hàng năm là 0,7%; năm 1996 tỷ lệ lực lượng lao động ở nông thôn là 80,94% và năm 2000 là 77,44%. Lao động trong các nghành nông lâm và ngư nghiệp, từ 67% năm 1996 giảm xuống còn 61% năm 2000, tăng tỷ lệ lao động trong các nghành công nghiệp, xây dựng, từ 13% năm 1996 lên 17,6% năm 2000 ; Dịch vụ từ 19,5% năm 1996 lên 23% năm 2000 . Tuy nhiên số lao động tuyệt đối trong khu vực nông –lâm –ngư nghiệp vẫn tiếp tục tăng , làm tăng sức ép việc làm ở nông thôn ,trong khi khu vực công nghiệp chưa có khả năng thu hút mạnh lao động nông nghiệp .
Lao động trẻ chiếm bộ phận lớn trong lực lượng lao động trong cả nước . Đây là bộ phận lao động năng động , sáng tạo , có khả năng nắm bắt tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến áp dụng vào sản xuất . Năm 2000, nhóm lực lượng lao động trẻ (từ đủ 15 tuổi đến 34 tuổi ), chiếm 50.04% năm 1998 là 52,58% ;Năm 1996 là 55,82%. Nhóm lực lượng lao động trung niên (từ đủ 35 đến 54 tuổi ) chiếm 43,26% ; năm 1998 là 40.31% , năm 1996 là 35,60% .Nhóm lực lượng lao động cao tuổi (từ đủ 55 tuổi trở lên) chiếm 6,70% năm 1998 là 7,10% ; năm 1996 là 8,58% . Tính bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 lực lượng lao động trẻ của cả nước giảm gần 1,4% ; lực lượng lao động cao tuổi giảm gần 4,92% và lực lượng lao động trung niên tăng xấp xỉ 7,7%
.Về chất lượng lao động .
Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở nước ta ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm từ 26,67% năm 1996 xuống còn 22,1% năm 1999. Số người tốt nghiệp cấp II, cấp III tăng lên không ngừng.trong đó tăng nhanh nhất là số người tốt nghiệp cấp III, bình quân hàng năm số người đã tốt nghiệp cấp III trong tỏng lực lượng lao động tăng 10,4% với mức tang tuyệt đối là 541,5 ngàn người.
trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nước ta cũng tăng lên. Cả nước tính đến ngày 1/7/2000 số lao động đã qua đào tạo có 5.996.007 người, chiếm 15,52% so với tổng số. Vùng Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất (21,00%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (9,56%); Đồng bằng Sông Cửu Long (10,03%); Đồng Bằng Sông Hồng (20,9%), các vùng còn lại tỷ lệ đều thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước và dao động trong khoảng tù 13- 15%. Đối với khu vực thành thị, Hà nội có tỷ lệ này cao nhất(44,28%) tiếp theo là thành phố Hồ chí minh (28,7%) Hải phòng( 28,8%) Đà nẵng(23,7%).
Túnh riêng hai khu vực thành thị và nông thôn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng tăng lên, song tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của khu vực thành thị lớn hơn hẳn so với khu vực nông thôn. Lực lượng lao động đã qua đào tạo phân bổ không đồng đều trên cả nước, tập chung chủ yếu ở khu vực đô thị, dẫn đến tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Cơ cấu lao động có đào tạo vẫn tiếp tục bị mất cân đối . Tình trạng “thừa thầy , thiếu thợ ” (đặc biệt là thợ có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động) luôn diễn ra
Về tình hình giải quyết việc làm
Hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động đang là vấn đề nan giải ở nước ta . Chính phủ đã xác định giải quyết việc làm là hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế –xã hội .Năm 2000, đã giải quyết được việc làm cho khoảng 1,3 triệu lao động cụ thể như sau:
Giải quyết việc làm trong nước 1,27 triệu; xuất khẩu lao động 3 vạn người
Giải quyết việc làm theo các khu vực: công nghiệp và xây dựng 33-35 vạn; nông –lâm –ngư nghiệp (kể cả dịch vụ trong nông lâm ngư nghiệp ) 55-60 vạn lao động
Khu vực đô thị tạo được khoảng 28 vạn chỗ làm việc mới , khu vực nông thôn tạo ra gần 1 triệu chỗ làm việc mới
Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm thu hút 32 vạn lao động (Tạo việc làm mới là 14 vạn, có thêm việc làm là 18 vạn)
Tuy vậy, tình hình thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở nước ta vẫn còn gay gắt. Trong 61 tỉnh , thành phố vẫn còn tới 11 tỉnh , thành phố có tỷ lệ thất nghiệp từ 6,5% đến 7% , 14 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp từ 6% đến 6,5% , chỉ có 27 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp dưới 6%. Trong hoàn cảnh hiện nay sức ép về việc làm ở khu vực thành thị , nhất là ở các thành phố lớn sẽ có chiều hướng gia tăng , do nhiều nguyên nhân trong đó cơ bản là :
-thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế , cải cách hành chính và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước , số lao động trong khu vực hành chính thời gian tới sẽ giảm
-số lao động chưa có việc làm dồn lại từ các năm trước , thêm vào đó là số học sinh , sinh viên mới ra trường chưa tìm được việc làm
-Việc di dân tự do từ nông thôn ra thành thị tìm việc , đặc biệt trong thời kỳ nông nhàn ngày càng tăng , tạo sức ép về việc làm, tăng tỷ lệ thất nghiệp đối với khu vực thành thị.
Tình hình việc làm ở khu vực nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn. Theo kết quả điều tra ngày 1/7/2000 của bộ lao động thương binh và xã hội, tỷ lệ thời gian lao động cho hoạt động lao động của dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn đạt 74,2% , tăng 1% so với năm 1999 nhưng vẫn thấp hơn so với dự kiến mà đại hội VIII đã đề ra là trên 75% vào năm 2000. Việc làm nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu phụ thuộc vào đất canh tác. Đất canh tác bình quân đầu người thấp gây ra tình trạng thiếu việc làm tương đối của khu vực nông thôn . Hiện nay, trung bình mỗi lao động nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng chỉ sử dụng hết 26 ngày công trên diện tích 1 sào đất 1 vụ(1 vụ trong sản xuất nông nghiệp thường kéo dài từ 3-4 tháng).đây chính là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng di dân của một bộ phận lớn lao động nông thôn ra thành thị để tìm việc làm tăng thu nhập ngày càng tăng.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2005 : tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng 6% , tỷ lệ quỹ sử dụng thời gian lao động nông thôn :80% (chỉ tiêu này được Bộ lao động thương binh và xã hội nêu ra trong “Báo cáo tổng kết công tác năm 2000” của ngành )đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa của đảng và nhà nước , sự cố gắng nâng cao trình độ văn hoá , tay nghề của người lao động để có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời gian tơí .
II Thực trạng về việc làm ở nước ta trong thời gian qua
Xu hướng tăng trưởng việc làm hàng năm
Từ năm 1991 đến năm 2000 số người có việc làm từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu ,tăng 31,0% (trung bình mỗi năm tăn gần 3,1 %). Nhìn chung , việc mới được tạo ra hàng năm có xu hướng gia tăn trong suốt cả thời kỳ . Nếu như trong thời kỳ 1991-1995, số việc làm tăng thêm bình quân hàng năm là 863 ngàn ngưòi thì thời kỳ 1996-2000 là 1,2 triệu người (tăng 39% so với thời kỳ 1991-1995). Như vậy tốc độ tăng hàng năm về việc làm bình quân luôn theo kịp tốc độ tăng hàng năm của lực lượng lao động ; Suất đầu tư trung bình hàng năm cho một chỗ làm việc mới khoảng 393 triệu đồng trong đó công nghiệp quốc doanh khoảng từ 42 triệu đến 50 triệu , tiểu thủ công nghiệp khoảng 10 triệu đồng, nông lâm ngư nghiệp khoảng 15 triệu đồng , dịch vụ từ 27 triệu đến 30 triệu đồng , đầu tư nước ngoài 400 triệu (số liệu Bộ kế hoạch đầu tư).Tăng trưỏng kinh tế cao đã góp phần giải quyết việc làm và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động , trong giai đoạn 1992-1997 GDP tăng trưởng với tốc độ trung bình là 9,1% trong khi lao động tăng 3,1%
Như vậy trung bình tăng trưởng 3% GDP sẽ tăng 1% việc làm
Thực trạng việc làm và cơ cấu lao động theo nhóm nghành kinh tế
Chúng ta dễ dàng nhận thấy , cơ cấu lực lượng lao động thay đổi rất chậm , mặc dù sản lượng và cơ cấu kinh tế thay đổi rõ nét. Những năm qua tỷ trọng nông nghiệp giảm , tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng.Tỷ trọng lao động trong các khu vực, năm 1993: nông nghiệp 71,7%; công nghiệp 11,3%; dịch vụ 17,0%, đến năm 1999 tỷ trọng tương ứng là 69%; 12,1%;18,9%. Điều đó phản ánh tốc độ tăng trưởngvề sản lượng và tốc độ tăng trưởng lao động trong các khu vực là rất khác biệt. Trong giai đoạn 1993- 1999 tốc độ tăng sản lượng của nông nghiệp là 4,2%, công nghiệp là 12,7%, dịch vụ là 8,2%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng lao động trong giai đoạn này của nông nghiệp là 1,7%, công nghiệp là 4,1%, dịch vụ là 4,8%. Như vậy, cứ 2,5% tăng trưởng sản lượng trong nông nghiệp sẽ dẫn đến việc làm tăng trưởng 1%. Trong khu vực dịch vụ chỉ cần 1,7% tăng trưởng sản lượng sẽ dẫn đến tăng thêm 1% việc làm. Trong khu vực công nghiệp thì phải có 3% tăng trưởng sản lượng mới tạo được 1% tăng việc làm. Có thể nói khu vực nông nghiệp vẫn là nơi tạo việc làm nhiều nhất, sau đó dẫn đến khu vực dịch vụ và cuối cùng là khu vực công nghiệp. Vấn dề cần quan tâm ở đây là, tỷ trọng sản lượng công nghiệp trong những năm qua đẫ tăng từ 1/4 lên 1/3 trong tổng sản lượng, nhưng tỷ trọng lao động vẫn rất nhỏ chỉ bằng 1/9-1/10 tổng số. Thực tế cho thấy khu vực nông nghiệp gặp khó khăn trong việc tạo việc làm là điều dễ hiểu bởi thu nhập của lao động nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với các khu vực khác và khoảng cách này sẽ ngày càng gia tăng. Tốc độ gia tăng việc làm trong khu vực này sẽ chậm lại, vì tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ khó có thể vượt quá 4% trong khi đó lực lượng lao động gia tăng và lương lao động tồn đọng trong khu vực nông nghiệp lại quá lớn. Do vậy, khu vực nông nghiệp có thể thu hút được bao nhiêu lao động gia tăng trong tương lai là một vấn đề rất quan trọng, cần phải xem xét kỹ. Hiện nay, khoảng 70% lực lượng lao động hoạt động trong khu vực nông nghiệp, những năm qua mỗi năm khu vực này thu hút thêm 600.000 lao động. Tuy nhiên, trong tương lai mức gia tăng lao động trong khu vực nông nghiệp sẽ thấp hơn nhiều.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế.
Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước giảm liên tục từ 14,7% lao động xã hội( năm 1985) xuống dưới 9% vào giữa những năm 90 và gần đây có xu hướng tăng trở lại, song cũng chỉ đạt 9% vào năm 2000. Lộ trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước những năm tới sẽ làm cho việc gia tăng việc làm ở khu vực này không còn giữ được tốc độ “khiêm tốn” như thời gian vừa qua. Theo tính toán trong 5 năm tới, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể thu hút 3% số người mới gia nhập lực lượng lao động. Như vậy, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể đóng góp một phần nhỏ trong giải quyết việc làm.
Khu vục kinh tế hộ gia đình và ngoài quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong tạo việc làm mới( chiếm 90% chỗ làm việc mới được tạo ra hằng năm); trong đó, 113.000 trang trại đã thu hút khoảng 678.000 lao động( tính bình quân khoảng 6 triệu lao động/ trang trại).
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư cho công nghệ còn ít, đầu tư cho một chỗ làm việc còn thấp song vẫn thể hiện một tiềm năng và ưu thế trong tạo việc làm. Hiện nay có khoảng 41.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ( không kể doanh nghiệp hộ gia đình), chiếm 96% số doanh nghiệp của cả nước, đã tạo ra 32% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, đóng góp 25% vào GDP của cả nước và thu hút gần 49% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Chỉ tính riêng năm 2000, sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực, dã có 13.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập, tạo thêm việc làm cho hàng chục vạn người.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài( FDI) kể cả dịch vụ lẫn công nghiệp, từ năm 1993 đến 1998 đã tiếp nhận thêm 300.000 công nhân. Những năm gần đây, lượng vốn FDI thu hút được có giảm xuống dẫn đến tốc độ thu hút lao động giảm. Chính phủ dự kiến nâng mức FDI mỗi năm thu hút được lên 2 tỷ USD bằng với giai đoạn trước, mức đầu tư trên mỗi việc làm cũng có thể giảm từ 30.000 USD xuống còn 20.000 USD nếu có nhiều dự án định hướng xuất khẩu hơn và ít dự án sử dụng nhiều vốn hơn.Với sự tính toán trên, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
( FDI) sẽ giải quyết thêm được 100.000 việc làm mỗi năm, bằng 8-9% lực lượng lao động gia tăng hằng năm.
Thực trạng việc làm trong khu vực thành thị và nông thôn.
Năm 2000 lực lượng lao động khu vực thành thị có trên 8,7 triệu người, chiếm 22,56% lao động cả nước. Tỷ lệ này có xu hướng tăng lên( năm 1996 là 19,06% và năm 2000 là 22,56%). ở khu vực nông thôn, tình hình diễn ra theo chiều hướng ngược lại, giảm từ 80,94% năm 1996 còn 77,4% năm 2000. Như vậy, về cơ bản nông thôn vẫn là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lao động xã hội. Tuy nhiên khu vực nông thôn lại là nơi thiếu việc làm nghiêm trọng. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn của lực lượng trong độ tuổi năm 1998 là 71,13%, so với năm 1997 giảm 2,01%. Số người thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tập trung nhiều nhất ở lứa tuổi 15-34 tuổi (29,39%) và nhóm tuổi 35-44 tuoioỉ là 21,29%. Tình trạng thiếu việc làm trong nông thôn là do diện tích dất nông nghiệp bình quân trên đầu người rất thấp, chi phí sản xuất đất nông nghiệp lại tăng lên, hiệu quả sản xuất giảm trong khi đó, dịch chuyển cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn diễn ra chậm chạp. Trong tuơng lai mức tăng lao động trong hku vực nông thôn sẽ thấp hơn nhiều. Điều này xảy ra có thể do một số nguyên nhân sau:
Một là, những năm tới tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ diễn ra theo xu hướng giảm về số lượng, tăng về giá trị. Điều này xuất phát từ thị trường của một số mặt hàng bão hoà (gạo, cà phê, cao su), người nông dân sẽ tập trung vào sản xuất những loại sản phẩm có chất lượng và giá trị cao hơn thay vì chỉ đơn thuần gia tăng số lượng. Theo hướng này việc gia tăng giá trị có thể không cầnthêm quá nhiều lao động như việc gia tăng sản lượng trước đây.
Hai là, thu nhập trong nông nghiệp rất thấp so với các khu vực khác, dân đến khả năng thu hút lao động kém đi, người lao động sẽ tìm kiếm việc làm ở các khu vực khác.
Ba là, những người mới gia nhập lực lượng lao động thường có trình độ văn hoá khá hơn, có đủ khả năng làm những công việc phi nông nghiệp. Thực tế cho thấy, những người này sẽ hướng tới những công việc ở thành thị hay ít do nhất cũng là công việc phi nông nghiệp. Với những lý do trên, khu vực nông nghiệp trong những năm tới chỉ có thể thu hút được thêm khoảng 250.000 lao động mỗi năm, bằng 20% mức tăng trưởng lao động hàng năm.
5/ Thực trạng việc làm thông qua các chương trình mục tiêu.
Từ 1991 – 2000 đã tiến hành xuất khẩu lao động sang 38 nước và vùng lãnh thổ, số lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng. Hiện tại đang có khoảng 250.000 lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài và hàng năm cso khoảng gần 1 tỷ USD chuyển về nước cho các gai đình.
Hoạt động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm và các chương trình mục tiêu khác từ năm 1992 đến nay đã thu hút được 3 triệu lao động (trong đó có 1,4 triệu người có việc làm mới và 1,6 triệu người có thêm việc làm ). Ngoài ra các chương trình mục tiêu khác như xoá đói giảm nghèo, chương trình 327, 733,... cũng góp phần tích cực tạo việc làm mới hoặc tạo thêm việc làm cho người lao động. Kết quả tạo việc làm qua các chương trình mục tiêu khác được thể hiện ở bảng sau:
Kết quả tạo việc làm qua các chương trình mục tiêu khác giai đoạn 1991 – 2000
đơn vị 1000 người
Chương trình
1991 - 1995
1995 – 2000
1991 – 2000
1. Xoá đói giảm nghèo
120
380
500
2. chương trình Việt – Tiệp, EU, Đức
250
250
500
3. Chương trình 327, 773
480
520
1000
4. Chương trình tín dụng nông thôn và các chương trình khác.
1730
1970
3700
Cộng
2580
3120
5700
ngoài các chương trình mục tiêu trên, các chương trình sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các nghành dệt may và da giầy đã tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động/1 năm nuôi trồng thuỷ sản cũng là một mũi nhọn xuất khẩu và tạo việc làm mới cho người lao động.
các chương trình về mục tiêu quốc gai về việc làm 2001 – 2005 được tiến hành trên 3 lĩnh vực : đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia, phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu tố thế trong thị trường lao động có nhu cầu việc làm. Trong đó, phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm là lĩnh vực cơ bản có ảnh hưởng quyết định đến việc làm tăng hoặc giảm chỗ làm việc ổn định cũng như cơ cấu lao động của lực lượng lao động xã hội trong mối quan hệ nhân quả có tính hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phát triển và ổn định việc làm , chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Theo tính toán từ các chương trình mục tiêu cho thấy các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn phần đầu đưa tốc độ tăng trưởng gía trị tổng sản lượng ngành nông nghiệp (bao gồm : nông lâm ngư nghiệp )tăng bình quân hàng năm 2001-2005 đạt trên 4% và đến năm 2005 thu hút được thêm 1,3 –1,4 triệu lao dộng.
các chương trình phát triển công nghiệp và xây dựng phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng công nghiệp , xây dựng tăng bình quân hàng năm trên 12% và đến năm 2005 thu hút được thêm 2,4-2,5 triệu lao động .
Các chương trình phát triển các ngành thương mại , dịch vụ phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng khu vực dịch vụ bình quân hàng năm trên 7% và đến năm 2005 thu hút được thêm 1,8-1,9 triệu lao động .Như vậy , thông qua các chương trình đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng của mỗi khu vực kinh tế nói chung qua tổng GDP cả nước nói chung , đến năm 2005 tính chung cho cả nước sẽ có khoảng 40 triệu 7,5 ngàn người có việc làm thường xuyên ; cơ cấu lao động xã hội là 60,04-17,98-21,98
III/ những thành tựu và tồn tại trong việc giải quyết việc làm thời gian vừa qua
1/ những thành tựu đạt được
trong giai đoạn 1996- 2001 cả nước đã tạo ra 6,1 triệu chỗ làm việc (bình quân mỗi năm tạo ra thêm trên 1,2 triệu chỗ làm việc mới, so với giai đoạn1990-1995 chỉ tạo được khoảng 90 vạn chỗ làm việc mới mỗi năm, thì đây là một thành tích đáng kể).
Nhìn lại đầu những năm 90, tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị là 10% hoặc trên 10%,
, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 65-67% thì đến năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị giảm xuống còn 6,5% , năm 2001 tỷ lệ thất nghiệp là 7,4% tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn nâng lên xấp xỉ 74% năm 2001. Cơ cấu lao động cũng có bước chuyển dịch rõ rệt. Từ chỗ lao động nông nghiệp chiếm 67,5% năm 1996 đã giảm xuống còn 61,3% năm 2001 và số lao động và dịch vụ trong công nghiệp tăng tương ứng từ 32,5% lên 38,7%
Chất lượng lao động cũng được nâng lên : tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 10% năm 1996 lên 20% năm2001 trong đó số lao động qua đào tạo nghề là 13,4%.
Kể từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương , đường lối , chính sách đúng đắn trong hoạch định việc làm , tạo ra những nhân tố mới làm thay đổi nhận thức và phương thức giải quyết việc làm . Việc ban hành bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn đã tạo ra hành lang pháp lý lao động việc làm tương đối hoàn chỉnh , mặt khác chúng cũng từng bước được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn , đã tạo điều kiện thúc đẩy phát triển quan hệ lao động và thị trường lao động .Trong điều kiện mới , pháp luật đã khuyến khích ngưòi lao động năng động và chủ động tạo việc làm, tìm kiếm việc làm , khuyến khích người sử dụng lao động đầu tư tạo mở việc làm.
Bên cạnh giải quyết việc làm thông qua phát triển kinh tế , nhà nước còn tổ chức các hoạt động trực tiếp hỗ trợ việc làm và phát triển thị trường lao động thông qua quỹ quốc gia hỗ trợ phát triển việc làm, tổ chức điều tra lao động việc làm hàng năm , tổ chức hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, cung cấp tư vấn về chính sách , thông tin thị trường lao động , chắp nối cung cầu lao động ....Số lao động được hỗ trợ tạo việc làm từ quỹ quốc gia bằng khoảng 25-30% số việc làm được tạo ra hàng năm . Các trung tâm dịch vụ việc làm đã cung cấp dịch vụ tư vấn cho gần 2 triệu lượt người , bổ túc nghề gắn với việc làm cho 70 vạn người , giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho gần 90 vạn người
Một số tồn tại trong vấn đề giải quyết việc làm
Các kết quả tạo việc làm , giảm thất nghiệp ở đô thị , tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn chưa đạt mục tiêu kế hoạch năm 1996 –2000 đề ra , cả nước chỉ tạo được 6,1 triệu chỗ làm việc(Bằng khoảng 90% kế hoạch), tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị vẫn là 6,4% (Cao hơn so với mục tiêu là 5%) tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn chỉ đạt 74% (Chỉ tiêu là 75%)
Chất lượng lao động còn thấp , cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 20% , trong đó kể cả lao động qua đào tạo ở bậc đại học , chuyên nghiệp và dạy nghề . Bình quân mỗi năm chỉ giảm được 1,2% lao động khu vực nông thôn để chuyển sang khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Thị trường lao động còn chưa phát triển . Một trong những chỉ báo quan trọng nhất của thị trường lao động là tỷ lệ lao động có quan hệ lao động(Quan hệ giữa người sử dụng lao động và ngưòi lao động thông qua hợp đồng lao động) tỷ lệ này phản ánh về mặt số lượng người trong thị trưòng.Hiện tại , tỷ lệ lao động trong quan hệ lao động mới chỉ khoảng 20% (Điều tra lao động việc làm năm 2000, Bộ lao động thương binh và xã hội)Bên cạnh đó , cung lao động đang có khoảng cách khá xa đối với cầu lao động.
Hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của ngưòi lao động và ngừoi sử dụng lao động . Cán bộ dịch vụ việc làm hầu như chưa được đào tạo, trang thiết bị còn lạc hậu .
Hệ thống thông tin thị trường lao động , thông tin quản lý lao động việc làm còn yếu kém , chưa đảm bảo yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ , chính xác , kịp thời cho công tác chỉ đạo , tổ chức thực hiện và hoạch định chính sách lao động việc làm .
Trong 5 năm tới , tạo việc làm cho ngừoi lao động chịu những tác động khách quan và chủ quan của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Tác động của các công cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế , các doanh nghiệp trong nước đứng trước những thách thức nghiêm trọng , trong đó có vấn đề đảm bảo và duy trì chỗ làm việc cho người lao động.Bên cạnh đó là sức ép về việc làm do số đông người trong độ tuổi lao động gia tăng , sức ép về chuyển đổi chất lượng lao động , việc làm và hiệu quả việc làm hết sức gay gắt
phần C một số giải pháp tạo việc làm trong các năm tới
mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 , như đã xác định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng, là giải quyết việc làm cho 7,0 –8,0 triệu người , giảm tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị xuống dưới 6% nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% , đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, trong đó đào tạo nghề là 22% vào năm 2005 .
Để đạt được mục tiêu trên , qua tham khảo kinh nghiệm các nước và thực tiễn giải quyết việc làm ở nước ta những năm qua cho thấy trong thời gian tới chúng ta phải có những giải pháp cụ thể và sát thực đối với vấn đề giải quyết việc làm .
I đối với khu vực thành thị
Đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động
Theo dự báo thì dân số nước ta sau 10 năm tới khoảng 89 triệu ngừoi , với trên 25 triệu sống ở thành thị .Việc đào tạo nghề cho người lao động ỏ thành thị , nhất là lao động trẻ luôn là vấn đề bức xúc . Hiện thời , tỷ lệ thất nghiệp , thiếu việc làm ở thành thị đang có xu hướng tăng lên . Đồng thời lại xuất hiện tình trạng thiếu lao động trình độ cao cho một số nghành công nghiệp và dịch vụ.
Bản dự thảo “chiến lược đào tạo nghề ” có lẽ tập trung chủ yếu đào tạo nghề cho khoảng 8-10 triệu lao động mới trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong 10 năm tới , nghĩa là chủ yếu hướng vào lao động trẻ của khu vực thành thị.
Trước tiên cần phải nói rằng chiến lược đào tạo này chỉ liên quan đến đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp và trung cấp , còn việc đào tạo nghề cao cấp lại thuộc về các trường đại học và cao đằng , nghĩa là có một sự thiếu “toàn cảnh ” . Cũng vì vậy theo dự báo đến năm 2010 có khoảng 56,8 triệu người trong độ tuổi lao động , nhưng trong bản dự thảo này mới xét đến việc đào tạo nghề của khoảng 44 triệu lao động(sơ cấp và trung cấp)
Trong bản dự thảo có chia hệ thống tạo nghề thành ba cấp trình đô
a/Bán lành nghề(đào tạo ngắn hạn)
b/Lành nghề(đào tạo ngắn hạn)
c/Lành nghề trình độ cao(trình độ tay nghề ở bậc trung cấp và caođẳng) ở mỗi cấp người lao động có thể chưa lành nghề,lành nghề và rất lành nghề. Như vậy loại a,và b, là sơ cấp ngắn hạn và sơ cấp dài hạn (như trước đây gọi là đào tạo công nhân bậc thấp và công nhân bậc cao). Với hai loại này, nói chung là dành cho những người đã tốt nghiệp tiểu học hoặc THCS .Tuy nhiên quan điểm cho rằng loại a, “vẫn chiếm phần lớn trong tổng số lao động được đào tạo hàng năm” thì cần phải xem xét thêm. Có thể đó là tinh thể cảu vài năm trước mắt vì nói chung ở các thành phố có thể đạt phổ cập THCS vào năm 2005. Hơn nữa số đào tạo loại a, không dễ tham gia và thích nghi nổi thị trường lao động, luôn bị nguy cơ thất nghiệp đe doạ, thu nhập kém và cuối cùng cũng phải đào tạo lại để “giảm nghèo” cho họ. Đối với loại b, cũng có vấn đề phải thường xuyên bổ túc ngắn hạn mới đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp và dịch vụ hiện tại, kể cả XKLĐ. Về loại c, thì cần làm rõ là làm thế nào để họ có tay nghề ở bậc cao đẳng nếu họ không học ở trường cao đẳng?
Thực ra xu hướng đào tạo nghề của thế giới hiện nay hết sức đa dạng, nhưng tập trung laị họ có hai bậc trình độ : đại học/ cao đẳng; (trung cấp/ PTTH) + 2 năm chúng ta nên thử tham khảo.
với chương trình 3000 tỷ đồng cho 3 loại hình đào tạo nghề nêu trên, nghĩa là khoảng 300 tỷ một năm thì khó có thể đạt được mục tiêu đặt ra. Do đó vấn đề đổi mới cơ chế đào tạo nghề, huy động tối đa tiềm lực của xã hội, khuyến khích mọi loại hình đào tạo nghề là rất cần thiết, cần làm rõ hơn, chi tiết hơn, nhất là phần tham gia của các doanh nghiệp.
2/ phát triển các lĩnh vực, ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm cảu lao động thị trường.
Tập trung ưu tiên phát triển các ngành có yêu cầu kỹ thuật cao phục vụ liên kết kinh tế, phát triển sản xuất, dịch vụ, giao lưu hàng hoá thông suốt trong vùng và với bên ngoài tạo ra xuất khẩu để phát huy cao độ khả năng nguoòn lao động trẻvà đội ngũ lao động kỹ thuật đông đảo, có trình độ học vấn cao, có khả năng tiếp thu và chuyển dịch tiến bộ kỹ thuật và tác phong công nghiệp ... Đây sẽ là địa bàn tạo ra năng suất lao động cao, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo tích lớn cho nền kinh tế – xã hội cho các vùng xung quanh.
Để thực hiện phương hướng phát triển trên, phải đẩy mạnh phát triển cso kế hoạch nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích nhiều hình thức kinh doanh đa dạng, trong đó ngày càng phát triển cac hình thức kinh doanh dựa trên sự đan xen hỗn hợp nhiều loại sở hữu. Kinh tế quốc doanh tiếp tục được củng cố và phát triển trong những ngành và cơ sở có trình độ công nghiệp cao, đòi hỏi đầu tư lớn. Kinh tế hợp tác xã là loại xí nghiệp có cổ phần cho người lao động tụ nguyện góp vốn, góp sức ... tiến hành những hoạt động mà từng người, từng gai đình có vị trí quan trọng trong việc khai thác về vốn, sức lao động, tay nghề, tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm, dịcu vụ cho xã hội và tăng thu nhập cho gia đình; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước phát triển theo luật định. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển.
các chính sách và cơ chế quản lý nền KTQD phải khia thác và phát huy mọi tiềm năng cảu các thành phần kinh tế, các hình thức hợp tác liên doanh, liên kết giữa các cơ sở, các thành phần kinh tế giữa các vùng lãnh thổ và với bên ngoài để giải quyết việc làm cho người lao động. Phải có quan niệm đúng về việc làm cho người lao động ... Nhà nước XHCN phải có trách nhiệm hướng dẫn và đào tạo cơ hội cho mọi ngươig phát huy được khả năng làm chủ sức lao động của mình. Người lao động được tự chọn việc làm và nơi làm việc, đồng thời phải chịu sự lựa chọn của người sử dụng lao động làm ra của cải cho xã hội trong khuôn khổ luật pháp và chính sách lao động đều được khuyến khích.
Vi vây, phải đổi mới chníh sách cư trú và hộ khẩu, phải ban hành luật lao động, thực hiện chế độ hợp đồng lao động và cấp sổ lao động thay đổi chế độ “biến chế suốt đời”; phải khuyến khích việc tổ chức và mở rộng các loại hình đào tạo, dạy nghề, đào tạo lại nghề cho mọi người có nhu cầu học nghề và tìm việc làm; hình thành và mở rộng hệ thống dich vụ giới thiệu và sắp xếp việc làm cho người lao động ở các đại phương thực hiện chế độ làm việc “mềm” ... đồng thời nâng hệ số ca làm việc cho người lao động và tích cực tìm các khả năng hợp tác quốc tế để giải quyết việc làm cho người lao động.
Trách nhiệm và khả năng giải quyết việc làm là cảu toàn xã hội, trong đó từng cá nhân, từng gia đình, từng tổ chức kinh tế – xã hội ở mỗi đại phương và của Nhà nước phải có trách nhiệm chủ động lo toan. Các tổ chức kinh tế xã hội ở mỗi địa phương phối hợp ở mỗi địa phương phối hợp với tổ chức chính quyền tổ chức các trung tâm dạy nghề hoặc dạy nghề tư nhân, kèm cặp trong từng xí nghiệp, họp tác xã. . . Tổ chức dịch vụ giới thiệu việc làm là chiếc cầu nối giữa người lao động với các đơn vị sản xuất, dịch vụ trong thị trường sức lao động; luật lao đọng và chế độ hợp đồng lao đọng bảo đảm quyền lợi cho người lao động và tổ chức sử dụng lao động bảo đảm quyền lợi cho người lao động và tổ chức sử dụng lao động.
3/ Phát triển hình thức gai công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu.
Đây cũng là hướng rất lớn để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi gia công xuất khẩu là một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta là lao động rẻ, dễ tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới, lại có nguồn nguyên liệu trong nước, tại chỗ dồi dào. Vì vậy hướng phát triển gia công xuất khẩu ở Việt Nam là phải đa dạng hoá mặt hàng, trước hết là mặt hàng có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giầy, gốm sứ, lắp ráp điện tử, xe gắn máy . . . và mở rộng thị trường, nhất là thị trường khu vực Châu á Thái Bình Dương. Bước đi của hướng này là từ thấp đến cao, có thể theo các giai đoạn sau:
Giai đoạn I : Chúng ta có lao động, đất, mặt bằng nhận gia công cho nước ngoài để có việc làm, lấy tiền công là chủ yếu, còn công nghệ, trang thiết bị, vốn, thị trường do đối tác nước ngoài lo.
Giai đoạn II : Sau khi tích luỹ được vốn, chúng ta có thể góp một phần vốn cùng với đối tác nước ngoài tổ chức sản xuất- kinh doanh, xuất khẩu để lấy tiền công là chủ yếu và một phần ăn chia theo lợi nhuận. ở giai đoạn này đối tác nước ngoài vốn là người chủ yếu đảm bảo đầu tư vốn, công nghệ, trang thiết bị và thị trường tiêu thụ.
Giai đoạn III : Khi trong nước chủ động thị trường, tích luỹ đủ vốn ban đầu thì chuyển sang giai đoạn liên doanhvới đối tác nước ngoài hoặc tụ tổ chuức sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tiến tới hội nhập với thị trường và nề kinh tế thế giới.
Trong những năm trước mắt, hình thức gai công ở giai đoạn I là chủ yếu, vì vậy chúng ta phải tính toán gia công để có thể cạnh tranh đúng đối tác nước ngoài, thu hút được nhiều vốn đầu tư. Trong điều kiện đó, nhiều khi chúng ta phải chấp nhận giá gia công thấp hơn so với một số nước khác trong khu vực. Theo hình thức này có thể áp dụng hình thức làm việc tại nhà cho phụ nữ, để vừa kết hợp với phát triển kinh tế, vừa tạo điều kiện cho phụ nữ chăm sóc con cái, phụ vụ gia đình.
II/ Đối với khu vực nông thôn.
1/ Xây dựng các chương trình đồng bộ phát triển nông thôn mới XHCN.
Giải quyết tình trạng lao động thừa ngày càng tăng và sức mua thấp kém ở nông thôn theo hướng phát triển kinh tế tổng hợp với cơ cấu hợp lý, khai thác được lợi thế cảu từng địa phương bằng các chính sách khuyến khích người lao động tậpỷtung đầu tư khai thác có hiệu quả toàn bộ đất bằng thâm canh, tăng vụ, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý nhằm đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích, không phân chia máy móc đất nong nghiệp và đất rừng; khuýen khích đầu tư khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích tại chỗ (các gò bãi, các ao hồ, các bãi bờ ven sông . . . ) đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, các ngành nghề, đặc biệt là các ngành nghề truyền thống ở các đại phương, các ngành chế biến nông lâm, thuỷ sản băng nguyên liệu tại chỗ và trao đổi với nước ngoài . . . phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, để xây dựng và cải tạo lại nhà ở nông thôn theo quy hoạch, thực hiện ngói hoá nông thôn theo quy hoạch, thực hiện ngói hoá nông thôn, khuyến khích xây dựng nhà cao tầng (2-3 tầng) để tiét kiệm đất,hạn chế tình trạng mất đất do dân số tăng lên đi đôi với đẩy mạnh kế hoạch hoá gai đình, xây dựng gia đình văn hoá mới, Phát triển mạnh các ngành dịch vụ phụ vụ sản xuất và đời sống; mở rộng nhanh mạnglưới điện ở những vùng nong thôn cá điều kiện.
Tích cực xây dưng thuỷ điện nhỏ miền núi; mở mạng lưới giao thông nông thôn và hệ thống các phương tiện vân tải thích hợp với điều kiện caủ từng vùng, mở rộng hệ thống thông tin, truyền thanh, truyền hình, cụm văn hoá cơ sở, trường học, bệnh viện . . . từng bước đô thị hoá, hình thành các điểm dân cư đô thị nhỏ mới trên cơ sở các cụm công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế nông thôn . . . phần lớn dân cư lao động vẫn sống ở nông thôn, nhưng số người chuyên làm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) giảm xuống, số lao động và thời gian lao động trong các ngành nghề ngoài nông nghiệp tăng lên, cả về số lượng tuyệt đối lẫn tỷ trọng nhằm giải quyết căn bản vấn đề việc làm ở nông thôn và đẩy nhanh quá trình đô thị hoá.
Nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện đang thiếu đất và dôi thừa lao động, khả năng khai hoang, tăng vụ tại chỗ vẫn còn nhưng không nhiều; trong thời kỳ 1991 – 2005, trung bình mỗi kế hoạch 5 năm tăng thêm 1 triệu lao động, hướng chính tạo việc làm vẫn là phát triển nông nghiệp toàn diện để nâng cao hiệu quả việc sử dụng thời gian lao động, phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, các nghành nghề truyền thống và các ngàng gia công phụ vụ xuất khẩu
Miền núi và tây nguyên yêu cầu bức thiết là phải tiến hành định canh, định cư cho 2 triệu đồng bào dân tộc ít người còn đang sống du canh du cưtheo hướng gaio đất, gaio rừng, thực hiện nông lâm kết hợp và knih doanh tổng hợp nghề rừng, nuôi trồng, khôi phục, bảo vệ và làm giầu vốn rừng, phát triển cây công nghiệp, xuất khẩu và thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế với các nước . . . Từng bước tiếp nhận thêm lao động và dân cư yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội cảu vùng qua từng giai đoạn .
Đồng bằng sông cửu Long mỗi kế hoạch 5 năm tăng thêm 1,5 triệu lao động, với hệ số sử dụng ruộng đất và cơ cấu kinh tế như hiện nay đã và đang trở thành vùng thừa lao động. Phải tập trung đầu tư cho thuỷ lợi, xây dựng đồng ruộng để khai hoang, tăng vụ thay đổi cơ cấu cây trồng hợp lý và phát triển công nghiệ, tiểu thủ công nghiệp, trước hết là các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản, công nghiệp phụ vụ nông nghiệp và các ngành cấu trúc hạ tầng và các ngành dịch vụ khác để giải quyết đủ việc làm cho người lao động và xây dựng nông thôn mới XHCN ở đây.
2/ Phân công lại lao động và thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động.
Để tạo thêm việc làm cho các vùng nông thôn ta phải từng bước làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm dần số hộ thuần nông để giải phóng đất đai, khắc phụtình trạng bình quân đầu người diện tích đất nông nghiệp quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề thực hiện người nào giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở gaio đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất – kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Đa dạng hoá việc làm và đa dạng hoá thu nhập phải trở thành hình thức phổ biến trong nông thôn, đặc biệt là phát triển mạnh mẽ việc làm phi nông nghiệp, xí nghiệp nhỏ ở nông thôn.
Trong điều kiện Việt Nam, nhiều năm tới gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất – kinh doanh. Phấn đấu bình quân 1 hộ (2 lao động) làm 1,5 – 2 ha đất canh tác đất nông nghiệp, Song phải đặc biệt khuyến khích phát triển các hình thức hơph tác tụ nguyện ở quy mô trên hộ gia đình (hợp tác liên gia đình, nhóm hộ, hợp tác xã kiểu mới), đồng thời mở rộng hình thức sản xuất – kinh doanh theo kiểu nông trại, trang trại, là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả và phù hợp vơí nền kinh tế thị trường.
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn, nhưng cần ít vốn và hường vào xuất khẩu như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình, khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, có giá trị kinh tế cao, các làng nghề gắn liền với đô thị hoá nhỏ nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ (đặc biệt là trên các trục đường giao thông); khuyến khích người có vốn, có kỹ thuật ở thành phố về đầu tư phát triển việc làm ở nông thôn, hình thành hệ thống dịch vụ sản xuất và sinh hạot con thoi giữa thành thị và nông thôn.
III. Đối với lao động nữ
1/ Đề ra những chính sách hỗ trợ, tạo điêug kiện thuận lợi đối với lao động động nữ.
có chính sách đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp với cơ cấu nền kinh tế dang chuyển đổi. Đây là chính sách rất quan trọng vì trong qua trình chuyển dịch nền kinh tế, cơ cấu lao động cũng phải chuyển dịch cho phù hợp. Có như vậy cung và cầu lao động trên thị trường mới cân đối, và khả năng lao động có việc làm nới lớn.
Khuyến khích người chủ tăng cườn tuyển dụng và sử dụng lao động nữ bằng những chính sách cụ thể, đặc biệt lĩnh vực có nhiều lao động nữ. Trong đó trước là chính sách tín dụng với thành lập doanh nghiệp . . .
Ưu tiên các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực hoạt động phù hợp với lao động nữ (may xuất khẩu, khu vực phi nông nghiệp, phi kết cấu, làm việc tại nhà, gai công xuất khẩu, hình thức làm việc với thời gian biểu linh hoạt).
Đảm bảo trên thực tế quyền bình đẳng của lao động nữ trong mọi quan hệ lao động (tiền lương, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động . . .) thuộc mọi thành phần kinh tế, trong các hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh và ở các khu vực(vùng)... Điều đó có nghĩa là mọi quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nữ phải được đảm bảo như lao động nam. Song phụ nữ phải thực hiện chức năng tái sản xuất xã hội, vì vậy mọi chi phí xã hội phát sinh khác với lao động bình thường, chỉ có ở lao động nữ( thai sản, chăm sóc con nhỏ, thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình...) phải tách ra khỏi chi phí sản xuất và được bù đắp bằng ngân sách đầu tư cho chính sách xã hội, có như vậy người sử dụng lao động mới quan tâm đến thu hút lao động nữ vào làm việc. Nếu tính trong chi phí thì phải giảm thuế lợi tức cho người sử dụng lao động vơí mức tương ứng.
Thực hiện chính sách xã hội trợ giúp cho lao động nữ gặp hoàn cảnh éo le, bất trắc hoặc khó khăn đặc biệt( phụ nữ goá bụa, sống cô đơn, tàn tật, nghèo...) Trong đó, đặc biệt là chính sách tín dụng cho vay với lãi suất nâng đỡ để tạo việc làm hoặc xoá đói giảm nghèo cho các hộ gia đình phụ nữ nói trên.
Để giải phóng tiềm năng lao động nữ và thực hiện chính sách xã hội đối với phụ nữ, vấn đề quan trọng là chính sách là phải tìm ra các giải pháp khả thi. Có thể nêu lên một số giải pháp duới đây.
Thực hiện một số chương trình quốc gia nhằm đảm bảo việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo khổ cho phụ nữ như: chương trình xoa đói giảm nghèo, trước hết là cho phụ nữ nghèo ở nông thôn, vùng núi, vùng đồng bào các dân tộc, vùng có nhiều thiên tai mất màu, chương trình quốc gia ngăn ngừa và bài trừ tệ nạn xã hội (mại dâm, nghiện hút...) và chống tội phạm; chương trình đào tạo, dậy nghề , chuyển giao công nghệ, hướng dân phụ nữ làm kinh tế gia đình.
Thể chế hoá một số chính sách về quan hệ lao động có tính đặc thù cảu lao đonọg nữ (nghỉ đẻ, thời gain làm việc linh hoạt, nghề cấm sử dụng lao động...)
Tạo điều kiện vật chất giúp phụ nữ phát triển kinh tế và thực hiện các chức năng xã hội như: lập quỹ xoay vòng cho phụ nữ vay để phát triển kinh tế gia đình từ quỹ quốc gia giải quýet việc làm. Khuyến khích các nhóm tiết kiệm, các nhóm “tự cứu”, các nhóm tín chấp của phụ nữ. Lập quỹ xoa đó giảm nghèo, trợ giúp phụ nữ làm knih tế gia đình thông qua tổ chức quần chúng của phụ nữ để cho phụ nữ nghèo vay với lãi xuất thích hợp. Phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm của phụ nữ, trung tâm giáo dục, chữa bệnh, dạy nghề và tạo việc làm cho phụ nữ thuộc đối tượng tệ nạn xã hội.
Tăng cường vai trò của các hội phụ nữ, các cán sự xã hộ, đặc biệt là ở cơ sở làng, xã trong qua trình tham gia vào thực hiện chính sách việc làm cho phụ nữ.
2/ Mở rộng các ngành nghề phùhợp với lao động nữ, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình. Hình thức tổ chức kinh tế đang thu hút việc làm lớn nhất của phụ nữ, ở cả nông thôn và thành phố, là kinh tế gia đình.
Ngành kinhntế đang thu hút việc làm lớn nhất của phụ nữ đến nay vẫn là ngành nông nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp). ở thành phố các ngành dịch vụ và sản xuất tiểu thủ công đang thu hút đông đảo lao động nữ.
Đặc biệt với việc đổi mới kinh tế, đổi mới cách quản lý kinh doanh, nhiều xí nghiệp, cơ sở sản xuất quốc doanhdang giảm biên chế hay giải thể. Số đông người phải nghỉ việc lại là phụ nữ. Con số này lại bổ sung thêm vào hàng ngũ tiểu thương, dịch vụ, tiểu thủ công tư nhân.
Vì vậy, nghiên cứu sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng để xem xét quá trình tạo việc làm tăng thu nhập và năng cao địa vị xã hội của người phụ nữ.
Trong cơ cấu nước ta hiên nay, kinh tế hộ gia đình đang là hình thức tổ chức sản xuất lao động cơ bản nhất, có tính phổ biến, đặc biệt ở nông thôn.
Hoạt động trong đơn vị kinh tế hộ gia đình cho phép và đòi hỏi sự kết hợp các loại lao động trong hộ: lao động trong tuổi và ngoài tuổi, chính và phụ, nam và nữ, lao động sản xuất và lao động chăn sóc con cái, lao động bình thường và lao động cảu người tàn tật. Đối với phụ nữ khi có mang, có con nhỏ thì thực sự phân công lao động trong hộ gia đình sẽ thuận lợi và dễ dàng thu xếp.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường để sản xuất ra có thể tiêu thụ được, hộ gia đình có thể tồn tại được thì giá cả sản phẩm phải rẻ, hinh thức đẹp, chất lượng tốt. Đó là quan tâm hàng đầu của các chủ hộ, trong đó có vai trò cảu người phụ nữ trong gia đình. Trong hoạt động kinh tế gia đình, có thể người phụ nữlao đọng rất vất vả, căng thẳng giữa vợ và chồng chua chắc được bảo đảm, Sự hưởng thụ vật chất, đặc biệt là sự hưởng thụ văn hoá, nghỉe ngơi, giải trí cảu chị em vẫn hết sức thấp và vẫn còn bất công. Vai trò người chủ hộ nắm quyền quyết định mọi công việc đa phần vẫn là người chồng là nam giới. Do đó, vai trò người phụ nữ có được đề cao hay không, địa vị bình đẳng mà chị em ra sao, điều đó còn tuỳ thuộc ở điều kiện khách quan và khả năng chủ quan của họ. Chị em còn có kỹ thuật và kiến thức trong sản xuất, về áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, kiến thức kinh doanh, giá cả thị trường, kiến thức quản lý sản suất, sắp sếp, phối họp công việc trong gia đình. Người phụ nữ phải cố gắng vươn lên học tập, bồi dưỡng cho mình những kiến thức làm kinh tế gia đình đem lại thu nhập tốt và từng bước thực hiện sự giải phóng cá nhân.
Sự phát triển kinh tế hộ gia đình, hướng cơ bản để giải quyết việc làm hiện nay đặc biệt đối với phụ nữ đòi hỏi ở mỗi người lao động trong hộ, người chủ hộtinh thần cổ động rất cao và nhiều kiến thức hét sức quan trọng. Đối với người phụ nữ, vừa lao động vùa nuôi con, chăn sóc gia đình, kiến thức văn hoá vốn đã thấp lại ít có điều kiện để học tập, giao dịch, thu thập thông tin. Họ bị đặt vào những điều kiện hết sức bất lợi, bất công. Chị em phải vượt qua những khó khăn to lớn mới có thể thực hiện được vai tròngười chủ hộ quản lý nền kinh tế gia đình được tốt hơn. Đáng lưu ý là ở nước ta số phụ nữ cô đơn làm chủ hộ gia đình lại chiếm tỷ lệ khá lớn, trung bình cả nước là 20%, cá biệt có tới 50%. ở đây rõ ràng cần có sự giúp đỡ cảu nhà nước, các cơ quan và tổ chức quần chúng.
Các chính sách kinh tế – xã hội cảu nhà nước nhằm hôc trợ cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình, cần quan tâm thích đáng đến những yêu cầu riêng của người lao động nữ đang làm.
Nhà nước cung cấp thông tin kinh tế về giá cả thị trường, thị hiếu liên quan đến việc sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, tổ chức việc tiêu thụ sản phẳm trong nước và xuất khẩu, giúp đỡ chị em đi vào nên kinh tế thị trường, nâng cao kiến thức kinh doanh cho người phụ nữ là điều cần thiết hàng đầu hiện nay.
Nhà nước giúp đỡ việc đào tạo ngành nghề mới, nâng cao tay nghề cho người lao động nữ, đặc biệt chú ý đến các ngành nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho phép người phụ nữ tham gia nhiều nghề mới với thu nhập cao, không chỉ ở ngành nông nghiệp truyền thống. Hoặc nhà nước cho vay vốn với lãi xuất thấp để phát triển nghề mới, mua máy mới, công cụ cải tiến ... Cần mở mang các dịch vụ phụ vụ sản xuất với giá rẻ và chất lượng tốt. Việc phát triển những dịch vụ gia đình là hết sức cần thiết để giảm nhẹ gánh nặng công việc gia ddình cho người phụ nữ.
Kết luận
Trong qua trình tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành đề tài trên, Một lần nũa đã khẳng định rằng: việc lamg và thất nghiệp đang là vấn đề nóng bỏng và bức xúc nhất trong các vấn đề xã hội ở nước ta hiện nay. Trong bài viết em đã nêu ra những lý luận chung về việc làm để thấy rằng việc làm và chính sách việc làm có vị trí và vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống xã hội. Đồng thời em cũng đau ra những số liệu về tình hình việc làm ở nước ta trong những năm vừa qua. Và cuối cùng là một số giải pháp nhằm giải quyết và tạo việc làm ở nước ta trong thời gian tới.
Do thời gian và trình độ hạn chế, cho nên trong bài viết sẽ khó tránh khỏi những sai sót, do đó em rất mong được sự chỉ bảo và những ý kiến hướng dẫn cảu thầy để em hoàn thành tốt hơn đề tài này và những đề tài sau nữa. Một lần nũa em xin chân thành cảm ơn thầy Đỗ Hoàng Toàn đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương i : Lý luận chung về việc làm
2
I. Hệ thống các quan điểm về việc làm
2
1. Quan niệm cơ bản của thế giới về lao động và việc làm
2
1.1. Cơ cấu lực lượng lao động
2
1.2. Nội dung các khái niệm trong sơ đồ về cơ cấu lực lượng lao động và mối quan hệ giữa chúng
3
1.2.1. Lực lượng lao động
3
1.2.2. Người có việc làm
3
1.2.3. Người thất nghiệp
4
1.2.4. Những người không thuộc lực lượng lao động
6
2. Hệ thống khái niệm cơ bản về lao động và việc làm được vận dụng ở nước ta
6
2.1. Khái niệm việc làm
6
2.1.1. Việc làm
9
2.1.2. Việc làm chính, việc làm phụ
9
2.2. Lực lượng lao động
9
2.2.1. Người có việc làm
9
2.2.2. Người không có việc làm
2.2.3 Dân số không phải lực lượng lao động
10
10
II. Vị trí của chính sách việc làm
10
1. Khái niệm chính sách việc làm
10
2. Vị trí của chính sách việc làm
11
Chương II : Thực trạng việc làm hiện nay ở nước ta
14
I. Vài nét về tình hình lao động ở nước ta hiện nay
14
1. Về số lượng và cơ cấu lao động
1.1. Về số lượng lao động
1.2. Về cơ cấu lao động
2. Về chất lượng lao động
3. Về tình hình giải quyết việc làm
II. Thực trạng về việc làm ở nước ta trong thời gian qua
14
14
14
15
16
18
1. Xu hướng tăng trưởng việc làm hàng năm
18
2. Thực trạng việc làm và cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế
18
3. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế
19
4. Thực trạng việc làm trong khu vực thành thị và nông thônq
20
5. Thực trạng việc làm thông qua các chương trình mục tiêu
21
III. Những thành tựu và tồn tại trong việc giải quyết việc làm thời gian vừa qua
23
1. Những thành tựu đạt được
23
2. Một số tồn tại trong vấn đề giải quyết việc làm
25
Chương III. Một số giải pháp tạo việc làm trong các năm tới
26
I. Đối với khu vực thành thị
26
1. Đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động
26
2. Phát triển các lĩnh vực các ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của lao động thị trường
28
3. Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu
29
II. Đối với khu vực nông thôn
30
1. Xây dựng các chương trình đồng bộ phát triển nông thôn mới xã hội chủ nghĩa
30
2. Phân công lại lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động
32
III. Đối với lao động nữ
33
1. Đề ra những chính sách hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi đối với lao động nữ
33
2. Mở rộng các ngành nghề phù hợp với lao động nữ, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình
34
Kết luận
37
Tài liệu tham khảo
38
Mục lục
39
tài liệu tham khảo
sách
1.Đầu tư cho con người với vấn đề giải quyết việc làm. NXB Hà Nội 1995
2. Chính sách chế độ về vay vốn để giải quyết việc làm.NXB chính trị xã hội 1995
3.Lê Thi-Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay.NXB khoa học xã hội 1993.
4.Nguyễn Hữu Dũng – về chính sách giải quyết việc làm ở Việt nam. NXB chính trị quốc gia
5.Khoa khoa học quản lý- Đại học kinh tế quốc dân – Giáo trình chính sách kinh tế xã hội.NXB khoa học và kỹ thuật Hà nội 2000
tạp chí
Thạc sĩ Ninh Thị Minh Tâm- việc làm ở việt nam thực trạng và giải pháp Tạp chí GDLL số 4/2002
Ngô Thị Ngọc Anh- giải quyết việc làm,hạn chế thất nghiệp ở nước ta hiện nay Tạp chí GDLL số 3/2002
TS Lê Duy Đồng- Chiến lược việc làm trong 10 năm đầu thế kỷ.Tạp chí thị trường lao động số 1/ 2001
TS Vũ Đình Thắng -Về vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn.Tạp chí kinh tế phát triển số57/2002
Nguyễn Xuân Sơn- Mở rộng tín dụng ngân hàng, giải quyết việc làm mới cho người lao động ở khu vực đô thị. Tạp chí ngân hàng số 1+2/2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29533.doc