Đề tài Xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản Việt Nam

Trong xu thế hội nhập như hiện nay, để nông sản Việt Nam có thể gia nhập thị trường thế giới thì phải gắn thương hiệu hay chỉ dẫn địa lý cho nông sản là điều tất yếu sẽ phải làm đối với doanh nghiệp nông sản. Nhưng đây lại không phải là vấn đề của riêng doanh nghiệp, mà là vấn đề chung cho cả người sản xuất, nhà nước và một số thành phần khác

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gần đây khi Việt Nam mở cửa thị trường, gia nhập thị trường thế giới, khi mà nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế tập trung chuyển sang sản xuất theo cơ chế thị trường, sản xuất của Việt Nam nói chung và sản xuất nông sản nói riêng tăng trưởng thấy rõ. Việc Việt Nam từ một nước thiếu ăn sang xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới là một minh chứng. Bên cạnh đó Việt Nam còn là một trong những nước dẫn đầu về xuất khẩu cà phê, chè, hồ tiêu…Tuy nhiên với xu hướng tiêu dùng chuộng sản phẩm có thương hiệu, nhãn mác nổi tiếng như hiện nay thì tăng năng suất, tăng sản lượng cũng không đem lại cho người sản xuất nguồn lợi lớn, thậm chí như nông sản, càng được mùa nông sản càng mất giá. Vì vậy để nông sản xuất khẩu và xuất khẩu được với giá cao yêu cầu cần phải có thương hiệu và phải là thương hiệu mạnh, nổi tiếng, có uy tín trên thương trường. Đây là nguyên nhân giải thích cho tình trạng hiện nay ở Việt Nam là dù sản lượng sản xuất nông sản hàng năm đều tăng nhưng nông dân và cả doanh nghiệp kinh doanh nông sản vẫn chưa có được thu nhập cao và ổn định. Bên cạnh đó ở Việt Nam có rất nhiều nông sản nổi tiếng, có nhiều cở hội tạo dựng được danh tiếng lớn trên thị trường, trong đó phải kể đến tiềm năng xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản. Bởi ở Việt Nam hiện nay có hàng trăm mặt hàng nông sản có thể có được chỉ dẫn địa lý mạnh như: bưởi Ðoan Hùng (Phú Thọ), Phúc Trạch (Hà Tĩnh), Năm Roi (Vĩnh Long); cam Vinh (Nghệ An); vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang); nhãn lồng Hưng Yên…là một trong các cách nhanh chóng tạo ra thương hiệu và thương hiệu nổi tiếng cho nông sản. Đây là một vấn đề rất đáng được quan tâm khi mà Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Tuy nhiên ở Việt Nam thuật ngữ xây dựng thương hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý vẫn còn mới mẻ, xa lạ với mọi người, từ nông dân, doanh nghiệp và cả nhà nước. Bởi vậy em mong muốn nghiên cứu đề tài này đề tài này để làm rõ hơn khái niệm thương hiệu, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, nêu nên một số vấn đề về xây dựng thương hiệu và xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản ở Việt Nam hiện nay. Trình bày một số giải pháp mà Việt Nam đang làm để thúc đẩy quá trình này. Nhanh chóng tăng sức mạnh của nông sản Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như ở thị trường quốc tế. I. XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU 1. Khái niệm về thương hiệu. 1.1. Khái niệm. Thương hiệu là một thuật ngữ quen thuộc của giới kinh doanh quốc tế, nhưng ở Việt Nam thuật ngữ này mới chỉ được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Bởi vậy mà ngay cả trong các văn bản hiện hành của nước ta chưa có văn bản nào định nghĩa về thương hiệu. Trong các nghị định 45/CP, nghị định 54/2000/NĐ-CP, nghị định 63/CP có quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, cũng chỉ có các khái niệm về nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ. Trong thực tế cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thương hiệu, nhưng phần lớn các khái niệm này được dùng để chỉ nhãn hiệu hàng hoá. Ngày nay thương hiệu được dùng như tên của người sản xuất, nhãn hiệu thương mại hay một kí hiệu trên hàng hoá, và thường được đăng kí bảo hộ. Ở đây trình bày một quan niệm phổ biến hiện nay về thương hiệu: “Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả các yếu tố trên, nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một (hay một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm (dịch vụ) đó với các đối thủ cạnh trạnh”. Thương hiệu được dùng nhằm mục đích để người sử dụng có thể dễ dàng phân biệt sản phẩm hay chất lượng sản phẩm của các hàng hoá khác nhau. Hiện nay trên báo chí và các phương tiện truyền thông thường sử dụng thuật ngữ “thương hiệu” và “nhãn hiệu” (hay còn gọi là nhãn hiệu hàng hoá) khi cùng đề cập các vấn đề liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Trong marketing, thuật ngữ “Thương hiệu” rất quen thuộc. Người ta hay nhắc đến những thuật ngữ liên quan như “xây dựng thương hiệu”, “quản trị thương hiệu”, “nhận diện thương hiệu”, “định vị thương hiệu”,…vv. Trong tiếng Anh, có sự khác nhau giữa 2 thuật ngữ “Trademark” và “Brand” (hay còn gọi là “Brand name”). Trademark (Nhãn hiệu hàng hoá), là một thuật ngữ chỉ một loại đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, có nghĩa là tất cả những dấu hiệu dưới dạng hình, chữ miễn là có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở khác nhau. Như vậy, khái niệm Trademark có ý nghĩa tương đương như khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá quy định tại điều 785 Bộ luật dân sự đã nêu trên. “Brand” (Thương hiệu) là sự biểu hiện tổng hợp tất cả các thông tin liên quan đến một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Một Thương hiệu (Brand) được biểu hiện đặc thù thông qua một cái tên (cà phê Trung Nguyên), một mẫu logo (hình cánh chim của Honda), hay các yếu tố khác có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng đặc thù hơn cả ở chỗ nó có thể biểu đạt tất cả niềm mong đợi trong trí nhớ người tiêu dùng gắn liền với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ chẳng hạn sự trung thành, sự thích thú của người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu nào đó; hoặc niềm tin của người này đối với chất lượng của sản phẩm mang nhãn hiệu,…vv. Như vậy, khái niệm Thương hiệu (Brand) rộng hơn khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark). Nói cách khác, khái niệm Thương hiệu (Brand) bao trùm khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark), có nghĩa Thương hiệu cũng được coi là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, và nó cũng cần thiết phải được bảo hộ. Tuy nhiên, do yếu tố lịch sử, trong ngữ cảnh pháp lý, người ta thường sử dụng thuật ngữ Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark) hơn là sử dụng thuật ngữ Thương hiệu (Brand). Một số ý kiến cho rằng nhận thức về thương hiệu có 2 dạng. Một là nhận thức thương hiệu do ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, và hai là nhận thức thương hiệu do ảnh hưởng của yếu tố kinh nghiệm. Yếu tố kinh nghiệm bao gồm tổng cộng các điểm tiếp xúc với Thương hiệu và được gọi là kinh nghiệm thương hiệu (brand experience). Yếu tố tâm lý đôi khi gọi là hình ảnh thương hiệu (brand image) là một biểu tượng xây dựng trong đầu người tiêu dùng, bao mọi thông tin và sự mong đợi của họ gắn liền với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Có các loại đối tượng sở hữu công nghiệp sau được gọi là thương hiệu, gồm: nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Vậy thương hiệu có thể là biểu tượng, biểu trưng, âm thanh, kiểu dáng, hay thậm chí là các quy cách phi chức năng riêng biệt của sản phẩm. Nhưng thông thường một thương hiệu phải thoả mãn đồng thời các yêu cầu sau: Tính riêng biệt, tính tổng quát, tính biểu tưọng, tính gợi mở, tính tuỳ ý, tính kì lạ và tính miêu tả. 1.2. Các thành tố của thương hiệu. - Tên nhãn hiệu: Là sự kết hợp của từ ngữ hoặc chữ cái có khả năng phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm của doanh nghiệp khác đã được bảo hộ và không thuộc các dấu hiệu loại trừ. Tên nhãn hiệu là thành tố cơ bản của thương hiệu vì nó thường là thành tố chính hoặc là liên hệ chính của sản phẩm, thể hiện khả năng phân biệt của người tiêu dùng khi nghe hoặc nhìn thấy nhãn hiệu và cũng là yếu tố cơ bản gợi nhớ sản phẩm khi mua hàng. -Logo: có thể là một hình vẽ, một cách trình bày chữ viết,hoặc kết hợp cả hình vẽ và chữ viết tạo ra bản sắc riêng của thương hiệu. Logo cung tạo ra khả năng phân biệt sản phẩm. -Tính cách nhãn hiệu: thể hiện đặc điểm con người gắn với nhãn hiệu. Tính cách nhãn hiệu thưòng mang đậm ý nghĩa văn hoá và giàu hình tượng nên đây là phương tiện hữu hiệu trong quá trình xây dựng nhận thức nhãn hiệu. -Khẩu hiệu. -Đoạn nhạc. -Bao bì. 2. Sự cần thiết phải có thưong hiệu cho hàng nông sản Việt Nam. 2.1. Khái quát về hàng nông sản VN. VN là một nước nông nghiệp có truyền thống, gần 80% người dân làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nên sản phẩm nông sản của VN rất lớn, nhiều chủng loại. Từ sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, sản phẩm của các ngành công nghiệp chế biến như chè, cà phê, rau, quả…. Trong những năm gần đây nông sản nước ta không ngừng gia tăng năng suất, tổng lượng nông sản xuất khẩu tăng 15% mỗi năm, có mặt trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực đều tăng mạnh cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 4 tỷ USD. Ngành chế biến điều lần đầu tiên đạt tới con số 100.000 tấn nhân điều xuất khẩu/năm và kim ngạch 400 triệu USD/năm, hiện hạt điều Việt Nam chiếm lĩnh 15% thị phần hạt điều tại Mỹ, tổng sản lượng xuất khẩu g ạo 3,9 triệu tấn m ỗi năm, riêng cà phê của đăc lăc đã xuất khẩu đi 52 nước trên thế giới, mỗi năm thu về hàng trăm triệu đô la, hồ tiêu Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia ở khắp thế giới, trong đó 72% sản lượng xuất khẩu vào 10 nước Ấn Độ, Pakistan, Đức, Mỹ, Nga, Hà Lan, Singapore, Malaysia, Ai Cập và Ba Lan. Việt Nam đã vươn lên vị trí hàng đầu trong xuất khẩu một số mặt hàng nông sản quan trọng như đứng đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu với số lượng xuất khẩu hàng năm là 14 nghìn tấn, đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo, cà phê, chè, hạt điều. Nhiều loại cây trồng, vật nuôi đặc sản có điều kiện phục hồi, phát triển, đem lại thu nhập đáng kể cho nông dân. Với riêng mặt hàng trái cây nước ta có hàng chục loại trái cây ngon nổi tiếng như bưởi Đoan Hùng, cam sành Hà Giang, xoài cát Hoà Lộc, sầu riêng bến tre…. Tuy đạt được nhiều thành tựu trong sản xuất nông sản như vậy, nhưng nông sản Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như công tác dự báo còn kém dẫn đến tình trạng sản xuất theo đuôi thị trường, vì vậy mà dù được mùa, sản phẩm bán ra giá rất thấp, thậm chí là càng được mùa thì giá càng hạ. Bên cạnh đó chất lượng nông sản của chúng ta không cao và không ổn định qua các vụ, thất thoát sau thu hoạch rất cao, việc bảo quản nông sản còn kém, tỷ lệ thất thoát từ 15-20%. Mỗi năm doanh nghiệp Việt Nam mất khoảng 100 triệu đô la do hư hao sản phẩm. Khi xuất khẩu lại chủ yếu xuất ở dạng thô hay qua trung gian. 2.2. Vai trò của thương hiệu đối với nông sản. 2.2.1.Thương hiệu tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản. Thực tế đã chứng minh rằng hàng hoá nói chung và nông sản nói riêng, khi bán ra thị trường, sản phẩm có thương hiệu được bán với giá cao hơn hẳn, có khi cao hơn đến 40% giá trị của những sản phẩm không có thương hiệu. Ở những nước phát triển, hay tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập cao, họ không chỉ sẵn sàng trả tiền cho giá trị sản phẩm mà còn sẵn sàng trả tiền cho sự hài lòng của mình khi mua được sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng. 2.2.2. Thương hiệu làm tăng sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường. Thương hiệu được coi như là giấy chứng nhận đảm bảo cho chất lượng của nông sản, thương hiệu càng mạnh, càng nổi tiếng, thì sự đảm bảo này càng lớn, và đồng nghĩa với nó là uy tín của doanh nghiệp cao. Nông sản có thương hiệu dễ dàng tạo được lòng tin của người tiêu dùng về chất lượng, giá cả của sản phẩm mà họ tiêu dùng, khuyến khích tâm lý tiêu dùng sản phẩm có thương hiệu, đặc biệt ở tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập cao. Vì vậy mà trên thị trường, dù có nhiều sản phẩm cùng loại, cùng công dụng, nhưng sản phẩm có thương hiệu vẫn dễ dàng được người tiêu dùng, được thị trường chấp nhận. Từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của nông sản, đáp ứng được nhu cầu, tâm lý tiêu dùng hàng có chất lượng, có danh tiếng, có thương hiệu nổi tiếng. 2.2.3.Với doanh nghiệp nông sản: +Thương hiệu là tài sản vô hình, thậm chí vô giá, góp phần quan trọng tăng thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong tương lai bằng những giá trị tăng thêm của hàng hoá. +Thương hiệu nổi tiếng giúp doanh nghiệp tạo ra và củng cố lòng trung thành của khách hàng truyền thống, giúp doanh nghiệp duy trì lượng khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới, các khách hàng tiềm năng, thậm chí là cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngưòi tiêu dùng thường bị lôi kéo, chinh phục bởi những hàng hoá có thương hiệu nổi tiếng, được ưa chuộng và ổn định. +Thương hiệu còn giúp doanh nghiệp giảm các khoản chi phí cho hoạt động xúc tiến thương mại, hoạt động maketing. Thực chất Thương hiệu cũng chính là một công cụ maketing, xúc tiến thương mại hữu hiệu của doanh nghiệp. +Giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, có điều kiện phòng thủ và chống lại các đối thủ khác. Thương hiệu như là một sự cam kết ngầm của nhà sản xuất với người tiêu dùng về chất lượng. Thương hiệu càng nổi tiếng, uy tín của doanh nghiệp càng cao. Đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm cao và được bảo đảm.Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay không giữ được chữ tín với khách hàng là doanh nghiệp đã thất bại, khó có khả năng tồn tại và phát triển trong tương lai. Sản phẩm không có thương hiệu sẽ không có khả năng phát triển, và sẽ dần bị mai một, lãng quên. Nhất là đối với sản phẩm nông sản, dù chất lượng sản phẩm là rất quan trọng, nhưng nếu không có thương hiệu, thương hiệu không nổi tiếng, sản phẩm sẽ khó được người tiêu dùng chấp nhận. Thực tế 90% nông sản Việt Nam Xuất khẩu phải thông qua trung gian hay dưới nhãn hiệu của nước khác.Bởi nông sản Việt Nam một mặt là chưa có thương hiệu, một mặt là chưa có đầu tư xứng đáng cho xây dựng, củng cố thương hiệu, nên những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam hầu như chưa được khách hàng ở những thị truờng trọng điểm quốc tế công nhận Điều này đã gây cho Việt Nam và đặc biệt là nông dân, doanh nghệp nông sản những thiệt hại lớn. Xuất khẩu một lưọng lớn nông sản hàng năm, nhưng lợi nhuận thu về lại không đáng bao nhiêu. 3. Những yếu tố ảnh hưởng tới thương hiệu hàng nông sản. 3.1 Nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu và xây dựng thương hiệu. Ở các nước phát triển, thương hiệu là một khái niệm quen thuộc đối với mọi doanh nghiệp, với mọi người, từ giám đốc đến người công nhân, từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Nhưng ở Việt Nam thì hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa hiểu hết về thương hiệu, chưa nhận thức được thương hiệu với những vai trò và tác dụng to lớn của nó trong kinh doanh. Đi đôi với sự thiếu hiểu biết về thương hiệu là doanh nghiệp chưa định vị được thị trường, khách hàng mục tiêu và thiếu niềm tin vào giá trị gia tăng do thương hiệu tạo ra. Điều này đã cản trở việc đầu tư cho xây dựng thương hiệu. Đa số các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng nông sản hiện nay ở Việt Nam vẫn chỉ quan tâm đến sản xuất và tìm cách tiêu thụ một cách thụ động. Hầu hết các doanh nghiệp không quan tâm, tìm hiểu thị hiếu điều tra nghiên cứu thị trường, xây dựng một chiến lược kinh doanh, quảng bá thương hiệu một cách bài bản nhằm tìm một chỗ đứng cho thương hiệu của mình. Hay nói chính xác là các doanh nghiệp vẫn chưa có những đầu tư tương xứng cho việc xây dựng thương hiệu. Các doanh nghiệp lấy lý do thiếu vốn, thiếu nhân lực, hay cở sở pháp lý cho việc xây dựng, quản lý thương hiệu ở Việt Nam là chưa đủ, còn rườm rà, …v.v. Xong nguyên nhân lớn nhất vẫn là do các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy hết những lợi ích do thương hiệu mang lại, không nhận thấy những nguồn lợi to lớn mà thương hiệu sẽ đem lại cho doanh nghiệp trong tuơng lai. Bởi theo các chuyên gia của công ty luật sở hữu trí tuệ Lê Lê (Hà Nội) khẳng định chi phí xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản trung bình chỉ ở mức phí trên dưới 2 triệu đồng. Hay như nhãn hiệu coffee G7 của công ty cà phê Trung Nguyên đăng kí bảo hộ tại 24 nước, mức phí phải bỏ ra cũng chỉ là 4.500 USD. Từ việc doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về thương hiệu dẫn đến thiếu chiến lược, thiếu sự đầu tư chuyên sâu, cũng như thiếu tính chuyên nghiệp, trong công tác maketing nói chung và xây dựng thương hiệu nói riêng. 3.2 Chính sách, vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản. Kinh doanh hàng nông sản, ngoài các doanh nghiệp còn nhiều cơ sở của người nông dân đứng lên kinh doanh trên thị trường địa phương, thị trường trong nước. Nên hạn chế trong nhận thức về thương hiệu càng lớn. Hơn nũa với một nước nông nghiệp nghèo như nước ta thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Tuy không thể làm thay doanh nghiệp, nhưng những chính sách của nhà nước ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng thương hiệu cho nông sản. Những chính sách đúng đắn sẽ khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp. Ngược lại những quy định không rõ ràng, rườm rà, mang nặng tính hành chính sẽ cản trở quá trình xây dựng, đăng kí thương hiệu, từ đó làm nản chí các doanh nghiệp. Nhà nước có vai trò to lớn trong việc làm thay đổi nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu, giúp doanh nghiệp ý thức được việc cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, giá cả là chưa đủ, cần phải có chiến lược hoàn chỉnh để xây dựng và tìm chỗ đứng cho thương hiệu của mình. Để xây dựng thành công một thương hiệu cần phải có sự phối kết hợp của nông dân, doanh nghiệp, nhà nước, nhà khoa học… Tuy nhiên Nhà nước cần phải giữ vai trò chủ đạo để thống nhất hành động của mọi người, hướng hành động của mọi người theo đúng những chính sách, kế hoạch chiến lược của Nhà nước. 4 Quá trình xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam bắt đầu từ đâu? Xây dựng thương hiệu là cả một quá trình đầu tư lâu dài và khó khăn, nhất là đối với nước ta, vì sự hiểu biết về thương hiệu còn quá hạn chế. Không thể ngay một lúc có thể thay đổi nhận thức của mọi người, đặc biệt là các doanh nghiệp, người nông dân về thương hiệu. Và không phải chỉ một sớm, một chiều là có thể có được thương hiệu mạnh, thương hiệu nổi tiếng. Để có một thương hiệu nổi tiếng sản phẩm cần phải được kiểm chứng qua thực tế tiêu dùng, được chính người tiêu dùng công nhận. Bởi vậy xây dựng thương hiệu cần phải có kế hoạch, chiến lược lâu dài, một sự nỗ lực hết sức của mọi người, từ nông dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Trước hết cần phải thay đổi suy nghĩ của người nông dân - những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Giúp họ hiểu việc cần thiết phải có một thương hiệu khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trường, nhất là ra thị trường quốc tế. Khẳng định điều này liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ bằng việc nâng cao giá thành sản phẩm và mở rộng thị trường. Người nông dân có thể hưởng lợi từ thương hiệu, không chỉ khi trực tiếp kinh doanh sản phẩm có thương hiệu mà cả khi cung cấp sản phẩm cho các doanh nghiệp đã có thương hiệu hay đang xây dựng thương hiệu. Việc sản xuất các sản phẩm đã có thương hiệu đòi hỏi sự điều phối chặt chẽ, nỗ lực cố gắng của cả nước trực tiếp sản xuất cũng như các công đoạn khác trong toàn bộ quy trình sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm, giữ vững thương hiệu và đem lại lợi ích nhiều hơn cho tất cả các bên tham gia. Mặt khác, hộ nông dân cũng rất có thể bị loại ra quá trình hưởng lợi, nếu như họ thiếu các kỹ năng cần thiết, thiếu nguồn lực nhất định và khả năng tiếp cận thị trường, vì nó không đảm bảo được chất lượng cho sản phẩm, cơ sở quan trọng nhất để duy trì và phát triển thương hiệu. Vậy thương hiệu là gì? Làm thế nào để duy trì, phát triển thương hiệu và người nông dân có thể tham gia và được hưởng lợi từ chuỗi giá trị của nông sản có thương hiệu đem lại. Thứ hai, những doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh, mua, bán nông sản cũng phải nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu trong thương mại hiên nay. Chính họ chứ không phải là những người nông dân sẽ xây dựng thương hiệu mạnh cho nông sản Việt Nam. Thứ ba, cần có sự phối hợp giữa bộ ba: Các doanh nghiệp - nông dân - Nhà nước để mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao chất lượng nông sản. Chất lượng nông sản chính là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại, vững mạnh của thương hiệu. Ví dụ như gạo, chúng ta đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo nhưng việc xây dựng thương hiệu cho gạo lại không hề đơn giản. Đến nay hầu như các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đều chưa có thương hiệu. Một số doanh nghiệp cho biết, khách hàng đồng ý về bao gói, quy cách của gạo Việt Nam, nhưng về chất lượng gạo Việt Nam còn thua Thái Lan. Gạo thơm là loại gạo được ưa thích, nhưng do chất lương không đồng đều, dễ bị lẫn tạp chất, giữ mùi thơm không lâu nên chưa xuất khẩu được với số lượng lớn. Do vậy, xây dựng thưong hiệu phải đi liền với việc nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, đây là hai yếu tố không thể tách rời. Thứ tư, cần tăng cường quảng cáo sản phẩm. Việc quảng bá sản phẩm sẽ dựa trên những thương hiệu, những hình ảnh, những nông sản mang tinh thần văn hoá dân tộc. Ngoài ra chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh để phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế giúp các doanh nghiệp thích ứng với thị trường lớn. II. XÂY DỰNG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ CHO NÔNG SẢN VIỆT NAM Xây dựng chỉ dẫn địa lý là một trong các hình thức nhằm tạo ra thương hiệu cho nông sản. Ở Việt Nam có nhiều chỉ dẫn địa lý tiềm năng, đây là một sự thuận lợi dể thúc đẩy quá trình xây dựng thương hiệu nông sản. Bởi đây là một cách tạo thương hiệu cho sản phẩm nông sản dễ, đơn giản, chí phí không cao, đăng kí bảo hộ chỉ dẫn địa lý đơn giản, nhưng lại có hiệu lực pháp lý cao hơn việc đăng kí nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuât xứ… phù hợp với một nước còn nghèo như nước ta. Vậy chỉ dân địa lý là gì ? Việc xây dựng chỉ dân địa lý cho nông sản ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra như thế nào ? chúng ta cùng xem xét một số vấn đề sau để rõ hơn về vấn đề này. 1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý ( Geographical Indication - IG ). 1.1. Khái niệm Chỉ dẫn địa lý (CDĐL) là một yếu tố mà một sản phẩm, hàng hoá được mang một cách tự nhiên, nói lên sự gắn kết của sản phẩm với tên một miền lãnh thổ, thường là gắn với truyền thống, tập tục của địa phương, từ tay nghề truyền thống của người dân địa phương, tạo nên sự khác biệt hay nổi tiếng của sản phẩm. Theo định nghĩa của tổ chức thương mại thế giới (WTO): “ Chỉ dẫn địa lý là một chỉ dẫn, được dùng để xác định một hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng một điạ phương của lãnh thổ đó, với điều kiện chất lượng, danh tiếng của sản phẩm hoặc các đặc điểm khác của sản phẩm mà chủ yếu gắn với nguồn gốc địa lý của sản phẩm này mang lại”. Chỉ dẫn địa lý là những từ, tên gọi dấu hiệu, biểu tượng, hình ảnh được sử dụng dể chỉ ra rằng sản phẩm có nguôn gốc từ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lưọng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu do nguồn gốc địa lý tạo nên. Tính chất đặc thù về danh tiếng của hàng hoá được thể hiện bằng một hoặc một số yếu tố như chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về vật lý, hoá học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương tiện kĩ thuật khoa học hoặc chuyên gia theo phương pháp thử được xác định cụ thể. Danh tiếng, uy tín của hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý thể hiện thông qua sự biết đến hàng hoá đó một cách rộng rãi trong giới tiêu dùng trong quá trình tồn tại và phát triển của sản phẩm. Tính chất đặc thù về điêu kiện tự nhiên, được thể hiện thông qua các yếu tố độc đáo về khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình và các điều kiện tự nhiên khác. Tính chất đặc thù về con người được thể hiện thông qua các yếu tố độc đáo về kĩ năng, kĩ xảo của người sản xuất, bao gồm cả quy trình sản xuất, truyền thống của người dân địa phương, nếu quy trình đó là nhân tố tạo ra và duy trì chất lượng, uy tín của sản phẩm. Ví dụ một số tên chỉ dẫn địa lý như: Chè Thái Nguyên, Mộc Châu, Bảo Lộc, Tân Cương, cà phê Buôn Mê Thuật, hồ tiêu Phú Quốc, quế Trà Mi, Buởi Phúc Trạch…. Chỉ dẫn địa lý như một chứng chỉ hay một mác hiệu hàng hoá để đảm bảo chất lượng sản phẩm với một quy trình sản xuất truyền thống. Là tài sản chung của các nhà sản xuất, nhà kinh doanh có được do sự tự nguyện của các nhà sản xuất tuân thủ một cách trung thực các quy trình, các tiêu chí trong quy trình sản xuất đó. Nó được công nhận nhằm tôn vinh sản phẩm và khắc hoạ hình ảnh trong tâm trí khách hàng. Vì vậy chỉ dẫn địa lý cũng cần được bảo hộ như là một sở hữu trí tuệ đặc thù và độc lập. Chỉ dẫn địa lý khác với tên gọi xuất xứ là một khái niệm mang tính lịch sử lâu đời, chỉ dẫn địa lý là một khái niệm mới hơn, rộng hơn. Có thể coi tên gọi xuất xứ là một dạng đặc biệt của chỉ dẫn địa lý. 1.2.Yêu cầu đối với đơn đăng kí chỉ dẫn địa lý * Tài liệu, thông tin xác định chỉ dẫn địa lý cần bảo hộ trong đơn đăng kí chỉ dẫn địa lý bao gồm: a) Tên gọi, dấu hiệu là chỉ dẫn địa lý b) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý c) Bản mô tả tính chất, chất lượng đặc thù, danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý và các yếu tố đặc trưng của điều kiện tự nhiên tạo nên tính chất, chất lượng đặc thù, danh tiếng của sản phẩm đó (gọi là Bản mô tả tính chất đặc thù); d) Bản đồ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý. * Bản mô tả tính chất đặc thù phải bao gồm các nội dung tối thiểu sau đây: a) Mô tả loại sản phẩm tương ứng, bao gồm cả nguyên liệu thô (nếu có), và các đặc tính lý học, hoá học, vi sinh và cảm quan của sản phẩm; b) Cách xác định khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý; c) Chứng cứ về loại sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý, theo nghĩa tương ứng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 84 của Luật này; d) Mô tả phương pháp sản xuất, chế biến mang tính địa phương và có tính ổn định; đ) Thông tin về mối quan hệ giữa tính chất, chất lượng đặc thù hoặc danh tiếng của sản phẩm với điều kiện tự nhiên theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 84 của Luật này; e) Thông tin về cơ chế tự kiểm tra các tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm. 2. Tác dụng của chỉ dẫn địa lý đối với nông sản. 2.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Chỉ dẫn địa lý có tác dụng như một nhãn hiệu cho nông sản. Nó là thông điệp của cộng đồng, một khu vực, lãnh thổ. Cung cấp cho khách hàng tiềm năng thông tin về sản phẩm được sản xuất ra trong điều kiện sản xuất đặc biệt, những đặc trưng riêng có của khu vực đó, và khẳng định những đặc trưng đó của sản phẩm chỉ có thể có khi sử dụng sản phẩm của khu vực đó, mà không có ở những khu vực khác. Khi nói đến chỉ dẫn địa lý đó là người ta liên tưởng ngay đến sản phẩm ấy. Ví dụ khi nói đến gạo tám Hải Hậu người ta dễ dàng liên tưởng đến một loại gạo thơm, ngon, mà đặc biệt nhất là mùi thơm của Tám Hải Hậu không loại gạo nào khác có được dù là cùng giống ấy nhưng được trồng ở những vùng khác. Một chỉ dẫn địa lý được bảo hộ về mặt pháp lý sẽ có tác dụng giúp cho nhà sản xuất nông sản có được các quyền để khai thác chỉ dẫn địa lý này trong việc phát triển thị trường, thậm chí cả ở những thị trường có nhiều hàng nông sản có tính năng tương tự. Người sản xuất cũng có thể sử dụng các chỉ dẫn địa lý này trong các cuộc đàm phán để kí kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm hoặc xuất khẩu nông sản. Về khía cạnh này, chỉ dẫn địa lý thực sự là một tài sản sở hữu trí tuệ giúp củng cố sức cạnh tranh của nông sản. Khi chỉ dẫn địa lý được bảo hộ về mặt pháp lý sẽ chứng tỏ một đẳng cấp về chất lượng của sản phẩm. Những sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm điển hình mà chất lượng của chúng được hình thành trên cơ sở đặc tính địa lý lãnh thổ, chẳng hạn như điều kiện về thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước…Những điều kiện như vậy luôn mang tính chất đặc trưng riêng có, nhiều khi là cá biệt không nơi nào có được. Chỉ dẫn địa lý giúp cho việc tiếp thị, thâm nhập thị trường mới thuận tiện hơn. 2.2 Tạo ra giá trị tăng thêm cho nông sản Cũng giống như thương hiệu, chỉ dẫn địa lý tạo ra cho nông sản những giá trị gia tăng rất lớn. Ngoài việc tạo danh tiếng và nâng được giá của sản phẩm trên thương trường, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn giúp thu hút đầu tư và quảng bá du lịch cho vùng có sản phẩm đặc sản đó. 3. Những yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng chỉ dẫn địa lý nông sản. 3.1. Các chính sách của nhà nước Một tình trạng đáng báo động hiện nay là tình trạng làm giả các sản phẩm có chỉ dẫn địa lý ngày càng nhiều. Sản phẩm càng nổi tiếng càng trở thành mục tiêu bị làm giả. Thực tế là nước măm Phú Quốc của Việt Nam ngày càng nổi tiếng, thì vẫn tồn tại loại nước mắm Phú Quốc sản xuất tại Thái Lan, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và sản xuất kinh doanh loại sản phẩm nổi tiếng này. Theo các chuyên gia, tình trạng tình trạng làm giả các sản phẩm nổi tiếng đã được đăng kí bảo hộ là rất nguy hiểm. Để được đăng kí bảo hộ chỉ dẫn địa lý phải tập hợp tư liệu, xây dựng hồ sơ mất khá nhiều thời gian, sau khi được đăng kí lại yêu cầu rất cao về kiểm tra, quản lý sản phẩm. Sản phẩm được đăng kí là một công cụ quảng bá hữu hiệu. Tuy nhiên, tất cả những công lao tạo dựng đó sẽ bị giảm tác dụng vì hàng nhái, hàng giả và làm mất niềm tin của khách hàng. 3.2. Nhận thức của người nông dân Đây là những người trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm đó. Tưởng như người sản xuất không cần chú ý đến việc tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. Đó là một quan niệm sai lầm. Bởi chính người sản xuất đóng vai trò quyết định đối với chất lượng sản phẩm, sự ổn định về chất lượng nông sản phụ thuộc nhiều vào sự nỗ lực, sự đầu tư cho cả quá trình từ chọn giống đến thu hoạch, chế biến. Không có thương hiệu cho sản phẩm chất lượng kém, chất lượng không đồng đều và không ổn định. Với những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, có thuận lợi trong việc duy trì, ổn định chất lượng nông sản. Tuy nhiên nếu không được chú ý chăm sóc, đầu tư, phát triển thì những giá trị đó cũng sẽ dần mai một, nó không thể trường tồn nếu chúng ta không có các biện pháp duy trì. 3.3. Nhận thức của chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể nơi có chỉ dẫn địa lý Chỉ dẫn địa lý là tài sản chung, tài sản của tập thể, của nhà nước. Bởi vậy mà các cơ quan chức năng cần phải nhận thức được vai trò chủ đạo của mình trong việc đề xuất xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của địa phương mình. 4. Lợi ích của bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý nông sản. Xây dựng và bảo hộ chỉ dẫn địa lý sản phẩm nông sản hiện nay đang được xem là một hướng đi có hiệu quả nhằm bảo vệ tên tuổi và nâng cao giá trị cho hàng Việt Nam. Các chuyên gia cho răng gia cho rằng hiện nay rất nhiều doanh nghiệp và địa phương vẫn chưa nhận thức được vai trò quan trọng của các sản phẩm đặc sản và việc đăng kí bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm này. Vì vậy mà các doanh nghiệp, địa phương vẫn chưa có ý thức chủ động xây dựng, khai thác và phát triển. Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cho biết hiện mới chỉ có ba sản phẩm được chính thức công nhận và bảo hộ địa lý là nước mắm Phú Quốc, chè Shan Tuyết Mộc Châu (từ năm 2001) và cà phê Buôn Ma Thuật (năm 2005). Có gần 150 loại nông sản đang được xem xét trong kế hoạch bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong vòng 10 năm tới. Nguyên nhân của sự chậm trễ này là do những giá trị to lớn của chỉ dẫn địa lý, cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá chưa được hiểu rõ và quan tâm đúng mức. Trong thực tế, chỉ dẫn địa lý mang lại , một giá trị to lớn. Theo điều tra thì có 43% người tiêu dùng Châu Âu sẵn sàng mua đắt hơn 10% nếu sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Ở Việt Nam, sau khi chè Shan Tuyết Mộc Châu được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, giá trị thương mại của sản phẩm này tăng lên thêm 15%. Theo kinh nghiệm các nước chính nhờ chỉ dẫn địa lý mà công ăn việc làm tại địa phương được tạo ra nhiều hơn, thu hút du lịch, giảm bớt sự dịch chuyển dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị… Bảo hộ IG lợi ích hơn hẳn bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. IG là cái có sẵn trong khi nhãn hiệu hàng hoá phải nghiên cứu sáng tạo mới có được. Bảo hộ IG là bảo hộ rẻ nhất, ở mức cao nhất, cao hơn tất cả những bảo hộ khác liên quan đến sở hữu trí tuệ. Bất kì sản phẩm nào được công nhận IG đều đồng nghĩa với sự công nhận về chất lượng, uy tín của sản phẩm. Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý của hàng hóa nông sản mang lại những lợi ích sau: Bảo vệ nhà sản xuất chống lại việc lạm dụng chỉ dẫn địa lý từ những nông sản khác cùng loại, chống lại nạn hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng lấy tên các chỉ dẫn địa lý nổi tiếng để kinh doanh, gây tổn thất về lợi ích kinh tế, cũng như gây mất uy tín của những người kinh doanh chân chính. Đồng thời chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cũng bảo vệ lợi ích người tiêu dùng không bị đánh lừa bởi những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý giả Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ về mặt pháp lý sẽ hỗ trợ cho xúc tiến thương mại và là một “hộ chiếu” cho việc xuất khẩu nông sản, bởi đó là cơ sở bảo đảm uy tín, chất lượng hàng hoá bằng chính tên gọi của vùng lãnh thổ và được quốc tế công nhận. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp lý sẽ làm giảm các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Khi xảy ra tranh chấp về chỉ dẫn địa lý có thể kiện và đòi bồi thường giá trị kinh tế thiệt hại. 5. Những vấn đề liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý. 5.1. Đối tượng được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý - Tên địa danh: là tên vùng đất, địa phương hay quốc gia mà nông sản đó được sản xuất ra. Tên địa danh được bảo hộ phải rõ ràng, khi nói đến địa danh nay người ta phải xác định được nó ở đâu trên bản đồ. Ví dụ như các tên Mộc Châu, Phú Quốc… - Các dấu hiệu: không phải là tên, nhưng nhìn vào các dấu hiệu này người ta cũng có thể biết được đấy là chỉ vùng nào - Các biểu tượng: các gia huy, biểu trưng - Hình ảnh: trong nhiều trường hợp người ta sử dụng hình ảnh của một vùng, của nơi sản xuất sản phẩm đó thay cho chỉ dẫn địa lý. 5.2 Tên gọi chỉ dẫn địa lý được bảo hộ phải thoả mãn các điều kiện - Tên địa lý: tên gọi này phải liên quan đến một sản phẩm cụ thể, tức là phải nói rõ đó là cà phê, chè, cam, bưởi… Không được nói chung chung là hàng lương thức, thực phẩm, trái cây…Ví dụ như nhãn Hưng Yên, vải Thanh Hà, Thanh Long Bình thuận… mà không được nói như : Hoa quả Bắc Ninh, lương thực Nam Định… -Sản phẩm đó phải được sản xuất, chế biến tại vùng địa lý tương ứng. Điều này nghĩa là sản phẩm đó phải có một vùng sản xuất ra với những đặc trưng riêng có. Bởi vậy mà vùng địa lý này phải quy định được. như Chè Shan Tuyết Mộc Châu phải được sản xuất tại Mộc Châu, gạo Tám Hải Hậu phải được gieo, trồng tại Hải Hậu mà không phải là ở bất cứ một nơi nào khác. - Phải nêu được những đặc tính, đặc trưng chủ yếu của sản phẩm do nguồn gốc địa lý tạo nên. Đặc tính đặc trưng này đã được hình thành qua nhiều thế hệ, thời gian và có uy tín xác định trên thị trường. Ví dụ với chè Shan Tuyết Mộc Châu có các đặc trưng sau được nêu trong bản mô tả xin đăng kí bảo hộ Có hai loại chè được đăng kí là chè đen và chè xanh +Chè đen có những đặc trưng như là: Màu đen hơi nâu, có nhiều tuyết trắng, hơi pha vàng, hưong thơm mạnh đặc trưng, vị đậm dịu hài hoà, có vị ngọt hấp dẫn. +Chè xanh: màu xanh đen, có nhiều tuyết trắng,thơm đặc trưng mạnh, vị mát dịu hài hoà,rõ ngọt hậu (không chát mạnh, không xít đắng). Các đặc trưng này càng được nêu rõ ràng, chi tiết, cụ thể thì hiệu lực bảo hộ càng mạnh, bởi đây là cơ sở để phân biệt với các sản phẩm cùng loại. Nếu khi đăng kí bảo hộ nêu chung chung, khi xảy ra tranh chấp không có các cơ sở để chứng minh, chống lại đối phương. 5.3 Các hình thức bảo hộ ở Việt Nam hiên nay Hiện nay ở Việt Nam có các hình thức bảo hộ chính sau: - Bảo hộ tên gọi xuất xứ: đây là hinh thức bảo hộ tên gọi và các điều kiện đặc thù của sản phẩm, các trội thế của sản phẩm gắn với điều kiện địa lý Đây là hình thức bảo hộ của Chè Shan Tuyết Mộc Châu - Bảo hộ bằng việc đăng kí nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, tức là tập thể, hiệp hội, tổ chức của một vùng đứng ra đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý của vùng mình. Vừa qua cà phê Buôn Mê Thuật cũng đã đăng kí bảo hộ chỉ dẫn theo hình thức này, hay hiệp hội sản xuất buởi Hà Tĩnh đăng kí bảo hộ cho bưởi Phúc Trạch, tập thể nhân dân Thanh Hà đăng kí cho sản phẩm vải Thanh Hà…Đây là một hình thức đăng kí mà phí bỏ ra thấp, lại có sự liên kết của tập thể, sự ủng hộ của các đoàn thể, cán bộ địa phương, nên trong thực tế có nhiều điều kiện để phát triển. Theo nghị định 54/2000/NĐ-CP thì chỉ dẫn địa lý không cần phải đăng kí bảo hộ, khi có tranh chấp xảy ra nếu có đủ cơ sở để chứng minh sản phẩm của mình có đủ các điều kiện như các đặc điểm, đặc tính, lợi thế trội của sản phẩm do vùng địa lý đó tạo nên, thì vẫn được bảo vệ. Tuy nhiên nếu đuợc đăng kí thì hiệu lực bảo hộ vẫn cao hơn. Thực tế một số chỉ dẫn địa lý không đăng kí bảo hộ, khi bị xâm hại đòi lại được quyền lợi của mình là rất khó khăn, vất vả và không có những đền bù về kinh tế cho sự xâm hại đó. Một ví dụ điển hình là trường hợp của chỉ dẫn kẹo dừa Bến Tre, hay của nước mắm Phú Quốc. III. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ VÀ THƯƠNG HIỆU NÔNG SẢN VIỆT NAM 1. Thuận lợi. Trong thời gian gần đây ở Việt Nam đã tổ chức nhiều các cuộc hội thảo về chuyên đề xây dựng chỉ dẫn địa lý và thương hiệu đối với mặt hàng nông sản như cuộc hội thảo của uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội phối hợp với câu lạc bộ xây dựng thương hiệu Việt Nam về chuyên đề này, ngoài ra các ổ chức chính quyền từng địa phương cũng đang nỗ lực tạo điều kiện cho các cá nhân, cũng như các đơn vị kinh doanh ở địa phương mình có các cở hội để tìm hiểu về vấn đề này từ các doanh nghiệp khác trên lãnh thổ Việt Nam hay trên thế giới bằng việc tổ chức các triển lãm nông sản tại địa phương hay tạo điều kiện để các cá nhân, doanh nghiệp đó đi dự các cuộc trưng bày, triển lãm nông sản, các chương trình tập huấn hay tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức mà Nhà nước đang thực hiện nhằm mục đích học hỏi và nâng cao kinh nghiêm. Bên cạnh đó các chuyên gia trong lĩnh vực bảo vệ sở hữu trí tuệ Việt Nam, thời gian gần đây cũng đưa ra nhiều những kiến nghị nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền có các cơ sở để ngày một hoàn thiện hơn các điều luật trong lĩnh vực này. Sự ra đời của các câu lạc bộ xây dựng thương hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam đã trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân về kiến thức, vốn, tư vấn cho doanh nghiệp phương pháp xây dựng, cũng như chia sẻ kinh nghiệm xây dựng thương hiệu của các nước mạnh về hàng hoá nông sản để doanh nghiệp thực hiện kế hoạch xây dựng, phát triển thương hiệu của mình.Trong thực tế câu lạc bộ “ Xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam” do thời báo Kinh tế Sài Gòn và công ty cà phê Trung Nguyên thành lập đã hỗ trợ công ty Hoàng Hậu với sản phẩm là trái thanh long Bình Thuận thiết kế lại toàn bộ tất cả mẫu mã, bao bì cũng như nhãn hiệu và cách trưng bày sản phẩm, giúp doanh nghiệp bưởi Năm Roi Hoàng Gia thiết kế lại nhãn và bao bì cùng với một chương trình tung thương hiệu này với hình ảnh mới mang đẳng cấp quốc tế và có đủ tự tin để có thể bán được ở trong nước cũng như ngoài nước. Cũng trong thời gian gần đây một số địa phương đã đứng lên đăng kí chỉ dẫn địa lý cho đặc sản vùng mình, tiêu biểu là sự thành công của chỉ dẫn cà phê Buôn Ma Thuật cả ở trong và ngoài nước, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thục giục các địa phương khác nhanh chóng đăng kí chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của mình. Các cơ quan Nhà Nước cũng đang dần hoàn thiện các cơ sở pháp lý cho vấn đề này. 2. Những khó khăn Xây dựng thương hiệu và đặc biệt là khái niệm xây dựng chỉ dẫn địa lý nói chung và cho nông sản nói riêng,dù đã khá quen thuộc trên thế giới nhưng ở Việt Nam khái niệm này mới chỉ được đề cập đến nhiều trong thời gian gần đây. Nên chúng ta còn rất nhiều khó khăn, hạn chế trong nhân thức, nhiều thiếu xót trong việc ban hành các luật về vấn đề này. Khó khăn lớn nhất hiện nay là vấn đề nâng cao nhận thức của cá nhân, doanh nghiệp trong việc hiểu đúng ý nghĩa, vai trò và những lợi ích to lớn mà thương hiệu và chỉ dẫn địa lý đem lại. Với thương hiệu vấn đề không chỉ là xây dựng mà cần phải đăng kí bảo hộ thương hiệu cho sản phẩm của mình sớm, ngay từ khi bắt đầu kinh doanh, bởi nếu không đăng kí thương hiệu đó có thể mất bất cứ lúc nào bởi một đơn vị khác đứng ra xin đăng kí bảo hộ, như trường hợp của công ty cà phê Trung Nguyên (TN) khi nộp đơn đăng ký thương hiệu tại Mỹ thì phát hiện đã có một công ty Mỹ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu Trung Nguyên và đang trong giai đoạn chờ cấp phép. Công ty đặt quyết tâm là phải lấy lại được thương hiệu cho mình, do vậy đã thuê luật sư và đồng thời tìm hiểu xem tại sao công ty đó lại nộp đơn xin đăng ký thương hiệu của TN. Sau đó, công ty mới hiểu ra rằng đó là một công ty phân phối hàng thực phẩm nông sản, biết TN là một nhãn hiệu thương mại nổi tiếng của Việt Nam nên đã đăng ký tên TN để giành độc quyền phân phối hàng của TN tại Mỹ. Qua nhiều lần đàm phán trao đổi, công ty này đã đồng ý rút hồ sơ với điều kiện TN đồng ý cho họ là nhà phân phối độc quyền sản phẩm cà phê của TN tại Mỹ trong vòng hai năm. Không chỉ nhãn hiệu của TN bị đăng ký trước mà ngay cả tên miền của TN (trungnguyen.com) cũng đã bị một Việt kiều ở Tiệp Khắc đăng ký trước với mục đích đầu cơ và đang giao bán rất đắt. Bài học mà Trung Nguyên đã rút ra và muốn chia sẻ với các doanh nghiệp là các doanh nghiệp có thể phải trả giá rất đắt cho nhận thức thấp về thương hiệu. Các doanh nghiệp với những thương hiệu rất nổi tiếng ở trong nước vẫn phải xây dựng từ đầu khi đi ra thị trường thế giới. Hơn ai hết doanh nghiệp phải là người hiểu giá trị thương hiệu của mình. Tư vấn bên ngoài cũng chỉ có thể giúp doanh nghiệp xây dựng thương hiệu trong khuôn khổ hợp đồng nhất định như thể hiện ý tưởng, in ấn, làm bảng hiệu v.v., còn doanh nghiệp mới là người sống và làm việc với thương hiệu của mình. Tiếp theo là sự thiếu chiến lược trong xây dưng một thương hiệu của người Việt Nam. Một thương hiệu nông sản là sự hội tụ của 3 yếu tố: Thị trường, nông dân và thương lái. Thị trường ngoài nước và kể cả một phần trong nước được xây dựng bởi người tiêu dùng mà việc xúc tiến của Nhà nước có một vai trò rất lớn (trong nhiều trường hợp với thị trường ngoài nước thì vai trò Nhà nước có tính quyết định), các dự án về xây dựng thương hiệu là sự kết nối, hợp nhất của nông dân và thương lái, trong đó thương lái là quyết định. Tuy nhiên hiện nay phần lớn các nhà buôn lại chưa đủ bản lĩnh, tự tin. Trước đây họ chuyên bán nông sản cho các nhà buôn nước ngoài dưới dạng nguyên liệu, các nhà buôn nước ngoài mua về dán thương hiệu của họ lên và bán ra thị trường, như vậy giá trị nông sản của ta lúc đó gồm giá trị nguyên liệu và giá trị thương hiệu. Nếu bây giờ thương lái đó tự làm lấy thương hiệu thì chắc chắn đối tác cũ sẽ mất, vì thế nếu họ không thật sự bản lĩnh thì sẽ chọn con đường chắc ăn hơn – bán nguyên liệu. Ở nước ngoài việc làm thương hiệu là của nhà buôn, còn ở ta, phần lớn là do một số nông dân tiến bộ tức khí khi bị ép giá đi làm thương hiệu. . Hiện nay một số doanh nghiệp đã có nhận thức tốt hơn về thương hiệu nhưng họ lại đang đứng trước một bài toán khó khăn là không biết bắt đầu từ đâu để xây dựng thương hiệu. Ngay cả sau khi đã học qua những lớp tập huấn, những giám đốc phụ trách thương hiệu của doanh nghiệp cũng vẫn chưa biết phải làm như thế nào, bắt đầu từ đâu vì họ mới chỉ có được kiến thức lý thuyết. Nhìn từ phía cung dịch vụ, rất khó kiếm được một công ty tư vấn làm tốt về marketing hay xây dựng thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp tự mình làm mà không thuê tư vấn do họ đã từng thử dùng tư vấn nhưng kết quả làm họ thất vọng. Có những doanh nghiệp từng nhờ tôi tìm kiếm tư vấn nước ngoài. Cho dù các công ty nước ngoài có kỹ thuật và chuyên môn tốt hơn nhưng các công ty tư vấn Việt Nam có lợi thế hơn nhiều trong việc am hiểu tâm lý và văn hoá của người bản địa - đây mới là yếu tố quan trọng để thành công trong xây dựng thương hiệu. Do vậy các doanh nghiệp tư vấn trong nước cần chú trọng chuyên môn hoá hơn nữa trong dịch vụ xây dựng phát triển thương hiệu để đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng này. Một khó khăn nữa là khung pháp lý Ở Việt Nam bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn gặp khó khăn do khung pháp lý chưa đầy đủ. VN vẫn đang trong quá trình hoàn thiện Luật Sở hữu trí tuệ. Các văn bản hướng dẫn để người sản xuất hiểu đầy đủ về bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng như điều kiện để đảm bảo sản xuất được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn... còn thiếu. Văn bản luật pháp liên quan đến thương hiệu của Việt Nam chưa đủ chi tiết. Luật pháp về nhãn hiệu được bao hàm trong Phần VI của Bộ Luật dân sự, mà phần này chủ yếu đề cập đến quyền sở hữu công nghiệp một cách ngắn gọn và chung chung. Chúng ta thiếu những chỉ dẫn rõ ràng hay các văn bản hướng dẫn chi tiết để Cục SHTT tham chiếu trong quá trình thẩm định. ở các nước phát triển, cơ quan SHTT thường có sẵn sách hướng dẫn chi tiết về trình tự công việc và danh mục các yếu tố cần xem xét để kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ. Những sách hướng dẫn này không chỉ có ích cho chính các cán bộ thẩm định hồ sơ mà còn giúp cho công chúng và các luật sư biết cách lập hồ sơ hợp lệ và biết rõ quy trình thẩm định. Do Việt Nam thiếu các quy định chi tiết, các phán quyết của các cơ quan liên quan có thể mang tính chủ quan và không thống nhất với luật pháp Việt Nam cũng như tập quán quốc tế. Một khó khăn nữa trong việc bảo hộ ở VN hiện nay là tập hợp được những nhà sản xuất lại với nhau. Không ít nhà sản xuất hay nông dân do không hiểu hết giá trị của bảo hộ mang lại đã không hợp tác tích cực, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng đến việc hình thành các sản phẩm mang đặc trưng riêng của một vùng. IV. GIẢI PHÁP Trước hết cần nâng cao nhận thức của mọi người về thương hiệu bằng các chương trình, các đợt tuyên truyền, tập huấn đối với người nông dân, doanh nghiêp, người tiêu dùng đến cả các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan, nhằm giúp mọi người hiểu được sự cấp thiết phải có thương hiệu cho nông sản Việt Nam trong qua trình hội nhập kinh tế. Khắc phục tư duy coi thương hiệu là không quan trọng, cho rằng sản phẩm không cần có thương hiệu. Qua đây cũng giúp mọi người nắm được các quy định, các cơ sở pháp lý của việc xây dựng thương hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản. Thúc đẩy các chương trình xúc tiến thương mại, tổ chức nhiều hội trợ, triển lãm nông sản trong nước và tạo điều kiện cho các đơn vị cá nhân tham gia các hội trợ, triển lãm nông sản thế giới. Thực hiện các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, gia tăng diện tích, sản lượng, rà soát quy hoạch lại vùng sản xuất gắn với điều kiện địa phương, và dự báo thị trường trong nước, quốc tế để có định hướng phát triển phù hợp với từng mặt hàng nông sản. Nhà nước cần có chính sách đầu tư, hỗ trợ về vốn, kĩ thuật, khuyến khích các cá nhân tổ chức đứng ra xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho nông sản Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong sản xuất giống cây trồng, phục hồi các giống đặc sản đang có nguy cơ thoái hoá, nghiên cứu các quy trình thâm canh tiên tiến nhằm tăng năng suât, tăng chất lượng nông sản. Cần nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước trong vấn đề này. Ngoài các chương hỗ trợ nhằm khuyến khích, thúc đẩy quá trình xây dựng thương hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản , nhà nước cần phải nghiên cứu để đưa ra những điều luật, những quy định cụ thể chi tiết hơn trong vấn đề này. Tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất giúp doanh nghiệp đăng kí chỉ dẫn địa lý, đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá… Nhà nước cũng cần phải có các công cụ bảo vệ những thương hiệu, chỉ dẫn địa lý đã đăng kí trong trường hợp bị xâm phạm. Đảm bảo quỳên lợi cho doanh nghiệp, cho nhân dân. Những đề xuất xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam. Thứ nhất, cần phải tạo ra nông sản tốt và ổn định qua việc cải tạo giống cây trồng chất lượng cao, cải thiện công nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch hiệu quản nhằm giảm thiểu thất thoát, phát triển số lượng cũng như chất lượng ổn định qua các mùa vụ. Thứ hai, tạo giá trị cộng thêm cao cho nông sản bằng cách đầu tư công nghệ tập trung vào sản phẩm nông sản có giá trị cao, đầu tư thiết kế bao bì chuyên nghiệp, tạo khả năng cạnh tranh quốc tế. Thứ ba, phân phối rộng rãi đến các thị trường mục tiêu qua việc dự báo chính xác để đáp ứng nhu cầu của thị trường và kết hợp với các nhà phân phối trung gian đem sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Thứ tư, quảng bá mạnh mẽ, thuyết phục người tiêu dùng bằng việc đầu tư vào xây dựng, quảng bá thương hiệu đến đối tượng mục tiêu. Để làm được việc này chúng ta cần phối hợp và liên kết các nhà liên quan, bao gồm: nhà khoa học, nhà nông, nhà kinh doanh, nhà nước, nhà băng và nhà truyền thông. Nhà khoa học sẽ hỗ trợ phát triển kĩ thuật, tạo giống cây trồng có năng suất cao, nghiên cứu kĩ thuật chăm sóc và trồng trọt, bảo quản sau thu hoạch hợp lý với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương. Nhà nông phải nắm vững kĩ thuật và kiến thức để làm nên sản phẩm tốt và ổn định, tạo ra giá trị cộng thêm cho sản phẩm bằng cách đầu tư cho chế biến. Nhà kinh doanh cần dự báo chính xác nhu cầu thị trường, cũng như xây dựng các hệ thống phân phối rộng rãi đến thị trường mục tiêu trong nước cũng như quốc tế. Đến thị trường nào cũng phải hiểu kinh tế, văn hoá, nhu cầu người tiêu dùng của thị trường đó. Nhà nước sẽ xây dựng các tiêu chí để công nhận chỉ dẫn địa lý nổi tiếng mà chúng ta đang có, xem đó như là tiềm năng của quốc gia, tài sản của địa phương. Nhà nước cần tạo hành lang pháp luật thông thoáng, hỗ trợ phát triển, bảo vệ quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nông sản, cũng như nhà nước có thể đầu tư quảng bá cho các ngành nông sản chủ đạo, mũi nhọn của quốc gia để giới thiệu nông sản Việt Nam với thế giới. Nhà băng hay ngân hàng sẽ tạo nguồn vốn hỗ trợ đầu tư, tạo sản phẩm chất lượng cao để tăng thu lợi nhuận, tăng thu nhập cho nông dân, cho doanh nghiệp. Nhà truyền thông có vai trò hết sức quan trọng. Các cơ quan báo đài, các nhà báo sẽ hỗ trợ quảng bá đến người tiêu dùng trong nước và quốc tế những giá trị của nông sản Việt Nam. Đặc biệt các công ty xây dựng thương hiệu, các công ty quảng cáo, các công ty xây dựng hình ảnh cho thương hiệu nông sản cũng có nhiệm vụ rất lớn trong việc tham gia xây dựng, triển khai, phát triển chiến lược xây dựng phát triển thương hiệu mạnh, hình ảnh của thương hiệu cho nông sản. V. KẾT LUẬN Trong xu thế hội nhập như hiện nay, để nông sản Việt Nam có thể gia nhập thị trường thế giới thì phải gắn thương hiệu hay chỉ dẫn địa lý cho nông sản là điều tất yếu sẽ phải làm đối với doanh nghiệp nông sản. Nhưng đây lại không phải là vấn đề của riêng doanh nghiệp, mà là vấn đề chung cho cả người sản xuất, nhà nước và một số thành phần khác TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Doanh nghiệp Việt Nam với vấn đề thương hiệu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. nxb Thống Kê. 2. Bài báo: “ Đẩy mạnh đăng kí bảo hộ chỉ dẫn địa lý để nâng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam ” ở tạp chí thương mại số 25/2005. Tác giả Ngô Tuấn Nghĩa 3. Bài báo :“Chỉ dẫn địa lý đối với hàng nông sản ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ” tạp chí thương mại số 25/2005 . T/g Nguyễn Thị Mão 4. Bài báo :“Nông sản Việt Nam và con đường xây dựng thương hiệu” tạp chí thương mại số 45/2005. T/g Hoàng Hải Anh 5. Sách “chỉ dẫn địa lý và thương hiệu nông sản Việt Nam” NXB Thế Giới - Hà Nội - 2004 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35783.doc
Tài liệu liên quan