Như vậy chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường . Cơ chế thị trường như một bộ máy điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường . Mà thiếu nó nền kinh tế thị trường không thể phát huy được tác dụng của mình. Không có nền kinh tế thị trường ta khó có thể thực hiện được con đường đã chọn đi lên xã hội củ nghĩa. Nhưng việc xây dựng cơ chế thị trường là chưa đủ mà nó phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có sự quản lý của nhà nước thì cơ chế thị trường với những khuyết tật của nó có thể làm cho kinh tế thị trường sẽ đi lệch hướng không còn là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên nghĩa của nó nữa. Nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội, đó là một quá trình, mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, nhà nước ta phải tạo tiền đề, điều kiện cho những yếu tố của kinh tế thị trường phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Thì một ngày nào đó chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu của mình.
Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước dã và đang ngày càng hoàn thiện hơn cơ chế thị trường nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Điều đó đã được chứng minh qua thực tiễn: kinh tế ngày một phát triển, thì trường này một đa dạng và phong phú; các quốc gia khác cũng đã thừa nhận nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa; gần đây nhất, nước ta đã gia nhập WTO nhưng trước mất vẫn còn nhiều cơ hội và thách thức đặt ra.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu về kinh tế thị trường là một nội dung hết sức quan trọng. Bởi vì, nước ta thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một quá trình rút ngắn của lịch sử, là một tất yếu khách quan. Nên để có thể xây dưng thành công chủ nghĩa xã hội thì một trong những điều cần làm là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng để đi tới mục tiêu một cách có hiệu quả và thuận lợi mà vẫn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại.
Vì thế,nghiên cứu về kinh tế thị trường là một đề tài luôn mới,và cần thiết đối với chúng ta.Không ai có thể khẳng định được nền kinh tế thị trường sẽ tồn tại bao lâu ở nước ta.Nhưng chắc chắn sẽ phải một thời gian dài nữa.Việc nghiên cứu kinh tế thị trường sẽ giúp chúng ta thực hiện ngày một hoàn thiện hơn nữa nền kinh tế để giúp nước ta có điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội thành công.Ngoài ra nghiên cứu kinh tế thị trường phải dựa trên lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác-Lênin để từ đó có cách vận dụng sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Nhận thức rõ được điều này,bước vào quá trình đổi mới Đảng ta đã dần hoàn thiện hơn lí luận về kinh tế thị trường.Tại đại hội Đảng X đã chỉ rõ “…thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa;đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đề tài “Xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” là một trong những mảng đề tài quan trọng của việc nghiên cứu về kinh tế thị trường.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
LÍ LUẬN CƠ BẢN
1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Khái niệm về cơ chế thị trường
Như đã biết, mỗi một hình thái có cơ chế hoạt động tương ứng. Nên hình thái kinh tế hàng hóa cũng có cơ chế hoạt động của riêng mình, đó là cơ chế thị trường.Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hóa cho hiệu quả kinh tế cao.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường (quy luật giá trị, giá cả, cung cầu, cạnh tranh…). Nó được coi như là một “bộ máy” điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Do vậy, cơ chế thị trường phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường.Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có thị trường và do đó có cơ chế thị trường hoạt động.
Cơ chế thị trường là cơ chế thông qua thị trường, sự biến động của quan hệ
C-C và giá cả thị trường để xác định
Về mặt giá trị sử dụng: sản xuất cái gì sản xuất như thế nào,sản xuất cho ai. Điều này giúp các doanh nghiệp lựa chọn được cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư cho mình.Từ đó thực hiện đước các mục tiêu của kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường. Điều này cũng đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
Còn về mặt giá trị: phải tính hao phí bao nhiêu lao động (gồm lao động sống và lao động quá khứ), làm thế nào cho giá trị sản phẩm phù hợp hoặc thấp hơn với giá cả thị trường. Để từ đó có khả năng đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng và kiếm lời cho các doanh nghiệp. Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự giác hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường.
Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định thông qua sự hoạt động của các qy luật thị trường.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hóa.
Động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở lợi nhuận
Tự do lựa chọn việc sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng từ phía các nhà sản xuất, các nhà thương mại và người tiêu dùng thông qua các mối quan hệ kinh tế đều tuân theo các quy luật thị trường.
Cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh doanh và nâng cao năng suất, hiệu quả.
Khác với cơ chế khác, cơ chế thị trường với những đặc trưng cơ bản của nó đã cho ta thấy đó là một cơ chế thông thoáng, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh buôn bán, làm thỏa mãn được cả những người sản xuất và những người tiêu dùng. Nếu như biết điều chỉnh cơ chế này thì nó sẽ là một cơ chế tốt nhất để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, thị trường ổn định đồng bộ và phát triển kinh tế mạnh mẽ. Kinh tế phát triển là nền tảng để đưa đất nước tiến lên, thực hiện các mục tiêu đặt ra.
1.3. Giá cả thị trường – tín hiệu của cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật vốn có cho nó hoạt động: quy luật giá trị , quy luật cung – cầu, quy luật lưu thông tiền tệ …và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó biểu hiện sự tác động của mình thông qua những mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi – thị trường, thông qua sự vận động của giá cả. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu) tức là quy luật đó điều tiết nền sản xuất xã hội.Những thông tin về giá cả thị trường cũng sẽ giúp những người sản xuất kinh doanh điều chỉnh sản xuất và quy mô sản xuất, cơ cấu sản xuất sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu của xã họi để đạt được lợi nhuận cao nhất
Việc chuyển sang cơ chế một giá cả - giá cả thị trường đối với tất cả các loại hàng hóa, trừ một số rất ít háng hóa do nhà nước định giá là bước chuyển có ý nghĩa từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta .
Sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên giá trị thị trường. Vì giá cả thị trường là kết quả san bằng các giá trị cá biệt của hàng hóa trong cùng một nghành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh nội bộ nghành dẫn tới sự hình thành một giá trị xã hội trung bình. Theo Mác: “một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của các hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực hàng hóa. Mặt khác phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện trung bình của một khu vực và chiếm phần lớn các sản phẩm của khu vực này” . Tùy vào trình độ sán xuất giá trị thị trường được hình thành trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: đại bộ phận hàng hóa được sản xuất trong điều kiện trung bình còn lại một nửa bộ phận được sản xuất trong điều kiện tốt , còn một nửa sản xuất trong điều kiện kém. Đây là trường hợp phổ biến nhất . Trong trường hợp trên giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị cá biệt của hàng hóa được sản xuất trong điều kiện trung bình quy định . Nếu hàng hóa bán đúng giá thị trường thì chí có điều kiện sản xuất tốt mới thu lợi nhuận siêu ngạch.
Trường hợp thứ hai: đại bộ phận hàng hóa được sản xuất trong điều kiện kém, còn lại được sản xuất trong điều kiện tốt và trung bình. Trong trường hợp này giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa được ra trong điều kiện kém quyết định. Nếu hàng hóa bán đùng giá thị trường thì chỉ có các xí nghiệp có điều kiện sản xuất tốt và trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Trường hợp thứ ba: đại bộ phận hàng hóa được sản xuất trong điều kiện tốt, còn lại được sản xuất trong điều kiện trung bình và kém. Trong trường hợp này giá trị thị trường do đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định. Nếu hàng hóa bán đúng giá trị thị trường thì chỉ có các xí nghiệp có điều kiện sản xuất tốt mới thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Ngoài ra, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào: giá trị của tiền, quan hệ cung – cầu, cạnh tranh.
Giá trị của tiền: giá cả thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền. Nên khi giá trị thị trường của hàng hóa không đổi thì giá cả hàng hóa có thể biến động do giá trị của tiền tăng lên hay giảm xuống. Sự chênh lệch đó là hiện tượng tự nhiên. Nếu giá cả hàng hóa luôn ngang bằng giá trị thị trường của hàng hóa thì nó sẽ phủ định quy luật giá trị. Bởi vì giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Vì vậy chỉ có thông qua sự lên xuống của giá cá thị trường ta mới biết được sự tồn tại, tác động của quy luật giá trị.
Quan hệ cung – cầu: sự tác động qua lại cung – cầu hình thành giá cả thị trường. Giá đó không thể đạt ngay mà phải trải qua thời kì dao động quanh giá trị cân bằng. Hay nói cách khác cung – cầu điều chỉnh độ chênh lệch giữa giá cá thị trường với giá trị thị trường. Biểu hiện ra ngoài thì giá cả thị trường được hình thành do sự thỏa thuận giữa người mua và người bán. Nhưng thực tế giá cả thị trường ngang bằng với giá trị thị trường (cung = cầu) chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên. Còn tương quan cung cầu là không cân bằng.Khi cung lớn hơn cầu, giá cả thị trường nhỏ hơn giá trị hàng hóa.Khi cung nhỏ hơn cầu giá cả thị trường lớn hơn giá trị hàng hóa.Cung cầu thay đổi có tác động đến giá cả thị trường thì giá cả thị trường cũng có tác động ngược trở lại cung cầu. Khi cầu giảm thì giá cả thị trường cũng giảm. Mà giá cả thị trường giảm khiến cho các nhà sản xuất giảm đầu tư vào các nghành này và dẫn tới giảm cung sao cho cân bằng được với cầu. Sự biến động tạo ra chênh lệch cung cầu vừa có xu hướng tự phát vừa thủ tiêu sự chênh lệch đó.
Cạnh tranh: là một hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có cạnh tranh. Cạnh tranh có thể diễn ra trong nội bộ ngành, giữa các ngành, giữa những người sản xuất với nhau, giữa người mua và người bán hoặc giữa những người mua với nhau. Cạnh tranh diễn ra theo nguyên tắc: ai mạnh người đó có lợi nhuận cao, ai yếu người đó sẽ bị thua lỗ thậm chí phá sản. Điều này đã thúc đẩy những người sản xuất hàng hóa ứng dụng khoa học –công nghệ để phát triển sức sản xuất của lao động làm sao giảm giá trị cá biệt của hàng hóa nhỏ hơn giá trị thị trường .Và dần dần sẽ dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa.
1.4 Những ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường
1.4.1. Những ưu điểm:
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sán xuất xã hộ ví nó có những ưu điểm sau:
Cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển năng động có hiệu quả . Bởi người nào đưa ra thị trường một loại hàng hóa mới đặc biệt thì sẽ được nhiều khách hàng ưa chuộng và thu lợi nhuận tối đa . Vì thế cơ chế thị trường tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh tự do một cách thuận lợi nhất , kích thích hoạt động sáng tạo của họ trong việc kinh doanh đẻ tìm ra phương thức kinh doanh hiệu quả , những sản phẩm mới đa dạng phong phú nhất đáp ứng được thị trường và kiếm lời nhiều nhất .
Trong môi trường này, mọi người dân sẽ được thỏa mãn tốt nhất nhu cầu tiêu dùng của mình dù khó tính đến đâu hoặc phù hợp với thu nhập của người dân. Vì trong cơ chế thị trường, người sản xuất được tự do kinh doanh , tự do quyết định việc sản xuất của mình. Nên trong thị trường có hàng ngàn hàng vạn sản phẩm khác nhau với số lượng lớn thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đây là điều rất khó thực thi trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Ưu điểm này có được là do sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến thích ứng tự phát giữa tổng cung và tổng cầu .
Trong cơ chế thị trường chính vì có nhiều mặt hàng để thỏa mãn nhu cầu của người dân. Nên các doanh nghiệp mà không cạnh tranh được thì sẽ không thể tồn tại . Vì vậy họ phải đi tìm những phương pháp sản xuất tốt nhất không ngừng đổi mới công nghệ, kĩ thuật sản xuất, đổi mới phương thức hoạt động quản lý để nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất cá biệt tới mức tối thiểu để kiếm lời nhiều nhất. Chính điều đó mà cơ chế thị trường đã kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo có khả năng thích ứng cao trước những biến đổi của nền kinh tế. Nó luôn luôn thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu các yếu tố sản xuất , vốn đều tuân theo nguyên tắc thị trường và luôn được chuyển đến nơi có hiệu quả sử dụng cao nhất, thích ứng kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu của xã hội .
1.4.2. Những hạn chế.
Ngoài những ưu điểm ở trên, thì cơ chế thị trường cũng có những khuyết điểm như các cơ chế thị trường khác.
Do cạnh tranh không hoàn hảo. Việc xuất hiện độc quyền sẽ ảnh hưởng đến giá cả thị trường tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp thu được lợi nhuận siêu ngạch rất lớn. Nhiều công ty nhỏ không trụ được sẽ bị phá sản. Việc xuất hiện độc quyền còn ảnh hưởng đến việc đổi mới kỹ thuật, mất tính năng động sáng tạo của nền kinh tế. Vì vậy cần có sự can thiệp của nhà nước trong cơ chế thị trường để ngăn chặn độc quyền .
Trong cơ chế thị trường , các doanh nghiệp được tự do kinh doanh , tự do quyết định quy mô sản xuất tùy thuộc vào mức vốn của họ .Chính vì thế các doanh nghiệp luôn có xu thế mở rộng sản xuất để sản xuất hàng hóa với khối lượng lớn .Tất cả vì mục đích lợi nhuận Nhưng chính vì điều này đã dẫn đến hai nhược điểm của cơ chế thị trường khó tránh khỏi :
Thứ nhất : vì lợi nhuận tối đa , vì phải cạnh tranh mạnh trong cơ chế thị trường mà có thể xuất hiện sự lừa ngạt , hàng chất lượng kém , hàng giả….Làm cho thị trường hàng hóa mất ổn định .
Thứ hai: tình trạng khủng hoảng kinh tế :số lượng hàng hóa sản xuất ra quá nhiều vượt quá sức mua có hạn của người tiêu dùng đã dẫn đến khủng hoảng thừa . Cung vượt quá cầu nhiều .Gắn liền ,đi đôi với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp .Đây là một điều khó tránh khỏi, nó có tính chu kỳ.
Trong cơ chế thị trường , phân phối thu nhập không cân bằng dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo .Một bộ phận dân cư có điều kiện thuận lợi về tài sản trí tuệ kinh nghiệm , có khả năng kinh doanh thích ứng với cơ chế mới trở nên giàu có. Ngược lại , không thích ứng với được với cơ chế mới dẫn đến phá sản ; một bộ phận khác không có điều kiện thuận lợi về tài sản , trí tuệ để kinh doanh. Điều này khiến họ phải đi làm thuê ,khó có thể giàu lên được. Sự phân hóa giàu nghèo còn ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức và nhân cách của mỗi người sự mất bình đẳng…
Cơ chế thị trường giúp phát huy được các tiềm lực kinh tế tiềm ẩn của nước nhà nhưng việc quá lạm dụng các tài nguyên vì lợi nhuận tối đa mà có thể ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống khí thải, rác thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên. Nguyên nhân hậu quả này sẽ là nguyên nhân cho nhiều hậu quả khác trong xã hội mà con người phải ghánh chịu: Bệnh tật, kinh tế phát triển không bền vững…
2 . SỰ QUẢN LÝ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
2.1 Sự cần thiết khách quan :
Trước đổi mới (1986), do nhận thức còn đơn giản nên chúng ta đã thiết lập cơ chế kế hoạch hóa tập trung , bao cấp . Nhưng cơ chế này bộc rõ khuyết tật của mình , trong đó khuyết tật lớn nhất là sự vi phạm quy luật kinh tế khách quan , làm mất động lực kinh tế dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội nặng nề . Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế , quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính và buộc các đơn vị kinh tế phải nghe theo . Từ khâu vốn , nguyên nhiên vật liệu cho đến khâu sản xuất :sản xuất ra loại hàng gì , số lượng bao nhiêu nhà nước đều quyết định . Thậm chí đến khâu phân phối nhà nước cũng quyết định . Nhà nước sử dụng hình thức tem phiếu trong phân phối nên quan hệ tiền tệ bị coi thường . Lãi hay lỗ đều do nhà nước chịu trách nhiệm . Tất cả những điều trên làm cho các doanh nghiệp không phát huy được tính năng động sáng tạo của mình, không chịu trách nhiệm trước các hoạt động kinh tế dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh mất ,động lực kinh tế . Điều này làm nảy sinh sự trì trệ , hình thành nên cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội . Thêm vào đó , bộ máy quản lý kinh tế nhà nước cồng kềnh , kém năng động , quan liêu . Theo đó đội ngũ cán kém năng lực quản lý , không có nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách làm việc thì quan liêu , cửa quyền. Diều đó càng làm hạn chế tính năng động sáng tạo của nền kinh tế nước ta .
Vì vậy cần phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó mới có thể phát triển kinh tế . Và cơ chế thị trường với những ưu điểm ở trên cùng với lịch sử xã hội chứng minh nó chính là cơ chế phù hợp với điều kiện hiện nay ở nước ta . Đảng ta đã xác định điều đó tại đại hội VI và VII :
“Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , hình thành đồng bộ và vận hành hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước “
Cơ chế thị trường có nhiều khuyết tật nên trong thực tế theo đà phát triển của trình độ xã hội hóa của sản xuất tất yếu nảy sinh cơ chế thị trướng có sự điều tiết của nhà nước chứ không phải là cơ chế thị trường thuần túy , tự phát . Đây là cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa gồm cơ chế thị trường tự do vf có sự điều tiết của nhà nước vĩ mô của nhà nước để sửa chữa những thất bại của thị trường ,thực hiện các mục tiêu xã hôi , đảm bảo công bằng xã hội mà bản thân cơ chế thị trường không làm được , giúp nền kinh tế thị trường phát triển theo định hứong xã hội chủ nghĩa . Người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp . Như vậy nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Mà nhà nước quản lý nền kinh tế ở nước ta không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nướ xã hội chủ nghĩa.
2.2 Sự quản lý của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường hiện nay.
Ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết , đều có sự quản lý của nhà nước vào kinh tế . Tuy nhiên ở mỗi nước sự can thiệp này là không giống nhau . Nó tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế chính trị và xu thế khách quan của mỗi quốc gia .
Sự can thiệp của nhà nước ta vào kinh tế nhằm :
Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định , dẫn dắt định hướng cho nền kinh tế đi theo đúng quỹ đạo của nó, tránh những thăng trầm, những đột biến xấu.
Đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Mỗi doanh nghiệp trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của mình có thể làm tổn hại đến lợi ích xã hội. Nhà nước phải giải quyết nhũng vấn đè đó để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội: “Dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh “. Nhà nước cần hạn chế khắc phục các mặt tiêu cực sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội: nghèo túng , thất nghiệp , mất bình đẳng trong xã hội…
Để làm được điều đó nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý của miình .Đó là:
Có đường lối ,sách lược dựa trên sự phân tích thực trạng kinh tế - xã hội ở nước ta .Xác định rõ mục tiêu ngắn hạn, trung hạn ,dài hạn để có phương pháp thực hiện .
Tạo môi trường và điều kiện hoạt động cho các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội.Tạo môi trường pháp lý tốt nhất để các doanh nghiệp hoạt động được thuận lợi .Thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế đẻ họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh ,tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.
Kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia , có chế độ thưởng phạt rõ ràng .Nếu làm lợi cho kinh tế thì được khuyến khích ,ngược lại đi trái với định hướng của nhà nước thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô : khống chế lạm phát ,thực hiện những biện pháp chống khủng hoảng, ngăn ngừa nhũng đột biến xấu của nền kinh tế .
Xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện hoạt động cơ bản cho nền kinh tế .Xây dựng hhệ thống thị trường đồng bộ có tính cạnh tranh , giá cả do thị trường quyết định .
Để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô , nhà nước sủ dụng những công cụ quản lý vĩ mô: hệ thống pháp luật , kế hoạch hóa, chính sách tài chính, tiền tệ
Hệ thống pháp luật :tạo ra quy định cùng với chế tài kèm theo làm cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường giúp cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội .
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường tồn tại khách quan tự vận đọng theo quy luật vốn có của nó .Kế hoạch là sự tự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế . Kế hoạch có ưu diểm là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội , đảm bảo cân đối cho nền kinh tế như: cung – cầu , sản xuất – tiêu dùng ; gắn mục tiêu phát kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu, uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra.
Chính sách tài chính đặc biệt là ngân sách nhà nước. Thông qua ngân sách này nhà nước bảo đảm phân bố các nguồn lực Kinh tế và thặc hiện được các chức năng xã hội của mình. Nguồn thu ngân sách chủ yêu là thuế: thuế đối với các doanh nghiệp, thuế xuất - nhập khẩu… Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta. Còn chính sách tiền tệ khống chế được lượng tiền phát hành từ đó kiềm chế lạm phát.
CHƯƠNG II
NHỮNG THỰC TRẠNG VA GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Thành tựu.
Trong thời gian qua nhà nước ta đã đạt được 1 số thành tựu trong sự quản lý cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đước xây dựng tương đối đồng bộ.
Nhà nước với đặc thù vừa tham gia hoạt động kinh tế vừa tham gia điều hành hoạt động kinh tế.
Sự điều hành của nhà nước rất linh hoạt, ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường: thay đổi phương thức điều hành, cơ cấu quản lý bộ máy nhà nước, quản lý kinh tế; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp theo hướng gần với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây nhà nước là chủ thể sở hữu thì bây giờ nhà nước chấp nhận đa sở hữu và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu đó. Trước đây, nhà nước trược tiếp điều hành sản xuất kinh doanh làm thay doanh nghiệp, bao cấp tràn lan thì bây giờ nhà nước tập trung vào việc quản lý nhà nước, định hướng phát triển, xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các cá nhân thông qua các mệnh lệnh hành chính nữa. Thay vào đó, đã đổi mới công tác, tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng và thực thi các công cụ điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Còn các doanh nghiệp nhà nước đang được đổi mới trên cơ sở xác định rõ chức năng sỡ hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước để đảm bảo minh bạch quyền của chủ sở hữu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế khác nên đã tạo điều kiện cho các thành phần đó phát triển tự do theo những gì pháp luật không cấm do đó tạo động lực cho kinh tế phát triển,giải phóng lực lượng sản xuất thực hiện dân chủ hóa về kinh tế.
Trước đây nhà nước ta không chấp nhận quy luật giá trị và quan hệ thị trường, hay can thiệp sâu vào cơ chế khiến chúng bị phá vỡ đi tính khách quan vốn có. Làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Nhưng nay, nhà nước điều hành tốt lưu thông ở nhiều lĩnh vực, ngành hàng, với nguyên tắc chủ yếu là nắm chắc thông tin, có giải pháp can thiệp kịp thời để cân đối cung - cầu, bình ổn giá cả trên cơ sở tôn trọng cơ chế thị trường.
VD: Với nhu cầu và giá gạo thế giới tăng cao, việc xuất khẩu gạo Việt Nam tăng trưởng mạnh ngay từ đầu năm đến cuối năm. Khả năng xuất khẩu đạt 5 triệu tấn là có thể làm được. Tuy nhiên, do dịch bệnh trên lúa đã làm giảm sản lượng gạo, cùng với việc nhu cầu gạo của các tỉnh miền Trung tăng đột biến sau cơn bão số 6, nên việc thu mua mạnh phục vụ xuất khẩu đã làm giá gạo trong nước tăng cao. Với sự theo dõi sát sao, nhà nước đã ra lệnh kịp thời ngừng xuất khẩu gạo và mở cửa thị trường cho gạo từ Campuchia tràn vào, nhanh chóng làm cân đối cung - cầu.
Mặt hàng xăng dầu thay vì luôn tăng giá như các năm trươc, đến năm 2006, tuy biến động thất thường song có những thời điểm giảm và có xu hướng ổn định. Thích ứng với điều này, giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh 4 lần (2 tăng, 2 giảm). Khi giá thế giới giảm tiếp song giá bán trong nước còn chưa đủ bù chi phí cho doanh nghiệp thì nhà nước dã xử lý bằng phương pháp thuế, do đó dù giá trong năm qua tăng 10-15% (2005: 35-40%) nhưng giá xăng dầu không ảnh hưởng lớn tới chỉ số giá phương tiện đi lại.
Nhà nước đã thiết lập được rất nhiều văn bản pháp luật kinh tế ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường, với thông lệ quốc tế. Khung pháp luật đã tạo được hành lang phatp lý cho việc thực hiện tự do kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhà nước chỉ tác động gián tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh phân biệt và tách rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính chính theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch. Cải tiến việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật trên diện rộng và phổ biến thông tin pháp luật trên diện rộng đã tích cực góp phần làm cho pháp luật kinh tế đi nhanh vào cuộc sống và chấp hành nghiêm chỉnh hơn.Đặc biệt luật doanh nghiệp thống nhất và luật đầu tư chung là những bước cải cách mạnh mẽ và hứa hẹn sẽ phát huy tác dụng trong năm 2006 tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng và có trật tự.
Những thành tựu khác mà việc xây dựng kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước đinh hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được.
Trong cơ chế thị trường, sự quản lý của nhà nước ở trên là đúng đắn điều này đã tạo điều kiện cho nền kinh tế có nhiều bước chuyển biến rất đáng kể.
+ Mức độ tăng trưởng hàng năm đạt 7-8,5%, riêng tháng 9 đầu năm 2006: 8,2%; GDP/đầu người: năm 2000: 241USD; năm 2005: 624 USD; năm 2006: 820USD. Từ chỗ 80% dân cư đói nghèo (1980) xuống dưới 20% (2005).
+ Có thay đổi tích cực trong các thành phần kinh tế: trước kia thành phần phần kinh tế nhà nước đóng góp khoảng 40% GDP những năm. 95-2000 thì đến bây giờ, con số đã giảm so với sự tăng của các thành phần kinh tế nhà nước tuy vẫn là lớn nhất. Kinh tế tư bản tư nhân: 3,9%. Các công ty liên doanh và nước ngoài:13,9% GDP.
+ Việc phát triển kinh tế đã nâng cao được đời sống của nhân dân, tạo cơ sở kinh tế cho nhà nước đầu tư phát triển cho các ngành xã hội, khoa học giáo dục, văn hóa thể thao… tạo đà cho xã hội phát triển vững chắc. Nhà nước cũng thực hiện được chính sách xã hội theo hướng công bằng và tiến bộ. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tạo mọi điều kiện để khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách ưu đãi, phân phối thu nhập hợp lý, góp phần chống tiêu cực và tệ nạn xã hội.
+ Góp phần đa dạng và năng động hóa nền sản xuất với nhiều loại mặt hàng hóa phân phối chất lượng tốt thỏa mãn nhu cầu của mọi người.
Tổng quan tình hình giá cả thị trường năm 2006.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng đầu năm 2006 tăng 5,4% so với tháng 12/2005; trong đó 3 nhóm hàng tăng cao nhất: may mặc, mũ nón, giày dép 5,0%; nhà ở và vật liệu xây dựng: 5,6%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống: 5,9%. Giá vàng tăng mạnh tới 21,1% giá đo la Mỹ ổn định, chỉ tăng 0,8%. Chỉ số giá tiêu dùng trong 2 tháng còn lại của năm 2006 dự báo chỉ tăng khỏan 1,0 – 1,5%. Chỉ số tăng giá cả năm đạt mục tiêu Quốc hội đề ra: chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1.2. Những hạn chế.
Tuy đã có sự can thiệp đúng vào cơ chế thị trường, nhưng đôi khi sự can thiệp đó còn chưa đúng chỗ, đúng lúc, nhiều biện pháp thực thi còn kém hiệu quả, thậm chí còn tác động ngược lại với mong đợi Sự hiện diện rộng khắp của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng thể nền kinh tế cũng là một bất cập. Bởi vì nhiều lúc ngoài duy trì và hỗ trợ mạnh một số doanh nghiệp nhà nước, nhà nước còn trực tiếp đầu tư quá nhiều vào sản xuất kinh doanh kể cả vào các lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước có thể làm được và làm với chi phí thấp. Bộ máy nhà nước chậm đổi mới chưa theo kịp yêu cầu. Yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức là yếu tố con người. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, bộ máy nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng những của chế độ cũ. Việc thay đổi tư duy, trang bị kiến thức mới còn rất chậm chạp. Chất lượng đội ngũ công chức cho đến nay vẫn chưa đáp ứng đựoc những yêu cầu của cơ chế thị trường. Không những thế một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ bị thoái hóa biến chất, tình trạng quan liêu, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy công quyền, nhất là các cơ quan giải quyết việc cho dân và cho doanh nghiệp chưa bị đẩy lùi, bộ máy Đảng và nhà nước vẫn cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ không rõ ràng. Tình trạng trên đã làm hạn chế vai trò lao động của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Them vào đó sự phân cấp quản lý còn rất yếu đến bất hợp lý trong hệ thống tổ chức, sự phối hợp giữa các cấp tỏ ra không hiệu quả, còn phụ thuộc, ỷ lại lẫn nhau gây khó khăn trong công tác quản lý và xử lý công việc.
Tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế nhà nước cũng phải thừa nhận, hệ thống này vẫn chưa theo kịp nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn bản pháp luật quan trọng còn thiếu tính cụ thể. Trong một số luật đã ban hành có biểu hiện không nhất quán, nội dung nhiều luật còn thiếu tính cụ thể. Nội dung của một số luật còn mang nặng tư duy chủ quan, bao cấp, cục bộ , không còn phù hợp với cơ chế thị trường và lợi ích toàn xã hội. Hiện nay mặc dù chúng ta đã tiến hành bãi bỏ và rà soát hàng loạt giấy phép bất hợp lý nhưng đến nay vẫn còn tới 315 giấy phép kinh doanh không thể hiện mục tiêu rõ ràng, hiệu lực quản lý thấp và thiếu sự tham gia của người xin cấp phép nên đã vô tình tạo điều kiện cho bộ phận cán bộ công chức lạm quyền. Tính khả thi cua một số luật chưa cao, dự án luật thông thường được xây dựng với tư duy hướng về phiá thuận lợi cho công tác quản lý của các cơ quan nhà nước và thường được chính các cơ quan quản lý chuyên ngành soạn thảo. Nên không ít luật mới đưa ra đã xuất hiện bất hợp lý cần chỉnh sửa, thậm chí khó đi vào cuộc sống.
Đăng ký kinh doanh ở nước ta được xếp trong nhóm 60 quốc gia có đăng ký kinh doanh khó khăn nhất. Để khởi sự một doanh nghiệp ở Việt Nam phải mất 50 ngày trong khi đó ở Thái Lan chưa đến 30 ngày. Việc đăng ký tài sản có đảm bảo của Việt Nam phải từ 60 – 70 ngày, còn có ở Thái – Lan chỉ mất 2 ngày để giải quyết. Cái giá phải trả để dăng ký được một doanh nghiệp tại Việt Nam lên đến ½ thu nhập bình quân đầu người vì vậy nhiều doanh nghiệp cho rằng họ không nhất thiết phải “lộ diện” mà cứ việc hoạt động ngầm, không hề đăng ký kinh doanh vì như thế sẽ dễ chiụu hơ. Chính vì điều này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cho các nhà quản lý cũng như đối với các doanh nghiệp.
Do không tin tưởng vào hệ thống luật pháp của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp thích hợp tác với các đối tác đã quen biết, ngại mở rộng quan hệ làm ăn. Hà Nội tập trung 10 nghìn doanh nghiệp, cả năm 2003 các tòa kinh tế chỉ giải quyết được 70 vụ tranh chấp, trọng tại thương mại thì giải quyết được 20 vụ.
Báo cáo toàn cầu của Ngân hàng Thế giới xếp Việt Nam ở thứ 99 trên tổng số 155 quốc gia về mức độ dễ dàng của môi trường kinh doanh.
Ngoài ra tác động của cơ chế thị trường đối với xã hội còn có một số mặt hạn chế:
Sự phân hóa giàu nghèo, sự phân hóa xã hội sâu sắc. Đó là sự cách biệt giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề khác trong xã hội, giữa người có thu nhập thấp với người có thu nhập cao
Tính hệ số chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo. Các chỉ số thống kê cho thấy.
Hệ số chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo ở nước ta như sau: năm 1999: 7,6 lần; năm 2002: 8,1 lần; 2004: 8,4 lần.
Hệ số chênh lệch ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2004 là 8,1 lần so với 6,4 lần).
Theo vùng lãnh thổ chênh lệch cao nhất là ở Đông Nam Bộ(8,7 lần), tiếp theo là Tây Nguyên (7,6 lần), Đông Bắc (7 lần).
So với hệ số chênh lệch tương ứng của 126 nước và vùng lãnh thì hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao đứng thứ 50. Sự chênh lệch tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình quân mỗi năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn tăng cao hơn nữa trong thời gian tới. Trong hệ số chênh lệch giàu nghèo của nước ta còn chứa đựng nhiều yếu tố bất hợp lý ở cả hai đầu: đầu giầu và đầu nghèo.
Hệ số chênh lệch tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng quan tâm, nhất là đối với nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tính tự phát không được kiểm soát, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi làm tăng lên tính vị kỉ trong mỗi cá nhân gây ra đối kháng giữa các tần lớp (lao động, xí nghiệp), làm xã hội phân hóa gay gắt hơn. Nhiều giá trị đạo đức trong xã hội có nguy cơ bị xói mòn với sự lên ngôi của đồng tiền, chủ nghĩa thực dụng .
Như vậy, mặt trái của cơ chế thị trường tác động vào mọi lính vực của đời sống xã hội. Nó như nhà nước không có biện pháp để hạn chế, ngăn chặn thì sẽ gây ra hậu quả rất lớn.
2. GIẢI PHÁP.
Trong nền kinh tế thị trường , cơ chế vận hành là cơ chế thị trường . Nó có tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế này. Vì vậy giải pháp phát huy cơ chế thị trường cũng nằm trong nhiều giải pháp quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong đó sự quản lý của nhà nước là quan trọng nhất.
Để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước trong cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt các mặt sau:
Đổi mới và càng nâng cao nhận thức về sự quản lý của nhà nước nhằm tách bạch rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh của doanh nghiệp, nhà nước tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, không làm thay thị trường. Tránh tình trạng nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, lấn át quyền quản lý kinh tế của các đơn vị kinh tế cơ sở. Thực hiện tốt nghĩa vụ cơ bản nhất của nhà nước là cung ứng “hàng hóa công” đặc biệt là kết cấu hạ tầng xã hội
Tăng cường chất lượng của đường lối chiến lược và sách lược kinh tế thông qua tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn phương thức học hỏi kinh nghiệm để có được chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế thị trường. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục đường lối đó đến từng người, từng đơn vị kinh tế. Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng với quá trình thực hiện chính sách kinh tế của bộ máy nhà nước. Khống chế lạm phát, thực hiện nhiều biện pháp chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu.
Hoàn thiện khung pháp luật, môi trường pháp lý để bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.Tiếp tục rà soát để bãi bỏ những quy định về cấp giấy phép thanh tra, kiểm tra không thực sự cần thiết cho quản lý nhà nước mà lại gây khó khăn phiền hà cho các doanh nghiệp. Xác định nguyên tắc và làm rõ giới hạn sự can thiệp của nhà nước: nhà nước quản lý bằng hệ thống pháp luật, công chức trong bộ máy công quyền chỉ được làm những gì pháp luật quy định, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp nhà nước. Cần có niềm tin vào người kinh doanh, tin vào cơ chế thị trường.
Cải cách mạnh hơn nữa tính chất bộ máy hành chính, khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền các câp cũng như các cơ quan đồng cấp, chuyển giao cho doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội dân sự thực hiện một số dịch vụ công không nhất thiết do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm, cải tiến phương thức quản lý.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thông qua việc tuyển chọn, khen thưởng, kỷ luật. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ đối với công việc tránh gây phiền hà cho người kinh doanh khi làm thủ tục được làm nhanh hơn giúp cho đăng ký kinh doanh trở nên dễ dàng hơn.
Nâng cao vai trò quản lý nhà nước để phát huy cao nhất những mặg tích cực và hạn chế tối đa những khuyết tật của cơ chế thị trường, giúp cho nền kinh tế thị trường được xây dựng và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nên quản lý kinh tế đi đôi với xây dựng sự tiến bộ, công bằng và xã hội. Đây cũng là một trong nhiều điều kiện để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong khi khuyến khích làm giàu hợp pháp phải gắn liền với việc giảm sự chênh lệch giàu nghèo (tạo ra công ăn việc làm, giảm bớt thất nghiệp, nâng cao mặt bằng thu nhập) để tạo ra công bằng trong xã hội; xây dựng con người theo hướng xã hội chủ nghĩa không bị những khuyết tật của cơ chế thị trường làm biến chất; sử dụng ngân sách nhà nước để đầu tư cho việc phát triển giáo dục, văn hóa bảo vệ con người.
Phương hướng và giải pháp bình ổn giá cả:
Mục tiêu chung: bình ổn giá cả thị trường, kiểm soát lạm phát, khuyễn khích cạnh tranh về giá theo pháp luật, thúc đẩy hội nhập quốc tế thắng lợi.
Đưa hệ thống giá trong nước tiếp cận với giá thị trường thé giới theo hướng: điều hành giá một số loại dịch vụ cùng loại, cùng loại, cùng tiêu chuẩn chaats lượng đang cao hơn không hợp lý so với giá thế giới xuống tương đương và thấp hơn các nước trong khu vực. Điều hành giá một số hàng hóa nhập khẩu hơn các nước trong khu vực. Điều hành giá một số hàng hóa nhập khẩu với khối lượng lớn đang bán thấp hơn không hợp lý so với giá thế giới lên mức tiếp cận với giá thế giới lên mức tiếp cận với giá thế giới thông qua việc xóa bao cấp, bù giá, bù lỗ tài chính; tính đúgn, tính đủ chi phí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc thị trường chấp nhận.
Điều hành hệ thống giá mềm dẻo, linh hoạt theo tín hiệu thị trường nhất là đối với một số ít mặt hàng Nhà nước còn định giá khi các yếu tố hình thành giá đã thay đổi, nhưng không thả nổi hoàn toàn theo tác động tự phát của thị trường. Không tăng hoặc giảm giá một chiều mà có tăng, có giảm theo tín hiệu thị trường gắn với mục tiêu kinh tế xã hội; chia sẻ lợi ích, trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đối với những hàng hóa dịch vụ độc quyền, hàng hóa dịch vụ quan trọng tính cạnh tranh hạn chế (điện xăng dầu, cước viễn thông…), căn cứ vào giá trị hàng hóa mà biểu hiện cụ thể là chi phí sản xuất, lưu thông và các nghĩa vụ tại chính phải nộp theo luật định được tính đúng, đủ theo quy chế do Bộ Tài chính ban hành và tỷ lệ lợi nhuận nhất định phù hợp với tỷ suất lựoi nhuận bình quân của nền kinh tế. Đồng thời so sánh giá hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường thế giới và trong nước để quy định mức giá phù hợp với sức chịu đựng của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và phải được thị trường chấp nhận.
Đối với những hàng hóa, dịch vụ Nhà nước đặt hàng phục vụ các chương trình, mục tiêu quốc gia, hàng hóa dịch vụ công ích; đối với hàng hóa dịch vụ Nhà nước đặt hàng phuc vụ các chương trình, mục tiêu quốc gia, hàng hóa dịch vụ công ích; dối với hàng hóa dịch vụ còn được trợ cước, trợ giá, hàng hóa dịch vụ thực hiện chính sách xã hội thì từng bước chuyển sang hình thức đấu thầu, đấu giá.
Đối với tất cả những hàng hóa dịch vụ còn lại được khuyến khích cạnh tranh về giá theo quy định của pháp luận thì giá do người mua và người bán thỏa thuận trên cơ sở các yếu tố hình thành giá hợp lý, theo tín hiệu khách quan của cung cầu, của giá thị trường trong nước và thế giới.
Trong trường hợp giá tăng quá cao bất hợp lý phải áp dụng các biện pháp bình ổn giá để thực hiện mục tiêu bình ổn giá.
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường . Cơ chế thị trường như một bộ máy điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường . Mà thiếu nó nền kinh tế thị trường không thể phát huy được tác dụng của mình. Không có nền kinh tế thị trường ta khó có thể thực hiện được con đường đã chọn đi lên xã hội củ nghĩa. Nhưng việc xây dựng cơ chế thị trường là chưa đủ mà nó phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có sự quản lý của nhà nước thì cơ chế thị trường với những khuyết tật của nó có thể làm cho kinh tế thị trường sẽ đi lệch hướng không còn là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên nghĩa của nó nữa. Nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội, đó là một quá trình, mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, nhà nước ta phải tạo tiền đề, điều kiện cho những yếu tố của kinh tế thị trường phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Thì một ngày nào đó chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu của mình.
Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước dã và đang ngày càng hoàn thiện hơn cơ chế thị trường nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Điều đó đã được chứng minh qua thực tiễn: kinh tế ngày một phát triển, thì trường này một đa dạng và phong phú; các quốc gia khác cũng đã thừa nhận nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa; gần đây nhất, nước ta đã gia nhập WTO nhưng trước mất vẫn còn nhiều cơ hội và thách thức đặt ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ giáo dục đào tạo – Giáo trình Kinh tế chính trị Mac – Lênin – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2006.
ĐHKTQD – Kinh tế chính trị học – NXB Giáo dục (tập2) Hà Nội – 1996.
Đinh Văn Thành - Tạp chí Cộng sản 9/2006 số 18.
GSTS Chu Văn Cấp - Tạp chí lý luận chính trị số 7/2006.
Hà Thủy - Tạp chí Thương mại - số 3/2007.
Hồ Phan - Tạp chí Thương mại số 20/2006.
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Giáo trình Kinh tế chính trị Mac Lê-nin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2001.
Lê Xuân Bá - Tạp chí Cộng sản - số 7 (4/2006).
PGS – TS Ngô Ngọc Thắng - Tạp chí lý luận chính trị số 3/2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35891.doc