Đề tài Việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay

Nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và lâu dài đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Vì vậy cần phải tiếp tục tìm tòi nghiên cứu và đúc rút tổng kết từ thực tiễn để vấn đề này được giải quyết tốt hơn và có hiệu quả cao. Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này tác giả đã đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động cả nước nói chung và lao động trong nông nghiệp nông thôn nói riêng.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nghèo không có việc làm và thu nhập ổn định. Đây là một trong những nguyên nhân làm rộng khoảng cách giữa hộ giàu và hộ nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực xã hội. Năm 1994 chênh lệch giữa hộ nghèo và hộ giàu mới là 6,48 lần, năm 1995 là 6,99 lần, năm 1996 là 7,31 lần, năm 1997 là 7,37 lần, năm 1998 là 8,2 lần, năm 1999 8,5 lần. Hiện tượng này vẫn đang có xu hướng gia tăng, phân hoá giàu nghèo về thu nhập tất yếu dẫn đến phân tầng trong văn hoá giáo dục và nguy cơ mất việc làm của con em các hộ đói nghèo càng lớn. Về mặt xã hội thực trạng thiếu việc làm trong nông thôn đi liền với các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, buôn lậu nhiễm các bệnh nan y, dung túng cho nhiều hoạt động phi pháp. Phần lớn "cửu vạn" tiếp tay cho chủ buôn lậu dọc theo tuyến biên giới phía Bắc và phía Tây Nam là những nông dân không có công ăn việc làm hoặc có thu nhập thấp, không đảm bảo đời sống. Túng thiếu và do nhu cầu mưu sinh nên họ phải liều làm nên mặc dù biết đó là việc làm nhất thời sai trái, vi phạm pháp luật. Nếu không giải quyết việc làm cho đối tượng này thì thật khó mà ngăn chặn hữu hiệu nạn buôn lậu đang có xu hướng xé nhỏ và tinh vi hơn. Một thực trạng rất đáng quan tâm tình hình thất nghiệp ở nông thôn đã và đang hình thành một dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra các đô thị lớn vốn đã quá tải và đang chịu áp lực lớn về lao động thất nghiệp. Riêng Hà nội đã đón nhận trên 20 vạn người lao động từ các tỉnh xa chuyển về và không có cách gì ngăn chặn quản lý được. Các tệ nạn xã hội cũng từ loại lao động này phát sinh. Theo số liệu của Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình có tới 70 - 75% gái mại dâm hoạt động tại các thành phố lớn từ các địa phương được tuyển về. Như vậy, thất nghiệp trong nông thôn không chỉ là lãng phí sức lao động, kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn làm biến dạng các giá trị văn hoá truyền thống, huỷ hoại đạo đức xã hội vì thế giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. chương 3 Những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay 3.1 Những quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay Theo em, việc xác định các giải pháp nhằm thực hiện một cách có hiệu quả phân công lao động và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay cần dựa trên một số những quan điểm sau : 3.1.1 Giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay phải dựa chủ yếu vào các biện pháp tạo việc làm ngay trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn Bằng mọi cách, mọi chính sách để tạo ra một cơ cấu kinh tế trong nông thôn thu hút nhiều lao động nông nghiệp, nông thôn tức là trong nông nghiệp phải phát triển thêm một số ngành nghề sản xuất nông nghiệp có giá trị cao nhưng cần nhiều lao động (chẳng hạn như 1 ha chè thâm canh năng xuất đạt 15 tấn/ha thu hút được 10 lao động thu nhập trên 10 triệu đồng/ha...) đồng thời mở mang nhanh công nghiệp dịch vụ, nhất là công nghiệp dùng nhiều lao động. Tuy nhiên, phải đảm bảo một số ngành công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp, dùng ít vốn nhưng cần nhiều lao động, chỉ phát triển tại nông thôn như : Chế biến Nông-Lâm sản, may mặc, giầy da, sản xuất vật liệu xây dựng (như gạch, ngói ...). Khai thác tiềm năng đất đai rừng, biển. Trong tương lai gần có khả năng mở được khoảng 100.000 ha đất trồng lúa, 1 triệu ha cây công nghiệp lâu năm, trồng 3 triệu ha rừng, nuôi trồng 2 triệu ha thuỷ sản ... sẽ thu hút được khoảng 5 triệu lao động, tổng thu nhập quốc nội có thể tăng thêm 10 tỉ đô la/năm, có ý nghĩa lớn về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên nếu làm theo hướng này thì rất khó có thể triển khai nhanh và có hiệu quả. Bởi vì một trong những cách làm tốt nhất là kêu gọi mọi người có vốn được nhà nước giao đất bằng hình thức khoán hoặc thuê hoặc cho phép các công ty có vốn đầu tư và giành một phần diện tích để nhà nước giao cho hộ nghèo thực hiện các chính sách xã hội, cùng với chính sách khuyến khích các nhà đầu tư phát triển công nghiệp chế biến thì các tiềm năng trên sẽ nhanh chóng trưởng thành . 3.1.2 Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế Nguồn lao động dồi dào ở nông thôn là một thế mạnh nhưng nếu không biết sử dụng một cách hợp lý thì nó lại là một trở ngại với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy tạo việc làm, khắc phục tình trạng dư thừa lao động đang là một vấn đề bức bạch ở nông thôn hiện nay. Để giải quyết vấn đề này cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế trong việc tham gia tạo việc làm. - Kinh tế nhà nước : là một bộ phận rất quan trọng và cần thiết của nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế này hiện đang đảm nhiệm những ngành nghề cần thiết cho xã hội mà kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể không muốn, hoặc không có khả năng làm. Theo số liệu thống kê năm 1995 thì kinh tế nhà nước chiếm 42% GDP cả nước ; 90% dịch vụ công ; 82% tài chính chính ; 72% vận tải và bưu điện ; 75% công nghiệp ... Riêng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp thuỷ sản kinh tế nhà nước chỉ chiếm 3% nên số chỗ làm việc cho các thành phần kinh tế này không chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số chỗ làm việc của xã hội. Nhưng số chỗ làm việc này lại có vị trí quan trọng vì nó có tính chất ổn định nhất, được đảm bảo nhất và nhiều người lao động mong muốn. Tiền lương, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động trong thành phần kinh tế này có tác dụng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác. ở nước ta hiện nay, kinh tế quốc doanh ở nông thôn còn quá nhỏ, vì vậy cần phát triển các ngành nghề, các xí nghiệp vừa và nhỏ nhưng có lợi thế về nguồn lao động dồi dào như các doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, may mặc, dệt ... - Kinh tế hợp tác mà lòng cốt là các hợp tác xã, tuy có bị thu hẹp so với trước, hiệu quả kinh tế chưa cao, nên nó vẫn giữ vị trí quan trọng, tạo việc làm cho người lao động. Để thúc đẩy thành phần kinh tế này phát triển vấn đề quan trọng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn đào tạo lao động kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý cho cán bộ. - Kinh tế cá thể và tư nhân là thành phần kinh tế năng động đã và đang thu hút hàng chục triệu lao động, làm ra nhiều của cải cho xã hội mà nhà nước không cần bó vốn đầu tư. Hiện nay thành phần kinh tế này là một lực lượng kinh tế to lớn đang còn ở dạng tiềm năng, chưa phát huy hết sức mạnh trên nhiều lĩnh vực. Nó bao gồm hàng triệu hộ gia đình, hàng ngàn các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất kinh doanh Nông-Lâm-Ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Nó là địa bàn rộng lớn có khả năng tạo ra nhiều nhiều việc làm phong phú và đa dạng, là thành phần cơ bản quyết định việc làm cho xã hội. Vì vậy nhà nước cần thấy rõ vai trò và tiềm năng của nó để có chính sách khuyến khích phát triển nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn như Luật pháp việc tự do mua bán sức lao động, tổ chức tốt hệ thống thông tin, môi giới dịch vụ việc làm, có các chính sách hộ trợ đào tạo nghề, chính sách thuế bảo hiểm xã hội ... cho các thành phần kinh tế này có điều kiện phát triển. 3.1.3 Trên phương diện tổng thể và dài hạn giải quyết việc làm ở nông thôn phải gắn liền với chiến lược dân số và phát triển toàn diện nguồn nhân lực chung của đất nước Thực tế cho thấy với mức tăng dân số cuar nước ta hiện nay (1,7%/năm ) thì hàng năm nước ta có khoảng hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động ,càng làm tăng tỉ lệ không có việc làm ở khu vực nông thôn .Mặt khác ,do dân số nước ta tăng nhanh trong khi nguồn tài nguyên của đất nướcngà càng cạn kiệt .Do đó là một rào cản lớn trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động cả nước nói chung và lao động trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay giảm tỉ lệ sinh xuống (dưới 1%)bằng nhiều biện pháp như:kế hoạch hoá gia đình, không kết hôn trước tuổi quy định (nam 20 tuổi,nữ18 tuổi)....Từ đó làm giảm áp lực về việc làm của lao động cả nước nói chung và lao động trong nông nghiệp nói riêng. 3.1.4 Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trong trong giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta Nguồn lao động ở nông thôn nước ta đang trong quá trình phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, bao gồm nhiều ngành, nghề, trình độ khác nhau và chưa ổn định. Trong tương lai việc sử dụng nguồn lao động ở nông thôn thông qua các ngành sản xuất dịch vụ cũng như các hình thức tổ chức của chúng sẽ biến động không ngừng. Trong khi một bộ phận không nhỏ được thu hút vào các doanh nghiệp đơn vị sản xuất phát triển mạnh, bền vững thì cũng có một bộ phận phải chuyển hướng hoạt động thậm chí quay trở lại doanh nghiệp tham gia vào đội quân đang thiếu việc làm. Trong nội bộ mỗi ngành sản xuất và dịch vụ sự chuyển hoá các hình thức tổ chức, sử dụng và phát triển nguồn lao động cũng như có sự thay đổi, xu hướng chung là tăng lao động lành nghề lao động phức tạp và giảm lao động giản đơn. Để khắc phục những khó khăn vướng mắc trên cần có sự quan tâm góp sức của toàn xã hội, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng được thể hiện chủ yếu ở sự quản lý, điều tiết và tác động của nhà nước tới quá trình giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, thông qua các chủ trương, chính sách kinh tế-xã hội và các biện pháp tổ chức quản lý vĩ mô phù hợp , nhằm tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn, mà thực tế vai trò quyết định của Nhà nước trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn của các nước trong khu vực là một điển hình. 3.1.5 Giải quyết vấn đề việc cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện với các giải pháp toàn diện và đồng bộ, đồng thời cần phải có một số biện pháp mang tính đột phá Giải quyết vấn đề việc làm để đảm bảo thu nhập của người lao động và hộ gia đình, nâng cao mức sống và giảm lao động dư thừa trong nông nghiệp, nông thôn đã và đang là vấn đề cấp thiết ở nước ta do các yếu tố, điều kiện ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn đều có khó khăn và vướng mắc như cơ cấu sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, trình độ học vấn và tay nghề của người lao động nông thôn còn thấp, hệ thống dạy nghề kém phát triển, cơ sở hạ tầng của nông thôn thấp kém, thị trường nông sản và các sản phẩm nông nghiệp của nông thôn còn ách tắc ... Do vậy, để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn cần phải xác định thực thi một cách hệ thống cácgiải pháp đồng bộ, tức là cùng với quá trình đào tạo, nâng cao tay nghề thì phải nâng cao trình độ học vấn của người lao động, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn và xây dựng trang bị cho các cơ sở dạy nghề những tiến bộ khoa học công nghệ... đồng thời thực thi có hiệu quả các giải pháp tạo việc làm ngay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. 3.2 Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay Để khắc phục tình trạng thiếu việc làm và nguyên nhân của thực trạng thiếu việc làm nói trên, theo em cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tăng cường các giải pháp có tính chiến lược, cụ thể và đồng bộ dựa trên những định hướng cơ bản sau đây. 3.2.1 Thực hiện nhất quán chủ trương "Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển " để mở rộng việc làm và cơ hội để tìm kiến việc làm "Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề tạo việc làm cho người lao động". ( Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 - nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Hà nội năm 1996). Theo đó, giải quyết việc làm ở nông thôn phải là nhiệm vụ của toàn xã hội, của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức cá nhân, gia đình và cộng đồng dân cư. Phải xã hội hoá vấn đề giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế hộ, đa dạng hoá các loại hình kinh tế, các tổ chức sản xuất kinh doanh ; coi việc tự tạo lập, tìm kiếm và mở rộng việc làm của người lao động là chính. Nhà nước có sự đầu tư, hỗ trợ việc làm, đồng thời tăng cường các thể chế, chính sách tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho dân cư và người lao động chủ động tạo lập, tìm kiếm việc làm. 3.2.2 Khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực tại chỗ và lợi thế của mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ trong mỗi gia đình và cộng đồng dân cư Kết hợp giữa phân công lao động và tạo việc làm tại chỗ là chính, với quá trình phân bố, điều chỉnh lại dân cư và lực lượng sản xuất trên phạm vi toàn xã hội. Điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đa dạng hoá ngành nghề và hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh của dân cư, đa dạng hoá việc làm và thu nhập. Khuyến khích "Ai giỏi làm nghề gì thì làm nghề ấy " và chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, chế biến và các lĩnh vực hoạt động phi nông nghiệp khác. 3.2.3 Giải quyết việc làm vừa phải hướng tới mục tiêu toàn dụng nguồn nhân lực, giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn rỗi đồng thời vừa phải đảm bảo từng bước nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của lao động. Coi trọng việc làm là các hoạt động tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mang lại thu nhập, là điều kiện cho việc cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống dân cư và người lao động ở nông thôn. Đây là vấn đề có ý nghĩa kinh tế chính trị xã hội to lớn và sâu sắc nó không chỉ đòi hỏi phải tạo ra nhiều việc làm, thay đổi tính chất và hiệu quả của việc làm mà còn phải tạo ra một cơ cấu việc làm năng động, phù hợp với khả năng tiếp cận và hoạt động của người lao động thuộc các cộng đồng dân cư, các nhóm xã hội khác nhau ở nông thôn. Đặc biệt là đối với nhóm đối tượng chính sách và các nhóm xã hội yếu thế, quan tâm thích đáng đến tạo việc làm và tổ chức việc làm cho các loại lao động đặc thù (phụ nữ, vị thành niên, người già, người tàn tật...). Chú ý đến việc hướng dẫn và tổ chức việc làm cho đối tượng có công với cách mạng và dân tộc như :thương binh, gia đình liệt sỹ..., với số người nghèo trong xã hội giảm tới mức thấp nhất về số gia đình nghèo. Đối với các đối tượng này nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi đặc biệt, có đầu tư thích đáng để tạo điều kiện cho họ tham gia lao động và hoà nhập với cộng đồng xã hội. 3.2.4 Mở rộng các chính sách đầu tư Các chính sách và giải pháp giải quyết việc làm không chỉ giới hạn trong các chính sách đầu tư phát triển kinh tế hay bó hẹp trong các chương trình hỗ trợ xúc tiến việc làm của nhà nước. Trái lại cần mở rộng các chính sách và giải pháp việc làm gắn kết và lồng ghép đan xen với các chính sách và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội khác ở nông thôn. Đặc biệt là các chính sách về đầu tư, tín dụng vốn, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và chuyển giao công nghệ kỹ thuật ; chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ gia đình chính sách, cứu trợ thiên tai cũng như với các chính sách về giáo dục, đào tạo chăm sóc sức khoẻ kế hoạch hoá dân số và gia đình ... 3.3 Những giải pháp cơ bản nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay và trong những năm tới Trong những năm tới, để giải quyết cơ bản vấn đề việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông thôn cần phải có hệ thống, giải pháp đồng bộ và hữu hiệu. Theo em cần có một số giải pháp cơ bản sau: 3.3.1 Giải quyết tốt nhu cầu về vốn Việc huy động vốn và khai thác vốn trong thời gian qua còn ở mức hạn chế. Nguồn vốn từ ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn vẫn còn ít ( chiếm từ 15 - 18% so với tổng số vốn đầu tư toàn xã hội ). Lượng vốn đầu tư nước ngoài và nông thôn còn rất hạn chế, năm 1996 có 10% số dự án với số vốn khoảng 6% tổng số vốn đầu tư ; năm 1998 là 11% (30/275 dự án. Như vậy, tỷ lệ vốn đầu tư không được cải thiện. Theo tính toán sơ bộ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn 1996 - 2000 thì tổng số vốn đầu tư khoảng 12,7 tỉ USD. Do vậy những năm tới, một mặt cần tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước (có thể nâng lên mức 20% mỗi năm. Mặt khác, Nhà nước cần rà soát lại để đưa ra được những chính sách thu hút vốn đầu tư vào nông thôn như khuyến khích đầu tư nước ngoài theo tinh thần quyết định số 53/QĐ-CP, ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, công nghiệp nông thôn; chuyển giao công nghệ; đào tạo cán bộ công nhân lành nghề; cơ giới hoá và hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế-xã hội nông thôn từ miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo Phát huy vai trò và mục tiêu của nguồn vốn thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH, khai thác có hiệu quả thế mạnh nền sản xuất nông nghiệp ở Việt nam, hội nhập sản xuất nông nghiệp Việt nam với khu vực.,thúc đẩy phân công lại lao động, giải quyết tốt vấn đề việc làm ở nông thôn, giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác . Để làm rõ thêm tác dụng của nguồn vốn trong vấn đề giải quyết việc làm tác giả trình bày một hình thức vay vốn nhỏ tạo việc làm ở Ba lan. Vào thập kỷ 90 cùng với quá trình cải cách kinh tế và tư nhân hoá một số doanh nghiệp nhà nước, số người thất nghiệp ở Ba lan tăng đáng kể, đến 1993 cả nước có 3 triệu người thất nghiệp. Để thoát khỏi tình trạng này, bên cạnh việc thúc đẩy các dịch vụ lao động, nhà nước đặc biệt khuyến khích tinh thần tự tạo việc làm, tạo lập doanh nghiệp nhất là quy mô nhỏ và rất nhỏ thông qua hệ thống tín dụng với điều kiện ưu đãi. Nguồn vốn vay được thành lập từ ngân sách nhà nước, song cũng có sự tham gia của quỹ địa phương, ngân hàng phát triển kinh tế-xã hội, quý Quốc gia về phục hồi chức năng cho người tàn tật, quỹ Nông nghiệp ... Tất cả các quỹ, các tổ chức nói trên đều cho vay vốn để tạo việc làm mới sau một thời gian triển khai chương trình giai đoạn 1990 - 1997 có 140.000 dự án được vay vốn tạo việc làm cho 300.000 người. Đánh giá chính sách nói trên thấy nổi bật 2 ưu điểm đó là : - Về phía người vay vốn hộ không chỉ tự tạo việc làm cho mình mà còn cho cả người khác tự bỏ được mặc cảm, tâm trạng yếu thế khi thất nghiệp, củng cố lòng tự tin. - Về phía nhà nước : Đạt được mục tiêu giảm thất nghiệp ; chuyển đổi khoản chi tiêu thụ động từ trợ cấp thất nghiệp sang hình thái chi tiêu tích cực, chủ động. Ngân sách cân bằng trở lại nhờ giảm trợ cấp thất nghiệp, tăng thu thuế giá trị gia tăng. Đến nay ở Ba Lan có 2,4 triệu doanh nghiệp trong đó 2,3 triệu thuộc khu vực kinh tế tư nhân với 2,1 triệu là loại nhỏ và rất nhỏ. Những doanh nghiệp này thu hút hơn 11 triệu lao động và đóng góp 40% GDP. 3.3.2 Đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng chuyên môn-kỹ thuật nhằm tăng nhanh chất lượng của đội ngũ lao động nông thôn dự báo năm 2002 dân số nước ta khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực có trên 46 triệu. Tổng số lao động nông thôn phải qua đào tạo năm 2000 vào khoảng 5,2 triệu người (hiện tại số lao động đã qua đào tạo có trên 1,2 triệu người ) tức là bình quân mỗi năm và trong những năm tới phải đào tạo thêm trên 1 triệu người. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn. Do vậy, trong những năm tới để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp, nông thôn và để đạt được mục tiêu đến năm 2010 sẽ có 15% lao động qua đào tạo nghề (năm 1999 theo điều tra về lao động-việc làm, tỉ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật là 7,8% nhưng theo dự án dạy nghề cho nông dân hiện nay chỉ có 0,44% lao động nông thôn được đào tạo nghề (kinh tế Việt nam ngày 28/2/2000) cần phải áp dụng hệ thống đồng bộ nhiều biện pháp, theo em cần có một số biện pháp chủ yếu sau : - Xây dựng chương trình và nội dung học tập thiết thực cho nông nghiệp, nông thôn. Chương trình và nội dung học tập cần phù hợp với trình độ của lao động nông nghiệp, nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn trong trước mắt và cho giai đoạn 5 - 10 năm tới, để từng bước đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc tế, công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Những kiến thức được trang bị cần tuỳ theo đối tượng và thời gian học tập. Trước mắt cần trang bị cho đại đa số nông dân trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng (đặc biệt ưu tiên những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự), các kiến thức về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi như chăn nuôi Bò lai tăng trọng, lợn nạc, vịt siêu trứng, nuôi trồng thuỷ sản trong lồng, bè trên biển, nuôi tôm sú, nhuyễn thể (sò huyết, ngao, cua) Ba ba, cá bống tượng... Bảo vệ thực vật, đào tạo bồi dưỡng cho một số bộ phận nông dân, nhất là lực lượng trẻ một số nghề thủ công, sửa chữa bảo quản máy nông nghiệp, chế biến thuỷ hải sản, rau quả..., dịch vụ, đào tạo bồi dưỡng cho người quản lý, lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cấp huyện, cán bộ cấp cơ sở các kiến thức về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh, tăng cường khả năng liên kết giữa nhà nước- nông dân - nhà khoa học để tiếp thu các kiến thức mới về khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế. Tất cả điều đó để tạo thêm việc làm mới (ngoài trồng trọt, chăn nuôi) để phân bổ lại lao động và tăng sản lượng của các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ... Chương trình và nội dung hoàn thiện, bổ sung sau từng khoá, nhằm đáp ứng tốt hơn cho sản xuất-kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. - Đa dạng hoá hình thức và thời gian đào tạo, bồi dưỡng. Đối với lao động gián tiếp(cán bộ quản lý kinh doanh) ; lao động trực tiếp (là những nông dân...) cần có các lớp bồi dưỡng,tổ chức công tác khuyến nông khuyến lâm đến các cơ sở , mở các lớp tại chức với thời gian học tập linh hoạt. Ngoài hình thức học tập theo trường lớp hiện có ở 80 trung tâm dạy nghề ở các huyện, quận và sẽ thành lập thêm các trung tâm, các trường lớp khác, còn có các lớp học tại nơi làm việc như tại xưởng sản xuất của gia đình, trang trại, hay tại đồng ruộng hoặc nơi chăn nuôi. - Xã hội hoá công tác đào tạo bồi dưỡng lao động nông nghiệp, nông thôn. Tính chất xã hội thể hiện ở chỗ mọi cấp, mọi ngành, mọi hội quần chúng (hội làm vườn, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh...) , mọi người lao động cũng như các tổ chức hợp tác quốc tế, cùng tham gia công tác đào tạo bồi dưỡng lao động nông nghiệp, nông thôn trong việc xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất của các trường lớp. Xã hội hoá còn thể hiện ở chỗ người được đào tạo bồi dưỡng trước dạy cho người chưa được đào tạo bồi dưỡng ; các gia đình tham gia truyền nghề tiểu thủ công , nghề gia truyền cho các thành viên trong gia đình và dòng họ ... - Ban hành chính sách khuyến khích động viên người đào tạo nghề chuyên môn kỹ thuật phát huy tài năng vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các chính sách, chế độ quan trọng cần quan tâm giải quyết đối với người học là chế độ miễn phí và trợ cấp tiền cho đối tượng cần đào tạo cấp học bổng, miễn phí học phí cho người cam kết sẽ tình nguyện về công tác ở nông thôn sau khi tốt nghiệp ; chế độ lương, thời gian tập sự được rút ngắn một cách thoả đáng cho người lao động làm một số công việc cần thiết cho nông nghiệp, nông thôn ; chính sách khen thưởng, chuyển vùng cho người ở nơi khác về công tác tại nông thôn sau thời hạn công tác nhất định. Đối với người làm công tác chuyên giảng dạy cho nông nghiệp nông thôn cần quan tâm đến chế độ tiền lương và phụ cấp chế độ đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ giảng dạy ... ; xét tặng khen thưởng cho các nghệ nhân tích cực tham gia truyền nghề. Đối với người sử dụng lao động cần tin tưởng và phân công hợp lý trình độ của người lao động được đào tạo, bồi dưỡng. Có thể nói đây là điểm mấu chốt cho người lao động phát huy hết khả năng của mình sau khi được đào tạo bồi dưỡng. Ngoài các chính sách khuyến khích đào tạo, dạy nghề ở nông thôn cần có sự chuyển lao động có chuyên môn từ thành thị, khu công nghiệp về nông thôn kể cả lao động tình nguyện. 3.3.3 Đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp Cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương cho tới nay vẫn còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp, trong đó trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (ở các địa phương tỷ trọng này thường không quá 20% giá trị sản xuất nông nghiệp ). Trong trồng trọt, diện tích gieo trồng cây lương thực đặc biệt là trồng lúa chiếm tỷ trọng rất cao. Các cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây trồng có trình độ thâm canh, có giá trị kinh tế cao còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong những năm tới để góp phần tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, cần đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở mỗi địa phương theo hướng phát triển các ngành nghề chăn nuôi và các phát triển các loại cây trồng có trình độ thâm canh và có giá trị kinh tế cao mà thị trường đang có nhu cầu nhất là thị trường nước ngoài. Việc phát triển chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại cây trồng có trình độ thâm canh và giá trị kinh tế cao sẽ thu hút một bộ phận đáng kể lao động nông thôn và sản xuất nông nghiệp. Xu thế chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nước ta trong thời gian tới như sau : - Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển của từng địa phương, trong đó có nguồn lực lao động để phục phát triển kinh tế địa phương. ở một số nơi, do nhiều diện tích trồng lúa một vụ được chuyển đổi sang trồng cây ăn quả hoặc kết hợp trồng cây ăn qủa và nuôi cá, tôm đã đem lại hiệu quả cao hơn hẳn so với trồng lúa trước đây. Đồng thời thu hút thêm đáng kể lao động vào sản xuất. 3.3.4 Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn ; khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống nhằm tạo thêm nhiều việc làm góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn. Về thực chất các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ra đời và hoạt động trên cơ sở kinh tế gia đình và tiểu chủ. Đây là loại hình doanh nghiệp thích ứng rộng rãi trong nền kinh tế hàng hoá do có thể thay đổi một cách linh hoạt về phương hướng, quy mô sản xuất kinh doanh và ứng dụng công nghệ sản xuất... Tính thích ứng rộng tạo khả năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đứng vững trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với phương hướng sản xuất kinh doanh đa dạng có thể phân bố rộng khắp ở địa bàn nông thôn là một nguồn thu hút lao động tại chỗ quan trọng, góp phần tích cực giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ như xí nghiệp hương trấn ở Trung quốc. Trong tương lai loại hình xí nghiệp hương trấn có tác dụng rất lớn trong việc giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động nông thôn , góp phần quan trọng giảm sức ép, lao động trong nông thôn. ở nước ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn còn ít. Trừ các vùng có làng nghề phát triển như Hà Tây, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh... thì các vùng còn lại hầu như không có hoặc rất thiếu vắng các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh các ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp. Do vậy cần phải có chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ như hỗ trợ các doanh nghiệp hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp hợp tác xã, nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới ở nông thôn.Để thực hiện có hiệu quả hình thức trên cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau: - Chính quyền cơ sở thực hiện nâng đỡ các doanh nhân tạo điều kiện cho họ làm ăn theo pháp luật. - Thành lập các khu công nghiệp, dịch vụ gần các thị trấn, thị tứ, thị xã, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê hoặc cho thuê đất với giá rẻ, thuận tiện để xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá thủ tục thuê đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Doanh nghiệp được góp cổ phần kinh doanh bằng quyền sử dụng đất. Xây dựng quy chế thống nhất về đền bù giải phóng mặt bằng khi doanh thuê đất. - Các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh Nông-Lâm-Thuỷ sản được xuất nhập khẩu các loại hàng hoá mà pháp luật không hạn chế, chỉ cần đăng ký theo nghị định 57/CP. - Tăng cường cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, áp dụng chế độ ưu đãi đầu tư theo nghị định 43 và 51/CP. - Phát triển các thể chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ như : Hiệp hội doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo, hệ thống kiểm tra chất lượng, dịch vụ tiếp thị, vận tảI, phân phối, thông tin thị trường ... Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thì vấn đề khôi phục và phát triển trong ngành nghề truyền thống cũng góp phần lớn vào việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nước ta. Hiện nay ở nước ta có khoảng 1450 làng nghề, trong đó có khoảng 300 làng nghề truyền thống, nó thu hút hàng triệu lao động trong nông thôn tham gia sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao thu nhập cho hộ gia đình và người lao động. Thực tế cho thấy một số làng nghề như Đông kỵ (Tiên Sơn-Bắc Ninh), hàng năm thu hút khoảng 4000 lao động ở địa phương và nơi khác đến chưa kể hàng trăm công nhân lao động nhận công việc về nhà làm thêm và đã tạo ra giá trị sản lượng lớn từ các mặt hàng gỗ mỹ nghệ (4-5 tỉ đồng). Hay một thí dụ khác như làng nghề gốm sứ Bát Tràng có 172 hộ gia đình làm nghề với hơn 800 lò gốm. Hàng năm đã sản xuất ra trên 50 triệu sản phẩm các loại và không chỉ tạo ra đủ việc làm cho lao động địa phương mà hàng ngày còn thu hút từ 1500 - 2000 lao động từ nơi khác đến làm việc. Ngoài các làng nghề điển hình trên còn có các làng nghề như La Phủ (Hoài Đức-Hà Tây) ; Quả Ninh (Nam Định); làng nghề thép ở Đa hội (Bắc Ninh). Hàng năm thu hút hàng triệu lao động tham gia vào sản xuất. Tuy nhiên vấn đề đặt ra làm thế nào để các làng nghề truyền thống trong nông thôn được khôi phục và phát triển vững chắc theo xu thế hội nhập của nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần có những chính sách trợ giúp có hiệu quả. Những hoạt động trợ giúp từ phía Nhà nước cho phát triển các làng nghề trong nông thôn bao gồm nhiều hoạt động cụ thể nhằm giải quyết những vướng mắc, những tồn đọng hay những nhu cầu cụ thể nảy sinh trong từng giai đoạn phát triển nhất định của làng nghề. Hiện nay, có một số vấn đề nổi cộm liên quan đến khả năng phát triển bền vững của các làng nghề đó là tình trạng xuống cấp, suy thoái môi trường ở các làng nghề như La phủ cũng như nhiều làng nghề khác, tuỳ theo loại làng nghề sản xuất của làng nghề mà mức độ ô nhiễm các yếu tố môi trường đất, nước và không khí với mức độ trầm trọng khác nhau. ở làng nghề dệt La phủ (Hà Tây); Quả Linh (Nam Định), yếu tố môi trường bị ô nhiễm chậm trọng nặng nhất là nguồn nước, tiếng ồn và không khí làng nghề Quả Linh thì mặt nước ao hồ có màu đen đục, có tăm khí, có vị chua mặn và mùi nồng nặc, nước nhiều nhất, không khí có nhiều bụi, mụi từ các chất tẩy nhuộm ... còn ở làng nghề sắt thép Đa hội thì không kém : Nhiệt độ vượt quá nhiệt độ trung bình của môi trường từ 4-5oc và có những khu vực lên tới 42oc ; nồng độ C0 và C02 ngày càng vượt quá mức tiêu chuẩn cho phép từ 2-3 lần, hàm lượng bụi trong không khí vượt quá tiêu chuẩn hơn 12 lần .... Có thể nói rằng trong thời gian qua các làng nghề ở nông thôn càng đạt thành tựu phát triển kinh tế nhanh chóng thì ở đó tình trạng ô nhiễm môi trường càng nghiêm trọng. Đã đến lúc phải coi việc bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt ngang tầm như nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế của các làng nghề ở nông thôn. Vấn đề đặt ra là Nhà nước có những biện pháp nhằm giúp đỡ các làng nghề phát triển như : áp dụng công nghệ mới, công nghệ cải tiến trong sản xuất ; hướng dẫn giáo dục ý thức về môi trường cho người dân; đầu tư cho việc xử lý chất thải thu hồi thu gom chất thải ; Tổ chức bảo vệ môi trường nơi sản xuất, hỗ trợ đầu tư trực tiếp các công trình bảo vệ môi trường ... 3.3.5 Tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng vùng kinh tế mới ở những nơi còn quỹ đất đai, chấm dứt tình trạng du canh du cư và hạn chế tối đa tình trạng di dân tự do nhằm phân bổ hợp lý lao động dân cư giữa các vùng Hiện nay ở nhiều địa phương còn quỹ đất đai đáng kể có thể sử dụng vvào sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp. Một số tỉnh huyện ở các vùng trung du, miền núi quỹ đất đai có khả năng Nông-Lâm nghiệp còn khá lớn. Đây là một nguồn lực quan trọng cần được khai thác để phát triển kinh tế của các vùng nay, đồng thời để tạo thêm việc làm cho một bộ phận lớn lao động dư thừa trong nông thôn. Trong những năm tới, các địa phương cần gắn việc khai thác các vùng đất có khả năng Nông-Lâm-Ngư nghiệp với việc phân bố lại lực lượng lao động nông thôn thông qua việc tổ chức cho lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Trong những năm qua đã có một số nới tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng kinh tế mơí khá thành công. Nghệ an là tỉnh có nhiều thành và kinh nghiệm tốt trong tổ chức công việc này, những năm qua Nghệ an thành lập nhiều đội thanh niên Xung phong đi xây dựng kinh tế mới. Các đơn vị thanh niên xung phong được tổ chức và được sự hỗ trợ giúp đỡ về mọi mặt của chính quyền địa phương. Hiện nay, ở các huyện miền tây Nghệ an đã hình thành nhiều làng nghề kinh tế mới của thanh niên xung phong. Khuyến khích họ xây dựng gia đình và lập nghiệp trên vùng kinh tế mới. Mô hình tổ chức thanh niên xung phong xây dựng vùng kinh tế mới của Nghệ an là một mô hình tốt để kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn. Cách làm này của Nghệ an cần được các địa phương nghiên cứu và tham khảo để xác định mô hình tổ chức phù hợp đưa lao động nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Song song với việc tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới thì chúng ta thực hiện tốt các dự án di dân, sớm chấm dứt tình trạng du canh du cư và hạn chế tối đa tình trạng di dân tự do, nhằm phân bố hợp lý lao động và dân cư giữa các vùng. Qua 37 năm (từ 1961 - 1997), thực hiện tốt công tác di dân và xây dựng các vùng kinh tế mới chúng ta đã di chuyển được khoảng 5,9 triệu người. Nếu tính từ năm 1991 đến năm 1997 là 1,2 triệu người, riêng năm 1997 thực hiện di dân được 19.910 hộ với 89.003 nhân khẩu, 44.909 lao động. Ngoài ra, còn có trên 1 triệu người tự di chuyển để tìm và định cư trên các vùng đất mới. Tuy vậy đến nay nhu cầu di dân của một số vùng rất lớn nhưng khả năng tiếp nhận dân đến ở một số vùng đã trở lên hạn hẹp. Năm 1998, cả nước thực hiện định canh, định cư cho 30 - 35 ngàn hộ và giãn dân 30 ngàn hộ, thông qua các dự án và chủ yếu là đến Bình Thuận và Tây nguyên. 3.3.6 Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn Kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực cho thấy phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn là một trong các hướng chủ yếu để tạo việc làm cho lao động nông thôn. Các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn rất đa dạng bao gồm nhiều ngành nghề cụ thể thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ( như công nghiệp chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản, cơ khí, xây dựng và vật liệu cho sản xuất, các nghề thủ công truyền thống ...), thương mại dịch vụ trong nông thôn. Trong giai đoạn hiện nay ở nông thôn nước ta việc phát triển các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với tạo việc làm cho lao động nông thôn vì trong điêù kiện hiện nay phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn sẽ huy động được các nguồn lực sẵn có tại chỗ để phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Hiện tại công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn nước ta còn kém phát triển, phần lớn các vùng nông thôn nước ta là các vùng thuần nông với tỷ trọng của các ngành trồng trọt là rất cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế sự phát triển của các ngành nghề công nghiệp trong nông thôn nước ta hiện nay là sự ách tắc trong khâu tiêu thụ sản phẩm bởi khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực và nhiều nước khác trên Thế giới. Điều này chủ yếu là do chi phí đầu vào của ta cao, dẫn đến giá thành sản phẩm cao ; công nghệ sản xuất nói chung còn lạc hậu so với các nước. Do đó chất lượng sản phẩm thấp, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để phát huy các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn nước ta những năm tới Nhà nước cần có các biện pháp phù hợp để tập trung khắc phục những nguyên nhân chủ yếu nêu trên, nhằm giảm giá đầu vào sản xuất nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm của các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đó là : - Giảm thuế nhập khẩu tới 0% đối với tất cả các loại vật tư máy móc thiết bị nhập khẩu và giảm thuế giá trị gia tăng đối với việc sản xuất các loại vật tư máy móc thiết bị trong nước phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất Nông-Lâm-Thuỷ sản làm nguyên liệu chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp. - Đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong các ngành Nông-Lâm-ngư nghiệp và một số ngành sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, các ngành tiểu thủ công nghiệp để nâng cao chất lượng nguyên liệu và giảm giá thành nguyên liệu. - Tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và ứng dụng các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ trong các ngành công nghiệp chế biến Nông-Lâm- Thuỷ sản và tiểu thủ công nghiệp để thay thế nhập khẩu, giảm giá công nghệ đầu vào cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. - Hỗ trợ các ngành nghề phi nông nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu những mặt hàng vẫn còn khả năng phát triển nếu có sự thay đổi mẫu mã, thông qua việc tổ chức các hội chợ, tổ chức triển lãm giới thiệu sản phẩm hoặc thông qua các cơ quan ngoại thương, các tổ chức thường trú ở nước ngoài. Các cơ quan này hỗ trợ những thông tin chi tiết về sản phẩm ở thị trường Quốc tế, phát hiện những nhu cầu thị trường ở các nước làm môi giới hoặc thông tin cho các doanah nghiệp, xí nghiệp... của ta về nhu cầu tiêu thụ sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của từng khu vực, từng nước đối với các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Nhà nước đóng vai trò môi giới và tổ chức kết nối quan hệ hợp tác giữa các làng nghề với các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ để triển khai nghiên cứu và phát triển mặt hàng. - Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ và dịch vụ phát triển, như tạo điều kiện thành lập các hiệp hội chuyên ngành, khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn kinh doanh, tư vấn thị trường trợ giúp các làng nghề làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, giảm bớt khó khăn phiền hà trong thủ tục giấy tờ xuất nhập khẩu. Hỗ trợ nghiên cứu và phục hồi các ngành nghề truyền thống dựa trên nguyên liệu địa phương với công nghệ cải tiến thông qua cơ giới hoá, sản xuất ra mặt hàng đa dạng có mẫu mã độc đáo, chất lượng cao đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. - Tạo lập mối liên kết giữa các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nông thôn với các doanh nghiệp lớn ở thành thị trong đó các doanh nghiệp lớn đứng ra làm đầu mối bao tiêu sản phẩm cho doanh nghiệp ở nông thôn làm cơ sở và vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn trên cơ sở hợp tác liên kết cùng có lợi. - Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là các vùng xa và nghèo để tăng khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp ở các vùng đó. - Nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn để đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ bằng việc đào tạo các ngành nghề mới phù hợp với yêu cầu thị trường và tái đào tạo lao động trong các ngành sử dụng công nghệ mới hoặc các ngành đã mai một. Khuyến khích hình thành các trung tâm dạy nghề tư nhân do các nghệ nhân lành nghề hoặc thợ giỏi dạy cho các người có nhu cầu học. Có thể kết hợp dạy nghề theo kiểu vừa học vừa làm ngay tại chỗ. Tổ chức các lớp đào tạo về kỹ thuật và quản lý ở trình độ cao cho các chủ và công nhân có trình độ nhất định của doanh nghiệp, của cơ sở sản xuất ... Nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ, có khả năng tiếp nhận các nghề hoặc công nghệ mới, cải tiến nghề cũ. - Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn. Các ngân hàng cần mở rộng các đại lý, đại diện của mình trên địa bàn nông thôn đơn giản hoá các thủ tục cho vay vốn của các ngân hàng và quỹ tín dụng, đa dạng hoá các loại hình cho vay với thời hạn dài hơn và mức vay cao hơn. 3.3.7 Tiếp tục nghiên cứu bổ xung và hoàn thiện hệ thống các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lao động nông thôn, gồm có : -Chính sách dân số Thực hiện tốt kế hoạch phát triển dân số và kế hoạch hoá gia đình của các địa phương nhằm hạn chế sức ép về dân số. Đây là phương hướng cơ bản và lâu dài để giải quyết việc làm cho người lao động nâng cao mức sống dân cư nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. - Chính sách đất đai Thực hiện tốt Luật đất đai, triển khai nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân ; có chính sách giải quyết ruộng đất cho nông dân hiện không có ruộng đất ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Để thúc đẩy chính sách về đất đai theo em cần có một số kiến nghị sau : + Đối với người nghèo ở nông thôn không được thu bớt ruộng đất của họ trong trường hợp người nghèo nợ sản lượng khoán mà phải trợ giúp họ về vốn, kinh nghiệm làm ăn ... để họ tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo đói. Mặt khác, cũng không để người nghèo chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất vô điều kiện khi chưa có việc làm khác ổn định và có thu nhập cao hơn làm ruộng. Nếu không sẽ biến họ vào tình trạng bần cùng hoá trở thành tá điền khi không còn ruộng đất. Trợ giúp vốn, kỹ thuật và công nghệ, thị trường tiêu thụ để nông dân thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, trước mắt là nâng vòng quay của đất bằng cách thâm canh tăng vụ. Từng bước thực hiện quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá theo nguyên tắc " ai giỏi việc gì làm việc ấy ". Xác định giá đất hợp lý theo hướng ưu đãi cho các gia đình khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở quê cũ để đến các vùng kinh tế mới tạo chọ họ có thêm vốn phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho gia đình ở nơi đất mới. Sửa đổi chi phí, khai hoang các dự án kinh tế mới cho phù hợp với thực tế và thực hiện đúng chính sách miễn thuế đối với đất hoang hoá theo quy định. + Khuyến khích người có vốn đến khai hoang và kinh doanh theo mô hình trang trại ở các vùng đất còn hoang hoá nhất là miền núi, vùng sâu vùng xa. + Quy hoạch các nông, lâm trường để giao phần đất nông lâm trường chưa sử dụng cho các hộ gia đình theo mô hình VACR, trong đó nông, lâm trường là trung tâm, các hộ gia đình là vệ tinh. Cần có chính sách đặc biệt về đầu tư vốn, lựa chọn mô hình sản xuất kinh doanh thích hợp cho các vùng đất sản xuất chuyên canh, các mặt hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao như vùng nuôi tôm cua nước lợ, vùng trồng cà phê ... - Chính sách đầu tư + Bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho các dự án ,chương trình phát triển kinh tế ở nông thôn .Tăng cường đầu tư mở rộng các dự án ,chương trình về thuỷ lợi ,thuỷ nông ,cải tạo đất và phòng chống thiên tai ;các chương trình phát cơ sở hạ tầng .... Trong đó coi trọng đến các dự án vừa và nhỏ trực tiếp thu hút lao động trong nông thôn . Tránh tình trạng nơi nào "khéo léo" thì nơi ấy được đầu tư nhiều. - Chính sách khuyến khích kinh tế hộ gia đình và các thành phần kinh tế trong nông thôn : + Tăng tỉ lệ đầu tư từ ngân sách vào khu vực nông thôn thông qua các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện chuyển các hộ gia đình sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá. + Lập quỹ tín dụng cho các hộ gia đình, HTX sản xuất vay với lãi xuất hợp lý ( thời gian đầu lãi xuất thấp ) và theo chu kỳ sản xuất. Tăng dần tỷ lệ cho vay trung hạn để các hộ có điều kiện tập trung đầu tư theo chiều sâu. Đặc biệt khuyến khích hộ gia đình vay vốn phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại. + Thiết lập hệ thống chuyển giao kỹ thuật và công nghệ. + Có chính sách hỗ trợ phương tiện sản xuất,kỹ thuật và các điều kiện vật chất khác như :giống ,vật tư ,phân bón ...;hỗ trợ kiến thức kinh nghiệm ,tổ chức sản xuất kinh doanh và năng lực tiếp cận thị trường ;hoạt động theo cơ chế thị trường và nghiên cứu lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ gia đình. - Tổ chức các dịch vụ việc làm Thành lập bộ phận thường trực giải quyết việc làm thuộc phòng tổ chức Lao động xã hội các cấp tỉnh,huyện để tư vấn dịch vụ việc làm miễ phí cho người không có việc làm dưới các hình thức :giới thiêụ cho người lao động đăng ký việc làm tại trung tâm dịch vụ việc làm các tỉnh,thành phố.Tư vấn lựa chọn việc làm ;nơi làm việc ;tư vấn học nghề ,nơi học nghề ;tư vấn lập dự án tạo việc làm giới thiệu việc làm hoặc dự án tạo thêm việc làm .Tư vấn pháp luật liên quan đến việc làm ,giới thiệu việc làm . đối với người sử dụng lao động phòng tổ chức lao động xã hội cần giúp tổ chức cung cấp dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động theo hợp đồng - Thông tin tuyên truyền về việc làm + Điều tra lao động : -Thực hiện tốt các cuộc điều tra về lao động việc làm từ cấp phường, xã để làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn để phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn ,đồng thời giải quyết tốt hơn vấn đề việc làm cho lao động nông thôn . + Thông tin tuyên truyền về chương trình lao động ,việc làm với các nội dung : - Thông tin các văn kiện, chỉ thị về lao động việc làm - Tuyên truyền về thực trạng lao động việc làm ở các địa phương . - Thông tin về thị trường lao động ,các giải pháp để giải quyết lao động việc làm - Chính sách khuyến khích và thu hút lao động - Giới thiệu các nội dung hổ trợ trực tiếp của Nhà nước đối với người lao động - Tuyên truyền vận động các hiệp hội, đoàn thể giúp nhau kinh nghiệm làm ăn , giúp nhau cung cấp vật tư hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm... Bằng nhiều hình thức tuyên truyền như trên phương tiện thông tin đại chúng qua hệ thống phát thanh , truyền hình từ TW đến cơ sở ; phổ biến tới tất cả học sinh trong các lớp học từ lớp 9 trở lên ; tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao công nghệ cho nông dân. - Tổ chức chỉ đạo thực hiện Trước hết cần tạo ra sự thống nhất quan điểm chỉ đạo của các ngành, các cấp từ TW đến địa phương và cơ sở về vấn đề việc làm và đào tạo nghề cho nông dân, để làm cơ sở cho việc hình thành tổ chức chỉ đạo và triển khai các dự án có liên quan. Ưu tiên cho những dự án có khả năng thu hút nhiều lao động nông nghiệp vào làm việc và đào tạo được nhiều công nhân kỹ thuật tại địa bàn nông thôn. Các chương trình, chính sách của Chính phủ như chương trình xoá đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn trồng rừng tạo việc làm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công, giáo dục cộng đồng và các chương trình quốc tế ở nông thôn cần phải có sự chỉ đạo thống nhất và đồng bộ để vừa đạt mục tiêu chủ yếu của chương trình, vừa góp phần giải quyết việc làm và nâng cao trình độ dân trí kiến thức khoa học kỹ thuật cho lao động nông thôn giúp họ tiếp cận với kỹ năng lao động trong thời kỳ CNH , HĐH đất nước. Đồng thời mở rộng hệ thống hướng nghiệp dạy nghề, dịch vụ , tư vấn và giới thiệu việc làm . Trong đó chú trọng đến lực lượng lao động trẻ , vị thành niên , lao động nữ và số đông thanh thiếu niên trong nhà trường. Thực hiện phổ cập giáo dục đi đôi với định hướng nghề nghiệp việc làm. Mặt khác , kích thích tính năng động và khả năng tự tìm kiếm, giải quyết việc làm của người lao động trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. kết luận Giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho lao động nông nghiệp, nông thôn nói riêng đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay cần được tháo gỡ, nhằm giảm bớt sức ép thiếu việc làm cho người lao động nông thôn và nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các nguồn lực của đất nước. Thông qua một số quan điểm và giải pháp chủ yếu được trình bày trong đề tài nhằm tạo ra một sự chuyển biến sâu sắc về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Đề án đã hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra của đề tài. Nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ yếu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phân tích thực trạng về việc làm trong lao động nông nghiệp nông thôn trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn phù hợp với tình hình và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quan điểm và giải pháp này được xây dựng dựa trên thực tiễn về việc làm lao động nông thôn ở trong nước và nước ngoài. Việc áp dụng các giải pháp trên có tính khả thi cao và có triển vọng tốt để cải thiện tình hình khó khăn hiện nay. Nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và lâu dài đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Vì vậy cần phải tiếp tục tìm tòi nghiên cứu và đúc rút tổng kết từ thực tiễn để vấn đề này được giải quyết tốt hơn và có hiệu quả cao. Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này tác giả đã đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động cả nước nói chung và lao động trong nông nghiệp nông thôn nói riêng. Tác giải chân thành cảm ơn thày Hoàng Việt và Trung tâm thư viện trường đã tận tình giúp đỡ để hoàn thành đề tài này. Do trình độ hiểu biết còn hạn chế, điều kiện thơi gian có hạn đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giải mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học, các nhà quản lý quan tâm đến vấn đề này để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện./. Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí những vấn đề kinh tế Thế giới số 2 (46) 1997 . 2. Tạp chí quản lý nhà nước 6/2000 3. Tạp chí lao động 9/2000 4. Tạp chí lao động xã hội 2/2000 ; 7/2000. 5. Nghiên cứu kinh tế 1/2000 6. Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH - HĐH nông thôn nước ta. Nguyễn Văn Trung-NXB-Chính trị quốc gia 1997 7. Thực trạng lao động việc làm ở Việt nam 1997 ; 1998 ; 1999 8. Văn kiện Đại hội VIII ; IX 9. Kết quả sơ bộ tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001. 10. Kỷ yếu hội thảo khoa học kinh tế các trường Đại học 2000. 11. Nông nghiệp, nông thôn Việt nam bước vào Thế kỷ XXI Tài liệu khoa kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn. 12. Bộ Luật lao động của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1994. Công trình dự thi sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2002 Tên đề tài : Việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay Giáo viên hướng dẫn : PGS-TS Hoàng Việt Sinh viên thực hiện : Phạm Bá Cường Lớp : Nông Nghiệp B Khoa : KTNN& PTNT Khoá : K41 Hà Nội 9-2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35287.doc
Tài liệu liên quan