Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại tổng công ty muối Việt Nam

Giai đoạn này là giai đoạn cuối của một cuộc kiểm toán và đánh dấu hiệu quả cũng như kết quả của một cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên nội bộ cần phải thực hiện các thủ tục sau: Khi kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của đơn vị. Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Tổng Giám đốc Tổng Công ty; tùy theo tính chất kiểm toán, Tổng Giám đốc quyết định việc ban hành và công bố báo cáo kiểm toán nội bộ. Riêng đối với báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị về lập và công khai báo cáo tài chính năm của các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Muối Việt Nam tại Văn bản số 210MVN/HĐQT ngày 25/06/1998 của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Muối Việt Nam. Phúc tra kết quả kiểm toán: Là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra việc triển khai thực hiện những kiến nghị, đề xuất xử lý và những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán. Như vậy, với các thủ tục và trình tự kiểm toán có tính chất bắt buộc như trên sẽ là cơ sở đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được thực hiện một cách nghiêm túc và tuân thủ theo đúng các chuẩn mực đề ra về kiểm toán nội bộ, nó cũng là yếu tố dẫn đến và đảm bảo cho sự thành công của cuộc kiểm toán nội bộ

doc102 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại tổng công ty muối Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc điểm với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Muối, cũng như đặc điểm của bộ phận kiểm toán nội bộ là chức năng giám sát và bày tỏ ý kiến về công tác quản trị doanh nghiệp cùng với Ban giám đốc. * Quyền hạn của kiểm toán nội bộ: Yêu cầu về quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ phải phù hợp với địa vị của nó trong tổ chức để đảm bảo việc hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ được giao. Về vấn đề này có thể nêu những yếu tố về quyền hạn cần có sau: Kiểm toán nội bộ phải được giao cho một quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm toán toàn bộ các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ được phép thực hiện các cuộc kiểm toán của mình phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp trong mọi trường hợp. Kiểm toán nội bộ được quyền sử dụng mọi hồ sơ, thông tin và gặp gỡ tiếp xúc với các đối tượng liên quan để thu thập bằng chứng làm sáng tỏ các vấn đề trong khi thực hiện kiểm toán. Đối với hệ thống kiểm toán nội bộ được xây dựng tại Tổng Công ty Muối Việt Nam, bên cạnh việc xây dựng quy chế về quyền hạn của bộ phận này tuân theo các yêu cầu chung nêu trên, có thể thêm một số quyền hạn sau để bộ phận này phát huy hết vai trò của mình trong công việc kiểm toán nội bộ, đó là: Bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Muối được quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên để phục vụ cho công tác kiểm toán. Được độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng khác. Được kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong Tổng Công ty và các đơn vị thành viên nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý, điều hành của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán. Với những quyền hạn nêu trên thì hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ có đủ các điều kiện để thực hiện công việc kiểm toán nội bộ của mình, đồng thời trong quy chế về quyền hạn nêu trên cũng phần nào hạn chế sự hách dịch có thể có đối với bộ phận này, đó là việc giới hạn kiến nghị của kiểm toán nội bộ chỉ ở góc độ xây dựng, mọi quyết định vẫn là ở người lãnh đạo đơn vị. Trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối, cần thiết phải có đầy đủ những yếu tố trên trong Quy chế hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. * Nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ. Theo đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh và tính chất công việc kiểm toán cần thực hiện tại Tổng Công ty Muối, bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ sau: Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo quản trị trước khi trình ký duyệt. Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt là sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, Ban (Tổng) giám đốc ở Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Phát hiện những tồn tại, sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Tư vấn về công tác tài chính, kế toán; tham gia hướng dẫn về nghiệp vụ tài chính, kế toán. Như vậy, với những nhiệm vụ trên đã đảm bảo cho hệ thống kiểm toán nội bộ thực hiện các công việc chuyên trách của mình một cách hợp lý và kịp thời, trước khi các báo cáo được trình ký, đồng thời nhiệm vụ cũng bao hàm cả các vấn đề về kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ. Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đó nghĩa là hệ thống kiểm toán nội bộ đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu đề ra đối với một hệ thống kiểm toán nội bộ. Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Muối hiện nay, các nhiệm vụ đặt ra như trên đối với bộ máy kiểm toán nội bộ là tương đối hoàn thiện nhưng cũng không ít nặng nề, đòi hỏi bộ máy kiểm toán nội bộ phải nỗ lực hết sức mới có thể hoàn thành các nhiệm vụ đề ra này. Trong quá trình phát triển, theo từng trường hợp phát triển và thay đổi cụ thể mà có thể bổ sung hoặc giảm bớt nhiệm vụ cho bộ phận này, hoàn thiện nhiệm vụ cho bộ phận này là một thuộc tính mở trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối. * Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. Để thực hiện chức năng chuyên trách của mình, hệ thống kiểm toán nội bộ đòi hỏi phải có một hành lang hoạt động, hay nói một cách khác đó chính là phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ có liên quan đến chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, chúng là các mặt của một vấn đề, có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ tương đối với nhau, bổ sung cho nhau, phát huy cho nhau và hoàn toàn không xung đột với nhau. Hiện nay, do Tổng Công ty Muối có 15 đơn vị thành viên trong đó có 12 đơn vị thành viên hạch toán độc lập và 3 đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, với các chức năng và nhiệm vụ nêu trên, theo thực tế của Tổng Công ty, kiểm toán nội bộ phải thực hiện công việc kiểm toán của mình trong phạm vi sau: Kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của Tổng Công ty. Kiểm toán hoạt động. Kiểm toán tuân thủ. Với phạm vi hoạt động đó, kiểm toán nội bộ đã bao quát toàn bộ công việc kiểm toán của một hệ thống kiểm toán nội bộ, công việc đó không phải là ít. Với một đội ngũ kiểm toán viên như thiết lập thì bộ máy kiểm toán nội bộ chắc chắn sẽ phải cố gắng rất nhiều mới có thể hoàn thành được một khối lượng công việc như vây. Đồng thời, để tạo tính mở trong hệ thống, có thể Quy chế kiểm toán nội bộ nên quy định thêm về việc Tổng Công ty và các đơn vị thành viên hạch toán độc lập có thể thuê các Công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc các Công ty kiểm toán độc lập khác hoạt động hợp pháp tại Việt Nam thực hiện toàn bộ hay từng phần cuộc kiểm toán. c) Xây dựng các mối liên hệ trong hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam. Yêu cầu đối với việc tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ không chỉ dừng lại ở xây dựng mô hình và quy chế hoạt động cho bộ phận mà còn phải xây dựng mối liên hệ trong hệ thống chung của toàn tổ chức. Mối quan hệ này có liên quan mật thiết tới môi trường hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống kiểm toán nội bộ và với các yếu tố xung quanh hệ thống là nhiệm vụ trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ. * Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác trong tổ chức. Một căn cứ quan trọng để hiểu về cơ chế hoạt động của kiểm toán nội bộ là xem xét mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác của tổ chức. Trước hết, công việc kiểm toán nội bộ phải tách ra khỏi các nghiệp vụ hàng ngày của tổ chức. Thực tế rõ ràng là nếu kiểm toán nội bộ ngừng hoạt động hay không có kiểm toán nội bộ thì công việc bình thường trong tổ chức vẫn được duy trì ổn định. Mặt quan trọng thứ hai của mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác là: kiểm toán viên nội bộ là người có quyền hạn nhưng không lấn át trách nhiệm của người khác. Điều này thể hiện qua hai khía cạnh: Một là: Kiểm toán viên nội bộ không chịu thay trách nhiệm cho các nhân viên điều hành. Các nhân viên điều hành vẫn chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực các nghiệp vụ của họ. Hai là: Những phát hiện hay kiến nghị của kiểm toán nội bộ bao giờ cũng mang tính chất xây dựng hoặc mang tính chất thông tin hay tham vấn chứ kiểm toán viên nội bộ không dùng quyền hạn gì để chỉ huy một công việc nào đó. Chỉ huy công việc là nhiệm vụ của nhân viên điều hành, căn cứ vào sự đúng đắn và tính thuyết phục của thông tin hay kiến nghị của kiểm toán nội bộ đối với từng công việc mà nhà quản trị có thẩm quyền ra các quyết định của mình. Điểm sau cùng là trong mối liên hệ giữa kiểm toán viên nội bộ và các hoạt động khác của tổ chức là tránh chồng chéo giữa vai trò của kiểm toán nội bộ với các công việc khác được thực hiện bởi các nhân viên chức năng. Một ví dụ điển hình là bộ phận kiểm toán nội bộ không được lấn sân sang lĩnh vực nghiệm thu sản phẩm muối hoàn thành nhập kho được thực hiện bởi bộ phận kiểm nghiệm. Như vậy, trong thực hiện kiểm toán, bộ phận kiểm toán nội bộ bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn của mình còn phải đảm bảo một “hành lang quan hệ” đúng mức, không được lấn át sang trách nhiệm của bộ phận khác cũng như không có các hoạt động vượt quá thẩm quyền cho phép của mình, bảo đảm được điều này là một yếu tố quan trọng để khắc phục hiện tượng quan liêu, hách dịch vốn có của hệ thống kiểm toán nội bộ. * Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý. Hệ thống kiểm toán nội bộ được thiết lập để tăng cường quyền lực cho các nhà quản lý, phục vụ mục đích quản trị nội bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị mình. Theo quan hệ đó, các kiểm toán viên nội bộ chỉ độc lập tương đối với các nhà quản lý trong hoạt động chuyên môn của mình. Về phần mình, Ban Giám đốc Tổng Công ty có trách nhiệm đề ra các quy định, chính sách và thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng bộ máy kiểm toán nội bộ có những quyền hạn cần thiết; các nguồn nhân lực kiểm toán nội bộ được sử dụng một cách hiệu quả; các cuộc kiểm toán được tiến hành theo các chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ. Cụ thể, Phòng kiểm toán nội bộ chỉ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Giám đốc, hàng tháng Ban giám đốc và Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ nên tổ chức cuộc họp nhằm: Trao đổi về kế hoạch kiểm toán và những công việc kiểm toán đang được thực hiện. Kiểm toán viên nội bộ lập kế hoạch kiểm toán, kế hoạch này được Ban Giám đốc phê duyệt và thông qua trên những nét lớn. Từ chương trình này và những nhận xét của Ban Giám đốc, kiểm toán viên lập kế hoạch cho năm và cho quý. Trong cuộc họp, kế hoạch kiểm toán có thể được thông qua hoặc sẽ được bổ sung, sửa đổi. Kiểm toán viên sẽ trình bày một tài liệu tổng kết rõ ràng về cuộc kiểm toán đã được thực hiện hoặc về một kế hoạch kiểm toán đã được thông qua. Trao đổi về kết quả của các cuộc kiểm toán đã làm cũng như tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm toán đó. Những người thường có mặt trong buổi trình bày về báo cáo kiểm toán gồm: + Đại diện của Tổng Giám đốc; + Đại diện của các bộ phận hoạt động kinh doanh là đối tượng của kiểm toán nội bộ; + Kiểm toán viên nội bộ; + Tất cả những người khác được mời đến do những vấn đề riêng. Kết thúc cuộc họp, kiểm toán viên phải lập một biên bản trong đó ít nhất phải nêu lên các kết luận cũng như các quyết định về báo cáo kiểm toán đã hoang thiện. Việc thiết lập mối quan hệ có tính chất thường xuyên và mang tính thủ tục như trên không những nâng cao vị trí của kiểm toán nội bộ mà còn phát huy tác dụng của hệ thống kiểm toán nội bộ. Thông qua đó, Ban Giám đốc nắm vững và kịp thời các thông tin về tình hình chung trong toàn Tổng Công ty, đồng thời nó cũng là cơ sở pháp lý để hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động liên tục và đi vào nề nếp. * Mối quan hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm. Như đã xây dựng ở phần trên, thuộc tính mở của hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối chính là ở chỗ gắn kết với chức năng ngoại kiểm, theo đó Tổng Công ty hoặc các đơn vị thành viên có thể thuê kiểm toán bên ngoài đối với toàn bộ hay một phần cuộc kiểm toán nếu thấy cần thiết. Điều này không làm mất đi tính hiện hữu của hệ thống kiểm toán nội bộ mà làm tăng khả năng phát huy vai trò nội kiểm của kiểm toán nội bộ. Đối với các Công ty kiểm toán bên ngoài thì mối quan tâm chủ yếu của họ là các khách hàng trong nền kinh tế, còn đối với kiểm toán nội bộ thì mối quan tâm chỉ tập trung ở phạm vi đơn vị kinh tế đó. Ngoại kiểm đặc biệt quan tâm tới sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn nội kiểm thì đặt mối quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các hoạt động và khả năng sinh lời. Để thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, cả ngoại kiểm và nội kiểm đều có mối quan tâm chung tới hệ thống kiểm soát nội bộ. Chính những mối quan tâm như vậy là cơ sở cho một sự kết hợp tác dụng rộng rãi và có hiệu quả giữa nội kiểm và ngoại kiểm. Công việc kiểm toán nội bộ hiệu quả sẽ cho phép thu hẹp phạm vi của các thủ tục cần áp dụng bởi ngoại kiểm, tuy nhiên không thể thay thế hoàn toàn. Nói như thế nghĩa là, giữa nội kiểm và ngoại kiểm ở đây có mối quan hệ hai chiều: Khi kiểm toán bên ngoài vào kiểm toán Tổng Công ty (phục vụ cho một mục đích cụ thể của Nhà nước) thì có thể áp dụng kết quả của kiểm toán nội bộ; và ngược lại, kiểm toán nội bộ có thể nhận được sự giúp đỡ của kiểm toán bên ngoài trong trường hợp cần thiết, có thể dưới hình thức thuê ngoại kiểm trong kiểm toán một phần của cuộc kiểm toán hoặc sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và nghiệp vụ. Dù nói dưới bất kỳ hình thức nào thì giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài không thể tách rời nhau được, sự cộng tác và quan hệ này là cơ sở để kiểm toán nội bộ nâng cao năng lực và hoàn thiện mình để theo kịp với những tiến bộ của hệ thống kiểm toán bên ngoài nói riêng và kiểm toán nói chung. Đối với Tổng Công ty Muối là đơn vị trực thuộc Bộ, có sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước cho nên mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và Kiểm toán Nhà nước càng có một ý nghĩa sâu sắc. Một chương trình tập huấn về nghiệp vụ kiểm toán theo đúng các tiêu chuẩn của Bộ Tài chính và có sự giúp đỡ của Kiểm toán Nhà nước sẽ làm cho hệ thống kiểm toán nội bộ nâng cao vị thế hơn cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ và cả về mặt pháp lý. * Các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ. Theo lý thuyết về xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ đã nghiên cứu ở trên, mọi hoạt động diễn ra đều chịu tác động của hàng loạt các nhân tố bên trong và bên ngoài hệ thống đó. Có những nhân tố tác động thuận chiều (tích cực) kích thích hoạt động, có những nhân tố tác động ngược chiều (tiêu cực) kìm hãm hoạt động. Nếu coi Tổng Công ty là một hệ thống thì Phòng kiểm toán nội bộ là một phần tử thuộc hệ thống đó. Chính vì vậy, để cho hoạt động kiểm toán nội bộ thực sự có hiệu quả thì các nhà quản lý cần nhận thức và tạo điều kiện cho các nhân tố tích cực cần thiết phát huy tác dụng. Có một số ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ mà các nhà quản lý cần biết để có các chính sách quản lý hợp lý, đó là: Stt Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt độngKTNB. 1 Sự trợ giúp đầy đủ, đúng lúc của chính các nhà quản lý doanh nghiệp. 2 Chất lượng kiểm toán viên trong bộ phận kiểm toán nội bộ. 3 Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. 4 Sự hợp tác toàn diện của các nhân viên. Theo đó, Ban Giám đốc cần quan tâm tới các yếu tố trên để tạo mọi điều kiện cho bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình. 3.2.3 Nội sadung, trình tự, phương pháp kiểm toán của bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng Công ty muối. Nội dung công việc của kiểm toán nội bộ. Với một hệ thống kiểm toán nội bộ được tổ chức như ở trên và có đủ quyền hạn và điều kiện để thực hiện công việc kiểm toán của mình, bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện công tác kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán đã được Tổng Giám đốc phê duyệt. Theo nội dung công việc, kiểm toán nội bộ thực hiện các nội dung chính sau trong công việc kiểm toán của mình: * Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị: Việc kiểm toán nội dung này là việc kiểm toán để kiểm tra, xác nhận tính trung thực, hợp lý cũng như sự phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán đã được thừa nhận của báo cáo tài chính; báo cáo kế toán quản trị của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính tin cậy của báo cáo tài chính; báo cáo kế toán quản trị của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên trước khi Tổng Giám đốc ký duyệt và công bố. Kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị; đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh ở Tổng Công ty và các đơn vị thành viên nhằm đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả. Cụ thể, kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị gồm những nội chính sau: Kiểm toán vốn bằng tiền. Kiểm toán hàng tồn kho. Kiểm toán tài sản cố định. Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản. Kiểm toán các khoản đầu tư tài chính. Kiểm toán các khoản lập trích dự phòng. Kiểm toán hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm. Kiểm toán doanh thu và các khoản thu nhập khác. Kiểm toán thuế và các khoản phải nộp Nhà nước. Kiểm toán các khoản phải thu, phải trả. Kiểm toán nguồn vốn kinh doanh. Kiểm toán chênh lệch đánh giá lại tài sản. Kiểm toán quỹ quản lý cấp trên. Kiểm toán kết quả sản xuất, kinh doanh và trích lập các quỹ. * Kiểm toán tuân thủ: Mục đích của kiểm toán tuân thủ là xem xét Tổng Công ty và các đơn vị thành viên có tuân theo các thủ tục, các nguyên tắc, các quy chế, chính sách, chế độ của Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền, Tổng Công ty và các đơn vị thành viên đề ra hay không. Kiểm toán tuân thủ, vì vậy còn có thể gọi là kiểm toán tính quy tắc. Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán; chế độ quản lý của Nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định, quy chế của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc ở Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như từng khâu công việc, của từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ ở Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Đây là nội dung rất lớn và là khâu trọng yếu trong phạm vi kiểm toán tuân thủ của Tổng Công ty, bởi trong nhiều trường hợp công nhân viên của Tổng Công ty biết rõ những quy định thông qua các quyết định, chỉ thị, quy chế... của Ban Giám đốc Công ty hơn là những quy định trong văn bản quản lý của Nhà nước. Các văn bản này đã được cụ thể hóa bằng các quy chế của bản thân doanh nghiệp nên họ chỉ biết tuân thủ những quy định cụ thể của doanh nghiệp. Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bầy báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài liệu kế toán... ở Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. ở nội dung này kiểm toán viên cần lưu ý đến các quy định kế toán mang tính hướng dẫn được phép vận dụng linh hoạt như quy định liên quan đến chứng từ kế toán: doanh nghiệp được phép sử dụng một số chứng từ hướng dẫn... Công việc này có thể kết hợp trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị hoặc kiểm toán các nghiệp vụ về tài chính. * Kiểm toán hoạt động: Là việc kiểm toán để đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm toán hoạt động ở Tổng Công ty bao gồm các công việc chính sau: Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư, hàng hóa, tài sản, vốn.... lợi thế kinh doanh...) của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và sử dụng thu thập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn. Kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Đó là một số mục tiêu chính cần đạt được trong một cuộc kiểm toán, ngoài ra có thể theo yêu cầu của Tổng Giám đốc hoặc của các bộ phận chức năng khác, kiểm toán nội bộ có thể thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt khác. Trình tự các bước công việc của một cuộc kiểm toán nội bộ. Bất kỳ một cuộc kiểm toán nào để đạt được hiệu quả đòi hỏi phải có một kế hoạch kiểm toán chu đáo và phù hợp. Để bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng Công ty thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình đòi hỏi bộ phận kiểm toán nội bộ phải tiến hành theo một trình tự có kế hoạch. Theo đó, trình tự của một cuộc kiểm toán nội bộ có thể được thực hiện như sau: * Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán: Đây là giai đoạn đầu tiên và giữ một vai trò quan trọng đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào. Trong giai đoạn này kiểm toán viên nội bộ cần chú trọng đến các nội dung sau: Tập hợp những hiểu biết về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hệ thống tài chính, kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Xác định mức độ tin cậy dự kiến đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Lập chương trình, xác định mục tiêu, nội dung, thời gian, phạm vi, phương pháp kiểm toán sẽ được thực hiện. Tổ chức lực lượng kiểm toán: có thể kết hợp giữa các kiểm toán viên nội bộ của Tổng Công ty với các kiểm toán viên bên ngoài hoặc có thể huy động các chuyên gia ở các lĩnh vực chuyên môn liên quan trong và ngoài Tổng Công ty. * Công tác chuẩn bị kiểm toán. Một cuộc kiểm toán thành công hay thất bại được xem chủ yếu ở giai đoạn chuẩn bị kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần thực hiện tốt các công tác chuẩn bị chủ yếu sau: Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, tình hình hoạt động của đơn vị trong thời gian qua, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, các chính sách, quy định của đơn vị trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến các mặt hoạt động của đơn vị. Thu thập, nghiên cứu những chính sách, chế độ, quy định mới và các chủ trương, biện pháp của Nhà nước, Tổng Công ty, đơn vị phát sinh trong các lĩnh vực quản lý, kinh doanh, tài chính, kế toán, thống kê và kiểm toán. Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó (nếu có), kể cả các tài liệu bên ngoài đơn vị có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt các thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành. Thực hiện tốt các yêu cầu trên thì cuộc kiểm toán mới có thể thực sự mang lại hiệu quả cao và nhanh chóng, cũng như đạt được hiệu năng cao nhất. * Thực hiện cuộc kiểm toán. Đây là khâu then chốt trong cuộc kiểm toán, là khâu chính của phần kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần: Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải xem xét, thu thập và đánh giá đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan đến công việc kiểm toán theo kế hoạch và chương trình đã vạch ra (kể cả các chứng cứ bên ngoài đơn vị được kiểm toán). Các bằng chứng kiểm toán thu thập được là cơ sở cho các nhận xét, đánh giá, bày tỏ ý kiến của kiểm toán viên nội bộ. Xem xét, đánh giá tính tuân thủ các chính sách, quy định, nội quy, quy chế, nghị quyết do đơn vị ban hành và việc thực hiện nó trong thực tế hoạt động của đơn vị. Đánh giá khả năng sai sót, nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của các nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ đơn vị. Thực hiện phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát bổ sung các chi tiết; xem xét các sự kiện tiếp theo, đánh giá kết quả cuộc kiểm toán. Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng quy trình của một cuộc kiểm toán và các bước tiến hành kiểm toán phải được ghi nhận trên tài liệu, hồ sơ kiểm toán. * Kết thúc cuộc kiểm toán. Giai đoạn này là giai đoạn cuối của một cuộc kiểm toán và đánh dấu hiệu quả cũng như kết quả của một cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên nội bộ cần phải thực hiện các thủ tục sau: Khi kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của đơn vị. Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Tổng Giám đốc Tổng Công ty; tùy theo tính chất kiểm toán, Tổng Giám đốc quyết định việc ban hành và công bố báo cáo kiểm toán nội bộ. Riêng đối với báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị về lập và công khai báo cáo tài chính năm của các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Muối Việt Nam tại Văn bản số 210MVN/HĐQT ngày 25/06/1998 của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Muối Việt Nam. Phúc tra kết quả kiểm toán: Là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra việc triển khai thực hiện những kiến nghị, đề xuất xử lý và những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán. Như vậy, với các thủ tục và trình tự kiểm toán có tính chất bắt buộc như trên sẽ là cơ sở đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được thực hiện một cách nghiêm túc và tuân thủ theo đúng các chuẩn mực đề ra về kiểm toán nội bộ, nó cũng là yếu tố dẫn đến và đảm bảo cho sự thành công của cuộc kiểm toán nội bộ. Phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ. Một cuộc kiểm toán đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt, trình tự kiểm toán cũng như kế hoạch kiểm toán. Thêm vào đó, để cuộc kiểm toán thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm thì cần phải có một phương pháp kiểm toán thích hợp. Theo đó, trong kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty, tùy theo tích chất của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lựa chọn và áp dụng những phương pháp, thủ tục kiểm toán phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của kiểm toán. Để xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán viên nội bộ phải sử dụng nhiều phương pháp kỹ thuật. Hệ thống phương pháp kỹ thuật được áp dụng tùy thuộc vào đối tượng trực tiếp của kiểm toán là thông tin đã thu thập được trên chứng từ kiểm toán (kiểm toán chứng từ) hoặc thông tin chưa thu thập được hoặc cần được xác minh lại (kiểm toán ngoài chứng từ). Trong quan hệ đó, hệ thống phương pháp kiểm toán gồm hai phân hệ với những phương pháp kỹ thuật cụ thể khác nhau: Một là: Các phương pháp kiểm toán chứng từ như kiểm tra cân đối, đối chiếu logic, đối chiếu trực tiếp. Hai là: Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ như kiểm kê, thực nghiệm, điều tra… Trên cơ sở đó, hệ thống các phương pháp kiểm toán có thể được cụ thể hóa như sau: * Phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quản trị. Kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết. Kiểm tra chọn mẫu xác suất: Chỉ kiểm tra các chứng từ, nghiệp vụ điển hình hoặc có nghi vấn, chọn mẫu tập trung vào nơi có giá trị lớn và được xác định là nơi có rủi ro cao. Kiểm tra từng khâu công việc của kế toán: chứng từ, sổ sách, báo cáo tài chính, báo cáo quản trị... Kiểm tra từng phần hành hạch toán: Hạch toán tài sản cố định, vật tư, chi phí, doanh thu,... Kiểm kê thực tế hiện vật: Mục đích để xác định tiền mặt tồn quỹ thực tế, số lượng và giá trị vật tư hàng hóa tồn kho, số lượng và giá trị tài sản cố định hiện có theo biên bản kiểm kê để đối chiếu số liệu với sổ kế toán, phát hiện các trường hợp sai sót, gian lận,... Sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh: + Đối chiếu: Giữa giá trị và hiện vật. Giữa chi tiết và tổng hợp. Giữa sổ kế toán và báo cáo tài chính. Giữa chứng từ và sổ kế toán. Đối chiếu với khách hàng. + So sánh: Giữa năm này với năm trước. Giữa kỳ này với kỳ trước. Giữa doanh nghiệp với toàn ngành... Phương pháp xác minh, phân tích, đánh giá. * Phương pháp kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động. Khác với các loại hình kiểm toán khác, mục đích của kiểm toán tuân thủ là kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong quản lý. Do vậy, trong kiểm toán tuân thủ, các phương pháp chủ yếu được sử dụng gồm: kiểm tra, so sánh, đối chiếu giữa tình hình và tài liệu thực tế được kiểm toán với những quy định trong các văn bản pháp lý có liên quan. Đối với các loại hình kiểm toán khác, phương pháp kiểm toán được áp dụng dựa trên nền tảng hệ thống các phương pháp đã nêu có sự linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế của Tổng Công ty. Trên đây là những nhiệm vụ và nội dung cũng như trình tự của một cuộc kiểm toán cần thực hiện để đảm bảo hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ trong Tổng Công ty. Do đặc điểm kinh doanh của Tổng Công ty Muối là kinh doanh mặt hàng muối là mặt hàng phụ thuộc nhiều vào thời tiết, ăn mòn cao, do đó quá trình kiểm toán nội bộ nhất thiết phải tiến hành đúng như các trình tự đã nêu trên, có như thế mới đánh giá đúng tính chất của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. 3.3 Một số giải pháp để phát triển kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và tại Tổng Công ty Muối nói riêng. Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam kiểm toán nội bộ là lĩnh vực còn rất mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn nhưng lại là vấn đề bức xúc hiện nay vì nhu cầu cần thiết phải có của nó. Vài năm gần đây Bộ Tài chính đã chú trọng hơn trong lĩnh vực kiểm toán nhưng mới chỉ dừng lại và tập trung ở lĩnh vực kiểm toán độc lập. Trong khi đó, vai trò của kiểm toán nội bộ ngày càng được khẳng định trong các Tổng Công ty lớn, ngay cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của bộ phận này. Tuy nhiên để hoạt động kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ở Tổng Công ty Muối nói riêng có động lực phát triển thì cần có những giải pháp tích cực từ phía Nhà nước cũng như từ chính các doanh nghiệp. 3.3.1 Về phía Nhà nước. a) Nhà nước cần sớm ban hành các quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ. Hoạt động kiểm toán nội bộ cũng như các hoạt động khác chỉ có thể thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao trên cơ sở có một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và phù hợp. Về lâu dài, hoạt động kiểm toán nội bộ phải được quy định trong văn bản Luật để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức cũng như phát triển hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. Nhà nước ta cần phải chi phối, hình thành quy chế kiểm toán, tạo môi trường cho kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả, vì Nhà nước vừa là cơ quan quản lý chức năng vừa là chủ sở hữu tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị thụ hưởng Ngân sách Nhà nước. Do đó, Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp lý để quy định rõ các nội dung như: chức năng, nhiệm vụ, phương pháp luận của kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn và vị trí của kiểm toán viên nội bộ và mối quan hệ giữa kiểm toán viên nội bộ và Ban Giám đốc cũng như nội kiểm và ngoại kiểm. Để tiết kiệm thời gian và chi phí, Nhà nước có thể công nhận có chọn lọc một số chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế. Đây là giải pháp mà Malaysia đã lựa chọn. Theo cách này, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Malaysia chuyển tải gần như đầy đủ, ở mỗi chuẩn mực (ISA) được thêm vào một phần mở đầu nêu rõ cách thức áp dụng và phạm vi điều chỉnh chuẩn mực. Những chuẩn mực khác biệt và không thích ứng với đặc điểm nền kinh tế thì Malaysia không áp dụng. Mặt khác, Nhà nước cần nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc về kiểm toán nội bộ trong các văn bản đã ban hành. Chẳng hạn, việc nhất quán giữa các văn bản pháp lý khi quy định đối tượng chịu trách nhiệm về sự trung thực của báo cáo tài chính: Theo Pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, Điều lệ kế toán trưởng thì đó là: “thủ trưởng và kế toán trưởng”; trong Luật doanh nghiệp Nhà nước là “doanh nghiệp”; trong Nghị định 59/CP là: “Hội đồng quản trị và giám đốc” và theo Thông tư 73/TC/TCDN thì đó là “người lập và người ký”; vậy ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng về số liệu của doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm gì trong việc này? Hoặc việc phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa kế toán trưởng và kiểm toán viên nội bộ, “ai chỉ đạo ai? Ai kiểm tra ai?” cũng cần được làm sáng tỏ. Hiện nay Bộ Tài chính đã ban hành một số văn bản về kiểm toán nội bộ, điều này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thành lập và vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ. Nhưng theo ý kiến cá nhân, tôi thấy rằng tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ như trong Quy chế kiểm toán nội bộ ban hành kèm theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT còn một số điểm chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, kiểm toán viên theo quy chế này phải có bằng Đại học hoặc trung học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh trong khi đó như ở phần lý luận chung ta thấy rằng lĩnh vực hoạt động chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động chứ không phải là kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có bộ máy kiểm toán nội bộ như Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà, Tổng Công ty Xây dựng Hà nội, Tổng Công ty xi măng Việt Nam... đều chủ yếu thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, nên quy định này dường như không có gì mâu thuẫn nhưng có thể thấy rằng quy chế này mới chỉ mang tính chất giải quyết tình thế mà thôi. Rõ ràng trong tương lai gần khi mà quy mô và độ phức tạp trong quản lý ở các doanh nghiệp tăng lên, nhà quản lý sẽ có yêu cầu mở rộng phạm vi kiểm toán ngoài lĩnh vực tài chính kế toán, do đó các chuyên viên kỹ thuật cũng rất cần. ở các nước khi tuyển chọn kiểm toán viên người ta căn cứ vào loại công việc thực hiện của bộ phận kiểm toán nội bộ: kiểm toán hoạt động hay kiểm toán tài chính. Nếu chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính; có chứng chỉ kiểm toán viên; có 4 -5 năm kinh nghiệm chuyên môn với tư cách là trợ lý trong một bộ phận kiểm toán hay với tư cách kiểm toán viên độc lập; ít nhất có 2 ngoại ngữ. Nếu chủ yếu là kiểm toán hoạt động thì các kiểm toán viên phải hiểu biết tốt về kỹ thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ, một Công ty về thực phẩm có thể sử dụng một kỹ sư thực phẩm cho học một năm về tài chính kế toán để làm kiểm toán. Hơn nữa, người được tuyển chọn làm kiểm toán viên phải thực tế đã công tác trong lĩnh quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên. Điều này cũng hạn chế phẩn nào tới việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ bên ngoài. Chăng hạn một Tổng Công ty lớn có thể tuyển một kiểm toán viên độc lập có kinh nghiệm hoặc cán bộ đã có kinh nghiệm làm kiểm toán viên nội bộ thì liệu yêu cầu có còn phù hợp nữa không? b) Cơ cấu kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước nên thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát hữu hiệu của cơ quan, doanh nghiệp. Thực tế tại một số nơi cho thấy bộ máy kiểm toán nội bộ được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo về hoạt động hay sự đánh giá thành tích hoạt động định kỳ bởi các cơ quan kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính. Song cơ cấu kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước phù hợp với điều kiện Việt Nam hơn cả. Điều này có nghĩa là các kiểm toán viên nội bộ được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy đem lại nhiều ý nghĩa thực tiễn thiết thực: Thống nhất việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước. Do được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ kiểm toán viên nội bộ vẫn có thể được tiêu chuẩn hóa trong điều kiện nước ta chưa có trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ. Công tác kiểm toán nội bộ sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất. Kiểm toán nội bộ sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực hơn cho cơ quan kiểm toán Nhà nước trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi bộ máy kiểm toán Nhà nước mới hình thành với số lượng nhân viên còn ít ỏi so với nhu cầu công việc ngày càng lớn. c) Phát huy vai trò của các tổ chức chuyên môn kế toán, kiểm toán. Các tổ chức chuyên môn (Hiệp hội kế toán, kiểm toán) cần được tham gia vào các vấn đề kinh tế và tài chính của đất nước, tham gia vào quá trình xây dựng và hướng dẫn chuẩn mực kế toán, kiểm toán trong đó có kiểm toán nội bộ. Các tổ chức này cũng cần có trách nhiệm trong công việc chăm lo cho lợi ích của kiểm toán viên, thiết lập, duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề; giúp các kiểm toán viên cập nhật kiến thức, tiếp cận với sự phát triển nghề nghiệp của quốc gia cũng như quốc tế như tổ chức các cuộc hội thảo cho các hội viên là kiểm toán viên nội bộ, viết sách cẩm nang, xuất bản báo chí... để trao đổi kinh nghiệm. Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức về nhiều mặt: về tổ chức quản lý; kế toán và kiểm toán; chuyên môn kỹ thuật và hoạt động của đơn vị. Các tổ chức chuyên môn chính là nơi để các kiểm toán viên có điều kiện cập nhật kiến thức và trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp. d) Nhà nước và các Hiệp hội nghề nghiệp cần tổ chức các khóa đào tạo về kế toán và kiểm toán. Hiện nay Việt Nam chưa có đủ một đội ngũ kiểm toán viên để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng chưa đông về số lượng và chưa mạnh về chất lượng. Để đáp ứng nhu cầu của hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước, 30.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 2000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có chương trình đào tạo các kiểm toán viên, nhanh chóng hình thành đội ngũ kiểm toán viên theo hướng kế thừa và bồi dưỡng đặc cách đối với việc đào tạo mới đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Cần tổ chức thường xuyên hơn nữa các lớp tập huấn về công tác kiểm toán nội bộ hoàn chỉnh hơn, cụ thể hơn để sau khi tập huấn cán bộ làm được việc. Về lâu dài, có thể cải cách và đổi mới chương trình đào tạo ở bậc đại học, có thể mở một chuyên ngành về kiểm toán nội bộ; nên tuyển chọn những sinh viên ưu tú, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ và phải đa dạng hóa ngành nghề phục vụ cho công tác này; cần đầu tư đúng mức cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đảm bảo về ngành nghề chuyên môn. Đồng thời cũng cần quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. 3.3.2 Về phía các doanh nghiệp và tại Tổng Công ty Muối a) Về phía các doanh nghiệp. * Các doanh nghiệp chỉ xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ khi thực sự cần thiết và lựa chọn hình thức tổ chức hợp lý. Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát của nhà quản lý mà ở đây là Ban Giám đốc Tổng Công ty. Để hệ thống kiểm toán nội bộ có thể phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của mình, thực sự là một công cụ quản lý hữu hiệu, là “tai mắt” cho Ban Giám đốc thì trước hết Ban Giám đốc phải nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ, tự nguyện và chủ động thành lập bộ phận này trong đơn vị, không nên thành lập một cách nóng vội, thiếu suy xét. Trước khi đi đến quyết định thành lập một bộ máy quan trọng như vậy trong doanh nghiệp, Ban Giám đốc cần có sự tham khảo ý kiến của cấp dưới, cân nhắc kỹ càng yếu tố chi phí và kết quả. Các tiêu chuẩn để Ban Giám đốc có thể căn cứ để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ là: quy mô của doanh nghiệp, phạm vi hoạt động, trình độ công nhân viên, lĩnh vực hoạt động và chiến lược phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. ở Việt Nam bộ máy này tồn tại chủ yếu ở các Tổng Công ty Nhà nước lớn và được thành lập theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT. Hiện nay, việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ này là không bắt buộc, hình thức tổ chức tùy các đơn vị chọn, nhưng các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ trước khi quyết định có nên thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ ở đơn vị mình hay không. * Hạn chế nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động. Lãnh đạo đơn vị nên giới hạn nhiệm vụ cho bộ phận kiểm toán nội bộ. Trong giai đoạn trước mắt có thể xác định nội dung của kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Nhà nước là kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ bởi hai lý do sau: Nhiều doanh nghiệp Nhà nước (trong đó có Tổng Công ty Muối) không sử dụng dịch vụ của kiểm toán độc lập trong khi vẫn có nhu cầu lớn về kiểm tra các báo cáo tài chính cũng như tính tuân thủ trong đơn vị. Do hạn chế về năng lực, trình độ của kiểm toán viên: tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ theo quy định của Nhà nước là phải tốt nghiệp chuyên ngành tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh. Mà các doanh nghiệp thì ít có nhân viên giỏi về chuyên ngành quy định và chuyên môn khác để thực hiện kiểm toán hoạt động. Kinh nghiệm từ thực tế hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ các Công ty cũng như thể hiện điều này, kiểm toán viên nội bộ chủ yếu thực hiện kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ: Công ty du lịch Hà Nội, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Xi măng Việt Nam... * Tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung các quy chế, điều lệ, quy định cho bộ phận kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ không chỉ cần đến tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng của hệ thống văn bản pháp lý Nhà nước mà còn cần đến hệ thống quy định trong nội bộ đơn vị là cơ sở cho hoạt động. Chính các quy định trong nội bộ doanh nghiệp là cụ thể hóa công tác kiểm toán nội bộ và cũng là một trong những nhân tố chính góp vào sự hữu hiệu của bộ máy này. Hơn thế nữa, với nguyên tắc mở trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ, sự tiến bộ và phức tạp trong quản lý, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp cần luôn luôn cập nhật, bổ sung để hoàn thiện quy chế cho bộ máy kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp mình. Đây là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và đảm bảo một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả và hiệu năng. Trong thực tế có thể còn có nhiều bất cập cũng như vấn đề cần hoàn thiện trong việc tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại một doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù xuất phát từ quan điểm nào thì những quan điểm cũng như những ý kiến bổ sung cho hệ thống đã trình bày ở trên vẫn là cơ bản. Đó là nền tảng cho mọi sự bổ sung hoàn thiện sau này. b) Đối với Tổng Công ty Muối. * Tính khả thi của việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối. Việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ như đã nghiên cứu ở trên sẽ trở nên vô nghĩa nếu như việc xây dựng này không có tính khả thi. Theo như đã phân tích ở chương II thì việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cấp bách và cần thiết. Để xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ này, về phía bản thân Tổng Công ty đã có những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng này. Có thể nêu lên một số thuận lợi trong quá trình xây dựng như sau: Thứ nhất: Ban lãnh đạo Tổng Công ty luôn nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hệ thống kiểm toán nội bộ trong giai đoạn hiện nay đối với Tổng Công ty. Điều này là một yếu tố ủng hộ và thúc đẩy việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ một cách nhanh chóng và có vị trí pháp lý cao. Hơn nữa chính sự hiểu biết của Ban Giám đốc Tổng Công ty về vai trò của kiểm toán nội bộ sẽ làm cho mối liên hệ giữa Ban giám đốc và bộ phận kiểm toán nội bộ khi được lập ra sẽ mang tính thường xuyên, tạo sự hoạt động thường xuyên và hoạt động hiệu quả cho bộ phận này. Thứ hai: Về các điều kiện cơ sở cho việc xây dựng như: nhân lực, điều kiện vật chất,… đối với việc xây dựng bộ phận này Tổng Công ty đều rất khả quan. Tuy trình độ lao động kế toán của Tổng Công ty không đồng đều nhưng cũng có những người hội đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào bộ phận kiểm toán nội bộ. Hơn nữa, hiện nay việc áp dụng chế độ thi tuyển đối với các kiểm toán viên bên ngoài cũng đã trở nên phổ biến, bên cạnh nguồn nhân lực kiểm toán viên nội bộ bên trong doanh nghiệp thì có thể tuyển chọn từ bên ngoài. Thứ ba: Nhà nước đã ban hành những văn bản Luật, các Thông tư, Quyết định làm cơ sở cho hoạt động của kiểm toán nội bộ, các quy định này tuy chưa nhiều nhưng cũng là những điều kiện tiền đề cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty. Hơn nữa, Tổng Công ty Muối được hình thành và phát triển từ rất lâu, hệ thống văn bản, Quy định trong nội bộ Tổng Công ty đã tương đối hoàn thiện, đây cũng là một yếu tố quan trọng cho tính pháp lý và sự vận hành của bộ phận kiểm toán nội bộ một cách thuận lợi hơn. Thứ tư: Về khía cạnh pháp lý thì hiện nay Nhà nước đang có chủ trương và sẽ đi vào thực hiện là việc bắt buộc các Công ty Nhà nước phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo tài chính chỉ được chấp nhận khi có báo cáo kiểm toán kèm theo, Tổng Công ty Muối Việt Nam nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật này. Chính vì thế mà việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ cho Tổng Công ty là cần thiết và tạo điều kiện trong công tác thực hiện. Thứ năm: Trong năm tới 2003, Việt Nam cam kết thực hiện mậu dịch tự do trong khu vực, chính điều này đòi hỏi Tổng Công ty Muối cần có những chuyển hướng chiến lược trong tình hình mới. Theo đó, việc cải tổ bộ máy là một yếu tố quan trọng trong tình hình mới, việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ lúc này đã trở nên cần thiết và cấp bách như một yếu tố quyết định cho sự phát triển của Tổng Công ty trong giai đoạn mới. Với những điều kiện thuận lợi nêu trên thì hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ xây dựng và vận hành một cách hiệu quả và đemlại lợi ích đích thực cho Tổng Công ty trong quá trình hội nhập và đổi mới. Việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối với những nội dung nghiên cứu trên hoàn toàn mang tính khả thi. * Điều kiện cho việc hoạt động hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Muối. Tuy có những điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối như đã nói ở trên, nhưng do đây là một bộ phận mới được xác lập tại Tổng Công ty và lĩnh vực hoạt động còn mới cho nên chắc chắn trong quá trình xây dựng và hoạt động sẽ còn gặp phải một số khó khăn. Việc hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ là một nhu cầu cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bộ phận kiểm toán nội bộ có thể đi vào hoạt động có nề nếp và thực sự hiệu quả, thực sự là bộ phận tham vấn của Ban Giám đốc Tổng Công ty thì yêu cầu đặt ra là trong quá trình vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ phải tuân thủ theo những nguyên tắc đã được xây dựng, theo đó, việc tuân thủ phải bao gồm cả về mặt tổ chức bộ máy, tuân thủ về quy trình cũng như phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ, một yếu tố hết sức quan trọng là Quy chế kiểm toán nội bộ phải hoàn toàn được đi vào hoạt động trong thực tế và thường xuyên. Có như vậy, bộ máy kiểm toán nội bộ mới thực sự đi vào hoạt động nề nếp và đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, những nguyên tắc đã được xây dựng trong Đề tài này mới chỉ là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động tốt, trong quá trình hoạt động, theo những biến đổi và theo sự chỉ đạo của Nhà nước, Quy chế kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Muối cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động và chức năng của bộ phận kiểm toán nội bộ trong giai đoạn mới. Đây là chính là một thuộc tính mở trong xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối Việt Nam. Kết luận Kiểm toán nội bộ là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán nội bộ sinh ra từ nhu cầu quản lý và phục vụ cho nhu cầu quản lý của đơn vị. Sự hình thành hệ thống kiểm toán nội bộ ở Tổng Công ty Muối là cần thiết và cấp bách để giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ đơn vị. Kiểm toán nội bộ sẽ là một công cụ kiểm soát hữu hiệu của Tổng Công ty, là nguồn cung cấp thông tin tin cậy cho Ban giám đốc doanh nghiệp để điều hành sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và chiếm được thị trường cũng như hoàn thành tốt mọi kế hoạch mà Nhà nước giao cho. Do vậy, để hệ thống kiểm toán nội bộ nhanh chóng phát huy được hiệu lực và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế, không chỉ đòi hỏi sự nhận thức sâu sắc của Ban Giám đốc Tổng Công ty về vai trò của kiểm toán nội bộ và sự tuân thủ các nguyên tắc và Quy chế hoạt động của bộ phận này trong thực tế, mà hơn nữa, do đây còn là vấn đề còng mới mẻ ở Việt Nam hiện nay, chính vì thế mà Nhà nước cần có những biện pháp tích cực để tạo môi trường, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán nội bộ có điều kiện thực hiện chức năng, thể hiện vai trò to lớn đối với các hoạt động kinh tế xã hội khác. Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ đề tài nên Đề tài này mới chỉ đề cập đến việc xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Muối một cách mang tính hệ thống và cơ bản nhất. Tuy nhiên, với những gì đã được nghiên cứu và đề cập đến trong Đề tài này đã là những cơ sở cần thiết cho bộ phận kiểm toán nội bộ được thành lập sẽ hoạt động hiệu quả và hữu ích. Tuân thủ các nguyên tắc đã được xây dựng trong đề tài thì hệ thống kiểm toán nội bộ ở Tổng Công ty sẽ khẳng định được vị trí của mình là “quan toà công minh của quá khứ, người dẫn đường cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các Phòng Ban trong Văn Phòng Tổng Công ty Muối Việt Nam, sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo - tiến sĩ: Ngô Trí Tuệ và các thầy cô trong Khoa đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Do còn hạn chế về nhiều mặt nên Đề tài này chắc chắn còn nhiều hạn chế, với tinh thần học hỏi, tôi rất mong nhận được sự góp ý, cộng tác của các bạn, các thầy cô trong Khoa và những người quan tâm để Đề tài ngày một hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 5 năm 2002. Sinh viên thực hiện Phạm Thái Sơn. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Lý thuyết kiểm toán - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Kiểm toán - Alvin.A Arens - Nhà xuất bản thống kê. Kiểm toán - Vương Đình Huệ - Nhà xuất bản Tài chính. Tạp chí Kiểm toán các số năm 2000, 2001, 2002. Thông tư số 52/1998 - TT - BTC ngày 14/04/1998. Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT Ngày 28/10/1997. Công văn số 287 - TC - TCDN ngày 3/8/1998. Thông tư số 171 - TT - BTC ngày 22/12/1998. Nghị định 59 CP của Chính phủ ngày 03/10/1996. Nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ. Nghị định số 26 - HĐBT ngày 18/03/1989 của Hội đồng bộ trưởng. Điều lệ kế toán trưởng. Quy chế kiểm toán nội bộ Tổng Công ty Điện lực Việt Nam. Quy chế kiểm soát nội bộ và hạch toán kế toán Tổng Công ty Muối Việt Nam. Chế độ mới về quản lý tài chính và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - Nhà xuất bản Tài chính - Bộ Tài chính. Kiểm toán nội bộ - Nhà xuất bản Tài chính - PGS - PTS Đặng Văn Thanh - PTS Lê Thị Hòa. Kiểm toán nội bộ - Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước. Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Nhà xuất bản Tài chính 1996 - Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0298.doc
Tài liệu liên quan