Đề tài Vụ kiện giày có mũ da của Việt Nam bán phá giá vào thị trường EU năm 2005-2006 và ảnh hưởng của nó đến các doanh nghiệp ngành sản xuất da giày Việt Nam

Qua vụ kiện giày có mũ da của Việt Nam bán phá giá vào EU chúng ta cần nhìn nhận đây là vấn đề bình thường trong thương mại toàn cầu. Các doanh nghiệp phải trang bị cho mình sự hiểu biết về luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán, không tranh mua tranh bán không lành mạnh với nhau để khách hàng nước ngoài có điều kiện ép giá, còn chúng ta lại rơi vào kiện tụng. Với thị trường EU, họ vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhỏ trực tiếp sản xuất giày theo kiểu truyền thống với giá thành rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải phát huy những gì đã làm sau vụ kiện với EU, đó là đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng nước ngoài Đối với chính phủ, chính phủ cần tiếp tục đàm phán với Mỹ và EU để họ công nhận qui chế kinh tế thị trường cho Việt Nam để cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tự vệ trong các vụ kiện.

doc33 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vụ kiện giày có mũ da của Việt Nam bán phá giá vào thị trường EU năm 2005-2006 và ảnh hưởng của nó đến các doanh nghiệp ngành sản xuất da giày Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu tham gia gia công cho nước ngoài, không thể quyết định được giá bán sản phẩm, do vậy không thể coi là có hành vi bán phá giá vào EU. Sau gần hai tháng kiểm tra trực tiếp 08 doanh nghiệp da giày Việt Nam, EC đã không công nhận 08 doanh nghiệp này đạt được các tiêu chí liên quan đến nền kinh tế thị trường. Đại diện lâm thời của EC tại Việt Nam cho biết qua cuộc điều tra này cho thấy những bằng chứng về sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất dày gia ở Việt Nam, ví dụ như thuê đất không theo giá thị trường, giảm thuế hoặc miễn thuế, ưu đãi tín dụng...EU cho rằng các can thiệp của nhà nước như vậy là không hợp với luật lệ của WTO. Lúc này đã có nguồn tin EU sẽ tăng thuế nhập khẩu đối với giày da nhập khẩu từ Việt Nam lên đến 20%, tức là tăng gấp 3 lần mức thuế hiện được áp dụng. Ngày 17/03/2006, sau cuộc bỏ phiếu của giới chức thương mại 25 nước EU, trưởng cao uỷ thương mại EU, ông Madelson tuyên bố vẫn tiếp tục áp dụng mức thuế nhập khẩu đối với giày mũ da Việt Nam như đã đề xuất. Ông cho biết sẽ kiên quyết theo đuổi kế hoạch đánh thuế, và sẽ yêu cầu Cao uỷ bỏ phiếu ủng hộ trong phiên họp tiếp theo. Kết quả bỏ phiếu cho thấy quan điểm trong chuyện này là rất khác nhau. Lúc này, có hai khả năng có thể xảy ra: hoặc EU sẽ giữ nguyên quyết định như đã công bố tăng thuế lên 16,8%, hoặc sẽ bị áp hạn ngạch dựa trên kim ngạch xuất khẩu của năn 2004 và tăng thêm 15% mỗi năm. Ngày 24/03/2006, bất chấp những quan điểm chia rẽ, sự phản đối từ một số nước thành viên, Liên minh Châu Âu cuối cùng tuyên bố chính thức áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày da nhập khẩu từ Việt Nam, giáng một đòn chí tử vào ngành giày Việt Nam. Mức thuế khởi đầu chỉ có 4,2%, nhưng giới hạn sau lên đến 16,8%, trước khi có một mức thuế cuối cùng được ban hành. Mức thuế này sẽ bắt đầu được áp dụng từ ngày 7/4/2006. Ngày03/06/2006, Cục quản lý cạnh tranh Bộ Thương mại thông báo, Liên minh Châu Âu đã chính thức áp dụng mức thuế mới đối với giày da Việt Nam nhập khẩu vào thị trường này. Ngày 05/07/2006, EC đề xuất EU áp dụng hệ thống hạn ngạch đối với giày da nhập khẩu từ Việt Nam. Đây được xem như một giải pháp cho những bất đồng giữa EU và Việt Nam xung quanh vấn đề bán phá giá giày da. Theo đề xuất, EU sẽ áp dụng mức thuế bình thường 7,5% đối với 95 triệu đôi giày nhập khẩu từ Việt Nam. Mức thuế sẽ được xem xét điều chỉnh theo từng năm. Tuy nhiên, một khi vượt qua hạn ngạch này, da giày Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế phạt lên đến 29,5%. Đề suất này cần được thảo luận và được bộ trưởng thương mại các nước thông qua. Tuy nhiên nó không nhận được sự đồng tình từ các nước thành viên. Lúc này Việt Nam vẫn phủ nhận việc giày da trong nước bán phá giá vào thị trường EU. Trước tình hình đó đề xuất về hệ thống thuế trả chậm đã được đưa ra nhưng cũng không thành công vì gặp khó khăn về mặt pháp lý cũng như không được các nước thành viên EU ủng hộ. Ngày 27/07/2006, Uỷ ban Châu Âu đưa ra kế hoạch mới về biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng giày sản xuất tại Việt Nam sau khi kế hoạch cũ không được các nước thành viên thông qua. Đề xuất mới, có tính tới nhu cầu về giày dép nhiều khi trái ngược nhau giữa các nước thành viên, yêu cầu đánh thuế chống bán phá giá là 10% với giày mũ da của Việt Nam. Mức thuế này sẽ được áp dụng trong 05 năm, thấp hơn khá nhiều so với mức sơ khởi 16,8% đưa ra hồi đầu năm. Ngày 04/10/2006, với tỷ lệ đa số (13/12), Uỷ ban đại diện thường trực của 25 nước thành viên Liên minh Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua biểu thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó EU sẽ áp mức thuế đối với các sản phẩm giày da của Việt Nam là 10% thay cho mức tạm thời trước đó là 16,8%. Biện pháp này có hiệu lực từ 07/10/2006 và chỉ áp dụng trong vòng 02 năm, sau đó được xem xét lại, chứ không phải 05 năm như đề nghị ban đầu. II. Động cơ đằng sau vụ kiện Việc EU biểu quyết thuế chống bán phá giá lên giày mũ da của Việt Nam không nói lên nhiều về những vấn đề của nước ta, nhưng lại bộc lộ những điểm yếu nghiêm trọng về chính trị của EU: trì trệ, mâu thuẫn, bế tắc và mất cân bằng. Thứ nhất nó đã thể hiện sự trì trệ của Châu Âu: Ai cũng biết giày là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Nếu như một công nhân ngành giày ở Trung Quốc hay Việt nam chỉ cần lương không đến 100USD/tháng, thì một công nhân ở Pháp hay ý lại có thể đòi ít nhất mỗi tháng 2000 USD. Nhưng năng suất thì chẳng có gì chênh lệch, thậm chí công nhân Trung Quốc hay Việt Nam còn làm ra nhiều sản phẩm hơn trong một thời gian. Hiển nhiên thấy rõ sự yếu kém về khả năng cạnh tranh của giày Châu Âu. Vậy tại sao công nhân Châu Âu không chuyển sang những ngành khác mà thế giới vẫn phải mua của Châu Âu, ví dụ như công nghệ cao hay các ngành sử dụng nhiều vốn? Quá trình hội nhập và phát triển đòi hỏi những thay đổi về cơ cấu, nhưng vẫn có những người không theo kịp sự chuyển đổi. Những công nhân của Pháp hay ý với hàng chục năm trong nghề giày cảm thấy khó khăn khi phải chuyển đổi sang nghề khác. Thay vì dùng các biện pháp đào tạo và khuyến khích để nền kinh tế chuyển đổi sang những ngành có sức cạnh tranh cao hơn, thì nhiều chính phủ lại dùng bảo hộ để cố duy trì những ngành có sức cạnh tranh yếu kém. Một có gắng lội ngược dòng thời đại. Thứ hai là đã xuất hiện những mâu thuẫn trong nội bộ EU: Đầu tiên là giữa các quốc gia thành viên. Trong quá trình biểu quyết của 25 nước trong EU, có 12 nước (chủ yếu ở Bắc Âu) phản đối việc áp thuế, chỉ có 09 nước (chủ yếu là Nam Âu) như Tây Ban Nha, ý, Pháp hay Hungary biểu quyết áp thuế. Có 04 nước bỏ phiếu trắng, nhưng được EU tính là đồng ý áp thuế. Tiếp đến phải kể tới là mâu thuẫn giữa các tổ chức ngành nghề. Liên đoàn công nghiệp hàng thể thao Châu Âu (FESI) và Hiệp hội Ngoại thương Châu Âu (FTA) cực lực phản đối việc áp thuế. Các phân tích của FESI cho thấy áp thuế có thể làm tăng đến 25% giá giày ở Châu Âu và thậm chí các ngành công nghiệp khác cũng bị ảnh hưởng xấu. Trong khi đó, Liên đoàn Công nghiệp giày Châu Âu (CEC) cố gắng trấn an dư luận là thuế sẽ không làm tăng giá giày, không làm giảm việc làm, và không ảnh hưởng đến quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Một mâu thuẫn nữa cũng phải kể đến là chính sách của Eu. Khi bắt đầu đề cập thuế chống phá giá, Cao uỷ Thương mại Châu Âu đã tuyên bố không áp dụng thuế lên giày của trẻ em để trẻ em không phải chịu giá giày tăng(chính ông đã công nhận là thuế sẽ làm tăng giá). Nhưng kết quả là tháng 10 EU đã quyết định áp thuế lên cả giày trẻ em. Thứ ba, nó cũng thể hiện một sự bế tắc trong dài hạn: Bế tắc thứ nhất đã thể hiện ở trên: Châu Âu không đủ năng động để chuyển đổi những ngành sản xuất kém khả năng cạnh tranh. Ngành giày Châu Âu không phải là ngành duy nhất kém khả năng cạnh tranh. Từ việc ngành giày thành công trong việc đòi hỏi được bảo hộ, đến lượt các ngành khác cũng nối bước đòi hỏi được bảo hộ. Sự đổ vỡ của vòng đàm phán Doha là sự bế tắc chung của WTO, trong đó phải kể đến đóng góp của sự bế tắc trong những ngành cụ thể: không có khả năng cạnh tranh mà cũng không chấp nhận chuyển đổi. Bế tắc thứ hai: việc áp thuế không thể giúp bảo hộ trong dài hạn. Giày của Trung Quốc và Việt Nam sẽ chuyển hướng sang các thị trường mà họ không bị áp thuế phá giá, ví dụ như Nhật và Mỹ. Trước tình hình đó, giày của Indonesia và vài nước khác sẽ rút bớt ra khỏi các thị trường trên để nhảy vào Châu Âu lấp chỗ trống do Trung Quốc và Việt Nam để lại. Liệu EU có thể diễn mãi màn "thuế chống phá giá" với các nước tiếp theo? Trong các vòng luẩn quẩn này, tất cả đều thiệt. Người tiêu dùng mất đi những sản phẩm quen thuộc và giá thấp. Người sản xuất mất thêm chi phí để điều chỉnh và tiếp thị sản phẩm vào thị trường mới. Ai được lợi: những chính trị gia đại diện cho các nhóm lợi ích, đã thành công trong việc đưa ra một chính sách có lợi cho riêng nhóm mình. Thứ tư, các quyết định đó cũng thể hiện sự mất cân bằng về chính trị: Điều này thể hiện ở việc lợi ích của đông đảo người tiêu dùng ở Châu Âu bị hy sinh, do những tổ chức đại diện cho họ không mạnh bằng những tổ chức đại diện cho một nhóm thiểu số, đó là những người bị tụt lại phía sau trong công cuộc hội nhập kinh tế thế giới. Khi những tổ chức đại diện cho thiểu số lại thắng thế, đó là bằng chứng hiển nhiên về sự mất căn bằng về chính trị của EU. Những nước Bắc âu biết rõ áp thuế chống phá giá lên giày không những không công bằng cho công nhân Trung Quốc và Việt Nam, mà còn có hại cho người tiêu dùng của họ. Khi họ vẫn phải chấp nhận một quyết định như vậy, đo cũng là sự mất cân bằng về chính trị của EU. Đó là chưa tính trường hợp nếu Trung Quốc áp dụng biện pháp trả đũa, cả những nước trong Eu đã bỏ phiếu phản đối thuế giày da cũng bị trả đũa lây. Trung Quốc đã là cường quốc thứ nhì thế giới, Trung Quốc có thể xâm nhập mọi thị trường, nhưng EU không dễ gì tìm được một thị trường nào khác hấp dẫn hơn Trung Quốc. Đến thời điểm trước khi có nguy cơ nổ ra cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc thì EU vẫn còn cơ hội để quyết định bãi bỏ thuế chống phá giá lên giày mũ da, để thúc đẩy việc khắc phục các yếu kém của chính mình. Đây là một quyết định chính trị khá khó khăn, nhưng có lợi cho EU nhiều hơn là cho Trung Quốc và Việt Nam. Đã có quá nhiều vụ kiện chống bán phá giá nhằm vào các nước đang phát triển. Người ta đã không ngần ngại gọi đích danh đó là những vụ kiện nhằm mục đích bảo hộ các ngành sản xuất ở các nước phát triển đã mất hẳn tính cạnh tranh. Vì thế sẽ khó có được sự công bằng trong phân xử các vụ kiện chống bán phá giá vì mục tiêu cuối cùng của nó không phải là sự công bằng mà là bảo hộ. Khối liên minh Châu Âu lo ngại cho rằng hàng hoá giá rẻ nhập khẩu từ Việt Nam tràn lan trên thị trường có thể đẩy các nhà sản xuất nội khối đến bờ vực phá sản. EU biện hộ rằng không có ý định lợi dụng công cụ bảo vệ thương mại để bảo hộ cho các nhà sản xuất Châu Âu. Tuy nhiên họ cho rằng cần phải phân biệt rạch ròi cái gì là cạnh tranh gắt gao và cái gì là cạnh tranh không bình đẳng. Nhưng chúng ta có thể nhận thấy mục đích của EU là muốn nâng thuế giầy nhập khẩu lên. Quyết định của EU hoàn toàn mang tính chất chính trị và chống lại những người tiêu dùng. Giày dép Việt Nam xuất khẩu có đến 80% là các công ty nước ngoài gia công tại đây. Mà công ty nước ngoài thì rõ ràng không được chính phủ Việt Nam bảo hộ về giá cả. Trong quá trình điều tra EU tiến hành rất nhiều việc gây bất lợi cho Việt Nam. Khi đã xác định được đối tượng quyết định giá da giày xuất sang EU là thương lái (trader) thì Ec lại kiện nhà sản xuất. Có doanh nghiệp chưa bao giờ làm giày hoặc không xuất khẩu vào EU cũng bị kiện. EC áp dụng các luật lệ của WTO vào vụ kiện này trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO. Khi cho rằng các nước bị kiện trợ cấp cho ngành da giày họ không nghĩ rằng ngay ở EU một con bò cũng được trợ cấp 07 euro. Nghĩa là một tổ chức vẫn tồn tại sự bảo hộ lại đi kiện một nước mà không chắc chắn có sự bảo hộ. Không phải ngẫu nhiên mà EU chọn Brazil như là nước thay thế để tính giá trị thông thường. Sự lựa chọn này bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi điều kiện kinh tế của Brazil cao hơn nhiều so với Việt Nam. Điều này là có lợi cho EU. Một bất lợi lớn của Việt Nam trong vụ kiện này là cùng bị kiện với Trung Quốc. EU chủ yếu nhằm đến hàng giày dép rẻ tiền của Trung Quốc chứ không phải của Việt Nam. Kể từ khi xoá hạn ngạch, số lượng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng lên tới 700%. Vị trí thị phần của Trung Quốc lớn hơn nhiều so với Việt Nam và do đó đích ngắm của EU đối với trung Quốc cũng lớn hơn. Chương II: Phản ứng của các nước đối với vụ kiện và tác động của vụ kiện tới các doanh nghiệp sản xuất da giày Việt Nam I.Phản ứng từ các nước đối với vụ kiện của EU đối với giày mũ da Việt Nam 1.Phản ứng của Việt Nam Trước đây EU dành chế độ ưu đãi hàng hoá cho Việt Nam xuất khẩu sang với mức thế giày dép là 4,4%(trong khi của Trung Quốc là 8,5%), nhưng nay EU lại kiện, khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam không khỏi ngỡ ngàng. Ngay từ khi có thông tin về vụ kiện phía Việt Nam đã khẳng định không bán phá giá giày da vào thị trường EU. Trước tình hình này, nhiều doanh nghiệp lúng túng không biết có nên theo đuổi vụ kiện hay không. Có doanh nghiệp cho rằng, những điều khoản EC đưa ra là rất vô lý, nên họ không theo đuổi vụ kiện. Các doanh nghiệp không theo đuổi vụ kiện này dự định sẽ mở thị trường sang hướng khác. Tuy nhiên có nhiều ý kiến cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam nên tham gia vụ kiện để bảo vệ quyền lợi của cá nhân doanh nghiệp và cả ngành da giày nói chung. Thậm chí, như ông Vũ Văn Minh, Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Vina Giày, thành viên Hội da giày Thành phố Hồ Chí Minh (S.L.A), Hiệp hội Da giày Việt Nam (LEFASO), thì các doanh nghiệp không có tên trong danh sách bị kiện, cũng nên liên hệ với EC để tham gia vụ kiện, bảo vệ quyền lợi của mình. Ngay từ khi EC bắt đầu vụ kiện, các doanh nghiệp Việt Nam đã có tinh thần hợp tác tốt với EC. Nhưng gáo nước lạnh đầu tiên đã dội thẳng vào tinh thần hợp tác ấy khi 08 doanh nghiệp nằm trong danh sách điều tra mẫu của EC đã không được công nhận là hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Vẫn không nản lòng, một chiến dịch “hợp tác toàn diện” của các doanh nghiệp đã được thực hiện nhằm minh oan cho ngành da giày trong nước. Những doanh nghiệp tâm huyết cũng cố gắng chứng minh họ tự bươn chải kinh doanh chẳng được ai hỗ trợ. Liên tục trong gần một tháng ròng rã giữa trời Tây giá rét (tháng 12/2005), đoàn doanh nghiệp đi đến từng nước thành viên chủ chốt của EU chỉ để nói chúng ta sản xuất theo cơ chế nào, vì sao giá cả của chúng ta cạnh tranh, ngành da giày không được nhà nước trợ giá mà hầu hết là tự thân vận động. Tuy nhiên kết quả không vẫn hoàn không. Chính phủ Việt Nam cũng khẳng định không can thiệp và không trợ giá cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp da giày. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là do chi phí lao động thấp và công nghệ hiện đại. Các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc kinh tế thị trường, họ được tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng. Việc miễn giảm tiền thuê đất nếu có cũng chỉ là sự khuyến khích đầu tư mà không nên xem là sự bóp méo chi phí sản xuất. ActionAid Việt Nam và Hiệp hội Da giày Việt Nam (LEFASO) đã tiến hành khảo sát và đánh giá những tác động tiêu cực của vụ kiện đối với đời sống và việc làm của công nhân tại 21 doanh nghiệp sản xuất giày mũ da xuất khẩu vào thị trường EU ở 07 tỉnh thành trong cả nước. Báo cáo nghiên cứu này cùng với lá thư tập thể với 2000 chữ kí của của các công nhân da giày đã được gửi tới phiên điều trần tai EC về vụ kiện tại Brussels (Bỉ) vào ngày 02/06/2006. ActionAid (AAV) đã lên tiếng kêu gọi EC xem xét lại quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da Việt Nam một cách thấu tình đạt lý, trên cơ sở thương mại công bằng, bình đẳng và nhân đạo. Ngày 06/10, Bộ Thương mại cũng chính thức có phản ứng trước việc EC áp thuế 10% đối với giày mũ da Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Thương mại Lê Danh Vĩnh đã đề nghị EC không áp dụng biện pháp này. Theo ông mức thuế này là quá cao. Một lần nữa ông khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không bán phá giá giày có mũ da vào EU, xuất khẩu giày có mũ da của Việt Nam không phải là nguyên nhân gây thiệt hại và đe doạ gây thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp giày da của EU, mọi quyết định áp thuế chống bán phá giá với giày da Việt Nam đều không công bằng, không phản ứng đúng thực tế sản xuất và xuất khẩu giày da ở Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế Ruệ đã cho rằng: việc các nhà sản xuất Châu Âu và Uỷ ban Châu Âu đề xuất áp dụng thuế chống bán phá giá là đi ngược với tinh thần tự do hoá thượng mại cộng đồng Châu Âu khởi xướng và thúc đẩy. Điều này cũng trái với mục tiêu của các trương trình trợ giúp xoá đói giảm nghèo mà Uỷ ban Châu Âu và các nước dành cho Việt Nam. Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh, Bộ thương mại ngay sau khi có phán quyết áp thuế đã khẳng định rằng các doanh nghiệp Việt Nam không bán phá giá. Theo bà thì việc áp thuế chống bán phá giá sơ bộ của EC là không phản ánh thực tế. Đại diện Hiệp hội da giày Việt nam, ông Nguyễn Gia Thảo- Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam cũng đã có ý kiến phản đối việc EU áp mức thuế 10% đối với giày mũ da nhập từ Việt Nam và cho đây là biện pháp bảo hộ mâụ dịch. Ngày 10/8/2006, người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam Lê Dũng khẳng định các doanh nghiệp sản xuất giày daViệt Nam không bán phá giá vào thị trường EU và cho rằng đề xuất của EC về áp thuế chống bán phá giá đối vơí Việt Nam đi ngược với chủ trương tự do hoá thương mại. Việc áp thuế này cũng bị các công ty đến từ Châu Âu đặt cơ sở sản xuất ở Việt Nam phản đối. 2.Phản ứng của các nước thành viên EU 2.1.Các ý kiến ủng hộ Việt Nam Khi EU đưa ra mức thuế chống bán phá giá đối với giày da nhập khẩu từ Việt Nam thì đã có những bất đồng sâu sắc giữa các nước Bắc Âu và Nam Âu. 13 nước, chủ yếu là các nước Bắc Âu, đứng đầu là Thuỵ Điển, cũng như giới nhập khẩu và bán lẻ da giày EU phản đối việc áp thuế này vì cho rằng đây là hành động bảo hộ và làm ảnh hưởng đến tiêu dùng Châu Âu do giá tăng. Thuỵ Điển đã đưa ra đề nghị chỉ áp thuế chống bán phá giá khi số lượng nhập khẩu vượt quá Quotas. Các quốc gia thành viên khác như Anh, Ireland, Pháp, Hà Lan phản đối quyết định này vì thuế này có thể đẩy giá lên cao và khiến cho các nhà bán lẻ chịu thiệt hại. Trong đó, 06 nước gồm Ireland, Bỉ, Anh, Pháp, Đanh Mạch, Hà Lan quyết định thành lập Liên minh giày trẻ em để chống lại việc EU áp thuế chống bán phá giá từ giày da tới giày trẻ em. Chính phủ các nước thành viên EU đã nhiều lần bác bỏ đề nghị của EC về việc áp dụng các mức áp thuế chống phá giá đối với sản phẩm giày da cuả Việt Nam. Phát biểu trước báo giới tại Brusels ( Bỉ), ngày 04/08, người phát ngôn của EU, ông Peter Power cho biết Uỷ ban cố vấn chống phá giá không tán thành đề xuất ngày 26/07 của EC, theo đó áp dụng mức thuế 10% đối với giày da nhập khẩu từ Việt Nam. Ông Power thừa nhận rằng nội bộ EU đang bị chia rẽ trong vấn đề này. Một số nước ủng hộ tự do thương mại trong khi một số khác lại yêu cầu phải bảo hộ ngành giày da của châu Âu trước làn sóng hàng nhập khẩu giá rẻ. Trước đó, các nước EU cũng đã nói “không” với một đề nghị khác của EC về áp dụng một hệ thống thuế quy định mức hạn ngạch đối với giày da nhập khẩu từ Việt Nam. Chủ tịch Hiệp hội các nhà nhập khẩu và bán lẻ giày dép Châu Âu (FAIR) Paul Verrips cho rằng hệ thống thương mại của EU còn tồn tại nhiều sai lầm mang tính thủ tục và cần được điều tra tổng thể. Quyết định áp thuế chống bán phá giá này là một trong những sai lầm như vậy. Ông cho biết FAIR quyết tâm làm rõ vấn đề này. Liên minh ngành hàng thể thao châu Âu (FESI), với các thành viên lớn và nổi tiếng thế giới như Nike và Adidas, đã lên tiếng cảnh báo Uỷ ban Châu Âu rằng việc đánh thuế nhập khẩu chống bán phá giá đối với các sản phẩm giày thể thao sản xuất tại Trung Quốc và Việt Nam có thể khiến ngành hàng này cuả Châu Âu mất đi 640000 việc làm thu nhập cao đặc biệt là trong các bộ phận thiết kế, tiếp thị và hậu cần. Các công ty Châu Âu đã tính tới khả năng khởi kiện EU về quyết định áp thuế chống bán phá giá với giày da nhập từ Việt Nam. Hiệp hội các nhà bán lẻ Anh (BRC) nêu rõ việc áp thuế chống phá giá này chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của một số nhà sản xuất kém khả năng cạnh tranh ở Châu Âu, trong khi lại gây thiệt hại cho người tiêu dùng và các nhà phân phối lẻ. Tán đồng quan điểm này, Liên đoàn ngành sản xuất đồ thể thao Châu Âu khẳng định áp thuế chống phá giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ EU- Việt Nam. Hãng sản xuất giày Clarks, nhà bán lẻ lớn nhất của Anh, đã chỉ trích quyết định của Uỷ ban Thương mại của EU về áp đặt mức thuế chống bán phá giá với giày da xuất khẩu của Việt Nam. Giám đốc tài chính của hãng, ông Martin Salisbury cho rằng quyết định này đang đe doạ đến hoạt động của họ tại Việt Nam. Chủ tịch Hiệp hội da giày Đức cũng khẳng định quyết định này của EU là một sai lầm. Theo ông, biện pháp EU đưa ra là nhằm bảo vệ ngành da giày cuả EU trước nguồn hàng rẻ từ Việt Nam. Báo Thương mại của Đức cũng có bài viết chỉ trích quyết định của EU và cảnh báo quyết định đó có thể làm 10000 công nhân ở các nước EU mất việc. 2.2.Các ý kiến ủng hộ việc đánh thuế Khi EU đưa ra biện pháp áp thuế thì đã nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của các nước như Italia và Bồ Đào Nha, những nước muốn bảo vệ ngành sản xuất giày nội địa. Họ kiên quyết đòi áp thuế với Việt Nam với lý do mặt hàng da giày của chúng ta đã bán phá giá làm giảm mức cạnh tranh trong nước. Thậm chí khi EU đưa ra yêu cầu đánh thuế 10% với giày da Việt Nam, đề xuất này đã vấp phải những sự phản đối từ một số nước sản xuất giày tại Châu Âu, ví như Italia. Nước này cho rằng mức thuế trên là thấp và đề nghị nâng lên nữa. Có một số nước trước đây phản đối quyết định áp thuế cũng đã tỏ ý thỏa hiệp, như nước Aó. Họ đề xuất áp dụng mức thuế 10% trong vòng một năm sau đó sẽ xem xét điều chỉnh lại. Đề nghị của Aó đã tác động mạnh đến liên minh các nước ủng hộ thương mại tự do. 3.Phản ứng của các tổ chức quốc tế và các nước khác Hiệp hội dệt may da giày Mỹ (AAFA) đã kêu gọi thành viên của Liên minh Châu Âu cùng sát cánh với Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển để phản đối việc áp thuế chống phá giá giày xuất xứ từ Việt Nam vì cho rằng điều này tiềm ẩn nhiều tác hại. AAFA cảnh báo việc áp thuế này có thể sẽ mang lại những thiệt hại cho người tiêu dùng Châu Âu, họ sẽ phải mua giày dép với giá rất cao, hơn nữa những lựa chọn ưa thích của họ lại bị thu hẹp. Thêm vào đó, việc áp thuế này cũng sẽ gây tác động tiêu cực đến hàng trăm ngàn người lao động của các công ty giày dép ở Châu Âu. Các tổ chức tiêu dùng, nhà bán lẻ và chế tạo sản xuất hàng hoá ở Châu á chỉ trích EU tìm cách đạt mục tiêu của riêng mình bằng cách trừng phạt các nước, nơi châu Âu có hoạt động sản xuất ngày càng tăng. Trung Quốc-quốc gia cùng bị khởi kiện với Việt Nam đã khởi kiện EU về mức thuế chống bán phá giá với nước này. Tuy vậy, cũng có quốc gia lợi dụng việc áp thuế này một cách triệt để. Bộ thương mại ấn Độ đã chuẩn bị một chương trình hành động cho ngành sản xuất và xuất khẩu của nước này nhằm tận dụng lợi thế từ quyết định của EU. Ông Joosim Ramesh, Quốc vụ khanh Bộ thương mại và Công nghiệp ấn Độ cho rằng việc áp thuế này tạo cơ hội cho ngành da giày của ấn Độ. Bởi gần 63% các sản phẩm giày da xuất khẩu của nước này là sang thị trường EU. Ông đã khuyến cáo các nhà sản xuất và xuất khẩu giày da của ấn Độ tranh thủ cơ hội này để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. II.Tác động của vụ kiện đối với các doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng 1.Tác động của vụ kiện đối với các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam Thứ nhất, vụ kiện đã tác động tiêu cực đến việc sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp da giày Việt Nam. Việc áp thuế gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Đầu tiên là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và xuất khẩu giày dép vào thị trường Châu Âu dưới hình thức gia công, lợi nhuận thấp. Hơn thế nữa mức thuế chống bán phá giá 10% cộng với mức thuế hiện hành thì các sản phẩm giày mũ da Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế tổng cộng trung bình trên 14%. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trên cả hai phương diện: cạnh tranh trên thị trường Cộng Đồng Châu Âu và lợi nhuận của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của người lao động trong ngành công nghiệp giày dép vốn đã thấp. Ngay khi có tin khả năng xảy ra vụ kiện, các doanh nghiệp da giày đã bị mất hàng loạt hợp đồng, bởi khách hàng lo lắng sẽ bị áp thuế chống bán phá giá nên không dám đặt hàng- đó là ý kiến của hầu hết doanh nghiệp da giày khi nói về tác động của vụ kiện. Ngay lập tức các đối tác có các phản ứng tiêu cực như rút đơn hàng, dịch chuyển việc thuê gia công sang Indonesia, Thái Lan,.. khiến doanh nghiệp vừa mất luôn khách hàng. Có khoảng 20% đơn hàng của Trung Quốc và Việt Nam được chuyển sang thị trường Indonesia. Nhiều tập đoàn giày dép lớn đã tính đến chuyện chuyển nhà máy sang Indonesia để tận dụng chính sách thông thoáng và nguồn lao động rẻ tại đây. Đã có 02 tập đoàn công bố đầu tư xây dựng hai nhà máy cỡ lớn tại nước này. Nhiều đối tác nước ngoài đã rút đơn hàng và dịch chuyển sản xuất sang các nước khác như Indonesia, Thái Lan, ấn Độ … Số đơn hàng đã giảm 30-50% so với năm 2004. Theo phân tích của một doanh nghiệp chuyên sản xuất giày da, mức lãi trung bình của một đôi giày chỉ từ 5-8%/ giá FOB, tương đương 0.3-0.7euro/1đôi, rất thấp do với số tiền phải tăng thêm do tăng thuế. Với điều đó các đơn hàng sẽ khó lòng còn được thực hiên tại Việt Nam. Thay vào đó, các nhà nhập khẩu sẽ chuyển sang Thái Lan, Indonesia. Việc áp thuế này gây tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất của toàn ngành da giày, với kinh ngạch xuất khẩu tới 2.1 tỷ euro (năm 2005) của Việt Nam vào thị trường EU. Thống kê ban đầu cho thấy, bị ảnh hưởng nặng nề nhất là các doanh nghiệp gia công 100% cho các đối tác nước ngoài, với sản lượng giày da chiếm 80% lượng giày dép xuất vào EU và chiếm khoảng 80-100% tổng số đơn hàng. Điều đáng lo là khó khăn thiếu hụt hợp đồng trong năm 2006, vì cho đến thời điểm này là thời điểm chuẩn bị kế hoạch cho năm tới mà vẫn chưa có nhiều đơn đặt hàng. Các khách hàng không dám đặt hàng trong điều kiện như hiện nay vì tỷ lệ rủi ro rất cao nếu EC ra phán quyết áp thuế bán phá giá đối với các doanh nghiệp da giày Việt Nam. Nhiều khách hàng lo ngại, chỉ đặt hàng cầm chừng cho năm 2006 vì chưa biết diễn biến vụ việc tới đâu, chưa biết giá cả thế nào. Theo Lefaso, trong quý I/2006, số đơn hàng của các doanh nghiệp da giày đã giảm 20-50% so với cùng kỳ năm 2005, Dự báo quý III số đơn đặt hàng còn giảm mạnh. Do vậy, trên 50% doanh nghiệp trong diện nghiên cứu phải thu hẹp sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. 76% số doanh nghiệp bị giảm thu nhập so với cùng kỳ năm ngoái, mức thu nhập giảm từ 15-60%. Còn theo ông Diệp Thành Kiệt, phó chủ tịch Hiệp hội Da giày TP.HCM(SLA), các Doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất khả năng cạnh tranh với nhiều nước có ngành công nghiệp giày mạnh như Thái Lan, Phillippines, Indonesia, ấn Độ, … “Ngay cả Trung Quốc dù cũng bị áp thuế chống bán phá giá, nhưng Việt Nam cũng không thể cạnh tranh khi mà mức thuế của họ chỉ cao hơn Việt Nam có 2.4% trong khi trước đó trong đơn kiện EU đã đề ra là mức bán phá giá của Trung Quốc cao hơn gấp ba lần so với VN ", ông Kiệt nói. Ngay từ năm 2005, kinh ngạch xuất khẩu giày da của nhiều doanh nghiệp giảm mạnh. Sản lượng giày xuất khẩu của công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Sao Vàng (Hải Phòng) năm 2005 chỉ đạt trên 5,3 triệu đôi, bằng 88,7% so với năm 2004 nên kinh ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp giảm 8% so với năm 2004. Còn ông Nguyễn Ngọc Lâm- Tổng Giám đốc công ty da giày Hải Phòng cho biết: Cả năm 2005, công ty chỉ đạt 83% sản lượng so với năm 2004, nhiều đơn vị thành viên chỉ đạt 60%. Nặng nề hơn là công ty cổ phần giày Hải Dương, Giám đốc công ty Nguyễn Văn Vinh cho biết: Ngay từ tháng11/2005, đơn hàng đã giảm mạnh và đến thời điểm đó sản lượng chỉ còn khoảng 30% so với cùng kỳ mọi năm. Còn hàng loạt nhà máy như giày Barotex, cty liên doanh Kainan, giày Thái Nguyên, … đã phải ngừng sản xuất bởi các khách hàng không ký hợp đồng đặt hàng, công nhân phải nghỉ chờ việc. Nhiều doanh nghiệp phản ánh, mới chỉ áp dụng thuế có 4.2% mà hàng loạt các doanh nghiệp đã lao đao, nếu EC áp dụng thuế tới 16.8% vào thời điểm 15/09/2006, tình hình còn hết sức tồi tệ. Giám đốc một doanh nghiệp đã bức xúc nói : Vụ kiện chẳng khác gì "cơn sóng thần" đang tàn phá ngành công nghiệp da giày Việt Nam. Các doanh nghiệp như Công ty giày An Giang bị giảm tới 66% sản lượng. Công ty TNHH sản xuất, gia công hàng xuất khẩu 30/4 ở Tây Ninh, chuyên gia công giày các lọai cho đối tác Đài Loan, bị giảm tới 60% sản lượng. Công ty Gia Định giảm 56% … Các doanh nghiệp còn bị rơi vào tình trạng phải sản xuất cầm chừng, trả lương chờ việc nhằm giữ công nhân có tay nghề. Thứ hai, quyết định này đã tác động lớn đến người lao động trong các doanh nghiệp sản xuất da giày Việt Nam. Đã có khoảng 30% doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động, có doanh nghiệp cắt giảm tới 1.000 lao động như Công ty giày da Hải Phòng… ước tính sẽ có khoảng 100 ngàn người lao động mất việc do ảnh hưởng tiêu cực đến vụ kiện. ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là lao động trong ngành da giày, lĩnh vực mà lao động nữ chiếm tới 80%, lại chủ yếu là phụ nữ nông thôn. Công nhân thất nghiệp hàng loạt kéo theo những người thân trong gia đình cũng bị ảnh hưởng. Tiền lương của công nhân đã bị cắt giảm một nửa (còn 400.000 đồng/tháng ) , không đủ chi tiêu trong gia đình và nuôi con ăn học. Như vậy hàng trăm nghìn lao động nữ trong ngành da giày. Không biết nhiều về vụ kiện, nhưng biết rõ rằng miếng cơm manh áo của mình bị đe doạ hàng ngày. 2.Tác động của vụ kiện đối với doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng EU Vụ kiện đã tác động tới các nhà nhập khẩu EU: Khi quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da của Việt Nam các nhà nhập khẩu giày EU cũng gặp khó khăn trong kinh doanh. Họ đã quen với việc đặt hàng tại Việt Nam, không phải chỉ việc chuyển đơn đặt hàng sang nước khác là xong mọi chuyện. Khi đặt hàng tại Việt Nam họ có thể yên tâm về chất lượng, thời hạn giao hàng, nếu chuyển sang nơi khác coi như làm phải lại từ đầu từ việc tìm kiếm đối tác đến xây dựng mối quan hệ với đối tác đó. Người lao động trong các doanh nghiệp EU cũng bị ảnh hưởng: Có khoảng trên dưới 500.000 lao động của EU làm việc trong các lĩnh vực thiết kế, phân phối … bị ảnh hưởng, thậm chí mất việc. Nhưng chịu ảnh hưởng lớn nhất vẫn là người tiêu dùng EU:  Do lượng giày nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc lên tới gần 300 triệu đôi (năm 2005) nên khoản tiền mà người tiêu dùng Châu Âu phải chi ra là rất lớn. Người dân EU sẽ phải chi thêm 2-5 euro để mua giày dép nhập khẩu từ Việt Nam lẫn Trung Quốc.  Nếu lúc trước người tiêu dùng Anh bỏ ra khoảng 20 bảng để mua đôi dép chất liệu da đi trong nhà thì bây giờ số tiền đó phải là 27-28 bảng. Đó là thiệt hại mà người tiêu dùng ở các nước Châu Âu phải gánh chịu. Chương III: Bài học kinh nghiệm từ vụ kiện và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập I.Bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam Thứ nhất là phải đảm bảo các tiêu chí kinh tế thị trường, đây là kinh nghiệm từ vụ da giày. Được công nhận hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường đối với các doanh nghiệp Việt Nam là một điều quan trong để giảm bớt các thiệt hại khi xảy ra các vụ kiện bán phá giá, thậm chí nếu chứng minh được điều này, có thể tránh được những vụ kiện bất lợi. Điều này sẽ còn có ý nghĩa trong thời gian tới vì cho đến thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam vẫn chưa được công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam cần củng cố quan hệ hợp tác với chính quyền EU để thu được nhiều thông tin chi tiết hơn liên quan đến các tiêu chuẩn công nhận kinh tế thị trường để có chuẩn hoá trong các hoạt động của mình cũng như chuẩn bị những thông tin khi có yêu cầu điều tra. Các doanh nghiệp cũng cần sớm phát triển hệ thống kế toán theo các tiêu chuẩn quốc tế. Thứ hai, điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú ý là hội nhập thông tin và mã số thông tin với thế giới. Thông tin về vụ phá giá mà các doanh nghiệp nhận được từ chính phủ thường rất chung chung, ai cũng biết. Các thông tin từ khách hàng hay báo chí thường thiếu chính xác, đôi khi còn trái ngược nhau . Chính vì thế các doanh nghiệp cần phải xây dụng được hệ thống thông tin đáng tin cậy. Mã số thông tin cũng là vấn đề đáng lưu ý. Ví dụ như mã số hàng bị áp thuế của chúng ta chỉ ghi chung chung là 6403, trong khi ở EU dùng đến 08 mã số. Việc không đối chiếu được với nhau cũng gây khó khăn trong đàm phán. Thứ ba, để kịp thời xác định nguy cơ, mỗi Hiệp hội ngành hàng cần đánh giá năng lực và lợi thế cạnh tranh của sản xuất trong nước với cùng ngành hàng tại thị trường nước nhập khẩu. Muốn thực hiện được điều này, mỗi ngành cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin, phải phân tích từng sản phẩm ứng với từng thị trường xuất khẩu. Đây là công việc đòi hỏi nỗ lực và sự tham gia của nhiều bên như hiệp hội sản xuất và tiêu dùng, thống kê, hải quan, đại diện thương mại VN ở nước ngoài. Thứ tư, các doanh nghiệp cũng nên học cách ứng phó từ xa với các rào cản của nước nhập khẩu. Trong thời kỳ hội nhập chống bán phá giá sẽ là một việc sẽ xảy ra khá thường xuyên. Trong những vụ kiện bán phá giá trước đây, thường là chuyện "của ai người nấy biết". Còn các doanh nghiệp chưa bị kiện vẫn vô tư không nghĩ đến phòng chống. Vì chưa để ý đến những điều này, nên bây giờ chúng ta đã phải nhận một "quà tặng" đắng chát từ người bạn truyền thống EU và chắc chắn nếu không cải thiện tình hình chúng ta sẽ còn phải chịu nhiều vụ kiện như vụ kiện này nữa. Thứ năm là kinh nghiệm ứng phó khi các vụ kiện xảy ra. Kinh nghiệm trong các vụ kiện bán phá giá mũ da Việt Nam của EU năm ngoái doanh nghiệp phải hợp tác 100% với Liên minh Châu Âu để thông tin hết sức rõ ràng về tình hình kinh doanh của công ty, trong trường hợp tiếp tục những vụ kiện khác đối với mặt hàng này. Giày dép Việt Nam vẫn chưa ra khỏi danh sách nguy cơ tiếp tục bị kiện phá giá ở EU, trong khi giày mũ da đã bị áp thuế phá giá 10% đến năm 2008. Khi vụ kiện xảy ra, cách đối phó hiệu quả nhất phải chuẩn bị sổ sách, tài liệu, kiểm toán hạch toán một cách đầy đủ và minh bạch. Các doanh nghiệp cần phối hợp thuê chung luật sư để bớt đi gánh nặng chi phí, đồng thời thống nhất trong việc trả lời để vượt qua những cái bẫy được đặt sẵn trong các bản câu hỏi. II.Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp giày da nói riêng để ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá 1.Về mặt sản phẩm, thị trường và nguồn nhân lực Ngành da giày cần nhanh chóng tiến hành tái cấu trúc thị trường và sản phẩm cũng như chú ý đến vấn đề nguồn nhân lực. Về mặt thị trường, các doanh nghiệp cần chuyển hướng xúc tiến xuất khẩu sang các thị trường ngoài EU. Khi EC kiện da giày Việt Nam bán phá giá, các doanh nghiệp Việt Nam đã hết sức lúng túng. Đó là kết quả của việc lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Tỷ lệ xuất khẩu vào EU của ngành giày dép Việt Nam lên đến 60-70%, vì thế khi xảy ra vụ kiện, cả ngành giày da rơi vào thế lao đao. Đó là hậu quả của việc thiếu chiến lược, mà điểm quan trọng là đã không xây dựng được hệ thống phân phối. Các doanh nghiệp cần chú ý hai thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản vì nhu cầu nhập khẩu giày dép của hai thị trường này đang tăng mạnh. Đặc biệt thị trường Nhật Bản cần các loại giày dép có đế ngoài và mũ giày bằng cao su hoặc plastic, da thuộc hoặc da tổng hợp, dép xốp, dép quai hậu… Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, năm 2006, nhu cầu nhập khẩu giày dép và phụ kiện giày dép vào thị trường Hoa Kỳ rất cao, đạt khoảng 20 tỷ USD, đây là một thị trường lớn cho ngành giày dép xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, thị phần giày dép của Việt Nam xuất khẩu vào thi trường này chỉ chiếm khoảng 5%. Ngoài ra, việc Việt Nam là thành viên của Tổ chức WTO và Quốc hội Mỹ thông qua quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam đã tạo cơ hội mở cửa cho các nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ thâm nhập vào thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay, các nhà nhập khẩu dép của Hoa Kỳ đã có những kế hoạch mở rộng thị trường nhập khẩu từ Việt Nam, nhất là các chi tiết sản xuất phức tạp, chất lượng từ trung bình khá trở lên, vì Việt Nam có đội ngũ lao động khéo tay sản xuất các sản phẩm phức tạp, đây là cơ hội cho các sản phẩm da giày của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố để khẳng định ngành giày dép của Việt Nam trong năm 2007 sẽ có cơ hội xuất khẩu mạnh vào thị trường này như: do việc thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc ngày càng lớn và thị phần giày dép của Trung Quốc tại thị trường Hoa Kỳ quá lớn, ngày càng tăng. Để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời chủ động đối phó với khả năng thiếu nguồn lao động đang xuất hiện, gia tăng trong ngành giày dép của Trung Quốc, một số công ty của Hoa Kỳ đang có xu hướng tìm thêm nguồn hàng từ các nước khác, trong đó có Việt Nam. Để thực hiện và đẩy mạnh được những cơ hội này, các doanh nghiệp sản xuất ngành giày dép Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể để phát triển và mở rộng tại thị trường này. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần lợi dụng lợi thế nguồn lao động có tay nghề khéo léo để tập trung sản xuất các mặt hàng có chất lượng từ cấp trung bình khá trở lên để cạnh tranh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, Lefaso cần hỗ trợ, làm đầu mối để tổ chức cho các doanh nghiệp trong ngành thường xuyên tham gia các kỳ hội chợ quốc tế giày dép được tổ chức thường niên tại Las Vegas. Châu Phi cũng là một thị trường mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Bắt đầu từ năm 2004, giày dép Việt Nam đã khai thác thành công thị trường Châu Phi, bằng cách tập trung thâm nhập vào Nam Phi. Từ Nam Phi, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đưa hàng qua các nước khác như Mozambique (Đông Phi), Tây Phi… Tuy kim ngạch xuất khẩu tại các nước này còn nhỏ bé và khá thất thường nhưng qua thăm dò thị trường các doanh nghiệp rất tin tưởng vào khả năng thành công trên thị trường này. Vấn đề ở thị trường Châu Phi là cần tiếp tục làm tốt công tác xúc tiến, tìm kiếm các đối tác phân phối hàng hoá để xuất khẩu được nhiều hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp chú ý tới việc vận chuyển cũng như thiết lập được các hình thức thanh toán được thuận lợi và an toàn hơn. Về cơ cấu sản phẩm, việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá vào thị trường EU chỉ mới áp dụng đối với các mã giày có mũ da. Do vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu chuyển hướng cơ cấu sản phẩm, chú ý sản xuất các sản phẩm bằng các loaị nguyên liệu thay thế khác. Phải chủ động sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng không nằm trong diện áp thuế. Nếu tách các loại giày thể thao ra thì số lượng mũ giày có da còn lại ít, các doanh nghiệp nên tính toán tập trung tìm các đơn hàng mà EC không cấm và không áp dụng luật chống phá giá. Một số doanh nghiệp đang tìm cách tăng sản lượng giày vải để tạo việc làm ổn định và thu nhập cho công nhân. Một giải pháp khác là tìm cách loại bớt các sản phẩm ra khỏi nhóm 33 mã hàng bằng cách chứng minh tính tương tự của các loại giày mũ da. Tránh bị áp thuế phá giá trong một cuộc điều tra chống bán phá giá đã khó, nhưng dỡ bỏ một biện pháp chống bán phá giá còn khó hơn. Lịch sử của EU cho thấy, biện pháp chống bán phá giá chỉ bị dỡ bỏ khi xuất khẩu của nước bị áp thuế giảm còn rất thấp, trong nhiều trường hợp gần như không còn xuất khẩu nữa. Một mức thuế bán phá giá cao có thể tồn tại mãi mãi. Bản thân các doanh nghiệp cần cân nhắc các hình thức gia công để từng bước chọn cho mình những công đoạn nhất định nhằm tăng tỷ lệ giá trị gia tăng mà doanh nghiệp nhận được. Từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu để tỷ trọng mua đứt, bán đoạn hàng da giày cao hơn. Trước mắt là nên tập trung đầu tư kỹ vào khâu thiết kế mẫu và tính toán giá thành, tiếp cận các nguồn cung cấp nguyên liệu tin cậy để đáp ứng nhanh yêu cầu và giá sát với giá thế giới của khách hàng. Đây là điều kiện thiết yếu để từng bước ngành da giày Việt Nam thoát khỏi tình trạng gia công thuần tuý, tăng tối đa lợi nhuận và có điều kiện tìm cách giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh hơn. Đó cũng là những bước đi để ngành da giày Việt Nam tiến gần đến cơ chế thị trường, sẵn sàng ứng phó với những bất trắc thường xảy ra khi gia nhập WTO. Doanh nghiệp cũng cần tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ để sản xuất các sản phẩm cao cấp và tránh các loaị sản phẩm có mũ da. Quá trình này sẽ giúp các doanh nghiệp từng bước xây dựng thương hiệu, đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu và sáng tác mẫu mốt… Các doanh nghiệp nhỏ cần phát triển sản phẩm theo hướng khác, mang tính riêng biệt, nhằm thâm nhập thị trường này. Đó là việc phát triển các sản phẩm siêu cao cấp, sản phẩm có thiết kế độc đáo mà thị trường cần, không chỉ với thị trường quốc tế mà cả với thị trường tiêu dùng trong nước. Về nguồn nhân lực, các doanh nghiệp cần đưa ra các chính sách hợp lý đối với người lao động, nhằm nắm vững nguồn lao động có tay nghề, tránh tình trạng người lao động rời bỏ doanh nghiệp đi tìm việc khác, dẫn đến tạo ra sức ép lao động, khi có đơn hàng sản xuất doanh nghiệp lại phải tốn nhiều chi phí để thu hút, đào tạo nguồn lao động mới, đánh mất cơ hội tiếp nhận các đơn hàng. 2.Về mặt pháp lý Trong quá trình hội nhập, khă năng bị kiện bán phá giá của hàng hoá Việt Nam là rất cao. Tính từ năm 1994, khi Việt Nam đối mặt với vụ kiện bán phá giá đầu tiên đến nay đã có khoảng 28 vụ kiện bán phá giá hướng vào hàng hoá Việt Nam. Vụ kiện lớn nhất liên quan đến thị trường EU là vụ kiện da giày mà Việt Nam đang theo đuổi. Các vụ kiện bán phá giá là một phần của thương mại thế giới. Nhưng nếu có sự hiểu biết pháp luật sẽ tìm ra những biện pháp để giảm thiểu những thiệt hại. Như vậy, đầu tiên là chúng ta phải tìm hiểu kĩ càng về hệ thống pháp luật của các nước có hoạt động giao thương với chúng ta và phòng tránh các rủi ro pháp lý có thể xảy ra. EC là một liên minh không phải là một nước nên pháp luật có những sự phức tạp và để ra được một phán quyết là một quá trình kéo dài với sự tham gia của rất nhiều bên. Cụ thể, trong mỗi vụ kiện, 25 nước thành viên sẽ tham gia trong một Uỷ ban tư vấn để đưa ra các ý kiến của mình về các quyết định của Uỷ Ban Châu Âu. Uỷ ban tư vấn hoạt động theo nguyên tắc quyết định theo đa số và điều tất nhiên sẽ xảy ra những bất đồng giữa các nhóm lợi ích liên quan trong 1 vụ kiện. Trong vụ kiện da giày của Việt Nam, đã có những nước như Italia ủng hộ các quyết định chống bán phá giá đối với Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng có những nước chủ yếu tiêu thụ hàng nhập khẩu lại không đồng ý và có ý kiến phản đối như Bắc Âu. Chúng ta cần tận dụng sự ủng hộ của các nước này. Trong quá khứ EU đã từng áp thuế chóng bán phá giá cho nhiều ngành hàng của Việt Nam như bột ngọt, quẹt gas, xe đạp. Nếu chúng ta không có những động thái tích cực hơn thì trong tương lai gần, những ngành nghề khác cũng sẽ bị thiệt hại bởi chủ nghĩa bảo hộ thông qua chiêu bài chống bán phá giá. Hội nhập kinh tế, tăng cường giao thương quốc tế luôn gắn liền với sự gia tăng rủi ro pháp lý. Không thể loại bỏ hết được các rủi ro nhưng doanh nghiệp hoàn toàn có thể hạn chế nó bằng chính sự hiểu biết về pháp luật và sự tỉnh táo trong khi thực hiện mỗi giao dịch thương mại quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chưa nhận diện hết các rủi ro, chưa chuẩn bị phòng ngừa và sẵn sàng đối mặt với môi truờng kinh doanh quốc tế, thực tế thời gian qua cho thấy, do chưa có sự am hiểu đầy đủ về các yếu tố pháp luật nước ngoài và quốc tế, việc quản lý rủi ro pháp lý của các Doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ thương mại quốc tế chưa được thực hiện tốt, nhiều doanh nghiệp đã phải đối mặt với những rủi ro và chịu những thiệt hại không đáng có. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thương mại quốc tế đối với Doanh nghiệp Việt Nam nhu chưa có thói quen tuân thủ pháp luật và coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh, do không hiểu biết về pháp luật nước ngoài và thông lệ quốc tế, chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý và tư vấn của luật sư, không có sự chuẩn bị kỹ càng hoặc thiếu kinh nghiệm trong thương thảo hợp đồng, lực chọn đối tác không có năng lựcvà tư cách pháp lí mà Doanh nghiệp Việt Nam lại không hiểu biết và không có điều kiện kiểm tra. Rủi ro pháp lí là một phần của hoạt động thương mại. Hay nói cách khác hoạt động trong nó đã chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn mà không có cách gì loại trừ hoàn toàn được. Tuy nhiên, để có thể giảm thiểu rủi ro và hạn chế tác động tiêu cực của nó lại là điều có thể làm được và phụ thuộc vào nỗ lực của Doanh nghiệp và sự hỗ trợ giúp hiệu quả của Nhà Nước. Hội nhập ngày càng sâu rộng thì các rủi ro pháp lý sẽ gia tăng. Doanh nghiệp Việt Nam cần phải tỉnh táo hơn trong các giao dịch thương mại quốc tế. Trước hết, không ai khác ngoài chính bản thân doanh nghiệp phải tự ý thức được rủi ro và từ đó có biện pháp phòng tránh và khắc phục hiệu quả. Với quan điểm đó giả pháp quan trọng để phòng tránh rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập chính là việc xây dựng hệ thống pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này là tất yếu, khi gia nhập WTO, mỗi Doanh nghiệp Việt Nam trở thành một tổ chức kinh doanh trong môi trường pháp lý toàn cầu và buộc phải hoạt động theo môi trường pháp lý quốc tế. Bên cạnh đó, việc nâng cao tinh thần tôn trọng pháp luật của Doanh nghiệp Việt Nam cũng là một yêu cầu quan trọng để phòng tránh những rủi ro trong hoạt động thương mại. Trong môi trường thương mại toàn cầu, việc nâng cao hiểu biết của các Doanh nghiệp Việt Nam và pháp luật trong nước và quốc tế là một tất yếu. Không còn cách nào khác, Doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình những hiểu biết trước khi bước ra làm ăn với nước ngoài. Các Doanh nghiệp cũng cần có thói quen sử dụng tư vấn của luật sư trong các quan hệ thương mại nhất là quan hệ có yếu tố nước ngoài. Đây là điều cần thiết, dù có thể tiêu tốn một ít chi phí nhưng lại nhăn chặn những rủi ro gây thiệt hại về vật chất và uy tín. Trước đây chúng ta từng có quan điểm hết sức sai lầm về các vụ kiên chống phá giá đó là theo hướng cố chứng minh rằng các doanh nghiệp Việt Nam không bán phá giá và khi không đạt được điều này thì nghĩ rằng chúng ta thua kiện và bị xử ép. Có thể nói rằng một khi đã bị kiện thì khó có thể chứng minh không bán phá giá. Nước nào cũng vậy, họ cứ rêu rao là tự do hoá thương mại nhưng thực ra đều tìm cách bảo hộ mậu dịch trong nước. Chừng nào các doanh nghiệp của họ chưa kêu ca thì họ còn để yên cho ta nhập hàng. Nhưng một khi quyền lợi, thị phần bị đụng chạm và doanh nghiệp trong nước họ kêu lên thì hàng rào bảo hộ mậu dịch, trong đó có công cụ chống bán phá giá, lập tức sẽ được dựng lên ngay. Thứ hai là cần có tiếng nói chung của không chỉ riêng ngành giày mà cả cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những ai đang xuất khẩu sang EU từ may mặc đến hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, thực phẩm… Không những thế, Việt Nam cần phối hợp với tiếng nói của cộng đồng người tiêu dùng EU, những nhà nhập khẩu giày tại EU, những tổ chức đại diện cho người tiêu dùng tại EU… Bởi vì quyền lợi của họ cũng đang bị hy sinh để bảo vệ quyền lợi cho một thiểu số nhỏ. Nếu làm được việc này, không những chỉ giúp cho ngành giày da Việt Nam mà còn cho các ngành khác có khả năng bị kiện phá giá trong tương lai. Thứ ba, một điểm cũng rất quan trọng là chúng ta cần xây dựng chính sách lobby (vận động hành lang) tại Việt Nam. ở Mỹ lobby được xem như một nghề, được pháp luật công nhận là hoạt động hợp pháp, công khai và hoạt động này đã thâm nhập vào toàn bộ các lĩnh vực và các ngành sản xuất kinh doanh. Các chuyên gia vận động hành lang (lobbyist) là những cá nhân đại diện cho khách hàng thực hiện việc xúc tiến trực tiếp với các quan chức có thẩm quyền. Việt Nam đã vận động và đàm phán thành công để vào WTO, thông qua PNTR … Song đã vào biển lớn thì cuộc chơi càng khó khăn hơn, doanh nghiệp muốn ra biển thì phải biết đường đi và một trong những con đường đó là lobby. Cần biết sử dụng nhiều kênh để tiến hành lobby, có chiến lược và kế hoạch rõ ràng, chủ động và tích cực trong mọi giai đoạn trước, trong và sau vụ kiện. Các vụ kiện Việt Nam bán phá giá cá basa, tôm, da giày… đều có liên quan đến vận động hành lang. Còn tại Việt Nam đã đến lúc cần có luật lobby, cần có những cuộc vận động hành lang chính thống để các lãnh đạo hiểu hơn về doanh nghiệp. Trong thời đại Internet hiện nay đã xuất hiện kiểu thông tin đa chiều, hay gọi là hiện tượng nhiễu thông tin do vậy chính sách lobby sẽ giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận giới chính trường. Kết luận Qua vụ kiện giày có mũ da của Việt Nam bán phá giá vào EU chúng ta cần nhìn nhận đây là vấn đề bình thường trong thương mại toàn cầu. Các doanh nghiệp phải trang bị cho mình sự hiểu biết về luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán, không tranh mua tranh bán không lành mạnh với nhau để khách hàng nước ngoài có điều kiện ép giá, còn chúng ta lại rơi vào kiện tụng. Với thị trường EU, họ vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhỏ trực tiếp sản xuất giày theo kiểu truyền thống với giá thành rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải phát huy những gì đã làm sau vụ kiện với EU, đó là đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng nước ngoài… Đối với chính phủ, chính phủ cần tiếp tục đàm phán với Mỹ và EU để họ công nhận qui chế kinh tế thị trường cho Việt Nam để cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tự vệ trong các vụ kiện. Chúng ta cần thực hiện triệt để những điều này để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam nói chung, của ngành da giày nói riêng, để các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với các tranh chấp thương mại tốt hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thày cô trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đặc biệt là Tiến sĩ Bùi Huy Nhượng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bản đề án này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Kiện da giày: Cần một phán quyết công bằng từ EU- 2. Gửi đơn kiến nghị EC về vụ kiện da giày - 3. Tháng 9 có quyết định cuối cùng cho vụ kiện da giày - 4. Xuất khẩu da giày sang Mỹ tăng mạnh - 5. Thuế chống phá giá giày mũ da của EC: ảnh hưởng 1 triệu công nhân Việt Nam - 6.Sản phẩm da giày vào thị trường EU: Doanh nghiệp cần “con cá” hay cần “cần câu”- 7. Xuất khẩu dệt may, da giày sắp về đích - 8. Ngành da giày điêu đứng - 9. EC quyết định mức thuế da giày nhập từ Trung Quốc và Việt Nam - 10.Ngành da giày trước thách thức chống bán phá giá - 11.Vụ kiện bán phá giá giày da:10% chưa phải là mức thuế cuối cùng - 12.EC áp thuế chống bán phá giá lên giàu mũ da Việt Nam: khó khăng cho các doanh nghiệp nhỏ - 13. Doanh nghiệp sản xuất giày da bị bắt chẹt - 14.EU áp thuế giày mũ da Việt Nam : “ Thắng lợi của chủ nghĩa bảo hộ” - 15.Ngành da giày ứng phó với vụ kiện phá giá của EC - 16. Các công ty EU có thể kiện về thuế da giày - 17. EU bác bỏ thuế chống bán phá giá giày mũ da - 18. Thuế chống phá giá đem kết quả ngược cho EU - mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0132.doc