Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng

Kiểm toán hình thành và phát triển trong bối cảnh chuyển đổi nền nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình cải cách hành chính quốc gia thể hiện rất rõ một nhu cầu không thể thiếu được của kiểm toán đặc biệt là kiểm toán hoạt động, trong đó kiểm toán nội bộ chủ yếu thực hiện chức năng này. Kiểm toán nội bộ với vai trò là một bộ phận chức năng giúp Giám đốc và cấp lãnh đạo ngân hàng kiểm toán, xác nhận và đánh giá toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận, phòng ban trong hệ thống. Kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ nhưng phù hợp với điều kiện mới của Quốc gia và thông lệ Quốc tế, nó thay thế cho hệ thống kiểm tra kế toán thời bao cấp trước đây nhưng nội dung và phương pháp nghiệp vụ chắc chắn là toàn diện và tiên tiến hơn nhiều.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ thị, các quy định mà còn phải có những sự kiểm soát theo dõi sự tuân thủ, chấp hành nữa và việc này có thể coi như một dạng hậu kiểm đầu tiên. 2.4. Tổ chức kiểm toán nội bộ. 2.4.1. Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. a/ Nguyên tắc: Công tác kiểm toán nội bộ phải được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: *Tính độc lập : Ngoài quyền chỉ đạo của Ban giám đốc về việc tổ chức các cuộc kiểm toán bổ sung, thì Kiểm toán nội bộ phải thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự chủ và độc lập. Đặc biệt cần đảm bảo rằng Kiểm toán nội bộ không chịu bất cứ một sự chỉ đạo rong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá các kết quả kiểm toán. *Sự phân tách chức năng: Về nguyên tắc, không được phép giao cho các nhân viên làm việc tại kiểm toán nội bộ thực hiện những nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm toán. Tuyệt đối họ không được phép đảm nhận những nhiệm vụ không tương hợp với công tác kiểm toán. Về nguyên tắc, cũng không nên giao cho những nhân viên làm việc tại các phòng ban khác của tổ chức tín dụng đảm nhận các công việc kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên điều đó không loại trừ khả năng, trong những trường hợp cụ thể có lý do chính đáng, cũng có những người khác tạm thời làm việc cho kiểm toán nội bộ vì họ có những kiến thức chuyên môn đặc biệt. Chừng nào tính độc lập của kiểm toán nội bộ được đảm bảo thì họ có thể trong khuôn khổ công việc của mình thực hiện công tác tư vấn cho Ban giám đốc hoặc cho các đơn vị tổ chức khác trong tổ chức tín dụng. *Thông tin đầy đủ: Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ có quyền được nhận thông tin đầy đủ và không hạn chế. Như vậy, kiểm toán nội bộ phải được trả lời ngay về các thông tin mà họ yêu cầu, được cung cấp ngay tất cả mọi hồ sơ tài liệu cần thiết và được xem tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh trong tổ chức tín dụng. Các chỉ thị và nghị quyết của ban giám đốc phải được thông báo cho Kiểm toán nội bộ biết, nếu như chúng có thể có tầm quan trọng trực tiếp hay gián tiếp đối với Kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, tất cả các đơn vị tổ chức đều có trách nhiệm cung cấp những thông tin cho kiểm toán nội bộ, nếu như trong lĩnh vực hoạt động của mình thấy có những sai phạm nghiêm trọng hay phát sinh những thiệt hại đáng lưu ý hoặc cố một nghi vấn cụ thể nào đó. Nếu có những hay đổi quan trọng trong cơ chế kiểm tra nội bộ thì phải thông báo kịp thời cho Kiểm toán nội bộ biết. *Trình độ nghiệp vụ của nhân viên: Ban giám đốc cần đảm bảo sao cho trang bị nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức và quy mô công việc của họ. Trang bị về nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh doanh, tình hình hoạt động kinh doanh và cơ cấu rủi ro của các tổ chức tín dụng cũng như theo các quy định về thanh tra giám sát. Thông qua các biện pháp thích hợp, cần phải đảm bảo rằng những người làm công tác kiểm toán nội bộ luôn có một trình độ nghiệp vụ phù hợp với bước phát triển mới nhất trong quy trình hoạt động và kinh doanh đưọc kiểm toán. Họ phải thấu hiểu về cơ cấu rủi ro của các quá trình. Họ phải có một kiến thức chuyên môn được cập nhật về kiểm toán và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực được kiểm toán. Như vậy mới có thể thực hiện được công tác kiểm toán nội bộ một cách đúng đắn và hiệu quả. b/ Nhiệm vụ: Kiểm toán nội bộ phải thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh của tổ chức tín dụng tuỳ theo quy mô và mức độ rủi ro trong công việc của doanh nghiệp hay giao dịch kinh doanh. Kiểm toán nội bộ đặc biệt phải kiểm toán và đánh giá về khả năng hoạt động, tính hiệu quả, tính kinh tế và sự thoả đáng của cơ chế kiểm tra nội bộ, kiểm toán và đánh giá việc áp dụng, khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự thoả đáng của các cơ quản lý và điều hành rủi ro, của chế độ thông tin báo cáo, của hệ thống thông tin và của chế độ tài chính kế toán, kiểm toán và đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định về pháp lý thanh tra hiện hành cũng như các quy định khác, việc chấp hành các quy chế, chế độ và quy tắc của doanh nghiệp cũng như tính nghiêm túc đúng đắn của tất cả các quy trình hoạt động kinh doanh và các quy định và biện pháp nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp. Nguyên tắc giám sát độc lập với quá trình không loại trừ khả năng kiểm toán nội bộ, trong khuôn khổ các quy định được cụ thể hoá trong từng trường hợp, cũng có thể thực hiện nhiệm vụ gắn liền với quá trình thực hiện dự án. Khi đó, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng tính độc lập của họ vẫn được giữ nguyên và không xảy ra bất kỳ một sự xung đột quyền lợi nào. Kiểm toán nội bộ cũng thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt. Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ trong các TCTD có 11 nhiệm vụ, cụ thể: Dự thảo để Tổng giám đốc (giám đốc) trình HĐQT, ban hành các phương thức, nội dung và quy trình nghiệp vụ trông kiểm tra, kiểm toán noọi bộ tổ chức tín dụng. Xây dựng và trình Tổng giám đốc (giám đốc) duyệt và triển khai thực hiện kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Trực tiếp hoặc phối hợp với Ban kiểm soát tiến hành kiểm tra công tác quản lý và điều hành theo đúng quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nôi bộ của các tổ chức tín dụng. Kiểm tra việc chấp hành quy trình hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng và các đơn vị thành viên. Giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của NHNN về bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đánh giá mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và kiến nghị các bbbiện pháp nâng cao khả năng bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ. Báo cáo Tổng giám đốc (giám đốc), Ban kiểm soát kết quả kiẻm tra định kỳ hoặc đột xuất và nêu những kiến nghị khắc phục khuyết điểm, tồn tại. Trong phạm vi chức năng và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Xem xét giải quyết hoặc trình Tổng giám đốc (giám đốc) giaỉ quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tổ chức tín dụng, hoặc kiểm tra công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các đơn vị thuộc tổ chức tín dụng. Đối với tổ chức tín dụng thành lập thường trực chống tham nhũng do bộ phận này thực hiện. Rà soát hệ thống các quy định an toàn trong kinh doanh, phát hiện các cơ sở, bất hợp lý để kiến nghị bổ sung, sửa đổi. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc (giám đốc) giao. 2.4.1. Mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này chỉ bao gồm những kiểm toán khôn chuyên nghiệp. Về nội dung kiểm toán, trong thời kỳ đầu cũng giới hạnở kiểm toán chất lượng thông tin kế toán, tài chính sau này mới phát triển sang các lĩnh vực khác của quản lý. Như ở Mỹ, những tư tưởng hiện đại về kiểm toán đã xuất hiện từ năm 1914 song chính sau cơn khủng hoảng nặng nề về tài chính 1929 – 1931, kiểm toán mới phát triển. Trong bối cảnh đó, kiểm toán nội bộ cũng phát triển. Năm 1914, trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ (I.I.A) được thành lập và các năng của kiểm toán nội bộ được xác định chủ yếu trong lĩnh vực tài chính. Từ năm 1950 trở đi, kiểm toán nội bộ phát triển vào khía cạnh quản lý của doanh nghiệp, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh và năng lực quản lý. ở cộng hoà Pháp, chức năng của kiểm toán nội bộ đã xuất hiện chính thức vào năm 1960 trong các công ty chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốc. Tiếp đó, các công ty khác, đặc biệt là trong ngân hàng cũng định ra những chức năng tương tự. Đồng thời, việc du nhập kiểm toán nội bộ vẫn tiếp tục phát triển vì các công ty mong muốn duy trì sự ổn định và tăng cường hiệu quả của các xí nghiệp, đến năm 1965 đã thành lập Hội kiểm toán viên nội bộ của Pháp và sau đó, trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm 1973. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách hữu hiệu, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Tuy vậy, khi xem xét vấn đề này, hiện nay ở Việt Nam, có ít nhất là ba quan điểm khác nhau: Loại quan điểm thứ nhất cho rằng: Bộ phận kiểm toán nội bộ nên đặt trực thuộc phòng kế toán dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng, bởi vì lâu nay phòng kế toán doanh nghiệp có chức năng kiểm tra kế toán, kế toán trưởng của doanh nghiệp là kiểm soát viên của Nhà nước. Cho đến nay, quan điểm này xét ra không còn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế đang phát triển theo cơ chế thị trường. Loại quan điểm thứ hai: Bộ phận kiểm toán nội bộ ở các tổng công ty có Hội đồng quản trị nên đặt trực thuộc Hội đồng quả trị, vừa trực tiếp chịu sự chỉ đạo của ban kiểm soát, có như vậy, bộ phận kiểm toán nội bộ mới phát huy được tính độc lập, kết quả kiểm toán nội bộ mới có tính khách quan, khắc phục tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Theo quan điểm này, chức năng này đã đảm bảo điều kiện về tính độc lập của kiểm toán nội bộ nhưng không có tính thực tế vì Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp. Hơn nữa, Họi đồng quản trị ở tổng công ty đặc biệt là các công ty thuộc Nhà nước thực tế còn nhiều thành viên kiêm chức được cử từ cơ quan tài chính tới. Loại quan điểm thứ ba: bộ phận kiểm toán nội bộ nên đặt trực thuộc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp. Quan điểm này dựa trên cơ sở kiểm toán nội bộ là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, đặt tại Ban điều hành doanh nghiệp, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểmyếu để báo cáo kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểm yếu để báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để kịp thời khắc phục, hoàn thiện chúng. Để đạ được mục tiêu, vai trò của kiểm toán nội bộ cần phải đặt kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Trong thực tế, quan điểm này phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, người đứng đầubộ phận kiểm toán nội bộ phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (nếu có). Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức có sử dụng các nguồn lực thuộc ngân sách Nhà nước, là đơn vị kế toán riêng, vẫn phải tổ chức Bộ máy kiểm toán nội bộ, trực thuộc thủ trưởng đơn vị. Như vậy, mô hình tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ có thể được tổ chức như sau: *Đối với các loại hình doanh nghiệp: Trong các doanh nghiệp Nhà nước là tổng công ty, bộ phận kiểm toán nội bộ có thể tổ chức thành một phòng ban trực thuộc tổng công ty. Người đứng đầu bộ phận này có thể được gọi là kiểm toán trưởng nội bộ hoặc trưởng phòng kiểm toán nội bộ, có trách nhiệm, quyền hạn theo chức năng, nhiệm vụ nhưng có quyền tự do liên hệ và báo cáo kết quả kiểm toán với lãnh đạo và ban kiểm soát của Hội đồng quản trị. Các kiểm toán viên nội bộ được cử đến làm việc thường xuyên, ổn định tại các doanh nghiệp thành viên theo đúng chức năng của kiểm toán viên nội bộ, nhưng chịu sự chỉ đạo và điều hành chung của trưởng phòng kiểm toán nội bộ. Hoặc các kiểm toán viên nội bộ thực hiện công việc theo chương trình, mục tiêu cụ thể của từng cuộc kiểm toán đối với các doanh nghiệp thành viên. Đối với các doanh nghiệp độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ đặt trực thuộc Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình trong phạm vi doanh nghiệp đảm bảo tính độc lập của quá trình kiểm toán, trưởng bộ phận kiểm toán có quyền báo cáo kết quả kiểm toán cho giám đốc hoặc khi thấy cần thiết có thể báo cáo cho các cơ quan tài chính Nhà nước hoặc cấp trên. *Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Các Bộ và cơ quan cấp Trung ương, có thể thành lập Vụ, Phòng, Ban kiểm toán nội bộ giúp thủ trưởng đơn vị kiểm soát các hoạt động tài chính, thẩm định các thông tin do cấp dưới báo cáo và có trách nhiệm là người phối hợp với cơ quan ngoại kiểm. Các đơn vị dự toán, cần có phòng hoặc một kiểm toán viên nội bộ. Mô hình tổ chức hệ thống nhân viên chuẩn chi của Pháp rất đáng chú ý để vận dụng cho khối hành chính và sự nghiệp Nhà nước. Phần II: Xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. I. Khái quát về các tổ chức tín dụng. 1.1. Khái quát chung. Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (QĐ số 03/1997/QĐ-NHNN3 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 03/01/1998): “Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định pháp luật, các quy chế quản lý của Ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản, bảo đảm tính toàn diện, và tin cậy của số liệu hạch toán”. Mỗi một tổ chức tín dụng phải có một đơn vị kiểm toán nội bộ đủ khả năng hoạt động; điều này cũng áp dụng đối với các doanh nghiệp do các tổ chức tín dụng diều hành với tư cách là đơn vị phụ thuộc về mặt pháp lý. Các tổ chức tín dụng phải có một cơ cấu tổ chức kinh doanh nghiêm túc đúng đắn và một quy trình kiểm tra nội bộ thoả đáng. Bên cạnh cơ chế kiểm tra nội bộ thì kiểm toán nội bộ cũng là thành phần của quy trình kiểm tra nội bộ này (“cơ chế giám sát nội bộ”). Cơ chế kiểm tra nội bộ bao gồm tất cả các hình thức giám sát được cài đặt trực tiếp hay gián tiếp vào các quy trình công tác cần được giám sát (sự giám sát gắn liền với quá trình). Những biện pháp giám sát này được thực hiện bởi các cá nhân hay đơn vị tham gia trong mỗi quy trình công tác đó và hộ thường cũng là những người phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của quy trình cần giám sát cũng như về kết quả giám sát. Bộ phận này là một đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp với nhiệm vụ thực hiện giám sát theo uỷ quyền của Ban giám đốc tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh trong nội bộ tổ chức tín dụng, giám sát việc quản lý và điều tiết rủi ro cũng như cơ chế kiểm tra nội bộ. Kiểm toán nội bộ chỉ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này nếu như họ hoạt động độc lập với các lĩnh vực và quy trình công tác được kiểm toán (sự giám sát độc lập với quá trình). Vì vậy công việc kiểm toán của kiểm toán nội bộ được thực hiện bởi những người tham gia vào các quá trình kinh doanh của tổ chức tín dụng và không chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của quy trình được giám sát. 1.2. Các loại hình tín dụng. Các tổ chức tín dụng được quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam là: Ngân hàng quốc doanh (bao gồm cả ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long). Ngân hàng thương mại cổ phần. Các công ty tài chính (bao gồm cả các công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam, công ty cho thuê tài chính). Các ngân hàng liên doanh. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ... 1.3. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát tại các tổ chức tín dụng. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nhiều vấn đề chưa giải quyết đồng bộ, như các yếu tố về luật pháp, luật định, quy chế,...do đó việc điều hành có những biểu hiện không đồng bộ, không thống nhất, các vụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại, chưa được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thì nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi tổ chức tín dụng. Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng sẽ làm chi phi quản lý tăng lên trong khi các tổ chức tín dụng chưa thấy được các lợi ích mang lại từ kiểm toán. Đây là một trong những lý do làm cho các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ như các tổ chức quỹ tín dụng nhân dân chưa có bộ phận kiểm toán. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức tín dụng hiện nay có bộ phận kiểm toán nội bộ như các ngân hàng thương mại nhưng hoạt động còn yếu kém, lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức, nên tác dụng giám định và kiểm tra yếu. Một phần do bản thân kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nghiệm trong kiểm toán. Mặt khác, kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm. Vì vậy, công tác kiểm toán đôi khi mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm, còn sai sót thì bỏ qua. Vì thế, có một số tổ chức tín dụng hoàn thành kế hoạch, báo cáo đều tốt, nhưng khi có đoàn thanh tra đến là việc thì mọi khuyết điểm, yếu kém mới được đưa ra. Đối với các Quỹ tín dụng nhân dân, có một số ý kiến cho rằng chưa nhất thiết cần phải áp dụng kiểm toán ngay vì loại hình còn quá nhỏ bé, hoạt động đơn giản, năng lực tài chính cũng như khă năng quản lý còn yếu kém. Song ý kiến đó chưa thoả đáng, các Quỹ tín dụng nhân dân càng yếu kém thì càng cần có kiểm toán đặc biệt là kiểm toán nội bộ và yêu cầu về kiểm toán nội bộ cũng phù hợp với mặt bằng trình độ của các Quỹ tín dụng nhân dân. Qui mô, nội dung, tính chất hoạt động của Quỹ tín dụng có đơn giản hơn, khác với các tổ chức tín dụng lớn, với các ngân hàng thương mại. Với những đặc thù củatổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo Luật hợp tác xã thì mô hình quỹ tín dụng bên cạnh những lợi thế của mình cũng có những điểm yếu nhất định. Lại sẵn điểm yếu nội tại về khả năng kiểm soát, giám sát thì các quỹ tín dụng nhân dân có hạn chế rất lớn. Mỗi quỹ tín dụng có rất đông thành viên và thực hiện nguyên tắc dân chủ hợp tác xã, mỗi thành viên chỉ có một quyền biểu quyết không phụ thuộc vào vốn góp nhiều hay ít. Mỗi thành viên không góp quá nhiều vốn để quỹ tín dụng không phụ thuộc quá nhiều vào các cá nhân nhưng lại làm mất đi động cơ giám sát, kiểm soát hơn hẳn các ngân hàng cổ phần. Khác với các loại hình tổ chức tín dụng khác, thành viên của quỹ tín dụng nhân dân đều có thể vay tín dụng cho mình. Mặt khác, chi phí để thuê kiểm toán độc lập vượt quá khả năng của quỹ tín dụng nhân dân. Chính vì lẽ đó cần phải xây dựng một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ cho các quỹ tín dụng nhân dân. Qua thực trạng công tác kiểm toán nội bộ tại các tổ chức tín dụng, còn nhiều hạn chế, tồn tại và khó khăn. Vì vậy việc xây dựng hệ thống kiểm toán nôi bộ và hoàn thiện nó trong các tổ chức tín dụng là một điều rất cần thiết. Ngày 3-1-1998, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế mẫu về tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, theo mẫu được ban hành, kiểm toán nội bộ được định nghĩa: "Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật, các quy chế quản lý của ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản đảm bảo tính toàn diện và tin cậy của số liệu hạch toán”. Trên cơ sở học hỏi, và áp dụng kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam cũng tìm được hướng đi phù hợp cho mình, tương ứng với cá điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Dựa trên nhận thức về bộ máy kiểm toán nội bộ trên thế giới, Việt Nam có thể vận dụng một trong hai mô hình: hội đồng nội kiểm phổ biến ở các nước Bắc Mỹ và hội đồng Giám định viên kế toán áp dụng phổ biến cho các khu vực kinh tế Nhà nước ở một số nước Tây Âu. Tuy nhiên, đó chỉ là những cơ sở cho việc thiết lập mẫu tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ riêng cho từng nước. Tuỳ thuộc vào điều kiện đặc diểm kinh tế xã hội khác nhau, cũng trong quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam được Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành theo quy định số 03/ 1997-NHNN3 ngày 3-1-1998, thì tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ áp dụng ở các tổ chức tín dụng Việt Nam như sau: "Tất cả các tổ chức tín dụng: ngân hàng quốc doanh bao gồm cả ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửu long, NHTM cổ phần, các công ty tài chính (cả công ty 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh với nước ngoài tại Việt nam, công ty cho thuê tài chính), các ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách tại trụ sở chính và các đơn vị thành viên, bộ máy này trực thuộc Tổng Giám đốc (Giám đốc)”. 1.4. Một số tiền đề hiện nay cho hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. *Về nhân sự: Mặc dù kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng là hoạt động còn mới mẻ đối với tình hình hoạt động hoạt động kinh tế Việt Nam, tuy nhiên đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm toán đã được trang bị hoặc tự mình trang bị kiến thức chuyên môn mọi mặt để từng bước hoàn thiện công tác kiểm toán. Ngoài ra, cũng có một bộ phận không nhỏ các chuyên gia, nhân viên nước ngoài đang làm cong tác kiểm toán nội bộ cho các ngân hàng tại Việt Nam, bộ phận này với kinh nghiệm của họ cũng giúp cán bộ kiểm toán Việt Nam học tập, trao đổi, nâng cao nghiệp vụ kiểm toán. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm toán nội bộ được hình thành và phát triển taị Việt Nam. *Về hành lang pháp lý: Qua nhiều năm chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung, luật pháp Việt Nam, ngày càng tự hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Tháng 1/1994, chính phủ ban hành các quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Các chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận tại Mỹ, các chuẩn mực kiểm toán quốc gia và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng được phổ biến rộng rãi. Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản dưới luật về hoạt động nân hàng và hệ thống kế toán ngân hàng thống nhất cũng đã ra đời và đang được bổ sung thành luật. Mặc dù hành lang pháp lý của Việt Nam chưa đầy đủ nhưng đây vẫn là những tiền đề cho sự ra đời các chuẩn mực kiểm toán nội bộ của ngân hàng Việt Nam. II. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. 2.1. Thực trạng hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại. 2.1.1. Kết quả đạt được. Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ đã được Hội đồng quản trị, Ban giám đốc các ngân hàng thương mại chú ý quan tâm xây dựng và củng cố. Trước hết, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các ngân hàng thương mại đã chú trọng tới việc tạo ra môi trường kiểm soát mạnh, trong đó khuyến khích các chuẩn mực cao về đạo đức, làm cho các nhân viên ở tất cả các cấp hiểu rõ tầm quan trọng của kiểm tra nội bộ, hiểu về vai trò của mình trong cơ chế kiểm tra nội bộ. Thông thường, để đề cao các giá trị đạo đức, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các ngân hàng thương mại đề ra chính sách và các quy trình của ngân hàng ngăn ngừa hạn chế các động cơ hoặc ham muốn thực hiện các hành vi không được phép. Ví dụ như nhấn mạnh quá mức các mục tiêu thành tích, đặc biệt những thành tích ngắn hạn, bỏ qua các rủi ro đài hạn, cơ chế thù lao phụ thuộc quá nhiều vào khối lượng (dư nợ tín dụng), bỏ qua vấn đề chất lượng (nợ quá hạn, nợ khó đòi)... Thứ hai, cùng với sự chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc các ngân hnàg thương mại đã thường xuyên rà soát cơ chế nghiệp vụ của những lĩnh vực hoạt động quan trọng như lĩnh vực tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ...để phát hiện những điểm yếu của qui trình nghiệp vụ hoặc những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát chưa được nhận biết, chưa có biện pháp kiểm soát thoả đáng phòng ngừa, hay nhận biết những rủi ro mới trong điều kiện kinh doanh thay đổi, trên cơ sở đó mà bổ sung biện pháp nghiệp vụ, xây dựng qui trình mới hoàn thiện hơn. Thứ ba, Hôi đồng quản trị và Ban giám đốc bước đầu đã nhận thức được sự cần thiết của việc thường xuyên có sự kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với cơ chế kiểm tra nội bộ gắn với qui trình (hay quá trình). Do đó, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc đã quan tâm xây dựng và tạo điều kiện họat động cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách của ngân hàng , coi bộ phận này như là “cánh tay vươn dài” của lãnh đạo. Bộ máy tổ chức của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách liên tục được hoàn thiện, củng cố. Số lượng cán bộ là công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách không ngừng nâng cao về số lượng và chất lượng. Số lượng cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách. Ví dụ: tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách từ khi mới thành lập có 576 cán bộ, chiếm tỷ lệ 2,1% tống số cán bộ. Số kiểm tra viên có trình độ đại học là 247 người, chiếm tỷ lệ 43% tổng số kiểm tra viên. Đến 31/12/2000, số kiểm tra viên là 813 người, chiếm tỷ lệ 3,54% tổng số cán bộ và số kiểm tra viên có trình độ đại học là 476 người, chiếm tỷ trọng 59% số kiểm tra viên. Trong những năm qua, hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ góp phần bảo đảm an toàn tài sản của ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh góp phần quan trọng và phát triển của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ kịp thời phát hiện những thiếu sót, sơ hở trong quản lý, những chỗ bất hợp lý trong cơ chế điều hành và hoạt động vi phạm chế độ. Trên cơ sở đó, kiểm toán nội bộ tư vấn, đóng góp ý kiến với ban lãnh đạo và bộ phận nghiệp vụ để khắc phục những yếu kém trong hoạt động nghiệp vụ, hoặc có biện pháp xử lý thích hợp với những sai phạm, như vậy đã ngăn ngừa được rủi ro, tổn thất có thể xảy ra; đồng thời cũng có tác động tốt đến ý thức, trách nhiệm hay nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên ngân hàng. Tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thônViệt Nam, riêng trong năm 2000, bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ đã tổ chức được 4411 cuộc kiểm tra, trong đó có 2044 lượt kiểm tra về tín dụng, 1462 lượt kiểm tra về kế toán và 905 lượt kiểm tra khác. Số vụ việc phá hiện qua kiểm tra là 29 vụ, 73 cán bộ vi phạm với số tiền vi phạm 6039 triệu đồng. Thông qua công tác đặc thù của mình, kiểm toán nội bộ góp phần đưa ngân hàng hoạt động có nề nếp, có kỷ cương kỷ luật, tuân theo quy định nội bộ, ngăn ngừa các sai phạm phát sinh. Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách đã và đang tích cực giúp các nhà điều hành kịp thời nắm bắt tình hình để xử lý tình huống xấu, hoặc hoạch định chiến lược kinh doanh trong tương lai. 2.1.2. Hạn chế. Qua thực tiễn về những rủi ro, tổn thất mà các ngân hàng thương mại gặp phải trong những năm gần đây, chúng ta nhận thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng nhìn chung còn bộc lộ nhiều yếu kém , hoạt động chưa thật hiệu quả. Một là, những vi phạm (vi phạm đạo đức nghề nghiệp – thoái hoá biến chất, trình độ nghiệp vụ yếu kém – bị khách hàng lừa đảo, sự câu kết thông đồng,...) của một số cán bộ, nhân viên ngân hàg không được hệ thống kiểm soát nội bộ phát hiện kịp thời, hoặc đã phát hiện nhưng không được ban lãnh đậo ngân hàng xử lý kịp thời. Tuy nhiên, có những trường hợp vi phạm đượcc phát hiện sau khi kiểm toán (do các cơ quan kiểm toán bên ngoài thực hiện) đã khuyến cáo cho ban lãnh đạo ngân hàng biết nhưng cũng không được xử lý kịp thời dẫn đến thất thoát hàng ngàn tỷ đòng như Tamexco, Epco,...gây thiệt hại không nhỏ cho ngành ngân hàng. Nguyên nhân của những tồn tại này do: Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo các ngân hàng thương mại chưa làm hết trách nhiệm, chưa nhận biết được rủi ro và mức độ tác động của những rủi ro đó, nên không có biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp . Công tác tổ chức cán bộ làm chưa tốt, trong phân công lao động chưa quán triệt các nguyên tắc kiểm soát như phân tách chức năng, bất kiêm nhiệm, phê chuẩn và uỷ quyền. Đặc biệt, thiếu vắng hoặc không có chất lượng trong công tác kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, khách quan của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ nằm ngoài qui trình với cơ chế kiểm soát gắn với qui trình nghiệp vụ (hoặc gắn với quá trình hoạt động của một đơn vị, bộ phận nào đó). Nguyên nhân này lại xuất phát từ hnàg loạtt vấn đề trong mô hình tổ chức và hàng loạt vấn đề quan trọng nhất như: tính độc lập không đảm bảo, trình độ còn thấp về kỹ năng nghiệp vụ, về kỹ thuật kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ. Một thực tế hết sức nguy hại cho các ngân hàng thương mại hiện nay là các nhân viên thuộc bộ máy phận này nhiều trường hợp là các nhân viên không đủ năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức của các bộ phận khác chuyển sang (có thể có cả những nhân viên bị kỷ luật, thành phần tiêu cực,...). Hai là, cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn với quy trình nghiệp vụ của ngân hàg thương mại chưa mạnh, còn sơ hở, chưa đủ đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn có hiệu quả. Lấy ví dụ , quy chế nghiệp vụ cho vay hiện nay ở các ngân hàng thương mại còn có nhiều yếu điểm sau: Chưa thực hiện phân tách chức năng hoàn toàn: Cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng là cán bộ ngân hàng đầu tiên thẩm định hồ sơ xin vay vốn, và cũng chính là cán bộ kiểm tra quả trình sử dụng vốn vay của khách hàng sau khi giải ngân; là cán bộ tiếp nhận, quản lý mọi nguồn thôn tin của khách hàng. Với quy trình nghiệp vụ này, trường hợp một khoản cho vay sai do trình độ nghiệp vụ kém, do thông đồng giữa cán bộ tín dụng và khách hàng, do thông đồng giữa cán bộ tín dụng với Ban lãnh đạo ngân hàng duyệt khoản khoản vay sẽ không được ngăn ngừa, không được sửa sai kịp thời. Để khắc phục điểm yếu đó trong quy trình nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thương mại cân tổ chức riêng một bộ phận thu nhận, quản lý thông tin khách hàng, theo dõi và đánh giá mọi quan hệ kinh tế giữa đơn vị ngân hàng với khách hàng. Bộ phận này cũng được quyền nhận báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay sau khi giải ngân của cán bộ tín dụng. Bộ phận thu nhận, quản lý thông tin khách hàng cần do một phó giám đốc phụ trách hoạt động tín dụng để thực hiện phân tách chức năng trong hoạt động từ cấp cơ sở đến cấp lãnh đạo cao nhất của ngân hàng. Trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, có những nhóm khách hàng mà giữa họ có những mối quan hệ rất đặc biệt chi phối lẫn nhau. Ví dụ: chi phối về vốn điều lệ, chi phối về quan hệ gia đình thân thiết của các thành viên ban lãnh đạo, chi phối về thị trường... Do những mối quan hệ đặc biệt như vậy, rủi ro trong quá trìnhhoạt động có thể xảy ra đồng loạt, hoặc dây chuyền ở tất cả các khách hàng trong nhóm. Vì vậy, trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại cần nghiên cứu và quy định nhhững trường hợp cụ thể điển hình mà ở đó một nhóm khách hàng cần phải quy về một đối tượng khách hàng, đồng thời quy định hạn mức tín dụng tối đa cho đối tượng khách hàng này nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Hiện nay, trong quy chế nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại mới đưa ra giới hạn tối đa cho vay một khách hhàng là 15% vốn tự có. Nếu giả thiêt có một nhóm 5 doanh nghiệp cổ phần, cong ty trách nhiệm hữu hạn có quan hệ về vốn điều lệ (trên 50%) chi phối lẫn nhau. Rủi ro trong hoạt động có thể xảy ra dây chuyền ở tất cả 5 doanh nghiệp trong nhóm, trong khi đó tổng dư nợ tín dụng mà một ngân hàng thương mại có thể quan hệ với nhóm khách hàng này là 75% vốn tự có của ngân hàng. Như vậy, tiềm ẩn rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là rất lớn. Chưa có sự cộng tác tốt giữa các cơ quan giám sát ngân hàng (thanh tra ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi), kiểm toán từ bên ngoài và kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại, dẫn tới công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây phiền nhiễu cho các ngân hàng thương mại, lãng phí thời gian, công sức, tiền của. Trong khi đó, nhiều lĩnh vực hoạt động, bộ phận của ngân hàng thương mạivẫn bị bỏ trống không được kiểm tra, đánh giá một cách độc lập khách quan. Trong những năm vừa qua, có thể thấy hiện tượng sau: Tại một thời điểm, tại một ngân hàng thương mại quốc doanh, thậm chí tại một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh vừa có sự kiểm tra của thanh tra ngân hàng Nhà nước vừa có kiểm toán của kiểm toán Nhà nước và theo luật tổ chức tín dụng, hằng năm báo cáo quyết toán của đơn vị ngân hàng thương mại còn phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập. Mỗi đơn vị này có chương trình và nội dung kiểm tra riêng đòi hỏi ngân hàng thương mại phải đáp ứng. 2.2. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các quỹ tín dụng. Cho đến nay, quỹ tín dụng nhân dân còn chưa có một tổ chức tư vấn, kiểm tra, kiểm toán của riêng mình. Ngân hàng Nhà nước vẫn là nơi ban hành các văn bản dưới luật về hoạt động quỹ tín dụng nhân dân, là nơi cấp giấy phép, quản lý thanh tra giám sát đối với quỹ tín dụng nhân dân. Nhưng Ngân hàng Nhà nước hiện nay không chỉ giám sát cả hệ thống mà trên thực tế vẫn giám sát, thanh tra tại chỗ và quản lý đối với từng quỹ tín dụng nhân dân một. Chỉ trên góc độ quy mô, tổ chức và chi phí, công tác thanh tra, giám sát các quỹ tín dụng nhân dân hiện nay vẫn còn hạn chế, không hữu hiệu và nhiều bất cập. Thanh tra, giám sát mớichỉ đừng ở chỗ thu thập thông tin báo cáo để giám sát từ xa và khi thanh tra tại chỗ vẫn nặng về kiểm tra, tìm cho ra chỗ sai mà chưa phân tích được nguyên nhân để tư vấn. Mặc dù đã có quy định kiểm toán bắt buộc đối với các quỹ tín dụng theo luật hợp tác xã và luật các tổ chức tín dụng, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Phần III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. Do đặc điểm hoạt động ngân hàng, hơn bất cứ mọt loại hình doanh nghiệp nào khác, các ngân hnàg thương mại cần phải kiện toàn hệ thống kiểm soát nội bộ của mình. Đây là công cụ quản lý cơ bản để Hội đồng quản trị và Ban giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng một cách chắc chắn, an toàn và hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả công tác của hệ thống kiểm soát nôi bộ các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, cần phải có một hệ thống các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, từ bản thân các ngân hàng thương mại. Một số giải pháp sau: Thứ nhất, các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, ngân hang Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính...nên sử dụng thuật ngữ có nội dung thóng nhất khi dề cập đến kiểm toán nội bộ, để loại trừ sự hiểu nhầm, nhận thức không đúng. Hiện nay, theo các Điều 41, 42, 43 trong luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998, cũng như theo Nghị định số 49/2000/NĐ - CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết định số 122/2001 đều qui định về việc ngân hàng thương mại phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách thuộc bộ máy điều hành của Tổng giám đốc (Giám đốc). Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách có từ trụ sở chính đếncác sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, công ty trực thuộc để giúp Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng. Qui định nói trên trong luật và văn bản dưới luật đã ảnh hưởng tới mô hình tổ chức của ngân hàng thương mại. Như việc lập thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách của ngân hàng thương mại có xu hướng chia làm hai bộ phận nhỏ: bộ phận kiểm tra và bộ phận kiểm toán nội bộ. Bộ phận kiểm tra thông thường kiểm tra về các hoạt động liên quan đến tài sản như nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh... bộ phận kiểm toán thông thường kiểm tra họat động tài chính. Nhìn chung, việc phân chia chức năng nhiệm vụ của 2 bộ phận thường không phân định rõ ràng, chồng chéo, trong khi đó một số lĩnh vực hoạt động và kinh doanh của ngân hàng bị bỏ trống không được kiểm tra, đánh giá. Hiện nay, ở Việt Nam, một số quan điểm cho rằng kiểm toán báo cáo tài chính, chứ không bao giờ kiểm toán hoạt động và kiêm toán tuân thủ. Một số người lại nhầm lẫn giữa cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ được với quá trình hoạt động và kinh doanh và do chính cán bộ nghiệp vụ thực hiện cả ba chức năng : kiểm tra, đánh giá và tư vấn. Đồng thời, kiểm toán nội bộ thực hiện cả ba loại kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiêm toán tuân thủ. Kiểm toán nội bộ có trách nhiệm kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm sóat nội bộ như kiểm tra cơ cấu tổ chức và qui trình hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng, kiểm tra ban điều hành các bộ phận nghiệp vụ, kiểm tra tính hiệu quả của các qui trình nghiệp vụ của ngân hàng và đưa ra kiến nghị chấn chỉnh để làm tăng hiệu quả các qui trình hoạt động và các cơ chế kiểm tra trong ngân hàng trước những mất mát. Mục đích, vai trò và vị trí của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong cơ cấu quản lý doanh nghiệp như trên đãđược trình bày rõ trong quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 về quy chế kiểm toán nội, trong thông tư số 52/1998/TT – BTC ngày16/4/1998 – hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp Nhà nước (hướng dẫn thực hiện Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của chính phủ). Từ sự phân tích trên chỉ cần dùng cụm từ “kiểm toán nội bộ” cho công tác kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, khách quan về hệ thống thông tin quản lý của ngân hàng là đủ. Thứ hai, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các ngân hàng thương mại cần quan tâm và có trách nhiệm cao trong việc xây dựng môi trường kiểm soát tốt thông qua một số các biện pháp cụ thể như sau: Khuyến khích các chuẩn mực cao về đạo đức, tính tuân thủ các nguyên tắc kiểm sát nội bộ của cán bộ, không khen thưởng và dề bạt những cán bộ lãnh đạo dã nhất thời kinh doanh thu dược nhiều lợi nhuận nhưng không đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc kiểm tra nội bộ, hoặc không kịp thời sửa chữa những sai phạm mà bộ phận kiểm toán nội bộ đã chỉ ra. Có thái độ ủng hộ bằng lời nói, thái độ, đặc biệt là những tiêu chí về tiền lương và cơ hội đề bạt đối với những cán bộ công tác tại bộ phận kiểm toán nội bộ. Tổ chức cơ cấu họat động của ngân hàng một cách khoa học, trong đó sự phân công phân nhiệm cho các đơn vị, bộ phận, cán bộ được quy định rõ ràng. Thứ ba, ban giám đốc cần phân tích từng lĩnh vực kinh doanh để nhận biết và đánh giá rủi ro một cách đầy đủ, đặc biệt khi ngân hàng hoạt động ở lĩnh vực mới, kinh doanh mọt loại sản phẩm mới hoặc môi trường kinh doanh có sự thay đổi. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm sát gắn với quy trình nghiệp vụ đầy đủ, hiệu quả. Trong đó Ban giám đốc cần chú trọng thiết lập hệ thóng quản lý rủi ro dể thường xuyên nhận biết, đánh giá, điều tiết, giám sát rủi ro. Thứ tư, xây dựng và củng cố bộ phận kiểm toán nội bộ để nó hoạt động có chất lượng và hiệu qủa. Muốn vậy, Ban giám đốc cần giải quyết một lọat các vấn đề sau: *Về mô hình, tổ chức của bộ phận kiểm toán nội bộ: Việc tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ như thế nào tuỳ thuộc vào quy mô. Lĩnh vực kinh doanh, địa bàn hoạt động, cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần cân nhắc xem họ cần tổ chức theo mô hình nào là hợp lý nhất. Đối với các ngân hàng thương mại có từ hai cấp trở lên, hoạt động rộng rãi khắp trên cả nước thì bộ phận kiểm toán nội bộ nên tổ chức làm hai cấp. Cấp trụ sở chính: có ban kiểm toán nội bộ. Đứng đầu là trưởng ban kiểm toán nội bộ và là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về điều hành hoạt động của kiểm toán nội bộ. Ban kiểm toán nội bộ ở trụ sở chính có các bộ phận kiẻm toán chuyên ngành như: bộ phận kiểm toán kinh doanh ngoại hối, bộ phận kiểm toán tín dụng, bộ phận kiểm toán đầu tư XDCB và TSCĐ, bộ phận kiểm toán hoạt động hoạt động kế toán tài chính và hoạt động kinh doanh khác, bộ phận kiểm toán điện toán. Ban kiểm toán có nhiệm vụ điều hành hoạt động chung của hệ thống kiểm toán nội bộ, chỉ đạo về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, xây dựng các kế hoạch chiến lược về kiểm toán nội bộ cho cả hệ thống và kế hoạch chi tiết cho hoạt động kiểm toán của ban kiểm toán nội bộ. Thực hiện các cuộc kiểm toán theo kế hoạch đề ra tại trụ sở chính và tổ chức, cũng như là trực tiếp tham gia các cuộc kiểm toán tại các chi nhánh. Cấp chi nhánh (hoặc cấp tỉnh, thành phố): có phòng kiểm toán nội bộ. Phòng kiểm toán có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch chiến lược về kiểm toán trong chi nhánh mình và kế hoạch chi tiết để đảm bảo tất cả các bộ phận, các hoạt động nghiệp vụ, các đơn vị trực thục sau một thời gian tối thiểu phải được kiểm toán. Thực hiện kiểm toán theo kế hoạch đề ra. Đồng thời, tham gia các cuộc kiểm toán do ban kiểm toán tại trụ sở chính tổ chức để kiểm toán chéo chi nhánh bạn. *Về bố trí nhân sự và đào tạo cán bộ cho bộ phận kiểm toán nội bộ: Ban giám đốc cần bố trí nhân sự và cơ sở vật chất cho bộ phận kiểm toán nội bộ về số lượng cũng như chất lượng phải tương xứng với hình thức và qui mô công việc của họ. Cần phải đảm bảo kiểm toán viên nội bộ luôn có một trình độ nghiệp vụ phù hợp với bước phát triển mới nhất trong quá trình hoạt động và kinh doanh được kiểm toán. Họ phải có kiến thức chuyên môn được cập nhật về kiểm toán và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực được kiểm toán. Như vậy họ mới có thể thực hiện được công tác kiểm toán nội bộ một cách đúng đắn và hiệu quả. Cần phải hình thành một mô hình đào tạo thường xuyên và kiểm tra chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ. Công tác đào tạo kiểm toán viên nội bộ được tiến hành trên các lĩnh vực. Kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng, kiến thức về pháp luật, kiến thức về kinh tế, kiến thức chuyên môn về lĩnh vực kiểm toán, kiến thức về tin học, ngoại ngữ. Kỹ năng kiểm toán. Kỹ năng giao tiếp. *Đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên: Kiểm toán nội bộ thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự chủ và độc lập. Kiểm toán nội bộ không chịu bất cứ một sự chỉ đạo nào trong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá kết quả kiểm toán. Các kiểm toán viên làm việc thường xuyên tại các chi nhánh, hưởng lương tại chi nhánh vẫn chịu sự quản lý và điều hành của ban kiểm toán nội bộ toàn hệ thống ngân hàng, do ban tổng giám đốc quyết định về tiền lương hay đề bạt của giám đốc, thuyên chuyển công tác mà không chịu sự can thiệp về tiền lương, đề bạt của giám đốc chi nhánh, kiểm toán tại những bộ phận, đơn vị có người thân của mình công tác. Đảm bảo sự phân tách chức năng: không được giao nhân viên kiểm toán nội bộ thực hiện nhhững nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm toán như tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động nghiệp vụ. Kiểm toán nội bộ phải có một vị trí phù hợp trong nội bộ ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của mình một cách độc lập. *Vị thế của kiểm toán nội bộ ngân hàng: Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc trực tiếp Ban giám đốc ngân hàng, chịu sự chỉ đạo của ban Tổng giám đốc ngân hàng, chịu sự chỉ đạo của ban tổng giám đốc chứ không phải từ bất cứ một cấp bậc nào khác. Ban kiểm toán trong những trường hợp phát hiện sai phạm nghiêm trọng, hoặc phát hiện sai phạm của thành viên ban tổng giám đốc có quyền báo cáo trực tiếp cho ban kiểm toán cấp trên, không cần sự chấp thuận của giám đốc chi nhánh. Bộ phận kiểm toán nội bộ có quyền được nhận thông tin về những nghị quyết của Ban giám đốc đối với từng hoạt động kinh doanh. Bộ phận kiểm toán nội bộ được quyền tiếp cận khôn hạn chế các hồ sơ, thông tin tại các bộ phận được kiểm toán. Các qui chế về tổ chức, hoạt động trước khi công bố được gửi cho bộ phận kiểm toán nội bộ để xin ý kiến. *Xây dựng kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán cần định hướng rủi ro: Hoạt động kiểm toán vcủa kiểm toán nọi bộ phải bao trùm lên mọi qui trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có lưu ý đến quy mô và mức độ rủi ro của các hoạt động kinh doanh. Kiểm toán nội bộ cần xây dựng kế hoạch kiểm toán dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Việc lập kế hoạch kiểm toán phải định hướng theo mức độ rủi ro. Đối với kế hoạch dài hạn cần đảm bảo mọi qui trình hoạt động và kinh doanh cũng như các bộ phận đóng ngoài trụ sở chính phải được kiểm toán sau một khoảng thời gian thích hợp: Đối với hoạt động có nhiều rủi ro, những lĩnh vực trọng yếu thì phải được kiểm toán hằng năm, còn lại phải được kiểm toán ít nhất 3 năm / 1 lần. Kế hoạch kiểm toánphải được Ban giám đốc phê duyệt và được ghi chép đầy đủ thành văn bản. những điều chỉnh cơ bản trong kế hoạch kiểm toán phải được sự phê duyệt của ban giám đốc. Phải thường xuyên rà soát lại và khôn ngừng hoàn thiện công tác lập kếhoạch, phương pháp kiểm toán và chất lượng kiểm toán. Chu kỳ kiểm toán không đều đặn để các đơn vị kiểm toán không thể đối phó với kế hoạch kiểm toán. Ngoài ra, cần phải đảm bảo sao cho bất cứ lúc nào cũng có thể tiến hành kiểm toán đặc biệt ngoài kế hoạch (nếu cần thiết) khi các sai phạm đã trở nên rõ ràng hoặc khi có yêu cầu về thông tin nhất định. *Thay đổi phương pháp kiểm toán: Lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp tuỳ theo mục đích yêu cầu của kiểm toán. Phương pháp kiểm toán chung nên theo hướng chuyển dịch trọng tâm kiểm toán từ kiểm toán kiểm toán từng trường hợp riêng lẻ sang kiểm toán hệ thống và kiểm toán chức năng như: kiểm toán tổ chức qui trình hoạt động, kiểm toán việc quản lý và điều tiết rủi ro, cũng như tính hiệu lực và hiệu quả của cơ chế kiểm tra nội bộ cài đặt trong các qui trình hoạt động vàkinh doanh của ngân hàng. Cần phải xây dựng các bảng mẫu câu hỏi để sử dụng trong kiểm toán, giúp kiểm toán viên nhanh chóng xác định những điểm yếu của lĩnh vực kiểm toán. Thứ năm, cần có sự cộng tác tốt hơn giữa cơ quan giám sát ngân hàng, với kiểm toán từ bên ngoài, với kiểm toán nội bộ. Ví dụ, thanh tra ngân hàng cần thay đổi phương pháp công tác của mình: Tăng cường thanh tra thông qua phươn pháp giám sát từ xa, thanh tra ngân hanàg nên định kỳ trao đổi với kiểm toán nội bộ của ngân hàng để có thể bàn bạc về các lĩnh vực rủi ro đã được xác định và về biện pháp hạn chế rủi ro. Thanh tra ngân hàng có thể yêu cầu các tổ chức tín dụng khi ký hợp đồng kiểm toán báo cáo quyết toán năm với công ty kiểm toán độc lập: yêu cầu công ty kiểm toán độc lập phải phát hành một “Thư quản lý”, trong đó đề cập những điểm yếu kém liên quan đến hệ thống. Kế toán cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, làm rõ những sai phạm nghiêm trọng trong năm hoạt động. “Thư quản lý” của công ty kiểm toán độc lập cùng với báo cáo kiểm toán quyết toá năm không chỉ nộp cho đơn vị ngân hàng thương mại được kiểm toán mà còn phải nộp cho thanh tra ngân hàng. Kết thúc cuộc kiểm toán, thanh tra ngân hàng có thể thảo luận yêu cầu kiểm toán từ bên ngoài cho biết sự đánh giá của họ về hệ thống kiểm toán nội bộ, về kiểm toán nội bộ của ngân hàng thương mại được kiểm toán, cũng như báo cáo về những rủi ro sai sót nghiêm trọng được phát hiện qua kiểm toán mà đơn vị ngân hàng thương mại cần có biện pháp khắc phục ngay. Trong trường hợp đột xuất, cần thiết: ví dụ, nếu có biểu hiện sai phạm nghiêm trọng trong khi đó kiểm toán nội bộ của ngân hàng thương mại yếu kém, thanh tra ngân hàng mới nên thực hiện thanh tra thanh tra tại chỗ. Đồng thời, khi thanh tra tại chỗ, cán bộ thanh tra ngân hàng Nhà nước cần phải là những chuyên gia về chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng, có kỹ năng kiểm tra, thanh tra để phát hiện nhanh bản chất vấn đề sai phạm, tránh gây phiền hà cho đơn vị ngân hàng. Chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung, của bộ phận kiểm toán nội bộ nói riêng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng lớn đến hiệu quả, an toàn hoạt động của đơn vị ngân hàng thương mại. Để hoạt động này ngày càng tốt, hoàn thiện thì bản thân từng ngân hàng thương mại , và các cơ quan giám sát ngân hàng cần phải giải quyết nhiều vấn đề toàn diện hơn. Kết luận Kiểm toán hình thành và phát triển trong bối cảnh chuyển đổi nền nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình cải cách hành chính quốc gia thể hiện rất rõ một nhu cầu không thể thiếu được của kiểm toán đặc biệt là kiểm toán hoạt động, trong đó kiểm toán nội bộ chủ yếu thực hiện chức năng này. Kiểm toán nội bộ với vai trò là một bộ phận chức năng giúp Giám đốc và cấp lãnh đạo ngân hàng kiểm toán, xác nhận và đánh giá toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận, phòng ban trong hệ thống. Kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ nhưng phù hợp với điều kiện mới của Quốc gia và thông lệ Quốc tế, nó thay thế cho hệ thống kiểm tra kế toán thời bao cấp trước đây nhưng nội dung và phương pháp nghiệp vụ chắc chắn là toàn diện và tiên tiến hơn nhiều. Kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng là một bộ phận, một lĩnh vực của kiểm toán nội bộ. Vậy muốn khẳng định được tiếng nói của mình, kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng nói riêng phải làm gì? Bằng mọi cách phát huy nội lực của mình, phải vận động hết mình, tăng cường trí tuệ, sáng tạo trong việc thâm nhập vào thế giới kiến thức hiện đại để làm chủ hành vi, tư duy, khả năng độc lập sẵn có của mình, xây dựng một hệ thống kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường, cụ thể trong các tổ chức tín dụng. Việc một số doanh nghiệp nhà nước, một số công ty và các tổ chức kinh tế phải giải thể bộ máy kiểm toán nội bộ trong thời gian qua chứng tỏ việc chưa quan tâm đúng mức của Nhà nước, đặc biệt là việc tạo ra hành lang pháp lý chưa đủ mạnh và còn nhiều thay đổi, chưa thống nhất. Bên cạnh đó cũng chứng tỏ sự non kém trong trình độ và nhận thức của các cán bộ kiểm toán, sự thiếu bản lĩnh của cấp lãnh đạo đơn vị. Bởi lẽ quy luật cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường do đó bất kì một chủ thể kinh tế nào thiếu bản lĩnh, thiếu can đảm và sáng suốt trong kinh doanh khó có thể giữ được vị thế và uy tín của mình trên thị trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động này, một phần muốn tìm hiểu thêm về hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng, em đã chọn đề tài: "Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ". Để những đóng góp của hệ thống kiểm toán nội bộ đối với sự phát triển của các tổ chức tín dụng thực sự có ý nghĩa, hệ thống này cần phải được xây dựng và phát huy, mặt khác những tồn tại, hạn chế sẽ được tháo gỡ, loại bỏ. Tài liệu tham khảo I- Các tạp chí: 1. Tạp chí kiểm toán. 2. Tạp chí kế toán. 3. Thời báo ngân hàng. 4. Tạp chí ngân hàng. 5. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. II-Các loại sách: 1. Kiểm toán nội bộ. 2. Kiểm toán Auditing. 3. Kiểm toán cơ bản. III-Các văn bản pháp quy của Nhà nước: 1. Luật Ngân hàng Nhà nước. 2. Luật các Tổ chức tín dụng. 3. Quy chế mẫu về tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. IV-Các tài liệu khác. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35620.doc
Tài liệu liên quan