Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ cơ bản của quá trình phát triển. Có thể nói, thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất của phát triển, nhưng tự mó không đưa đến phát triển. Phát triển chỉ có được khi tăng trưởng kinh tế tạo ra những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội, ở đó mỗi người dân được hưởng những thành quả của tăng trưởng và nhờ đó phát triển cá nhân mình.
Công bằng trong phân phối thu nhập không hàm nghĩa đầy đủ sự công bằng xã hội. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có các điều kiện như nhau tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt về các điều kiện tuỳ theo giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống, tố chất cá nhân. Do đó, công bằng xã hội luôn thể hiện ra như một xu hướng hơn là một trạng thái hiện thực. Trên thực tế, người ta chỉ có thể giảm bất bình đẳng và bất công chứ chưa thể đạt được công bằng tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội do vậy phải được hiểu là mức độ giảm bất bình đẳng đạt được cùng với tăng trưởng.
18 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
PHần I: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết .............................................................................................................3
I. Tăng trưởng và công bằng: khái niệm, thước đo..........................................3
II.Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội..5
1, Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng..................................5
2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng..........................................................5
3. Tăng trưởng đi liền với công bằng............................................................6
PHần II: Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội....................................................................................................................8
I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam.........9
II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta..................9
III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam ...................................................................................................11
1, Tăng trưởng kinh tế................................................................................11
2, Tăng cường hơn nữa kế hoạch hóa gia đình...........................................12
3, Xóa đói giảm nghèo...............................................................................12
4, Chống tham nhũng và buôn lậu..............................................................13
5, Xây dựng kết cấu nông thôn...................................................................13
6, Phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn.................................................15
7, Phát triển y tế nông thôn.........................................................................15
8, Phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta........................................16
Kết luận
Lời Mở đầu
Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên 23.000 tỷ USD, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trên thế giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số toàn thế giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đang phát triển đã tăng 3 lần.
Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên 30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của những người nghèo.
Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia.
Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy để em có thể hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Đoàn Quang Thọ – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này
Phần I
Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết
I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thời gian hoặc tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian.
Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Thứ nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những điều kiện bất bình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đã được các nhà nghiên cứu về phát triển trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm công bằng xã hội được hiểu như thế nào.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc nhiều vào quan điểm của con người. Chính những quan niệm khác nhau về bình đẳng đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng. Trong kinh tế học, người ta sử dụng hai khái niệm khác nhau về bình đẳng hoặc công bằng. Khái niệm thứ nhất là công bằng theo chiều ngang, nghĩa là đối xử như nhau với những người có đóng góp như nhau. Khái niệm thứ hai là công bằng theo chiều dọc, nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc phân định và kết hợp công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự.
Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, hoàn chỉnh gồm cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Có thể có bình đẳng về phương diện kinh tế nhưng chưa chắc có bình đẳng về phương diện khác. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được phân bổ theo mức độ tham gia của các yếu tố (vốn, kĩ thuật, lao động, tài nguyên) vào quá trình sản xuất và do đó có thể đảm bảo sự bình đẳng về phương diện kinh tế. Tuy nhiên, các tầng lớp xã hội khác nhau có thể không có được những bình đẳng trong các hoạt động chính trị, xã hội.
Phương pháp phổ biến nhất để đo mức độ bình đẳng trong phân phối là tính tỷ lệ thu nhập nhận được bởi nhóm 20% dân số lớp dưới cùng so với thu nhập mà nhóm 20% dân số lớp trên cùng nhận được. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, mức độ bất bình đẳng càng lớn, và ngược lại. Người ta còn có thể đo mức độ bất bình đẳng bằng cách so sánh thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người nghèo nhất với thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người giàu nhất. Phương pháp này chỉ cho thấy sự cách biệt về thu nhập giữa số ít thuộc tầng lớp giàu có nhất và số ít thuộc tầng lớp nghèo nhất mà không thể hiện được trạng thái bất bình đẳng xã hội nói chung. Chẳng hạn ,ở một xã hội, có thể có sự chênh lệch thu nhập rất lớn giữa một số nhỏ thuộc tầng lớp giàu có nhất và một số nhỏ thuộc tầng lớp đáy, nhưng có thể đại đa số dân cư nằm ở tầng trung lưu, nghĩa là có mức thu nhập không chênh lệch nhiều so với tầng lớp giàu có.
Mức độ nghèo khổ. Để xác định được mức độ nghèo khổ, người ta phải đưa ra đường giới hạn nghèo khổ. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định người có mức sống dưới 1 USD/ngày ở các nước đang phát triển thì được coi là nghèo khổ. Còn đối với các nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định là14 USD/người/ngày tính theo sức mua tương đương. Tuy vậy, đường danh giới nghèo khổ cũng chỉ là thước đo số lượng về mức độ bất bình đẳng. Cần bổ sung các tiêu chí chất lượng như mức độ cung ứng các dịch vụ, môi trường sống...
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người được coi là một chỉ số đánh giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kỳ nhất định. Những nhu cầu cơ bản này bao gồm mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát triển của cá nhân. Mặc dù có thể khác nhau về nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung có thể đo lường các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đại đa số dân cư không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản này bất luận mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người có thể cao.
Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội của Liên hợp quốc nêu ra bao gồm một danh sách 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Trên thực tế, rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số phát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã gây khó khăn cho việc tính toán. Vì vậy, người ta nêu ra một chỉ số khác được gọi là “chỉ số vật chất của cuộc sống” (The Physical Quality of Life Index – PQLI). Chỉ số được tính toán dựa trên ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá nạn mù chữ. Các tiêu chí này hiển nhiên là quá ít và không đề cập trực tiếp đến thu nhập. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, các nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao không phải bao giờ cũng đạt được PQLI cao. Nói cách khác, chỉ số này phản ánh những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước.
Một chỉ số khác tương tự được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây là chỉ số phát triển con người (HDI) do chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đầu tiên vào năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của người lớn biết chữ và số năm đi học) và thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu người thực tế đã được điều chỉnh). Như vậy, so với PQLI, mặc dù HDI cũng chỉ dựa trên ba tiêu chí nhưng chỉ tiêu này có tính bao quát hơn do nó thể hiện được ba khía cạnh quan trọng nhất của con người về tuổi tác, trí tuệ và mức sống.
II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội
Việc xác định rõ khái niệm và các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội mặc dù phức tạp nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề cơ bản là giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ với nhau như thế nào. Phải chăng đó là hai quá trình đối nghịch? Nếu vậy, tăng trưởng không thể đưa đến phát triển xã hội. Nếu không đối nghịch thì tự thân tăng trưởng kinh tế có tạo ra công bằng xã hội hay không và nó có thể xảy ra đồng thời với công bằng xã hội hay không. Công bằng xã hội chỉ là hệ quả của tăng trưởng kinh tế hay còn là điều kiện tiền đề của nó. Đó là những vấn đề đã được thảo luận rộng rãi trong kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợi cũng như trong các ngành khoa học xã hội nhân văn khác trong nhiều thập kỷ. Những quan điểm về vấn đề này có thể khái quát thành một số trường phái chính:
1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng. Những người theo quan điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối và làm gia tăng sự bất bình đẳng này. Lập luận của họ là: chỉ tầng lớp có thu nhập cao mới có khả năng tích luỹ và do đó là nguồn gốc đảm bảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần cùng hoá một tầng lớp đông đảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được lực đẩy phi thường
2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng. Một xã hội công bằng luôn luôn là ước muốn của con người ở mọi thời đại. Vì vậy, thật dễ hiểu khi có không ít tư tưởng và học thuyết nhấn mạnh đến công bằng xã hội hơn là tăng trưởng kinh tế. Một xã hội công bằng là cái cần đạt tới, vì vậy đạt tới nó càng nhanh càng chứng tỏ xã hội phát triển nhanh. Quan niệm này chi phối tất cả các học thuyết chú trọng công bằng mặc dù mức độ và hình thức thể hiện không giống nhau. Có hai mô hình lý thuyết và chiến lược phát triển nhấn mạnh đến công bằng hơn tăng trưởng.
Phân phối trước, tăng trưởng sau. Đây là quan điểm chủ đạo của đường lối phát triển kinh tế ở nhiều nước đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan điểm này dựa trên lập luận là việc tập trung tài sản vào một nhóm người là trở ngại cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình không chỉ được coi là sự tha hoá cuả phát triển mà còn cản trở sự phát triển. Vì vậy, việc phân phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng. Theo quan điểm này, các hình thức cách mạng như tước đoạt người giàu, lấy của người giàu chia cho dân nghèo, tịch thu ruộng đất của địa chủ, tiêu diệt các tầng lớp tư sản và kinh doanh giàu có đã được thực hiện. Trong giai đoạn tiếp theo, vấn đề phân phối là nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản xuất, có tác dụng mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế phân phối đã được thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động.
Lấy con người làm trung tâm. Phát triển lấy con người là trung tâm không phải là khái niệm mới mẻ. Bản thân mô hình phân phối trước tăng trưởng cũng xuất phát từ ý tưởng lấy con người làm trung tâm. Tuy nhiên, nội dung thực sự của chiến lược phát triển lấy con người làm trung tâm như một hệ quan điểm phát triển phân biệt với các mô hình khác đã được David C.Korten trình bày khá rõ trong cuốn “Bước vào thế kỷ XXI: hành động tự nguyện và chương trình nghị sự toàn cầu”. Theo David C.Korten, hầu hết các chiến lược phát triển được thực hiện cho đến nay đều lấy tăng trưởng làm trọng tâm và ông đã có những phê phán gay gắt các mô hình đó. Ông định nghĩa phát triển lấy con người làm trung tâm là “một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng cuả họ"
3. Tăng trưởng đi liền với công bằng. Trong những thập niên qua, người ta cũng nhận thấy những hạn chế của việc chú ý quá mức đến tăng trưởng, hoặc ngược lại, quá chú trọng đến công bằng. Vậy, làm thế nào để vừa có tăng trưởng mà vẫn giải quyết được công bằng xã hội. Có hai hướng đi chính:
Một là, giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Quan điểm này được thịnh hành đặc biệt trong những năm 70 và được các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm. Chiến lược này chú trọng đến việc cung ứng các dịch vụ, coi đó là phương thức tái phân phối lợi nhuận do tăng trưởng kinh tế mang lại và tạo điều kiện để dân chúng có thể tham gia bình đẳng vào hệ thống kinh tế.
Lập luận của những người ủng hộ chiến lược này là thị trường không thể phân bổ thích đáng lợi nhuận do tăng trưởng kinh tế mang lại, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Do vốn xã hội hạn chế của đa số nhân dân, đặc biệt là trình độ giáo dục và y tế đã làm giảm tiềm năng sản xuất của họ và do đó giảm khả năng tham gia vào thị trường với tư cách là người lao động và người tiêu thụ. Để giúp họ bù đắp những khiếm khuyết này, các chính phủ cần chuyển của cải từ những người đã được hưởng lợi nhờ tăng trưởng sang tài trợ cho các dịch vụ bù đắp cho người nghèo. Những khoản tài trợ này vừa có tác dụng bù đắp những nhu cầu cần được thoả mãn của chính họ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt vừa chuẩn bị cho họ có được một chỗ đứng trong lực lượng lao động như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ... Để thực hiện một chiến lược như vậy, một mặt phải có được một nguồn tài chính lớn dành cho các khoản trợ cấp này, và mặc khác, xây dựng một mạng lưới nhằm phân bổ và thực hiện các dịch vụ cho người nghèo. Một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này như thực hiên thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi.
Mặc dù ý tưởng cuả chiến lược này khá hấp dẫn và hợp lý nhằm đảm bảo giải quyết công bằng trong điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, song nó cũng bị phê phán về một số khía cạnh. Thứ nhất, để có thể thực hiện trợ cấp như vậy, chính phủ cần phải có một nguồn tài chính lớn mà trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở giai đoạn đầu, lợi ích thu được từ tăng trưởng còn quá nhỏ. Thứ hai, liệu những trợ cấp như vậy có đủ đảm bảo cho người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không, hay họ chỉ có khả tiếp cận đến giới hạn của nghèo khổ. Nói cách khác, quan điểm hướng vào nhu cầu cơ bản của con người về cơ bản là chương trình hành động xã hội nhiều hơn là một chiến lược tổng thể đảm bảo một cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng và công bằng.
Hai là, tái phân phối cùng với tăng trưởng (Redistribution With Growth), hay được diễn đạt hơi khác đi như tăng trưởng với phân phối thu nhập được cải thiện, hoặc tăng trưởng cùng chia sẻ. Quan điểm này xét về mục đích giống như quan điểm trên nhưng khác về cách thức tiếp cận để đạt được mục tiêu. Đây là ý tưởng của Ngân hàng thế giới được thể hiện trong công trình nghiên cứu cùng tên do ngân hàng này đỡ đầu thực hiện. Phân phối lại cùng với tăng trưởng là con đường theo đó lợi ích thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần được cải thiện hoặc không bị xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Khác với quan điểm của những người theo mô hình hướng vào những nhu cầu cơ bản của con người nhấn mạnh vào việc đảm bảo các dịch vụ công cộng, quan điểm tái phân phối cùng với tăng trưởng nhấn mạnh việc tăng khả năng sản xuất và sức mua của dân chúng. Các chính sách của chính phủ cần đảm bảo một sự phát triển sao cho người dân tìm thấy những cơ hội kiếm tiền tốt hơn đồng thời nhận được những nguồn lợi cần thiết để tạo ra lợi nhuận.
phần II
Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội
I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
Đề cập đến việc xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản đó trong quá trình phát triển, Đại hội VI của Đảng mới chỉ bước đầu xác định: “ Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.
Phải đến Đại hội VII của Đảng (6-1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VI mới chính thức nêu lên các quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa cái kinh tế và cái xã hội trong quá trình đổi mới như sau:
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân.
Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất cũng như ở việc tạo điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng.
Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vấn đề là quan niệm thế nào cho đúng về công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội luôn luôn là mục tiêu cơ bản mà Đảng ta, nhân dân ta không ngừng phấn đấu để đạt tới. Chúng ta không thể ngồi chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mới thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến bộ, công bằng xã hội để phát triển kinh tế một cách thuần tuý. Mỗi chính sách về kinh tế của chúng ta đều nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội đều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển.
Công bằng xã hội trong phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là việc điều hoà lợi ích, điều tiết phân phối lại thu nhập của các giai tầng trong xã hội cho hợp lý mà quan trọng hơn là phải đảm bảo cho mọi tầng lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nghề nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn, hoạn nạn. Công bằng xã hội đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. Công bằng không phải là sự cào bằng, thực hiện chủ nghĩa bình quân. Vấn đề mấu chốt để thực hiện công bằng xã hội là phải gắn nó với sự tăng trưởng kinh tế.
Công bằng xã hội của nước ta gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là một trong những biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự thống nhất và phát triển biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội. Đó là công bằng xã hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hoá trong giai đoạn trước mắt ở nước ta bằng khẩu hiệu toàn dân đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Bằng khẩu hiệu đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích mọi người tham gia làm giàu chính đáng. Phấn đấu để nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì trở nên khá giả, người khá giả thì trở nên giàu có. Chúng ta thừa nhận có một bộ phận dân cư, một số vùng giàu lên trước là cần thiết để thúc đẩy hỗ trợ cho sự phát triển và tiến bộ chung. Đồng thời, phải có những chính sách kinh tế, xã hội đặc biệt để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo khá dần lên.
II.Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới. Những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hoá đời sống kinh tế, chuyển cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ sang cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển việc phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển việc cấp phát hiện vật và bao cấp sang sử dụng quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phương theo hướng nền kinh tế mở, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá quan hệ.
Thời kỳ 1986-1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên đáng kể. Từ năm 1992 đến năm 1995, tăng trưởng kinh tế hàng năm đều vượt trên 8%. Nền kinh tế nước ta đang trên đà cất cánh.
Trong 5 năm 1986-1990, thu nhập quốc dân tăng 4,2%, thu nhập bình quân đầu người tăng với nhịp độ 1,65% trong điều kiện dân số vẫn tăng cao với nhịp độ 2,2%. Cơ chế mới đi vào thực tiễn từ năm 1989, chế độ tem phiếu được xoá bỏ, lạm phát phi mã đã được kìm lại, đời sống người dân được cải thiện một bước.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình hàng năm 8,2%, nhịp độ tăng thu nhập đầu người đạt 6,0%. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển đổi: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, tỷ trọng nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiêp) từ 38,7% giảm xuống còn 29%. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 tăng kên 27,4%, trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP.
Trong thời kỳ 2001-2005 tăng trưởng bình quân là 7,5% và dang chuyển dần sang công nghiệp
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượng phục vụ y tế, giáo dục, đào tạo ở nhiều nơi rất thấp. Người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Tệ nạn xã hội gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công phổ biến và nghiêm trọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật nghiêm trọng kéo dài. Tình trạng đó kéo căng thêm sự bất bình đẳng xã hội.
ở một phương diện nhất định, phân hoá giàu nghèo thể hiện rõ nhất sự bất bình đẳng xã hội. Nghèo đói không phải là vấn đề xã hội ở các nước lạc hậu mà có tính toàn cầu. Ngay tại các nước công nghiệp phát triển cũng tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói.
Nhìn chung, không có mâu thuẫn giữa các tổ chức quốc tế và các cơ quan, các ngành của Việt Nam về cách tiếp cận khái niệm nghèo đói. Song do sự khác nhau trong việc xác định số nhu cầu cơ bản cần được ưu tiên trong đánh giá nghèo đói, mức độ thỏa mãn và khả năng thích ứng của hệ thống chính sách nhà nước về xoá đói giảm nghèo nên dẫn đến sự khác nhau trong việc đưa ra những ranh giới nghèo đói, số lượng và tỷ lệ đói nghèo. ở đây, chuẩn mực đói nghèo được xác định trên ba yếu tố cơ bản là:
Nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người.
Thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư phân chia theo hộ.
Điều kiện và khả năng kinh tế, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ.
Mức sống dân cư ở nông thôn luôn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Nông dân bị hạn chế hơn rất nhiều so với dân thành thị về nhiều phương diện, trước hết là vấn đề việc làm và thu nhập, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, đào tạo. Vì vậy, 90% hộ đói nghèo nước ta tập trung ở nông thôn.
Vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tỷ hộ đói nghèo cao nhất, xấp xỉ 30%; vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ đói nghèo thấp nhất:6,47%. Như vậy chênh lệch giữa tỷ lệ đói nghèo cao nhất và thấp nhất là gần 5 lần.
Miền Tây Nam Bộ, còn gọi là vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hơn 1,9 triệu ha đất lúa, cung cấp cho đất nước hơn 13 triệu tấn thóc (năm 1996), trong đó có hơn một nửa hàng hóa là thóc. Lúa gạo miền Tây Nam Bộ nhiều và tăng nhanh nhưng nông thôn vùng này vẫn rất nghèo, cả về vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Nhiều hộ nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng, phải đi làm thuê gần như quanh năm. ở giữa miền Tây đầy lúa gạo mà có hơn nửa triệu hộ nghèo thu nhập bình quân từ 25kg – 35kg/tháng. Cái nghèo ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long còn thể hiện rõ về nhà ở và môi trường sống. Đến nay, toàn vùng còn 56,7% số hộ ở nhà tạm, trong đó 3,7% ở nhà lều chòi và chỉ có 23,5% số hộ dùng điện, 25,8% số hộ có nước sạch, 12,9% số hộ có hố xí hợp vệ sinh. Đời sống vật chất đã vậy, đời sống tinh thần còn nghèo hơn. Khoảng 40% dân nghèo miền Tây mù chữ. ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất trường học còn yếu kém, một phần do lũ lụt triền miên, nhưng chủ yếu do đầu tư ít, chỉ 1,65% số trường cấp một, 9,9% trường cấp hai được xây dựng kiên cố. Theo ước tính, số người có trình độ đại học và cao đẳng nông nghiệp toàn vùng chỉ chiếm 0,4% số dân.
III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
1. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở việc tạo điều kiện phát triển năng lực của mọi thành phần trong cộng đồng. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phôi dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, tri thức công nghệ, sáng kiến kỹ thuật vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người lao động.
Các chính sách kinh tế vĩ mô phải phối hợp đồng bộ thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo quyền lợi của người lao động. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tìm mọi biện pháp mua hết số lượng thóc hàng hoá của nông dân với giá cả hợp lý, không để lúa rớt giá quá thấp là chính sách đúng đắn, vừa đảm bảo yêu cầu thúc đẩy sản xuất lương thực và yêu cầu đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Tuy nhiên, biện pháp thực có khi không đáp ứng được các yêu cầu trên. Chẳng hạn, bù giá mua lương thực lại lợi bất cập hại, chỉ đưa lại lợi ích cho tầng lớp trung gian, tiểu thương thu gom lương thực và một số doanh nghiệp kinh doanh lương thực.
2. Tăng cường hơn nữa công tác kế hoạch hoá gia đình.
Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đói và nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không được chăm sóc y tế và học hành làm dân số tăng nhanh, quy mô gia đình lớn. Đặc biệt, những gia đình quá nhiều con phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Vì vậy, làm cho các gia đình trở nên ít con là một điều kiện một yếu tố cực kỳ quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chỉ thị, nghị quyết, tập trung nhiều nguồn lực nhằm hạ tỷ lệ phát triển dân số. Nhờ đó, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng có thêm nhiều thôn, xã, kể cả ở miền núi, liên tục trong nhiều năm không có người sinh con thứ ba trở lên. Tuy vậy, kết quả và hiệu quả của công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình còn thấp.
3. Xoá đói, giảm nghèo
Xoá đói, giảm nghèo là chính sách và lĩnh vực hoạt động thực tiễn cụ thể và thiết thực nhất để giảm bớt bất công xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư có sự tài trợ của UNDP đã đưa ra 5 nguyên nhân cụ thể của các hộ đói nghèo là:
Sự cách biệt, cả về địa lý, xã hội và tri thức.
Rủi ro, mất mùa, bệnh tật, chết chóc, sinh con ngoài ý muốn.
Thiếu các nguồn lực sản xuất: đất đai, vốn hoặc lao động khoẻ mạnh.
Thiếu khả năng duy trì bền vững do không có khả năng quản lý môi trường.
Thiếu cơ hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Với quan điểm coi con người là trung tâm và là động lực của sự phát triển, từ khi tiến hành đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra quyết tâm và nỗ lực xoá đói, giảm nghèo, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn nghèo đói
Muốn giải quyết vấn đề đói nghèo một cách có hiệu quả, cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau:
Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới cho thấy, tăng trưởng kinh tế là cái nền cơ bản nâng cao thu nhập cho các tầng lớp dân cư, góp phần quan trọng giảm tỷ lệ hộ đói nghèo. Vì vậy, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nền kinh tế suy thoái hoặc mất ổn định thì người chịu nhiều nhất, gặp khó khăn nhất vẫn là nhóm người nghèo, và tỷ lệ người nghèo sẽ gia tăng, thậm chí đột biến vì có thể một bộ phận người giàu sẽ rơi xuống nhóm nghèo và tình trạng tái nghèo đói của bộ phận mới thoát khỏi đói nghèo.
- Tạo môi trường cơ sở cho xóa đói, giảm nghèo. Tập trung giải quyết đồng bộ trên cả hai phương diện: chính sách kinh tế vĩ mô liên quan đến xoá đói, giảm nghèo và kiện toàn tổ chức thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ trung ương tới huyện xã. Các chính sách về đất đai, tín dụng, chuyển giao công nghệ, dịch vụ y tế, giáo dục, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng v.v. phải hướng vào người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên tự khẳng định mình, hoà nhập với cuộc sống đi lên của cộng đồng, xã hội hoá công tác xoá đói, giảm nghèo.
4. Chống tham nhũng và buôn lậu
Nạn tham nhũng không chỉ hoàn hành ở các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, ở các ngành, các cấp mà còn len lỏi vào các cơ quan quản lý hành chính và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật.
Tham nhũng và buôn lậu là các hành động ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới công bằng xã hội, góp phần tăng nhanh sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Nhiều người đã giàu lên nhanh chóng nhờ tham nhũng. Sự giàu lên của họ gắn liền với hiện tượng ngân sách nhà nước bị thất thoát, khả năng tài trợ cho các dịch vụ giáo dục, y tế giảm sút v.v.. Tham nhũng và buôn lậu đánh thẳng vào pháp luật, xói mòn kỷ cương, lung lay phép nước
Tham nhũng và buôn lậu cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Buôn lậu, trốn thuế làm cho hàng hoá sản xuất trong nước không cạnh tranh được phải thu hẹp sản xuất, nhiều ngành sản xuất non trẻ bị thui chột. Tham nhũng làm thất thoát vốn đầu tư phát triển của nhà nước và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt Nam.
Về hình thức bên ngoài, tham nhũng và buôn lậu nước ta bùng nổ trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài. Nhiều người cho đó là mặt trái của kinh tế thị trường, là biểu hiện đối đầu, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nếu không có biện pháp kiên quyết hạn chế tham nhũng và buôn lậu sẽ tạo ra những căng thẳng xã hội. Nếu không ngăn chặn được hàng nhập lậu thì không những mọi chính sách đòn bẩy về kinh tế sẽ bị vô hiệu hoá mà còn làm cho lòng tin của nhân dân ngày càng giảm sút đối với công tác quản lý nhà nước.
5. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ngày càng được chú trọng ở nhiều nước và đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là một điều kiện quan trọng để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Đối với nước ta, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là tiền đề quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và cả nước, nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nâng cao đời sống của đại đa số dân sống ở nông thôn, nhất là những người nghèo, và vì vậy, góp phần ổn định chính trị và giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đưa nông thôn lên cuộc sống mới phồn vinh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn sẽ có tác dụng lớn là lâu dài sau đây:
Một là, dân cư nông thôn được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước.
Hai là, tạo điều kiện để nông dân và dân cư nông thôn nói chung được tham gia đóng góp tích cực vào quá trình phát triển chung của đất nước; kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển, từ đó đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, cung cấp nguyên liệu phong phú và đa dạng cho công nghiệp, là thị trường tiêu thụ rộng lớn hàng hoá công nghiệp.
Thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta hiện nay.
Nhìn chung kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước ta còn trong tình trạng thấp kém và lạc hậu, chất lượng các công trình giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục, nước sinh hoạt, hệ thống cấp điện chưa đạt yêu cầu tối thiểu, đặc biệt ở những vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và vùng đồng bằng sông Cửu Long, các công trình phần lớn mới ở dạng thô, những công trình đã cũ hoặc làm mới không được bảo dưỡng đã xuống cấp. Việc quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng yếu kém.
Về đường giao thông, cả nước hiện có 150.100 km đường bộ, trong đó có 31.200 km đường huyện, 91.200 km đường xã ôtô có thể đi được và 35.700 km đường sông. Trong 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, mới chỉ có 20 tỉnh, thành phố có đường ôtô tới 100% xã. Bình quân mật độ đường giao thông nước ta mới đạt 1,3 km trên 1.000 người dân. Đó là mức thấp so với Thái Lan, Malaixia và Philippin (khoảng 3km/1.000 người dân). Đến nay, cả nước hiện còn 607 xã chưa có đường giao thông tới trung tâm xã với tổng chiều dài 9.000 km.
Những năm vừa qua, trong số vốn đầu tư phát triển nông thôn, nhân dân đã đóng góp 65%, ngân sách các cấp đóng góp 35%.
Về thuỷ lợi, hiện nay cả nước có 75 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn gồm 650 hồ đập và rất nhiều hệ thống nhỏ với trên 35.000 hồ đập, khoảng 1.000 cống tới tiêu lớn, trên 2.000 trạm bơm điện với công suất lắp đặt 23.000 kw cho tưới và 250.000 kw cho tiêu. Hệ thống công trình nói trên hàng năm tưới cho 5,8 triệu ha lúa, 56 vạn ha hoa màu và cây công nghiệp, tiêu úng cho 92 vạn ha và cải tạo 70 vạn ha đất ven biển.
Về cấp nước sinh hoạt nông thôn, cả nước mới có 3,9 triệu giếng đào và giếng khoan, khoảng 150.000 các công trình cấp nước khác bao gồm công trình nước ăn tự chảy có thiết bị lọc nước, bể nước gia đình, bể nước công cộng các loại với hàng trăm kilômét đường ống dẫn nước. Theo ước tính, số người cần nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên tới hàng chục triệu người và cần số vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng.
6. Phát triển giáo dục và đào tạo ở nông thôn
Mục tiêu giá dục ở nước ta
Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15-35, thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác.
Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học.
Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22,25% đội ngũ lao động được qua đào tạo. Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng một số trường trọng điểm, đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động.
Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng với cơ cấu đào tạo hợp lý. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm, một số trường cao đẳng cộng đồng.
Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa.
Giáo dục nông thôn ở nước ta tuy có phát triển nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn. Bên cạnh khó khăn về giáo viên thì khó khăn về tài chính để giải quyết lương, hoạt động dạy và học, trường sở, thiết bị là khó khăn lớn nhất. Kinh phí ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo những năm qua dao động trong khoảng 6%. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai chỉ rõ: phải nâng tỷ lệ ngân sách cho giáo dục, đào tạo lên 15% tổng chi ngân sách. Nhưng GDP và ngân sách nhà nước của ta quá nhỏ nên tỷ lệ đó không đưa lại sự cải thiện mạnh mẽ cho ngành giáo dục, đào tạo nông thôn. Giải pháp là đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đào tạo.
7. Phát triển y tế nông thôn
Việt Nam có khoảnh 80% dân số ở nông thôn và hơn 70% lao động nông nghiệp. Người dân nông thôn đặc biệt là những người sống ở vùng núi, vùng cao, vùng sâu xa xôi hẻo lánh có trình độ văn hoá thấp hơn thành thị và ít có điều kiện giao lưu về văn hoá, xã hội. Họ thiếu tiện nghi sinh hoạt, thu nhập thấp, cường độ lao động nặng nhọc, chủ yếu là lao động chân tay, dinh dưỡng thiếu và tập quán ăn uống sinh hoạt còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi hiện nay chiếm trên 40%. ở nông thôn, bệnh tật thường xảy ra nhiều nhưng ít có điều kiện chữa trị.
Chuyển sang cơ chế thị trường y tế nông thôn gặp rất nhiều khó khăn, các trạm xá xuống cấp trầm trọng. Nghịch lý của các ngành y tế Việt Nam là phát triển theo hình tháp ngược: y tế cơ sở không phát triển, hầu như chỉ tập trung cho bệnh viện tuyến trung ương và cấp tỉnh. Bà con nông dân không có điều kiện đi khám chữa bệnh ở các tuyến trên. Bất bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám chữa bệnh cũng thể hiện rõ.
Giải pháp là phát triển y tế cơ sở, củng cố, mở rộng, nâng cấp các trạm y tế xã. Muốn thế, phải có vốn đầu tư lớn và chính sách thoả đáng cho cán bộ y tế. Hiện nay, hàng nghìn bác sĩ ra trường không có việc làm nhưng không ai muốn trở về nông thôn phục vụ. Do đó, cơ chế chính sách là giải pháp cơ bản. Cùng với giáo dục, y tế cũng phải được xã hội hoá mới có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, kinh phí nhà nước cho y tế trong giai đoạn trước mắt vẫn là yếu tố quyết định.
8. Phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
Kinh nghiệm các nước Đông á cho thấy, khu vực nông thôn có vai trò to lớn và nó biến đổi mạnh mẽ nhờ các biện pháp tăng thu nhập ở nông thôn (giảm đói nghèo và cải thiện phúc lợi xã hội, thể hiện rất rõ ở Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Trung Quốc). Quá trình biến đổi nông thôn liên quan đến một loạt yếu tố như tăng năng suất lao động nông nghiệp, đẩy mạnh các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng, đưa thanh niên nông thôn đến những nơi có cơ hội làm việc, cải thiện y tế, xây dựng trường học và cung cấp nước sạch. Động lực để biến đổi nông thôn là sự thích ứng của các hộ gia đình với những cơ hội đang thay đổi. Tuy nhiên, việc nhà nước cung cấp các dịch vụ cơ bản ở nông thôn cũng có vai trò thiết yếu, nhất là trong giai đoạn đầu.
Một trong những vai trò dễ thấy nhất của nhà nước là cung cấp các dịch vụ nông thôn cơ bản như giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và cứu trợ xã hội. Những dịch vụ này, khi đến được những người có nhu cầu, sẽ làm tăng lợi ích cho xã hội. Hơn nữa, các hộ gia đình nhiều khi không thể tự bảo vệ trước những rủi ro như thiên tai, ốm đau nặng. Vì vậy, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra một mạng lưới bảo hiểm để bảo vệ các hộ gia đình trước những rủi ro, giữ cho họ không lâm vào tình trạng khốn cùng và tạo điều kiện để họ đóng góp vào sự phát triển của đất nước
Các nhà nước ở Đông á đạt được thành công trong tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội đã phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (đường xá, cầu cống, hệ thống vận tải, mạng lưới điện, nước và vệ sinh) trong những năm đầu của quá trình phát triển nông thôn. Họ cũng đầu tư nhiều vào con người (giáo dục, y tế, kế hoạch hoá gia đình) ở khắp các vùng nông thôn. Tỷ lệ chi tiêu công cộng dành cho giáo dục ở khu vực Đông á cao hơn rất nhiều khu vực khác. Trong khi tính trung bình, tất cả các nước đang phát triển dành 13% chỉ tiêu công cộng cho giáo dục (Nam á chỉ có 9%), thì các nước Đông á đã dành cho giáo dục khoản chi chiếm hơn 20% chi tiêu cộng trong hai thập kỷ tăng trưởng mạnh mẽ vừa qua. Hơn nữa, ở Đông á, phần lớn chi tiêu cho giáo dục bậc cao do khu vực tư nhân tài trợ còn chính phủ tập trung vào tiểu học và trung học. Sự kết hợp giữa đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và đầu tư vào nguồn nhân lực đã cải thiện năng suất lao động, tăng cường các cơ hội phi nông nghiệp, hình thành những mối liên hệ thành thị - nông thôn rộng lớn hơn và tiến hành công nghiệp hoá nông thôn. Do sự gia tăng năng suất nông nghiệp đã diễn ra trên những vùng địa lý rộng lớn, và chính phủ cung cấp dịch vụ cơ bản không mất tiền hoặc được trợ cấp rất nhiều, số việc làm phi nông nghiệp đã gia tăng mạnh mẽ. Kết quả là, các nước Đông á không những đạt được thành tựu tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong 20 đến 30 năm qua mà còn giảm đói nghèo một cách nhanh chóng.
Tài trợ của nhà nước cho các dịch vụ kinh tế và các dịch vụ xã hội có vai trò rất quan trọng đối với việc bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ này. Các dịch vụ kinh tế - nhất là giao thông vận tải, thuỷ lợi và khuyên nông - đều quan trọng. Các cá nhân dân cư thiếu sự khuyến khích và các cộng đồng thường không có hệ thống tổ chức và nguồn lực để thực hiện các hoạt động mang lại lợi ích cho tất cả các vùng. Do vậy, chính phủ thường phải tài trợ toàn bộ từ nguồn thu của nhà nước. Cách tốt nhất để duy trì được cơ sở hạ tầng nông thôn, chẳng hạn như thuỷ lợi, là sự đóng góp trực tiếp của các cá nhân và cộng đồng địa phương dưới hình thức phí sử dụng hay bằng lao động. Về các dịch vụ xã hội, có lý do rất chính đáng để thực hiện một phương hướng phổ cập rộng rãi đảm bảo cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản được trợ giá đáng kể. Những dịch vụ quan trọng nhất là giáo dục tiểu học, y tế cộng đồng , chữa bệnh cơ bản cho người nghèo và nước sạch. Ngân sách nhà nước có vai trò chính yếu đối với cả hai loại dịch vụ này, dù các hộ gia đình có thể đóng góp một phần, đặc biệt là các dịch vụ xã hội.
Thực tế cho thấy, các dịch vụ nông thôn ở Việt Nam, cũng giống như ở các nước Đông á khác, có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo và đảm bảo công bằng xã hội. Nhìn chung ở nông thôn Việt Nam, những hộ gia đình tham gia vào các hoạt động kinh tế đa dạng thường có mức sống cao hơn các gia đình khác. Việc đa dạng hoá này đòi hỏi có thông tin kiến thức, cũng như khả năng tiếp cận với công nghệ và thị trường.
Để đáp ứng được những thách thức của việc tăng trưởng kinh tế nhanh và rộng khắp, giảm đói nghèo và đảm bảo công bằng xã hội đòi hỏi phải tăng đầu tư cộng đồng vào những dịch vụ cơ bản ở nông thôn. Chi tiêu công cộng thường bị dàn trải ra nhiều dịch vụ và lĩnh vực khác nhau. Nhà nước cần tập trung chi tiêu công cộng vào những danh mục đầu tư mà xét về toàn xã hội, nếu để cho khu vực tư nhân đảm nhận hoặc tài trợ toàn bộ sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội và sẽ dẫn đến việc không khai thác hết được các dịch vụ đó. Các dịch vụ cơ bản cần được quan tâm hàng đầu ở nông thôn là giáo dục, y tế và cung cấp nước.
Kết luận
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ cơ bản của quá trình phát triển. Có thể nói, thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất của phát triển, nhưng tự mó không đưa đến phát triển. Phát triển chỉ có được khi tăng trưởng kinh tế tạo ra những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội, ở đó mỗi người dân được hưởng những thành quả của tăng trưởng và nhờ đó phát triển cá nhân mình.
Công bằng trong phân phối thu nhập không hàm nghĩa đầy đủ sự công bằng xã hội. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có các điều kiện như nhau tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt về các điều kiện tuỳ theo giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống, tố chất cá nhân. Do đó, công bằng xã hội luôn thể hiện ra như một xu hướng hơn là một trạng thái hiện thực. Trên thực tế, người ta chỉ có thể giảm bất bình đẳng và bất công chứ chưa thể đạt được công bằng tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội do vậy phải được hiểu là mức độ giảm bất bình đẳng đạt được cùng với tăng trưởng.
Nền kinh tế thị trường hiện đại với đặc trưng cơ bản là đời sống kinh tế dân chủ kết hợp với vai trò hướng dẫn và điều tiết của nhà nước là cơ chế đảm bảo giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Tuy nhiên, vai trò điều tiết của nhà nước trên thực tế là một vấn đề hết sức phức tạp. Vai trò đó phải được hiểu là sự hỗ trợ những khiếm khuyết của thị trường thông qua các chính sách điều chỉnh vĩ mô hơn là làm thay đổi hoặc can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Các chính sách mà chính phủ các nước đạt được thành tựu cao trong tăng trưởng và giảm bất bình đẳng là một tổ hợp các biện pháp điều tiết. Tổ hợp này khác nhau theo từng nước và trong thời kỳ ở mỗi nước. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm của các nước này phải chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chung cho tất cả các nước.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu cao trong tăng trưởng kinh tế qua hơn 10 năm đổi mới, đời sống số đông nhân dân được cải thiện rõ rệt, giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo có tiến bộ, trong công bằng xã hội đang từng bước được xoá bỏ. Chế độ phân phối gắn với thành quả và hiệu quả lao động đã tạo ra những động lực thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra công bằng. Theo đánh giá của các cơ quan Liên hợp quốc có mặt ở Hà Nội, thì “Việt Nam giảm được một nửa tỷ lệ hộ đói nghèo trong thập niên vừa qua là điều gần như chưa có nước nào đạt được”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8978.doc