CHƯƠNG I : ĐẶC ĐIỂM TÀI CHÍNH CỦA HỢP TÁC XÃ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về HTX thương mại Việt Nam:
1.1.1 Lịch sử hình thành HTX thương mại Việt Nam:
Khái niệm về hợp tác xã:
Theo luật HTX năm 2003, Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật [1].
Lịch sử hình thành HTX thương mại tại Việt Nam:
Thị trường trong nước luôn luôn được coi là cơ sở, nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần tăng GDP trong mọi quốc gia. Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Hướng về xuất khẩu là đúng, phải khuyến khích mạnh xuất khẩu. Không xuất khẩu được thì không lấy gì để nhập khẩu , không được coi nhẹ sản xuất trong nước và không được coi nhẹ thị trường trong nước”. Để phát triển kinh tế thị trường trong nước đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp với sự đóng góp của nhiều tham số kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, trong đó HTX thương mại (HTX TM) có vai trò rất quan trọng trong phát triển thị trường nội địa. HTX thương mại (hợp tác xã mua bán trước đây) ra đời ngày 15/03/1955 tại Thanh Ba, Phú Thọ, nhằm giảm bớt tình trạng mua rẻ bán đắt để thúc đẩy sự trao đổi hàng hóa giữa nông thôn và thành thị, lợi cho việc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất và hướng nông dân theo lối tương trợ hợp tác có tổ chức, có kế hoạch đồng thời giúp đỡ công nhân cải thiện đời sống”. Từ khi thành lập đến nay, HTX thương mại đã trải qua các giai đoạn lịch sử với nhiều biến cố kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhưng luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng củng cố và phát triển. Trong thời kỳ nhân dân ta thực hiện hai chiến lược cách mạng (1955-1975), HTX thương mại luôn được tăng cường theo hướng mở rộng thị trường nội địa mà trước hết là thị trường nông thôn, nông nghiệp.
Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới quản lý kinh tế do Đảng ta khởi xướng và thực hiện đã tạo cơ hội cho HTX thương mại được lựa chọn: lĩnh vực kinh doanh thương mại và dịch vụ thương mại mà pháp luật không cấm, như vậy HTX thương mại đã trở thành: chủ thể kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới, sự vận động của các tổ chức kinh tế cơ bản nhằm tìm kiếm lợi nhuận và nó cũng đã được đặt ra trực tiếp, sự cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả kinh doanh thực sự trở thành vấn đề thường trực trong mỗi HTX thương mại. Vì thế đã có nhiều đơn vị kinh tế tập thể trong ngành thương mại không trụ được nên đã phải tự giải thể. Do vậy, số lượng HTX thương mại từ năm 1986-1996 giảm nhanh. Năm 1994 cả nước còn 403 đơn vị và giảm thấp hơn vào năm 1996. Năm 1996 khi cả nước còn 359 HTX thương mại, thì cũng là năm nhà nước ta ban hành luật HTX, có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau khi luật HTX ra đời, kinh tế tập thể nói chung và HTX thương mại nói riêng từng bước có những chuyển động mới, ngày càng đa dạng, phong phú và có những chuyển biến về chất. Năm 2001, Liên minh HTX Việt Nam cho biết cả nước có 373 HTX thương mại, đặc biệt trong đó có 162 HTX thương mại mới thành lập. Từ năm 1996 đến nay, quá trình chuyển đổi, lập mới của HTX thương mại đã được diễn ra trên khắp cả nước, số lượng HTX thương mại tăng lên. Điều đáng lưu ý là chức năng mua, bán để phục vụ nhà nông, kinh tế nông nghiệp, mở rộng thị trường nội của HTX thương mại vẫn được thực hiện với quy mô ngày càng lớn.
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng chiến lược tài chính cho Hợp tác xã Thương mại Dịch vụ Toàn Tâm trong giai đoạn hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a CoopMart Lý Thường Kiệt đi vào hoạt động ngày 14/12/2006) và khi siêu thị đi vào hoạt động bước đầu đã được người tiêu dùng chấp nhận nên trong năm 2007 khả năng thanh toán của đơn vị tốt hơn.
v Phân tích khả năng trả nợ:
Khả năng trả nợ đề cập đến khả năng tài chính trong dài hạn và khả năng trả nợ trong dài hạn. Tất cả các hoạt động của công ty như: tài trợ, đầu tư và hoạt động đều ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của công ty. Một trong những yếu tố quan trọng nhất của phân tích khả năng trả nợ là thành phần của cấu trúc vốn. Cấu trúc vốn đề cập đến nguồn tại trợ của công ty bằng nợ và vốn cổ phần. Đối với nhà đầu tư vào cổ phần, nợ phản ánh rủi ro thiệt hại trong đầu tư, nợ quá nhiều sẽ làm hạn chế tính chủ động và linh hoạt của ban quản trị để theo đuổi các cơ hội sinh lợi. Đối với chủ nợ, vốn cổ phần tăng lên được ưa thích hơn vì sẽ bảo vệ họ khỏi thiệt hại do điều kiện khó khăn, việc hạ thấp vốn cổ phần xuống bằng tỷ lệ nợ vay sẽ làm giảm sự bảo vệ của chủ nợ khỏi thiệt hại và do vậy làm tăng rủi ro tín dụng[6]. Tuy nhiên có nhiều động cơ khiến các doanh nghiệp thích vay nợ bởi vì:
t Lãi vay của hầu hết các khoản nợ thường cố định, nếu tiền lãi thấp hơn lợi nhuận thu được từ tài trợ bằng nợ thì các nhà đầu tư cổ phần sẽ được hưởng phần lợi dôi ra.
t Lãi vay là chi phí được khấu trừ thuế còn cổ tức thì không.
Rủi ro cơ bản của cấu trúc vốn có sử dụng đòn bẩy là rủi ro không có đủ tiền mặt khi công ty gặp khó khăn. Nợ là sự cam kết trả những khoản chi phí cố định dưới dạng trả lãi và vốn gốc. Các tỷ số về cấu trúc vốn là những phương tiện để phân tích khả năng trả nợ:
t Tỷ số tổng nợ trên tổng nguồn vốn: đây là tỷ số tổng quát có thể đánh giá được mối tương quan giữa tổng nợ (nợ ngắn hạn + nợ dài hạn + các khoản phải trả khác) được xác định khi phân tích như các khoản thuế trả chậm và tổng nguồn vốn ( tổng nợ + vốn cổ phần)
Một thước đo khác miêu tả mối tương quan giữa nợ so với vốn cổ phần là tỷ số tổng nợ trên tổng vốn cổ phần
t Tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần đo lường mối tương quan giữa nợ dài hạn và vốn cổ phần. Nếu tỷ số này cao hơn 1:1 nghĩa là tài trợ bằng nợ nhiều hơn vốn cổ phần
t Tỷ số nợ ngắn hạn trên tổng nợ đo lường mối tương quan giữa nợ đến hạn phải trả trong ngắn hạn và tổng nợ, đây là một chỉ số rất quan trọng về nhu cầu tài trợ và tiền mặt trong ngắn hạn của công ty.
CHỈ TIÊU
Năm 2007
Năm 2006
Tổng nợ so với vốn cổ phần
1.68
2.76
Nợ dài hạn trên vốn cổ phần
0.49
1.14
Nợ ngắn hạn trên vốn cổ phần
1.19
1.62
Nợ ngắn hạn trên tổng nợ
0.71
0.59
Nợ ngắn hạn trên nợ dài hạn
2.41
1.42
¯ Mô hình đểm Z của Altman (mô hình rủi ro tài chính).
Chỉ số tín nhiệm Z là chỉ số từ công trình của Giáo sư Edward I.Altman, trường kinh doanh Leonard N.Strem, thuộc trường Đại học NewYork. Chỉ số Z là một công cụ phát hiện nguy cơ phá sản và xếp hạng định mức tín dụng, đây là một công trình dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số lượng nhiều công ty khác nhau tại Mỹ. Mặc dù chỉ số này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nước trên thế giới vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Mô hình này sử dụng nhiều tỷ số để tạo ra một chỉ số về khả năng khó khăn tài chính. Mô hình điểm Z của Altman sử dụng một kỹ thuật thống kê để tạo ra chỉ số dự báo là một hàm số tuyến tính của một số biến giải thích. Công cụ dự báo này phân loại hay dự báo khả năng xảy ra phá sản hay không phá sản. Năm tỷ số tài chính được đưa vào để tính điểm Z gồm: X1 = Tài sản lưu động/Tổng tài sản, X2 = Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản, X3= Lợi nhuận trước lãi và thuế/Tổng tài sản, X4= Vốn cổ đông/Tổng nợ, X5= Doanh thu/Tổng tài sản. Chúng ta thấy X1, X2, X3, X4, X5 lần lượt phản ánh (1) Khả năng thanh toán, (2) Tuổi của doanh nghiệp và khả năng sinh lời tích luỹ, (3) Khả năng sinh lời, (4) Cấu trúc tài chính và (5) Tỷ lệ vòng quay vốn, Altman Z-score được tính như sau:
Z = 0,717X1+0,847X2-3,107X3+0,42X4+0,998X5 (*)
X1 = = 0.66
X2 = = 0.052
X3 = = 0.27
X4 = = 0.323
X5 = = 4.33
(*)ð Z= 4.13
Theo Atlman, Z thấp hơn 1.2 cho thấy xác suất sự phá sản cao, Z trên 2.9 hàm ý xác suất sự phá sản thấp, các điểm nằm trong khoảng 1.2 đến 2.9 nằm trong khoảng trung bình khó đoán.
Như vậy, qua số liệu năm 2007, Z = 4.13 cho thấy xác suất phá sản của HTX TMDV Toàn Tâm rất thấp, điều này giúp cho các xã viên có cảm giác an tâm về vốn đầu tư của mình.
¯Nhận xét:
Qua việc phân tích tình hình tài chính của HTX TMDV Toàn Tâm trong giai đoạn 2006-2007 và quý I năm 2008 chúng ta nhận thấy rằng:
v Tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị khá khả quan, tuy đơn vị mới đưa Co.opMart Lý Thường Kiệt đi vào hoạt động gần một năm rưỡi nhưng nhìn chung người tiêu dùng đã tiếp cận và bước đầu chấp nhận nó, cụ thể là doanh thu bán hàng hóa của đơn vị ngày càng tăng, và doanh thu năm 2007 của đơn vị đã vượt mức kế hoạch do Saigon Co.op giao là 11%. Do đơn vị mới thành lập đầu năm 2006 nên phải tốn khá nhiều chi phí cho việc hoàn thiện mặt bằng, mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện và công cụ dụng cụ nên bước đầu các chi phí này khá cao (chi phí sử dụng công cụ dụng cụ trong năm 2007 là 6,4 tỷ đồng) làm cho lợi nhuận của đơn vị thấp. Đồng thời, trong năm 2007 đơn vị chưa kịp trang bị các phương tiện hiện đại để bảo quản hàng hóa, chống mất cắp hàng hóa vì thế tỷ lệ hao hụt của đơn vị trong năm 2007 tương đối cao (Saigon Co.op giao tỷ lệ hao hụt cho đơn vị là 0,25% trên doanh thu và con số mà đơn vị thực hiện là 0,33% trên doanh thu) điều này làm cho tỷ lệ lãi gộp của đơn vị trong năm 2007 thấp là 13,6% trong khi mục tiêu đề ra là 14%. Nhận thấy được những điểm yếu trên, trong năm 2008 Ban Giám Đốc đã tăng cường trang bị các phương tiện hiện đại để bảo quản hàng hóa như sử dụng tem cắt, con chip điện tử, camera để giảm hao hụt, tiến hành đổi layout để thu hút khách hàng đến tham quan và mua sắm,… vì thế lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngày càng gia tăng, cụ thể doanh thu quý I năm 2007 là 75.728 trđ và 103.950 trđ trong quý I năm 2008 (tăng 37%) và lợi nhuận trước thuế của quý I năm 2007 là 7.119 trđ và con số này là 9.743 trđ trong quý I năm 2008 (tăng 36,8%). Với doanh thu và lợi nhuận đạt được trong năm 2007 đã tạo cho cổ đông xã viên góp vốn một tinh thần phấn khởi với kết quả chia cổ tức khá lạc quan thông qua kết quả Đại hội Xã viên HTX TMDV Toàn Tâm ngày 24 tháng 03 năm 2008, theo số liệu thì tỷ suất sinh lời của xã viên bình quân khoảng 50% đến 60% trên vốn góp (tùy thuộc vào thời điểm góp vốn) trong đó xã viên sẽ nhận được cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ là 50%, phần còn lại sẽ tăng vốn góp cho xã viên.
v Tình hình tài chính của công ty khá an toàn, thông qua phân tích mô hình điểm Z của Altman cho thấy xác suất để đơn vị bị phá sản là rất thấp. Mặc dù tỷ lệ tổng nợ so với vốn cổ phần đã giảm trong năm 2007 nhưng vẫn còn khá cao, tỉ lệ nợ dài hạn trên vốn cổ phần là 49% (HTX TMDV Toàn Tâm và Ngân hàng Ngoại Thương Bình Tây ký kết hợp đồng tín dụng dài hạn trị giá 20 tỷ đồng để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị tại đơn vị và thời gian trả nợ là 5 năm), tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ là 71% chủ yếu là nợ phải trả người bán –trong đó nợ ngắn hạn gấp đôi nợ dài hạn (trong đó chủ nợ lớn nhất của Toàn Tâm là Saigon Co.op). Tuy tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần khá lớn nhưng đơn vị có tỷ số thanh toán nhanh khá an toàn là 1,13 điều này có nghĩa là công ty sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Đồng thời, tỷ lệ nợ ngắn hạn phải trả cho nhà cung cấp so với lượng hàng hóa tồn kho là 2,25:1 điều này chứng tỏ đơn vị đang chiếm dụng vốn của nhà cung cấp, cụ thể là chiếm dụng vốn của Saigon Co.op.
2.4 Những thuận lợi và khó khăn của đơn vị:
v Thuận lợi:
t HTX TMDV Toàn Tâm nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ rất lớn từ SaiGon Co.op là một trong những doanh nghiệp bán lẻ có tiếng tại TP.HCM, SaiGon Co.op đã đứng ra bảo lãnh cho đơn vị khi ký kết hợp đồng tín dụng dài hạn tại Ngân hàng Ngoại Thương Bình Tây, cung cấp hàng hóa theo giá vốn, cho vay vốn kinh doanh, huấn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyển giao thương hiệu Co.opMart, cung cấp phần mềm hỗ trợ quản lý, mua bán hàng hóa, phần mềm kế toán.
t Vị trí địa lý khá thuận lợi để kinh doanh loại hình siêu thị (khu dân cư đông đúc) và người tiêu dùng đã biết đến thương hiệu Co.opMart nên bước đầu hoạt động kinh doanh của đơn vị khá thuận lợi.
t Hiện nay thị trường bán lẻ tại Việt Nam như miếng bánh vô cùng hấp dẫn khi vừa qua Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc) và vào năm 2008 Việt Nam soán ngôi vị số một của Ấn Độ , trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đẩu tư[16], đây thực sự là một thị trường đầy tiềm năng đối với doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng như doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. Hơn nữa, Tp.HCM là một trong 9 thành phố mới lọt vào danh sách 100 thành phố phát triển kinh tế nhanh trong khoảng thời gian 2005-2020 của hãng Tư vấn tài chính uy tín Quốc Tế Pricewaterhouse Coopers, đây là động cơ thúc đẩy ngành thương mại dịch vụ phát triển.
t Co.opMart Lý Thường Kiệt ra đời với vốn chủ sở hữu là vốn góp của toàn thể CBCNV Saigon Co.op nên sẽ có sự đồng tình ủng hộ của đông đảo xã viên này và nguồn vốn này được Saigon Co.op hỗ trợ vốn rất lớn thông qua quỹ phúc lợi của Saigon Co.op.
t Đội ngũ cán bộ quản lý là những cán bộ chủ chốt của các Co.opMart trực thuộc Saigon Co.op nên công việc quản lý khá tốt, đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ, năng động, chịu khó và ham học hỏi.
v Khó khăn:
t Nhu cầu vốn cho kinh doanh rất lớn trong khi khả năng huy động vốn bên trong và bên ngoài rất hạn chế, khả năng tích lũy nội bộ rất thấp.
t Hiện nay đơn vị được sự giúp đỡ rất lớn từ Saigon Co.op, đơn vị phải lập kế hoạch kinh doanh cho riêng mình nếu không còn được sự ưu ái này nữa.
t Vấn đề mặt bằng để kinh doanh đang là bài toán nan giải, hiện tại đơn vị đã ký hợp đồng thuê mặt bằng của Trường Đại Học Bách Khoa với thời hạn hợp đồng là 30 năm và nếu Trường Đại Học Bách Khoa lấy lại mặt bằng trước hạn hợp đồng thì đây thật sự là khó khăn lớn đối với đơn vị bởi vì tìm được vị trí kinh doanh là rất khó khăn, nhiều vị trí đẹp, ở trung tâm thành phố đều rơi vào tay nhà bán lẻ nước ngoài trong khi việc bán lẻ cần mặt bằng có dân cư đông đúc với mức sống phù hợp để xây dựng siêu thị có quy mô.
t Khảo sát gần đây của Nestlé Việt Nam cho thấy 90% các bà nội trợ Việt Nam vẫn quen mua đồ ở các chợ truyền thống. Do vậy, các tập đoàn phân phối lớn sẽ gặp không ít khó khăn khi thâm nhập thị trường Việt Nam, kênh siêu thị đã quen thuộc với một bộ phận dân cư Việt Nam nhưng cũng sẽ mất nhiều thời gian để lấy được niềm tin của đại đa số người tiêu dùng.
t Khó khăn lớn nhất hiện nay của đơn vị cũng như của toàn thể doanh nghiệp bán lẻ tại nước ta là ngày 01/01/2009 doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài chính thức đổ bộ vào Việt Nam, đây thật sự là một thách thức lớn. Theo cam kết với WTO, Việt Nam phải dành cho các nhà cung cấp dịch vụ phân phối nước ngoài sự đối xử bình đẳng như các nhà cung cấp dịch vụ phân phối Việt Nam. Cả bốn loại hình phân phối theo phân loại của WTO mà chúng ta đều cam kết là: bán lẻ, bán buôn, đại lý hoa hồng và nhượng quyền thương mại. Theo đó, từ ngày 01/01/2008 Việt Nam cho phép liên doanh trong lĩnh vực bán lẻ không hạn chế mức góp vốn từ phía nước ngoài và từ ngày 01/01/2009 phía nước ngoài được phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài. Và tại cuộc hội thảo về thị trường bán lẻ do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) tổ chức gần đây, các doanh nghiệp đều nhận định rằng về công nghệ, tài chính, kinh nghiệm và khả năng tiếp cận khách hàng của các doanh nghiệp trong nước đều yếu hơn so với các đối thủ sắp vào Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam hấp dẫn đối với doanh nghiệp nước ngoài, thể hiện rõ qua cán cân thương mại của Việt Nam. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu năm ngoái và những tháng đầu năm nay, bên cạnh máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phần lớn là hàng tiêu dùng. Nhu cầu tiêu dùng nội địa đang gia tăng mạnh, tạo nên gánh nặng trong cán cân thương mại và kết quả là thâm hụt khoảng 14,4 tỷ USD trong năm tháng đầu năm nay so với cả năm 2007 là 14,12 tỷ USD.
¯ Kết luận:
Với chủ trương xây dựng kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập thì sự liên kết giữa các HTX, các doanh nghiệp, các nhà phân phối trong nước là rất cần thiết để tạo thành một khối vững mạnh để cạnh tranh với các Doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi doanh nghiệp nước ngoài có quy mô vốn lớn, có kinh nghiệm hoạt động và chuyên nghiệp nên khi họ xâm nhập vào thị trường Việt Nam không cần quan tâm đến năng lực của doanh nghiệp Việt Nam như thế nào. Đơn giản vì hầu hết doanh nghiệp Việt Nam còn quá nhỏ để cạnh tranh và theo cam kết gia nhập WTO Việt Nam sẽ chính thức mở cửa hoàn toàn lĩnh vực phân phối cho các nhà đầu tư nước ngoài từ ngày 01/01/2009, đây là một thách thức lớn đối với các Doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Ngành kinh doanh bán lẻ Việt Nam còn ở mức cơ bản, mô hình bán lẻ hiện đại (siêu thị, trung tâm thương mại) chỉ chiếm 10%, bên cạnh đó nguồn vốn cho doanh nghiệp bán lẻ mà điển hình là HTX còn nhiều khó khăn vì thế để đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp bán lẻ phải thay đổi tư duy kinh doanh, bản thân mỗi cửa hàng, siêu thị phải tự vươn lên và xác định chiến lược kinh doanh thích hợp cho mình.
Với những nhận định về tình hình tài chính trong giai đoạn hiện tại của đơn vị và với xu hướng phát triển trong tương lai các giám đốc tài chính sẽ xây dựng cho doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh hợp lý trong giai đoạn sắp tới, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập như hiện nay để đơn vị được tồn tại và phát triển chúng ta cần phải xây dựng chiến lược tài chính thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đơn vị góp phần gia tăng giá trị doanh nghiệp cũng như tối đa hóa thu nhập của xã viên.
CHƯƠNG III: XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC TÀI CHÍNH CHO HTX TMDV TOÀN TÂM
TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2020
3.1 Nhận diện tình hình tài chính của HTX TMDV Toàn Tâm trong chu kỳ sống của doanh nghiệp:
Qua phân tích tình hình tài chính của HTX TMDV Toàn Tâm trong giai đoạn 2006-2007 và quý I năm 2008 chúng ta nhận thấy doanh thu và lợi nhuận của siêu thị không ngừng gia tăng, dòng tiền phát sinh ngày mạnh hơn và nhiều hơn, lợi tức của xã viên trong năm 2007 chiếm 50% thu nhập của xã viên, thị trường đầu tư khá rộng rãi bởi vì lĩnh vực thị trường bán lẻ đang phát triển rất nhanh theo sự phát triển của nền kinh tế.
Nếu chúng ta xem thị trường bán lẻ như một “cái bánh” mà “cái bánh” này không thay đổi thì đương nhiên thị trường này sẽ bị chia sẽ một phần thị phần khi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài, người này ăn miếng lớn thì người kia ăn miếng nhỏ, có thể nói khi có sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài thì thị phần sẽ nhỏ lại và nó sẽ có giá trị tuyệt đối lớn hơn. Nhiệm vụ của các nhà bán lẻ là làm sao cho “cái bánh” ngày càng lớn và khi đó mỗi người sẽ nhận được một phần xứng đáng. Qua nhận xét trên chúng ta thấy rằng trong giai đoạn hiện nay rủi ro kinh doanh của đơn vị cũng như các doanh nghiệp bán lẻ trong nước là khá cao bởi vì các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài là những đối thủ có bề dày kinh nghiệm, tiềm lực về tài chính khá vững vàng trong khi đó các doanh nghiệp bán lẻ trong nước khá nhỏ bé. Theo bà Trần Thị Phương Lan (Trưởng ban giám sát và Quản lý cạnh tranh- Cục quản lý cạnh tranh) đánh giá tính chuyên nghiệp của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất thấp, nguồn nhân lực hầu như chưa qua đào tạo chuyên ngành, trong bán hàng hiện có 2/3 số doanh nghiệp chưa sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý, việc quản lý đầu ra của hàng hóa, việc quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp chưa được chú trọng[17].
Tóm lại, từ những nhận định trên có thể kết luận chu kỳ sống của HTX TMDV Toàn Tâm đang trong giai đoạn tăng trưởng.
3.2 Xu hướng phát triển của HTX Toàn Tâm và mục tiêu tăng trưởng đến năm 2020:
Theo kết quả khảo sát của tập đoàn AT Kearney- Tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới có trụ sở tại Mỹ thì trong năm 2007 Việt Nam đã trở thành địa điểm hấp dẫn thứ 4 thế giới và năm 2008 Việt Nam trở thành điểm hấp dẫn nhất đối với các tập đoàn bán lẻ. Một trong những lý do thu hút các nhà bán lẻ đầu tư vào thị trường Việt Nam đó chính là dân số đông và trẻ của Việt Nam. Theo AT Kearney đánh giá: “Một nửa dân số của Việt Nam dưới 30 tuổi và họ rất thích mua sắm. Chi tiêu của người tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004 đến 2005”. Sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam được xếp đứng thứ 4 thế giới. Đó là tin mừng theo nhiều nghĩa, bởi vì kết quả này do nước ngoài đánh giá, chứ không phải là sự đánh giá theo kiểu “mẹ hát con khen” hay chạy theo chủ nghĩa thành tích. Sự đánh giá của nước ngoài có ý nghĩa thuyết phục đối với các nhà đầu tư thương mại, du lịch quốc tế. Căn cứ của sự đánh giá, xếp hạng này dựa trên nhiều tiêu chí. Dân số Việt Nam hiện đứng thứ 13 trên thế giới mục tiêu đến năm 2010 lên đến khoảng 88,4 triệu người- một quy mô mơ tưởng của nhiều nhà đầu tư mà không phải nước nào cũng có được[18]. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khá cao (theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng từ 2001-2005 đã đạt 1.738,8 nghìn tỷ đồng, bình quân tăng 16,9%/năm, đây là nhịp độ tăng trưởng đáng khích lệ, bởi con số này trong giai đoạn 1996-2000 chỉ là 12,71%/năm), nếu loại trừ yếu tố tăng giá (tương đương 5,1%/năm) thì nó vẫn còn tăng 11,8%- một tốc độ tăng cao[8]. Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cao do nhiều yếu tố: dân số tăng, mức tiêu dùng bình quân đầu người tăng, tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường tăng (từ 68,5% năm 2000 lên 82,1% năm 2005) và xu hướng tiêu dùng của người dân đã khác trước: tiêu dùng mạnh tay hơn, ít đắn đo hơn, có lựa chọn hơn và có sự thay đổi cả về thị trường (siêu thị, trung tâm thương mại dần dần thay thế cho chợ truyền thống).
Qua những thông tin trên chúng ta nhận thấy rằng thị trường bán lẻ tại Việt Nam khá hấp dẫn và đang là tầm ngắm của nhiều đại gia thương mại trong nước và nước ngoài khi cánh cửa cuối cùng trong lĩnh vực thương mại tại nước ta sẽ chính thức mở cửa vào ngày 01/01/2009, điển hình là tập đoàn bán lẻ hàng đầu tại Singapore Dairy Farm đã xin phép Bộ Kế hoạch & Đầu tư thành lập Cty TNHH Gaint South Asia với vốn đăng ký ban đầu là 5 triệu USD, công ty này sẽ thiết lập và điều hành một chuỗi siêu thị và cửa hàng tại TP.HCM, Lotte Mart (Hàn Quốc) cũng đã tiến vào Việt Nam thông qua hình thức liên doanh, tập đoàn Bourbon của Pháp đã được cấp giấy phép xây dựng siêu thị ở Hải Phòng, đối với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam cũng tăng cường mở rộng tối đa mạng lưới trong khả năng có thể, sau 8 điểm phân phối đã mở, hiện Metro Cash & Carry xin mở thêm 4 trung tâm nữa tại Hà Nội, TPHCM, Nha Trang và Đồng Nai. Hệ thống siêu thị Big C đang chuẩn bị xây dựng thêm 4 trung tâm mua sắm tại Hà Nội, Cần Thơ, TP.HCM và Đà Nẵng, nâng tổng số điểm của chuổi siêu thị này lên con số 10. Còn các DN bán lẻ nội địa có bước chuẩn bị như thế nào trước làn sóng hội nhập: Trong vòng bốn năm tới (2007-2010) tập đoàn Dệt May Vinatexmart sẽ đầu tư 32 siêu thị, 6 trung tâm thương mại và 2 trung tâm thời trang, đồng thời xây dựng các tổng kho phân phối khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Tây,… với tổng kinh phí đầu tư khoảng 1.500 tỷ đồng.
Trước sự “đổ bộ” của nhiều tập đoàn thương mại lớn nước ngoài, các DN cố gắng tìm một lối đi cho riêng mình, Saigon Co.op là một trong những doanh nghiệp có bước chuẩn bị như vậy. Trước mắt, Saigon Co.op vẫn tiếp tục tìm vị trí tốt để đầu tư xây dựng siêu thị ở khắp các tỉnh, thành. Liên hiệp HTX này đặt kế hoạch đến năm 2010 sẽ có khoảng 40 siêu thị ở TP.HCM và các tỉnh thành phía Nam và mục tiêu đến năm 2015 con số này là 100 siêu thị Co.opMart, với quy mô phát triển thêm 10 siêu thị/năm (đến cuối tháng 04/2008 con số này là 29, trong năm 2008 sẽ đưa vào hoạt động các siêu thị Co.opMart tại Buôn Ma Thuột, Bến Tre, Kiên Giang, Bình Phước, Nha Trang, Phan Rang, Bà Rịa, Huế, Đà Nẵng, Quận 12, Quận 8, Phú Nhuận, Tân Bình, Tân Phú). Với các doanh nghiệp trong nước, việc đầu tư mở một siêu thị không khó, khó nhất là tìm được một vị trí thuận lợi để kinh doanh. Theo bà Nguyễn Thị Nghĩa (chủ tịch HĐQT Saigon Co.op), thông thường để có được một siêu thị, nhà đầu tư phải mất ít nhất là ba năm kể từ lúc thỏa thuận địa điểm, lập dự án, giải tỏa đền bù (khâu khó khăn nhất) cho đến xây dựng xong. Và để thu hút khách hàng, chuổi siêu thị Co.opMart chấp nhận giảm lãi. Bà Nghĩa cho biết: “Chúng tôi đang cố gắng giảm chi phí đến mức thấp nhất để cạnh tranh. Mục tiêu là bán được số lượng lớn, Saigon Co.op ra mức lãi khoảng 13-14%, mức lãi này chỉ bằng một nửa so với mức lãi kinh doanh siêu thị ở các nước Châu Âu là từ 20-25%”. Hiện nay, hệ thống siêu thị Saigon Co.op cũng được đánh giá là có nhiều vị trí thuận lợi trong kinh doanh. Câu hỏi đặt ra là liệu về lâu dài, Saigon Co.op có chuyển nhượng mặt bằng của mình cho nhà đầu tư nước ngoài không? Bà Nghĩa cho biết, cũng giống như các nhà kinh doanh bán lẻ khác, hệ thống siêu thị Co.opMart đang được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý. Mới đây, hai tập đoàn bán lẻ lớn ở Châu Á cũng đã đánh tiếng đề nghị hợp tác cùng Saigon Co.op để đẩy mạnh kinh doanh qua việc mua cổ phần. Phương án này đến nay vẫn chưa được ban lãnh đạo Liên Hiệp HTX đồng ý. Toàn thể CBCNV Saigon Co.op luôn phấn đấu để hệ thống Co.opMart ngày càng phát triển và luôn giữ vững danh hiệu “nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam”, tiếp tục nằm trong Top 500 Nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á- Thái Bình Dương và quan trọng nhất là ngày càng khẳng định giá trị thương hiệu Saigon Co.op nói chung và Co.opMart nói riêng. Chủ đề hành động của Saigon Co.op: “Chuyên nghiệp, năng động tạo đột phá; Đoàn kết, hợp tác tạo thành công”[11].
HTX TMDV Toàn Tâm là một thành viên của Saigon Co.op luôn luôn cố gắng phấn đấu vì mục tiêu chung của Saigon Co.op. Nhu cầu người tiêu dùng ngày càng thay đổi, sức khỏe trở thành mối quan tâm hàng đầu hiện nay, đòi hỏi đơn vị kinh doanh các mặt hàng đảm bảo chất lượng và tiện ích đó là mục tiêu kinh doanh của HTX TM DV Toàn Tâm. HTX TMDV Toàn Tâm chọn loại hình kinh doanh thương mại dưới hình thức siêu thị mang thương hiệu Co.opMart được chuyển nhượng thương hiệu Co.opMart của Saigon Co.op nhằm đưa hàng hoá đảm bảo chất lượng đến tay người tiêu dùng, ngày càng có nhiều khách hàng đến tham quan và mua sắm tại đơn vị, mục tiêu phát triển của đơn vị là doanh thu tăng từ 20% đến 30% cho năm kế tiếp và lợi nhuận tăng 15% cho năm kế tiếp, như kế hoạch doanh thu bán hàng hóa của đơn vị năm 2008 là 396 tỷ đồng, HTX TMDV Toàn Tâm nói chung và Co.opMart Lý Thường Kiệt nói riêng phấn đấu trở thành đơn vị lá cờ đầu trong mọi hoạt động của Saigon Co.op, trở thành nơi mua sắm đáng tin cậy của đông đảo dân cư tại khu vực Quận 10 và các quận lân cận, ngày càng có nhiều cửa hàng và Co.opMart khác trực thuộc HTX TMDV Toàn Tâm được thành lập. Kế hoạch tăng trưởng của đơn vị là từ năm 2008 đến 2013 sẽ mở rộng, xây dựng thêm các cửa hàng tiện dụng trực thuộc đơn vị phục vụ 24/24 và Căn tin bán thức ăn nấu chín tại các Bệnh Viện trong khu vực Quận 5 và Quận 10 như: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Trưng Vương, và Ký túc xá Đại học Bách Khoa và về lâu dài sẽ thành lập các cửa hàng phục vụ 24/24 tại các khu dân cư hiện đại. Bên cạnh đó song song với việc mở rộng quy mô kinh doanh đơn vị không ngừng thực hiện các chương trình vì cộng đồng bằng các đợt bán hàng lưu động đến các Bệnh Viện, vùng sâu vùng xa, các trung tâm cai nghiện với giá bán ưu đãi, góp phần đưa thương hiệu Co.opMart ngày càng được nhiều người tiêu dùng biết đến[13]. Hiện nay, doanh số bán lẻ của hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại của nước ta chỉ chiếm khoảng 10%, mục tiêu đến năm 2010 là 30%-40% và định hướng đến năm 2020 doanh thu bán lẻ của hệ thống siêu thị chiếm 60% thị phần bán lẻ. Toàn thể CBCNV Saigon Co.op nói chung và Co.opMart Lý Thường Kiệt nói riêng sẽ nổ lực hết mình và phấn đấu vì mục tiêu chung này.
3.3 Xây dựng chiến lược tài chính cho HTX:
3.3.1 Giai đoạn 2008-2013:
¯ Lập dự phóng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Với mục tiêu doanh thu năm sau tăng so với năm trước khoảng 20%, lợi tức gộp về bán hàng hóa là 14% trên doanh thu, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp hàng năm chiếm khoảng 9% đến 12% trên doanh thu (hiện tại chi phí này theo kế hoạch của Saigon Co-op là từ 8%-9%) và doanh thu hoạt động tài chính hàng năm tăng khoảng 5%. Lãi suất vay ngân hàng là 20%/năm; về sau từ 2010 trở đi lãi suất có thể sẽ giảm do lạm phát đã được khống chế (theo dự báo của các tổ chức tài chính thế giới thì lạm phát của Việt Nam năm 2008 là khoảng 22%, năm 2009 khoảng 14%).
Bảng 3.3.1 mô tả kết quả hoạt động kinh doanh dự kiến của HTX TMDV Toàn Tâm trong giai đoạn 2008-2013 (đơn vị tính: triệu đồng).
CHỈ TIÊU
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Doanh thu hàng hóa
396,000
475,200
570,240
684,288
821,146
985,375
Giá vốn
340,560
408,672
490,406
588,488
706,185
847,422
Lãi tức gộp
55,440
66,528
79,834
95,800
114,960
137,952
Doanh thu tài chính
27,640
29,022
30,473
31,997
33,597
35,276
Lãi vay phải trả
2,951
2,361
1,770
1,180
590
-
Chi phí bán hàng
39,600
47,520
57,024
68,429
82,115
98,537
Chi phí quản lý DN
3,960
4,752
5,702
6,843
8,211
9,854
Lợi nhuận thuần
36,569
40,917
45,810
51,345
57,641
64,838
Thuế TNDN (28%)
10,239
11,457
12,827
14,377
16,139
18,155
Lợi nhuận sau thuế
26,330
29,460
32,983
36,968
41,501
46,683
¯ Lập dự phóng Bảng cân đối kế toán trong giai đoạn 2008-2013:
v Khoản phải thu = Doanh thu dự kiến/vòng quay khoản phải thu
v Hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán / vòng quay hàng tồn kho; vòng quay hàng tồn kho theo kế hoạch là 22 vòng /năm
v Nguyên giá TSCĐ hữu hình = Số dư năm trước + Ước tính đầu tư TSCĐ mới (ước tính mỗi năm sẽ đầu tư thêm 3 tỷ đồng)
v Khấu hao phát sinh = Số dư kỳ trước + Ước tính khấu hao (mỗi năm khấu hao tăng thêm 500 trđ từ năm 2008 -2010, và tăng thêm 1 tỷ đồng từ 2011-2013)
v Các khoản phải trả nhà cung cấp = Giá vốn hàng bán dự kiến / vòng quay các khoản phải trả NCC
v Các khoản đầu tư tài chính dài hạn sẽ không đổi từ 2008-2013 (số dư 06 tháng đầu năm 2008 là 13.050 triệu đồng)
v Nợ dài hạn = Nợ dài hạn năm trước – nợ đến hạn phải trả
v Vốn góp của xã viên biến động không đáng kể (do điều lệ xã viên quy định về việc chấm dứt tư cách xã viên và việc kết nạp xã viên mới và chênh lệch giữa hai khoảng này không đáng kể, nên để đơn giản chúng ta xem như vốn góp của xã viên không biến động)
v Lợi nhuận giữ lại là 50%, sỡ dĩ chúng ta chỉ chia lợi tức cho xã viên là 10% lợi nhuận sau thuế bởi vì trong giai đoạn này đơn vị cần nhiều vốn để mở rộng kinh doanh trong khi nguồn vốn huy động từ xã viên mới là không đáng kể và qua số liệu thực tế trong năm 2007 để tạo ra 1 đồng lợi nhuận chúng ta phải sử dụng 2 đồng vốn nên tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trong giai đoạn này tương đối cao. Đồng thời đơn vị không nên giữ lại 100% bởi vì toàn thể xã viên của đơn vị là nhân viên của Saigon Coop nên họ rất mong đợi để nhận được lợi tức (có thể xem đây là một phần để tăng thu nhập cho họ- theo như kế hoạch của Ban Tổng Giám Đốc Saigon Coop).
v Các quỹ khác bao gồm: quỹ đầu tư phát triển kinh doanh (10% lợi nhuận sau thuế), quỹ dự phòng và quỹ đào tạo .
Bảng 3.3.2 Bảng cân đối kế toán dự phóng của HTX TMDV Toàn Tâm (2008-2013)- Đơn vị tính: triệu đồng
TÀI SẢN
2008
2009
2010
2011
2012
2013
A.TÀI SẢN NGẮN HẠN
63,110
81,792
104,070
131,039
162,913
200,541
1.Tiền
734
12,735
27,496
46,445
69,095
96,052
2. Các khoản phải thu
5,425
6,510
7,812
9,374
11,249
13,498
3. Hàng tồn kho
15,480
18,576
22,291
26,749
32,099
38,519
B.TÀI SẢN DÀI HẠN
41,471
43,971
46,471
48,471
50,471
52,471
1. Tài sản cố định
28,421
30,921
33,421
35,421
37,421
39,421
- Nguyên giá
35,421
38,421
41,421
44,421
47,421
50,421
- Giá trị hao mòn lũy kế
7,000
7,500
8,000
9,000
10,000
11,000
2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
13,050
13,050
13,050
13,050
13,050
13,050
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
104,581
125,763
150,541
179,510
213,384
253,012
A. NỢ PHẢI TRẢ
58,641
64,467
72,049
81,737
93,954
109,204
1. Nợ ngắn hạn
43,887
52,664
63,197
75,836
91,003
109,204
2. Nợ dài hạn
14,754
11,803
8,852
5,901
2,951
-
B.NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU
45,940
61,296
78,492
97,773
119,430
143,808
1. Vốn góp của xã viên
27,509
40,674
55,404
71,896
90,380
111,130
2. Lợi nhuận giữ lại (50%)
13,165
14,730
16,492
18,484
20,751
23,342
3. Các quỹ khác (20% lợi nhuận sau thuế)
5,266
5,892
6,597
7,394
8,300
9,337
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
104,581
125,763
150,541
179,510
213,384
253,012
Lợi nhuận sau thuế
26,330
29,460
32,983
36,968
41,501
46,683
Chỉ số tín nhiệm Z
3.60
3.76
3.91
4.05
4.18
4.30
Bảng 3.3.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự kiến của HTX TMDV Toàn Tâm trong giai đoạn 2008-2013- đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
2011
2012
2013
1. Dòng tiền hoạt động kinh doanh
- Thu tiền bán hàng, cung cấp dịch vụ
418,215
497,712
592,902
706,911
843,494
1,007,153
- Chi tiền mua hàng và nộp thuế
(371,451)
(445,016)
(518,046)
(603,941)
(706,583)
(832,388)
- Chi trả chi phí hoạt động
(43,560)
(52,272)
(62,726)
(75,272)
(90,326)
(108,391)
- Chi trả lãi vay
(2,951)
(2,361)
(1,770)
(1,180)
(590)
-
Tổng dòng tiền hoạt động kinh doanh
254
(1,936)
10,359
26,518
45,994
66,374
2. Dòng tiền đầu tư
- Chi tiền mua TSCĐ
(3,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
- Chi tiền góp vốn vào đơn vị khác
(12,000)
-
-
-
-
-
Tổng dòng tiền đầu tư
(15,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
(3,000)
3. Dòng tiền tài trợ
- Chi trả nợ vay dài hạn
(2,951)
(2,951)
(2,951)
(2,951)
(2,950)
-
- Tăng nợ dài hạn
- Thay đổi trong vốn cổ phần
18,431
20,622
23,088
25,878
29,051
32,678
Tổng dòng tiền tài trợ
15,480
17,671
20,137
22,927
26,101
32,678
Dòng tiền ròng cuối kỳ
734
12,735
27,496
46,444
69,095
96,052
Qua bảng 3.3.2 dự phóng bảng cân đối kế toán và bảng 3.3.3 báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự kiến của HTX TMDV Toàn Tâm trong giai đoạn 2008-2013 chúng ta nhận thấy rằng trong giai đoạn này đơn vị cần nhiều vốn để đầu tư mở rộng kinh doanh, tuy nhiên nguồn vốn huy động nội bộ không nhiều, vốn vay trong giai đoạn này tương đối khó khăn vì thế đơn vị nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Bên cạnh đó dòng tiền vào của đơn vị ngày càng tăng. Đồng thời qua bảng dự phóng cân đối kế toán của đơn vị trong giai đoạn 2008-2013 thì xác suất để đơn vị phá sản là rất thấp (chỉ số tín nhiệm Z ngày càng gia tăng), đây là yếu tố quan trọng để xã viên an tâm đầu tư vốn của mình vào hoạt động đầu tư kinh doanh của đơn vị.
Với mục tiêu phát triển của đơn vị là doanh thu hàng năm tăng từ 20% đến 30% và lợi nhuận dự kiến thu được như ở bảng 3.3.1 trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay khi DN bán lẻ nước ngoài gia nhập vào thị trường bán lẻ nước ta thì đơn vị phải làm thế nào để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến mua sắm tại siêu thị, làm thế nào để sự thoả mãn của khách hàng tốt hơn trong khi sự thoả mãn này không có biên giới, bên cạnh đó công tác quản lý ngày càng có hiệu quả từ đó gia tăng lợi nhuận.
Ngày nay khi mức sống của người dân được cải thiện thì vấn đề sức khoẻ càng được chú trọng đặc biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm khá quan trọng khi hiện tượng hàng giả, hàng kém chất lượng đang tràn lan khắp thị trường thì việc kinh doanh những mặt hàng có nguồn gốc rõ ràng, có giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm tại hệ thống Co.opMart đang được các bà nội trợ đánh giá cao. Nắm bắt được cơ hội này siêu thị chỉ kinh doanh những mặt hàng của nhà cung cấp đạt chứng chỉ ISO 9000 và tối thiểu là hàng Việt Nam chất lượng cao do người tiêu dùng bình chọn, đối với hàng thực phẩm tươi sống đơn vị kinh doanh các mặt hàng của nhà cung cấp có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng hóa phải qua kiểm dịch như nguồn hàng của các nhà cung cấp: Vissan, Nam Phong, CP, Long Bình, Ba Huân, Vĩnh Thành Đạt, nguồn rau sạch từ các HTX và tổ hợp tác như Rau Ấp Đình, Rau Tân Phú Trung, HTX Anh Đào, Kim Xuân Quang và siêu thị sẽ đảm bảo đủ lượng hàng để phục vụ cho người tiêu dùng, bên cạnh đó thì những sản phẩm tiện lợi như thức ăn chế biến sẵn và thức ăn nấu chín ngày càng thu hút nhiều khách hàng hơn. Vì thế, siêu thị đang mở rộng phát triển ngành hàng thực phẩm tươi sống- chế biến và nấu chín, trong năm 2008-2009 đơn vị sẽ mở cửa hàng bán thức ăn nấu chín tại Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện Đại học Y Dược và Ký túc xá Trường Đại học Bách Khoa, tổng kinh phí đầu tư của 3 dự án này khoảng 10 tỷ đồng, doanh thu khoảng 4 tỷ đồng/tháng (48 tỷ đồng/năm) và lợi nhuận dự kiến của 3 dự án này sẽ đem về cho đơn vị khoảng 700 trđ/năm, trong năm 2010-2013 sẽ mở thêm khoảng 5 cửa hàng phục vụ 24/24 với chi phí đầu tư khoảng 1 tỷ đồng/cửa hàng dự kiến doanh thu mà 5 cửa hàng này mang lại khoảng 18 đến 20 tỷ đồng/năm.
Như vậy, trong giai đoạn 2008-2013, ngoài nhu cầu vốn để kinh doanh tại Co.opMart Lý Thường Kiệt, đơn vị cần 15 tỷ đồng để đầu tư mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh tại khu vực lân cận. Để huy động được lượng vốn này để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tốt nhất là huy động từ xã viên và lấy từ lợi nhuận giữ lại. Sở dĩ chúng ta không huy động vốn từ ngân hàng bởi vì:
v Trong năm 2006 Saigon Co.op đã đứng ra bảo lãnh cho đơn vị vay tại VCB Bình Tây nên từ năm 2008-2012 doanh nghiệp phải trả tiền lãi vay và vốn gốc (số tiền này khoảng 4 tỉ/năm), hơn nữa trong điều kiện tín dụng hiện nay khá khó khăn cho doanh nghiệp bởi vì vừa qua Nhà Nước đã can thiệp vào hạn mức tín dụng của Ngân hàng là cho vay không quá 30% số dư nợ và doanh nghiệp mới đi vào hoạt động chưa tròn 2 năm nên không có nhiều tài sản để thế chấp, uy tín chưa cao, đặc biệt trong môi trường kinh doanh của lĩnh vực bán lẻ đang khá phức tạp khi doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam thì cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước ít nhiều sẽ bị thu hẹp lại nên phía Ngân hàng sẽ khó chấp nhận cho đơn vị vay.
v Chúng ta biết rằng hiện tại trong năm 2007 tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn góp xã viên cũng tương đối cao (1 đồng vốn góp xã viên sẽ bảo đảm cho 0,9đ vốn vay dài hạn) và tỷ lệ tổng nợ trên tổng nguồn vốn là 1,68:1, nếu giả định rằng phía Ngân hàng sẽ chấp nhận hợp đồng tín dụng của đơn vị thì họ sẽ yêu cầu một tỷ lệ lãi suất cao tương đối cao thì doanh nghiệp có trang trải được khoảng chi phí dôi thêm này và khi đó xã viên cũng sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao hơn do rủi ro của họ cũng gia tăng và do trong giai đoạn hiện nay khi lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng khá hấp dẫn. Ngoài ra, khi doanh nghiệp vay thêm nợ sẽ làm phát sinh thêm chi phí kiệt quệ tài chính.
Do rủi ro kinh doanh trong giai đoạn này tương đối cao, vì thế để an toàn đơn vị nên tìm biện pháp làm cho rủi ro tài chính giảm đi, biện pháp đó là gia tăng vốn góp xã viên để đầu tư, không nên gia tăng nợ. Tuy nhiên, đơn vị đang có một lợi thế là trong năm 2008-2009 sẽ thu hút thêm khoảng 600 xã viên mới và năm 2007 doanh nghiệp đã giữ lại khoảng 4 tỷ đồng lợi nhuận để gia tăng vốn góp của xã viên. Bên cạnh đó cuối năm 2007 Saigon Co.op đã hỗ trợ cho đơn vị một số vốn là 3,5 tỷ đồng để tăng vốn góp cho toàn bộ xã viên của Toàn Tâm. Bên cạnh đó tỷ lệ chi trả lợi tức cho xã viên tương đối cao trong khi nhu cầu vốn kinh doanh rất cao, đây là vấn đề mà Ban Quản Trị cần xem xét lại.
¯ Chính sách chi trả lợi tức cho xã viên trong giai đoạn này như sau:
Bởi vì doanh nghiệp đang cần vốn để đầu tư mở rộng kinh doanh nhất là trong giai đoạn này chúng ta phải tìm cách gia tăng thị phần, do đó chính sách lợi tức trong giai đoạn này là chi trả lợi tức bằng tiền là 10% lợi nhuận sau thuế và bổ sung vốn góp 50% lợi nhuận sau thuế. Trong giai đoạn này tỷ lệ lợi nhuận giữ lại càng nhiều càng tốt vì các lý do sau:
v Do đơn vị đang có nhiều dự án mở rộng kinh doanh, thị trường đầy tiềm năng nên cần nhiều vốn để đầu tư trong điều kiện vay ngân hàng tương đối khó khăn và phải trải qua nhiều thủ tục, khả năng huy động vốn từ xã viên mới không nhiều.
v Tỷ lệ lạm phát (tiền tệ mất giá theo thời gian) nên vốn phát sinh từ khấu hao TSCĐ không đủ để mua sắm trang thiết bị mới, đồng thời giá cả ngày càng leo thang nên cũng tác động đến vốn luân chuyển của đơn vị bởi vì đăc thù của đơn vị là mua bán hàng hoá nên nhu cầu vốn luân chuyển khá lớn. Vì thế trong môi trường lạm phát như hiện nay thì doanh nghiệp nên giữ lại lợi nhuận nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
ð Tóm lại, với xu thế phát triển mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình trong giai đoạn 2008-2013 doanh nghiệp cần huy động vốn từ xã viên và nguồn lợi nhuận giữ lại bởi vì trong giai đoạn này rủi ro kinh doanh tương đối cao do có đối thủ cạnh tranh khá mạnh, bên cạnh đó việc vay ngân hàng rất khó khăn và rủi ro cao. Tuy nhiên, do điều lệ của xã viên không cho phép xã viên góp vốn tối đa vì thế đây cũng là một hạn chế lớn để huy động vốn, Ban Quản Trị HTX nên xem xét lại mức vốn góp của xã viên, tạo điều kiện cho đơn vị kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn.
3.3.2 Giai đoạn 2014-2020:
Nếu trong giai đoạn 2008-2013 đơn vị phát triển mạng lưới kinh doanh của mình theo chiều rộng thì trong giai đoạn này đơn vị sẽ mở rộng theo chiều sâu và đẩy mạnh hình thức bán sĩ và trả chậm để đáp ứng nhu cầu mua sắm của các công ty, xí nghiệp, trường học,... Vì thế trong giai đoạn này doanh nghiệp sẽ cần nhiều vốn luân chuyển hơn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần vốn để trang bị, mua sắm các trang thiết bị mới. Đồng thời như đã đề cập trước đây toàn bộ mặt bằng kinh doanh của đơn vị đều thuê của người khác, do đó về lâu dài doanh nghiệp phải tìm cho mình một mặt bằng khác để kinh doanh khi hợp đồng thuê hết hạn (trong điều kiện bên đối tác không cho đơn vị tiếp tục thuê mặt bằng). Vì thế chiến lược tài chính trong giai đoạn này như sau:
¯ Chính sách đầu tư:
Trong giai đoạn này đơn vị sẽ đầu tư mở rộng theo chiều sâu hoạt động mua bán hàng hóa như đẩy mạnh việc bán sĩ, bán trả chậm, kinh doanh các mặt hàng đa dạng, phong phú hơn đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhiều tầng lớp dân cư (hiện tại chính sách kinh doanh của đơn vị là nhắm đến người tiêu dùng có mức sống từ khá đến bình dân), thực hiện chương trình bán hàng qua mạng, thực hiện các chương trình chăm sóc khách hàng ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó ngoài hoạt động chính của đơn vị là mua bán, ký gửi hàng hóa đơn vị sẽ mở rộng thêm loại hình hoạt động kinh doanh của mình như tham gia đầu tư vào thị trường tài chính, đầu tư vào các HTX thành viên ,…để đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư.
¯ Nguồn tài trợ:
v Đơn vị tiếp tục huy động vốn từ xã viên vì đây là chủ trương của Saigon Co.op. Tuy nhiên nguồn vốn này sẽ không nhiều lắm do điều lệ xã viên quy định khi xã viên nghỉ việc thì phải rút vốn góp và số lượng xã viên mới hàng năm tăng lên cũng không đáng kể.
v Sau hơn 5 năm hoạt động, nếu HTX thực hiện được kế hoạch đề ra thì sẽ tạo được uy tín đối với ngân hàng và khách hàng nên việc vay ngân hàng và mua chịu trong giai đoạn này sẽ thuận lợi. Vì thế, đơn vị sẽ tiến hành vay ngân hàng để đáp ứng các nhu cầu về đầu tư mua sắm trang thiết bị. Trong giai đoạn này đơn vị có khả năng vay huy động nguồn tài trợ từ nợ vay ngân hàng để tận dụng lợi thế của đòn bẩy tài chính là lợi ích của tấm chắn thuế, do rủi ro tài chính trong giai đoạn này không còn cao như trong giai đoạn 2008-2013 và khoảng nợ vay ngân hàng trong năm 2007 đơn vị đã trả hết vốn gốc và lãi vay, đây là điều kiện khá thuận lợi để ngân hàng tiếp tục cho đơn vị vay vốn.
¯ Chính sách chi trả lợi tức cho xã viên trong giai đoạn này như sau:
Đơn vị vẫn tiếp tục chi trả lợi tức cho xã viên bằng tiền mặt khoảng 20%-30% lợi nhuận sau thuế sau khi trích lập các quỹ và phần còn lại sẽ tăng vốn góp. Sở dĩ đơn vị không chi trả lợi tức cao bởi vì các lý do sau:
v Đơn vị cần vốn luân chuyển nhiều hơn do mở rộng mạng lưới bán sĩ và bán trả chậm.
v Đơn vị cần tìm một mặt bằng thích hợp để kinh doanh khi hợp đồng thuê mặt bằng hết thời hạn. Vì thế đơn vị phải tích luỹ vốn, đầu tư vào bất động sản bởi vì tìm được mặt bằng tốt cho kinh doanh là rất khó khăn.
v Ngoài hoạt động chính của đơn vị là mua bán, ký gửi hàng hóa, thì đơn vị sẽ đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư của mình như tham gia đầu tư vào thị trường tài chính, thị trường bất động sản. Tuy nhiên, khi tham gia vào lĩnh vực này đơn vị phải có nguồn tài chính mạnh mẽ.
ð Tóm lại, với mục tiêu mở rộng kinh doanh theo chiều sâu và đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình trong giai đoạn 2014-2020 đơn vị sẽ huy động thêm nguồn vốn vay từ các trung gian tài chính, bên cạnh đó vẫn khuyến khích sự gia nhập của xã viên mới để tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Vì thế trong giai đoạn này chính sách chi trả lợi tức cho xã viên sẽ nhiều hơn chút ít so với giai đoạn trước.
3.4 Điều kiện thực hiện:
Để thực hiện được các chiến lược tài chính nêu trên cần phải:
v Ban Quản Trị HTX phải vạch ra đường lối kinh doanh thoả đáng để thu hút được các nhà đầu tư là các xã viên và các trung gian tài chính tham gia vào các dự án mới này. Và khi đã lựa chọn hướng đi, mô hình kinh doanh phù hợp thì phải kiên định với mục tiêu đã đề ra. Xác định chiến lược kinh doanh đúng đắn theo định hướng ban đầu, tập trung chủ lực vào hoạt động thế mạnh, tránh tình trạng dàn trải phân tán lực lượng trên nhiều lĩnh vực. Về vốn góp xã viên Ban Quản Trị nên mở rộng đối tượng gia nhập xã viên: thứ nhất không chỉ nhân viên ký hợp đồng chính thức tại Saigon Co.op mà nên mở rộng nhiều hơn cho đối tượng nhân viên bán ký hợp đồng bán thời gian (hiện nay số lượng lao động này khá đông); thứ hai, theo điều lệ HTX quy định CBCNV nghĩ việc phải rút vốn xã viên, trong trường hợp này Ban Quản Trị xem xét có thể cho họ tiếp tục góp vốn nhưng với mức lãi suất thấp hơn, thứ ba, nên mở rộng mức vốn góp tối đa cho xã viên.
v Nhà nước nên xây dựng một hệ thống ngân hàng dành riêng cho khu vực HTX để huy động vốn cho HTX, trước hết sẽ triển khai tốt quỹ hỗ trợ phát triển HTX theo quyết định của Chính phủ. Theo kinh nghiệm của nước ngoài, một số nước có hệ thống ngân hàng dành cho HTX rất mạnh như ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó Nhà nước cần giúp đỡ HTX thương mại trên các lĩnh vực như đào tạo, bồi dưỡng tri thức kinh doanh trong điều kiện mới.
v Về chính sách chi trả lợi tức cho xã viên: Ban Quản Trị nên điều chỉnh lại tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tăng vốn chủ sở hữu, bởi vì điều lệ HTX quy định mức lợi tức tối thiểu hàng năm là 30% trên vốn góp trong khi đơn vị đang cần rất nhiều vốn để kinh doanh, nếu cần thiết Ban Quan Trị nên giữ lại toàn bộ lợi nhuận để gia tăng vốn góp xã viên. Ban Quản Trị nên xem xét lại các điều khoản về vốn góp cũng như chính sách chi trả lợi tức cho phù hợp với tình hình tài chính hiện tại của HTX bởi vì trong giai đoạn hiện nay nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh đang là bài toán nan giải, trong khi đó điều lệ xã viên lại giới hạn việc góp vốn của xã viên đồng thời chính sách chi trả lợi tức khá hấp dẫn, điều này làm cho khả năng huy động vốn từ nội bộ rất hạn chế.
v Doanh thu tài chính là một phần đáng kể góp phần hình thành lợi nhuận cuối cùng của đơn vị, vì thế đơn vị tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hộ kinh doanh tại siêu thị, tận dùng triệt để mặt bằng để cho thuê nhằm góp phần gia tăng doanh thu tài chính.
v Khách hàng luôn là trọng tâm trong mọi hoạt động, là cốt lõi cho mọi sự thay đổi, cải tiến. Các hoạt động đều hướng tới tối đa hóa lợi ích của khách hàng, vì khách hàng phục vụ. Thu hút, gìn giữ tình cảm của khách hàng là yếu tố sống còn đối với một chủ thể hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
v Hoạt động mua hàng hóa không ngừng được cải tiến, nâng cao nghiệp vụ, đảm bảo tốt hơn việc chọn lọc, xét duyệt chủng loại hàng hóa, tổ chức thu mua tận gốc và tiếp nhận hàng hóa từ các tỉnh một cách linh hoạt để cung ứng kịp thời cho đơn vị.
v Đơn vị phải luôn đặt mình trong suy nghĩ “không bằng lòng với thực tại”, tích cực năng động sáng tạo và đổi mới trong tư duy, đổi mới nhân lực, áp dụng công nghệ tiên tiến, điện toán hóa trong công tác quản lý, không ngừng cải tiến trang thiết bị… nhằm theo kịp sự phát triển của thời đại. Chúng ta phải học tập các bí quyết thành công của các đại gia bán lẻ như tập đoàn Dairy Farm của Singapore mục tiêu của họ là: “ Hướng đến việc làm cho khách hàng hài lòng và làm họ vừa ý với những ý tưởng bán lẻ mới mẻ”, hay Coles Myer- tập đoàn bán lẻ của Úc với phương châm là “làm vui lòng khách hàng bằng giá trị và sự tiện nghi lớn lao”, tập đoàn Tesco Lotus của Thái Lan cho rằng “bán lẻ nghĩa là lắng nghe khách hàng và hiểu vì sao họ chọn chỗ của mình để đến mua sắm, không phải lúc nào cũng vì giá cả”…
v Có sự định hướng đúng đắn, phối hợp đồng bộ của Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo kịp thời của Liên Minh HTX Việt Nam, Saigon Co.op, sự lãnh đạo, tạo điều kiện của Chính quyền các cấp là nhân tố quan trọng hàng đầu xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của đơn vị. Cam kết WTO chắn chắn phải thực hiện nhưng trong cam kết Chính phủ có thể điều chỉnh chính sách có lợi cho doanh nghiệp trong nước. Điển hình, chúng ta có thể xem xét kinh nghiệm của các nước như Ấn Độ chỉ cho Metro mở hai địa điểm.
v Mặt bằng kinh doanh siêu thị là vấn đề khó khăn đối với việc thành lập và mở rộng siêu thị. Nhà nước cần dành một quỹ đất nhất định để phát triển hệ thống siêu thị. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị tìm kiếm mặt bằng kinh doanh như liên kết với các công ty nhà nước đang quản lý diện tích lớn mặt bằng để cho thuê kinh doanh siêu thị hay chuyển hóa dần một số chợ thành siêu thị,…
v Chú trọng phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quyết định. Chính sách phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp là các chính sách nhằm thu hút, lôi cuốn những người giỏi về với doanh nghiệp; động viên thúc đẩy nhân viên, tạo điều kiện cho họ bộc lộ và cống hiến tài năng cho doanh nghiệp. Chính sách phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố góp phần đánh giá giá trị của doanh nghiệp. Chăm lo đời sống cho xã viên, xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, cùng phấn đấu vì mục đích chung. Phát huy tinh thần tự hào, đoàn kết, hợp tác của phong trào HTX, trung thành với tư tưởng của phong trào HTX, quyết tâm xây đơn vị trở thành tổ chức HTX vững mạnh và góp phần giữ vững danh hiệu nhà bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam.
¯ Kết luận:
Hội nhập và cạnh tranh là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp đều quan tâm. Nhưng đối với doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam thì vấn đề đó càng phải quan tâm hơn vì thực tế lĩnh vực bán lẻ Việt Nam còn quá non trẻ. Trong khi đó, thị trường bán lẻ Việt Nam đang ngày càng trở nên sôi động. Thu nhập bình quân đầu người không ngừng nâng cao cộng với quy mô và đặc điểm dân số trẻ đã khiến Việt Nam có sức hấp dẫn lớn với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Đứng trước xu hướng bán lẻ ngày càng sôi động đó, HTX TMDV Toàn Tâm phải nỗ lực hết mình, phải tăng tốc đầu tư mở rộng kinh doanh, phải thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với đơn vị mình, muốn làm được đều này thì trong mối quan hệ giữa đơn vị với người tiêu dùng, đơn vị phải làm tốt được mục tiêu của mình là phân phối hàng hóa đầy đủ, giá hợp lý, chất lượng cao, thái độ phục vụ tốt, đơn vị có trách nhiệm với người tiêu dùng thì chúng ta mới kêu gọi được sự ủng hộ của người tiêu dùng. Muốn làm được điều này buộc đơn vị phải có nguồn tài chính dồi dào, trong khi điều kiện huy động vốn của đơn vị quá khó khăn và rủi ro vì thế buộc doanh nghiệp phải huy động từ nội bộ của đơn vị mình mà trước hết là phần lợi nhuận giữ lại, do đó Ban Quản Trị HTX phải đưa ra chiến lược kinh doanh hợp lý để thuyết phục xã viên, nhằm đưa đơn vị ngày càng lớn mạnh và góp phần giữ vững danh hiệu bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu và phân tích mô hình kinh tế tập thể tại TP.HCM mà điển hình là HTX TM DV Toàn Tâm, đại diện một đơn vị bán lẻ trong ngành bán lẻ tại TP.HCM dưới mô hình siêu thị mang thương hiệu Co.opMart chúng ta nhận thấy rằng: mô hình HTX ngày càng được củng cố và phát triển, bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều hạn chế; thị trường bán lẻ tại Việt Nam đang là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước phải tìm mọi biện pháp mở rộng thị phần của mình trước khi các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài sẽ chính thức đổ bộ vào Việt Nam từ ngày 01/01/2009, tuy nhiên làn sóng cạnh tranh này ngày càng khốc liệt hơn vì thế các doanh nghiệp trong nước phải xây dựng cho mình một hướng đi thích hợp trong giai đoạn mới này. Bởi vì các doanh nghiệp trong nước mà điển hình là mô hình HTX còn nhiều yếu kém mà trước hết là nguồn vốn còn quá hạn chế (khả năng huy động vốn kém, khả năng tích lũy nội bộ yếu, luật không cho phép HTX huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu hay cổ phiếu), vì thế để đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt và không ngang sức này thì các doanh nghiệp trong nước liên kết lại với nhau, phải xây dựng cho mình một chiến lược tài chính thích hợp cho từng giai đoạn phát triển. Và không có một chiến lược tài chính chung thích hợp cho các doanh nghiệp mà phải tùy loại hình doanh nghiệp, đặc thù kinh doanh của họ cũng như trong từng chu kỳ sống của doanh nghiệp mà giám đốc tài chính sẽ lựa chọn được một chiến lược tài chính thích hợp để làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp hay gia tăng thu nhập của cổ đông, góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước.
Qua quá trình làm việc tại Saigon Co.op và HTX TM DV Toàn Tâm, dựa trên kiến thức nền tảng và sự ham học hỏi, tìm hiểu của mình về “xây dựng chiến lược tài chính của doanh nghiệp” em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “ xây dựng chiến lược tài chính cho đơn vị trong giai đoạn hội nhập”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noidung.doc