Kiểu file: .pdf có thể copy qua Word
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT SỐ TTCK TRÊN THẾ GIỚI 2
1.1. NIÊM YẾT TRÊN TTCK SINGAPORE 2
1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK SINGAPORE 2
1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT 4
1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN SGX 4
1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN CATALIST 7
1.2. NIÊM YẾT TRÊN TTCK HONG KONG 8
1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK HONG KONG 8
1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT 9
1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÍNH HONG KONG 9
1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG DOANH NGHIỆP ĐANG TĂNG TRƯỞNG 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 15
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM HIỆN NAY 16
2.1. TTCK VIỆT NAM 16
2.1.1. THỊ TRƯỜNG NIÊM YẾT 16
2.1.2. THỊ TRƯỜNG OTC VÀ CÁC ĐỢT IPO TRONG THỜI GIAN QUA 26
2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 30
2.2.1. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU. 30
2.2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH 31
2.2.2.1. CHỈ TIÊU VỐN ĐIỀU LỆ 31
2.2.2.2. CHỈ TIÊU VỀ LỢI NHUẬN 32
2.2.2.3. CHỈ TIÊU VỀ CÁC KHOẢN NỢ 33
2.2.2.4. CHỈ TIÊU VỀ TÍNH ĐẠI CHÚNG CỦA DOANH NGHIỆP 33
2.2.3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT KHÁC 34
2.2.3.1. ĐÁNH GIÁ VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP 34
2.2.3.2. VẤN ĐỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN 37
2.2.3.3. ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VIỆT NAM 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 41
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO TTCK VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020 . 42
3.1. NÂNG CAO TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH 42
3.1.1. NHỮNG CƠ SỞ PHÂN TÍCH ĐỂ ĐƯA RA TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT43
3.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT 43
3.1.2.1. TIÊU CHUẨN QUY MÔ VỐN ĐIỀU LỆ 44
3.2.2.2. LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG, KHẢ NĂNG SINH LỜI VÀ TIỀM NĂNG TƯƠNG LAI . 45
3.1.2.3. BAN QUẢN LÝ CÔNG TY 46
3.1.2.4. TỶ LỆ PHÂN BỔ CHO CỔ ĐÔNG 46
3.1.2.5. THỜI HẠN RÀNG BUỘC CHUYỂN NHƯỢNG 46
3.1.2.6. CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN 46
3.1.2.7. CÔNG BỐ THÔNG TIN CỔ PHẦN 46
3.1.2.8. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁC 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 47
KẾT LUẬN 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: GIỚI THIỆU THÊM VỀ TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT SỐ TTCK TRÊN THẾ GIỚI 49
PHỤ LỤC 2: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT DÀNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CỦA TTCK MALAYSIA VÀ THÁI LAN 54
PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG 57
PHỤ LỤC 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KẾ TOÁN, KIỂM
TOÁN VIỆT NAM VÀ XÂY DỰNG BẢN BÁO CÁO TÀI CHÍNH THEO TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ 58
PHỤ LỤC 5: KẾT NỐI GIỮA SÀN CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VỚI CÁC SÀN TRONG KHU VỰC 65
PHỤ LỤC 6: TRÍCH LƯỢC NGHỊ ĐỊNH 14 VỀ THI HÀNH LUẬT CHỨNG KHOÁN 72
PHỤ LỤC 7: THÔNG TIN VỀ VỐN, LỢI NHUẬN CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN HOSE 81
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn niêm yết cho thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trosetco (PET) ở sản HOSE hay Xi măng Sài Sơn (SCJ) ở sàn
Hà Nội, ... Điệp khúc “lên sàn – tăng giá” lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cho cả thị
trường đổ xô đi săn lùng các nhóm cổ phiếu này.
Các phiên phục hồi mạnh mẽ vào tháng 10 không cầm cự được lâu và yếu dần qua
thời gian, chứng tỏ nhà đầu tư (đặc biệt là đầu tư ngắn hạn) có tâm lý lo ngại về
khả năng giảm giá của cổ phiếu trên sàn trong thời gian tới.
Trong khi lượng cầu cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi án treo 03 đang đến gần thì các
doanh nghiệp lại đua nhau tăng cung khiến chênh lệch cung cầu ngày càng lớn.
Mặc dù việc tăng cung là phù hợp với từng giai đoạn nhưng sẽ có tác dụng ngược
trong giai đoạn điều chỉnh như hiện nay, khi mà các nhà đầu tư đã trở nên “ngán
ngẩm” và có cảm giác “khó tiêu” với lượng cung quá lớn.
Bỏ qua các giai đoạn thăng trầm của thị trường thì nhìn chung năm 2007, thị
trường chứng khoán Việt Nam cũng đạt được khá nhiều thành tựu:
Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ từ 25% – 30% cổ phần của các
doanh nghiệp niêm yết, và chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị
danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước đạt 7,6
tỷ USD tăng gấp 3 lần so với năm 2006.
Bảng 2.5:
Quy mô niêm yết tại HOSE
Toàn thị trường Cổ phiếu
Chứng chỉ
quỹ Trái phiếu
Tổng số CK niêm yết 528,00 150,00 3,00 375,00
Tỉ trọng (%) 100,00 28,41 0,57 71,02
KL niêm yết (ngàn CK) 5.110.319,44 4.477.359,56 71.409,63 561.550,25
Tỉ trọng (%) 100,00 87,61 1,40 10,99
GT niêm yết (triệu đồng) 101.345.715,88 44.773.595,58 714.095,30 55.858.025,00
Tỉ trọng (%) 100,00 44,18 0,70 55,12
Kết thúc năm 2007 có 849 công ty đại chúng, 59 công ty được cấp phép
niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó trên sở GDCK TP.HCM là 32 công ty và
1 chứng chỉ quỹ, trên trung tâm GDCK Hà Nội là 27 công ty, đưa tổng số công ty
trên sàn lên 253. Ngành nghề hoạt động của các công ty tương đối đa dạng, tuy
nhiên tỷ trọng lớn vẫn chủ yếu ở các lĩnh vực sản xuất nói chung, xây dựng – bất
động sản, thương mại, vận tải – kho bãi. Ngành dịch vụ nhìn chung còn rất mờ
nhạt trên sán chứng khoán.
UBCK Nhà nước đã chấp thuận đăng ký chào bán ra công chúng hơn 2.68
tỷ cổ phiếu của 192 công ty, tương ứng khoảng 50 nghìn tỷ đồng; 3.968 triệu trái
phiếu qương ứng với 4.250 tỷ đồng cho 4 Ngân hàng thương mại cổ phần; 35 triệu
chứng chỉ quỹ tương ứng với 350 tỷ đồng cho Quỹ tăng trưởng Manulife, Quỹ
VF4. Tính chung cả hoạt động phát hành, đấu giá trên thị trường chính thức đạt
gần 100.000 tỷ đồng (gấp 3 lần so với năm 2006). Còn đối với hoạt động đấu thầu
trái phiếu, trong năm qua TTGDCK Hà Nội đã thực hiện 44 đợt với tổng số tiền
thanh toán là trên 18.000 tỷ đồng.
Hình 2.6: Hình 2.7:
Khung pháp lý cho cổ phần hóa được cải thiện rõ rệt trong năm 2007 với
cột mốc quan trọng là Nghị định 109 ban hành ngày 26/06/2007 của Chính phủ về
chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã khơi
thông nhiều vấn đề tồn tại của Nghị định 187 về cổ phần hóa. Điểm quan trọng thứ
2 là Thông tư 134 quy định cổ phần hóa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh từ doanh nghiệp ngày 21/03/2007 sẽ không được hưởng ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp. Quyết định này có thể là một cú sốc với các doanh nghiệp vốn
đã quen với việc được nâng đỡ nhưng về lâu dài sẽ giúp các doanh nghiệp tự chủ
hơn trong kinh doanh. Đây là hai thay đổi lớn trong chính sách cổ phần hóa của
Nhà nước và được dự báo sẽ có tác động đáng kể đến tiến trình cải cách doanh
nghiệp Nhà nước.
Nhận xét:
Điểm nổi bật của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua
chính là tâm lý của nhà đầu tư. Chính tâm lý bầy đàn này là lực tác động mạnh
nhất vào thị trường, nó có thể đưa VN-Index đạt đỉnh nhưng cũng có thể kéo VN-
Index xuống đáy.
Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước, chỉ chiếm 31%
GDP (cập nhật đến ngày 01/10/2007), trong khi mức bình quân của các quốc gia
trong khu vực khoảng 40% GDP.
Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về
năng lực tài chính. Mặc dù các Công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu,
trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu
vốn (đối với Công ty chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại) nhưng
nhìn chung, mức vốn điều lệ vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này
làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty trong vai trò tạo
lập thị trường, hoặc hạn chế năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào tài
khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư
lớn trên thị trường do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Một số loại hình tổ chức như
công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư đã hình thành nhưng chưa nhiều, tỷ trọng tham gia
đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư)
còn hạn chế, chiếm khoảng 20% thị phần. Một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở
tài khoản giao dịch nhưng chưa tham gia vào đầu tư (JP Morgan, Merryll
Lynch…), các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua
các tài khoản uỷ thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu của các doanh
nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên TTGDCK và Sở GDCK.
Công tác quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK
bước đầu đã đi vào nề nếp, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, trước những
diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải chuyên sâu
và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý
giám sát thông qua báo cáo để nắm tình hình, thông tin.
2.1.2. Thị trường OTC và các đợt IPO trong thời gian vừa qua:
Nhìn lại toàn cảnh thị trường OTC quí I/2008 trên cơ sở phân tích TTCK niêm yết,
từ đó khuyến nghị cần có quy hoạch lại thị trường OTC để có thể giảm thiểu rủi ro
không đáng có cho nhà đầu tư, để thị trường phát triển lành mạnh, trở thành kênh
thu hút vốn tích cực cho các công ty và nền kinh tế.
Đề án thành lập thị trường giao dịch những cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) của sàn
Hà Nội vừa được Uỷ ban Chứng khoán thông qua và đang được Bộ Tài chính xem
xét và xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ.
Dự kiến, tháng 6/2008 sẽ chính thức đưa 40 cổ phiếu của các công ty cổ phiếu đại
chúng thuộc ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm lên giao dịch. Theo đề án, tiêu
chuẩn niêm yết tại thị trường OTC (còn gọi là thị trường đăng ký giao dịch) rất
đơn giản, chỉ cần có dịch vụ quản lý số cổ đông tốt, nắm được tình hình cổ đông,
đưa vào lưu ký nhanh và đưa vào hệ thống để sẵn sàng giao dịch. Biên độ điều
chỉnh giá lên xuống sẽ là 20% và vẫn tuân thủ quy định T+3.
Điểm khác biệt nhất so với thị trường niêm yết là các doanh nghiệp ở thị trường
đăng ký giao dịch không cần gửi báo cáo tài chính quý mà chỉ cần gửi báo cáo tài
chính năm được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập.
Ảnh hưởng của Thị trường niêm yết tới Thị trường OTC
Thị trường niêm yết giảm mạnh khiến thị trường OTC cũng lao dốc không biên
độ, 60% các mã cổ phiếu OTC đóng băng hoàn toàn. Các mã cổ phiếu còn lại giao
dịch rất ít nhưng giá rất thấp.
Vào thời điểm cuối tháng 2, đầu tháng 3/2008, đã diễn ra một cuộc tháo chạy cổ
phiếu OTC của các nhà đầu tư nhưng họ đã không thành công vì lượng dư bán gấp
nhiều lần dư mua khiến cho hầu hết các giao dịch không thành công.
Ngoài ra, việc IPO của những công ty lớn ào ạt diễn ra như: VCB, SABECO,
HABECO, đã khiến thị trường OTC mất cân đối, cung vượt cầu trong khi lượng
tiền mặt thì ngày càng khan hiếm và nhà đầu tư có các lựa chọn hấp dẫn khác:
Vàng, bất động sản, ngoại tệ… làm cho thị trường OTC càng thê thảm.
Một số mã cổ phiếu ngân hàng như: MB, ABB, MSB, VPB… vào cuối năm 2006,
đầu năm 2007 được “thổi lên” và được đánh giá là các cổ phiếu có tiềm năng, hơn
cả cổ phiếu niêm yết vì cứ đầu tư là có lãi đến vài chục phần trăm ngay, nhưng giờ
đây sắp trở về với mệnh giá, giá mua bán hiện chỉ là 1x và 2x.
Các mã cổ phiếu khác về bất động sản và khoáng sản thì báo cáo tài chính đầu
năm 2008 còn tốt hơn năm 2007 nhưng không hiểu tại sao mà giá trị cổ phiếu lại
giảm xuống chưa bằng ½ giá trị năm 2007.
Bảng 2.8:
Phân loại và thống kê một số ngành trên thị trường OTC tính đến 4/2008
Ngành Số lượng công ty
Bất động sản 98
Bưu chính viễn thông 25
Chế biến – Đồ uống 63
Chế tạo – Luyện kim 34
Chứng khoán 41
Cơ khí – Lắp máy 60
Công nghệ 38
Dầu mỏ - khai khoáng 55
Đầu tư 49
Dệt may – da giầy 76
Dịch vụ - cung ứng 42
Điện – điện tử - điện lạnh 41
Du lịch – Khách sạn 51
Dược Phẩm – Mỹ phẩm 51
Gạch – Gốm sứ 51
Giáo dục – đào tạo 33
Giao thông – Vận tải 34
Giấy – Bao bì 63
Theo thống kê của sàn OTC, tính đến 14/4/2008, sàn này có tổng cộng 1626 công
ty (được phân loại hơn 42 ngành), cho thấy đây là lượng cung rất lớn cho TTCK
Việt Nam. Nhìn lại trước đó, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực
trạng doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2002, cả nước có 2.829 công ty cổ phần.
Trong đó 557 công ty nhà nước được cổ phần hoá, 2.272 công ty cổ phần không
có vốn nhà nước. Tổng vốn tự có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp
20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn hoá của các công ty niên yết tại thời điểm
đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cả nước có gần 2.000 doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần. Tổng vốn điều lệ của các công ty
này cao hơn rất nhiều lần khối lượng vốn hoá trên thị trường chính thức. Đây
chính là nguồn cung của thị trường OTC, nói theo cách của một số người thì: thị
trường OTC ở Việt Nam rất tiềm năng.
Một lượng lớn các công ty đang trong quá trình cổ phần hóa, đồng thời rất nhiều
doanh nghiệp đang chờ niêm yết có tiềm lực tài chính lớn và kinh doanh hiệu quả.
Do đó, việc so sánh với tiêu chuẩn niêm yết như hiện nay là khá thấp khiến cho
việc nâng cao tiêu chuẩn niêm yết càng trở nên quan trọng hơn (đặc biệt cho sàn
HOSE) để nâng cao uy tín, thương hiệu cho TTCK Việt Nam.
Khi một TTCK phát triển, có uy tín sẽ tạo được lòng tin và thu hút được lượng
vốn đầu tư lớn trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, các công ty đang niêm yết
trên TTCK Việt Nam cũng chưa phải là những công ty hàng đầu trong nền kinh tế,
chưa có mức đóng góp quan trọng cho nền kinh tế nên chất lượng của TTCK Việt
Nam được đánh giá chưa cao so với một số nước trong khu vực và thế giới.
IPO và đánh giá:
Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), năm 2007 đã có
đến 179 công ty được cấp phép chào bán cổ phiếu, 3 ngân hàng phát hành trái
phiếu, 1 chứng chỉ quỹ của Manulife. Tổng giá trị huy động được khoảng 90.000
tỷ đồng. Nhìn vào con số này quả thật là một sự thành công cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong vấn đề huy động vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư.
Trong năm 2007 có khoảng 56 công ty mới niêm yết (trong đó 24 công ty niêm yết
ở HASTC và 32 công ty niêm yết ở HOSE), cũng có nghĩa là có đến 56 hồ sơ cáo
bạch được đệ trình lên hội đồng xét duyệt. Tính trung bình thì khoảng 2 ngày phê
duyệt một hồ sơ phát hành và 1,5 ngày cho một hồ sơ phát hành và niêm yết. Một
hồ sơ phát hành phải công bố ra thị trường trước 20 ngày để các nhà đầu tư nghiên
cứu trong khi đó chỉ có 2 ngày cho hội đồng xét duyệt đọc và thẩm tra. Ở đây
chúng ta chưa nói đến một thời gian dài trong năm thị trường ảm đạm rất ít doanh
nghiệp phát hành và niêm yết. Việc phát hành và niêm yết thường dồn dập vào
những thời điểm khởi sắc của thị trường, nên những lúc cao điểm thì số ngày đọc
hồ sơ cũng chưa đến 2 ngày. Điều này cho thấy một “nỗ lực” trong việc quản lý và
điều hành TTCK của UBCK. Có thể nói, năm 2007 là năm quản lý tất bật của
UBCKNN nên họ không đủ thời gian để hoạch định chiến lược phát triển bền
vững TTCK trong tương lai là điều hiển nhiên.
Theo điều 12 Luật chứng khoán quy định về điều kiện bán chứng khoán ra công
chúng của các tổ chức phát hành đều phải có phương án phát hành, phương án đầu
tư (đối với quỹ đầu tư) phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được (đối với việc
phát hành trái phiếu). Nếu điều kiện 2 năm liền trước năm phát hành có lợi nhuận
và không có lỗ lũy kế đến năm phát hành là điều kiện mà một doanh nghiệp nào
muốn tham gia thì tự mình vượt qua rào cản này. Còn điều kiện về phương án phát
hành và sử dụng vốn quả thật là một tiêu chuẩn khó vượt qua trong vấn đề xét
duyệt. Bởi lẽ nó không có một tiêu chuẩn nào trong việc xét duyệt. Khó có sự
đồng thuận trong việc xác định thế nào là phương án phát hành tối ưu, phương án
sử dụng vốn có hiệu quả giữa tổ chức phát hành và UBCKNN. Thêm nữa, việc xét
duyệt còn khó khăn hơn đối với mức giá tham chiếu cho việc phát hành và niêm
yết lần đầu. Trong điều kiện “bận rộn” như trên, liệu rằng có sự “xuề xòa” trong
việc xét duyệt các tiêu chuẩn trên hay không? Quả thật đây là một câu hỏi còn bỏ
ngỏ trong việc thẩm tra chất lượng xét duyệt và hoạch định chiến lược phát triển
thị trường của UBCKNN.
Những ai tham gia thị trường đều canh cánh bên mình những hoài nghi. Tiếp bước
năm 2007, năm 2008 dự kiến hoạt động IPO của các đại gia trong nền kinh tế
được đẩy mạnh. Khi thị trường sẽ có nhiều hàng hóa hơn. Điều đó cũng có nghĩa
là thị trường sẽ tràn ngập các cơ hội đầu tư trong khi việc đẩy mạnh thu hút dòng
vốn vào thị trường lại chưa được đẩy mạnh. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy,
chính sự ăn nên làm ra của các quỹ đầu tư là lý do chính cho việc thu hút dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài. Vậy liệu rằng trong năm 2007 trước tình hình thị
trường không thuận lợi cho những nhà đầu cơ thì việc ăn nên làm ra của các quỹ
có khởi sắc không? Điều này cho thấy, nếu không có các giải pháp mạnh trong
việc thu hút dòng vốn gián tiếp thì khó có thể nói TTCK Việt Nam năm 2008 sẽ
khởi sắc. Trước tình hình lạm phát leo thang, chính sách tiền tệ thắt chặt, khả năng
nới lỏng chỉ thị 03 khó thực thi thì việc tăng cung càng đẩy thị trường trong năm
mới chẳng gì mới hơn năm cũ.
Việc đẩy mạnh thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ đẩy lượng tiền
trong lưu thông trở nên nhiều hơn, áp lực lạm phát sẽ gia tăng nếu không có một
chính sách tỷ giá linh hoạt. Lạm phát gia tăng, chính sách tiền tệ tiếp tục thắt chặt
điều này được chỉ ra trong lý thuyết “bộ ba bất khả thi” của Robert Mundel, do đó
các nhà đầu tư trong nước tiếp tục gánh lấy thất bại trong đầu tư. Vậy, liệu rằng
những giải pháp kích cầu mà UBCKNN đệ trình có khả thi cho hai phía cung và
cầu không? Những giải pháp này đang được thị trường kỳ vọng nhưng thị trường
còn kỳ vọng hơn vào việc không quá tải trong xét duyệt hồ sơ để đảm bảo chất
lượng của cung hàng.
2.2. Phân tích tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay:
2.2.1. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu:
a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết
từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Căn cứ vào
tình hình phát triển thị trường, mức vốn có thể được Bộ Tài chính điều chỉnh tăng
hoặc giảm trong phạm vi tối đa 30% sau khi xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ;
b) Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có
lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết;
c) Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của
pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản
trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng
Giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
d) Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ
đông nắm giữ;
đ) Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc
Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của
công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6
tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp
theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện
nắm giữ;
e) Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định tại khoản 2 Điều
10 Nghị định này.
2.2.2. Phân tích các tiêu chuẩn niêm yết của Sở GDCK TP.Hồ Chí Minh:
2.2.2.1. Chỉ tiêu về vốn điều lệ:
Theo nghị định 14/2007/NĐ-CP, Vốn điều lệ niêm yết trên HOSE là 80 tỷ đồng,
căn cứ vào tình hình phát triển thị trường, mức vốn có thể được Bộ Tài chính điều
chỉnh tăng hoặc giảm trong phạm vi tối đa 30% (tương đương 24 tỷ đồng) sau khi
xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ. Theo nhận định của chúng tôi, không chỉ có chỉ
tiêu 80 tỷ đồng là chưa hợp lý mà còn phải xem xét lại cả biên độ điều chỉnh của
quy định này.
Vốn điều lệ 80 tỷ đồng đã là khá thấp so với khu vực, thậm chí nếu được điều
chỉnh tăng lên mức tối đa là 104 tỷ đồng thì vẫn còn thấp, lại còn có thể bị điều
chỉnh giảm nữa thì e rằng VN-Index sẽ không được đánh giá cao.
Bảng 2.9:
Thống kê chỉ tiêu vốn điều lệ của một số TTCK trong khu vực
TTCK Vốn điều lệ
Hàn Quốc 10 triệu USD ~ 160 tỷ VNĐ
Thượng Hải 50 triệu RMB ~ 110 tỷ VNĐ
Nhật Bản 1 tỷ JPY ~ 158 tỷ VNĐ
Thái Lan 300 triệu baht ~ 140 tỷ VNĐ
Việt Nam (HOSE) 80 tỷ VNĐ ~ 80 tỷ VNĐ
Cập nhật tỷ giá ngày 15/04/2208
Hơn nữa, UBCKNN và Bộ Tài chính căn cứ như thế nào về tình hình phát triển
của thị trường chứng khoán để mà điều chỉnh? Cơ sở của căn cứ là gì và sau
khoảng thời gian bao lâu thì điều chỉnh một lần? Đó là những câu hỏi mà chúng ta
không dễ gì có thể tìm ra lời giải. Trước tình hình thị trường biến động theo chiều
hướng xấu của thị trường như hiện nay, liệu rằng chỉ tiêu này có bị điều chỉnh
giảm theo quy định hay không? Mỗi lần muốn điều chỉnh, Bộ Tài chính phải xin ý
kiến của Thủ tướng và có thể cần có sự thông qua của Quốc Hội mới được điều
chỉnh thì liệu rằng việc điều chỉnh này có còn mang tính kịp thời và còn phù hợp
nữa không? Như vậy, biên độ này có cần thiết không?
2.2.2.2. Chỉ tiêu về lợi nhuận:
Tiêu chuẩn quy định doanh nghiệp muốn niêm yết phải có hoạt động kinh doanh
hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính
đến năm đăng ký niêm yết là một điều không cần thiết. Có nên chăng là quy định
rõ về mức lợi nhuận là bao nhiêu, tốc độ tăng trưởng như thế nào để sau khi niêm
yết thì giá trị doanh nghiệp cũng như giá cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ góp phần
làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam sôi động hơn và VN-Index ngày một
tăng cao.
Vấn đề đặt ra là lợi nhuận và tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành là khác nhau nên
nhiệm vụ của UBCKNN và Bộ Tài chính là thống kê và đưa ra mức lợi nhuận
cũng như tốc độ tăng trưởng riêng cho từng ngành, tiêu chuẩn này cần mang tính
định lượng để có đươc sự rõ ràng trong các chỉ tiêu.
2.2.2.3. Chỉ tiêu về các khoản nợ:
Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật;
công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám
đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan.
Theo quy định, các công ty cổ phần muốn niêm yết bắt buộc phải được kiểm toán
báo cáo tài chính ít nhất 2 năm trước khi niêm yết nên các khoản nợ quá hạn
không được dự phòng sẽ được thể hiện rõ trong phần loại trừ của kết luận kiểm
toán. Nếu vấn đề này không được cải thiện, không chỉ các cổ đông của công ty mà
các chủ nợ cũng phát hiện ra, điều này sẽ khiến cho công ty gặp khó khăn cả về tài
chính lẫn kinh doanh. Do đó, không có công ty nào lại thể hiện các khoản nợ quá
hạn chưa được dự phòng lên các báo cáo tài chính, họ có thể “bùa phép” chúng
thành các khoản mục khác nên không dễ gì bị phát hiện nên Nghị định này quy
định chỉ mang tính hình thức mà thôi.
2.2.2.4. Chỉ tiêu về tính đại chúng của doanh nghiệp:
Nghị định 14 quy định tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của doanh
nghiệp do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần bắt buộc phải có cổ phần phổ
thông nhưng không bắt buộc phải có cổ phần ưu đãi (cổ phiếu có quyển biểu quyết
là một loại của cổ phần ưu đãi) nên việc quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ưu đãi
của Nghị định này là không hợp lý cho lắm, dù rằng trên thực tế, khó có công ty
cổ phần đại chúng nào không có cổ phiếu ưu đãi quyền biểu quyết để bảo vệ cho
lợi ích của cổ đông sáng lập. Mặt khác, vấn đề cần quan tâm là mức độ đại chúng
của công ty sẽ niêm yết bởi nó ảnh hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu khi
niêm yết nên tiêu chuẩn về cổ phiếu có quyền biểu quyết là không cần thiết, mà
cần quy định về tỷ lệ nắm giữ tối thiểu cổ phiếu thường của một số lượng nhất
định cổ đông mà theo Nghị định này là 100 cổ đông.
20% cổ phiếu thường được nắm giữ bởi ít nhất 100 cổ đông liệu có hợp lý? Ta cứ
tính thử, theo quy định hiện nay, vốn điều lệ 80 tỷ, công ty sẽ có ít nhất 500 cổ
đông và trung bình mỗi cổ đông thường sẽ nắm giữ số lượng cổ phiếu 160 triệu
đồng tương đương 16.000 cổ phiếu mệnh giá 10.000 đồng. Với điều kiện thị
trường hiện nay, việc một cổ đông nắm giữ 160 triệu đồng cổ phiếu là một con số
không lớn, chưa kể 500 cổ đông đối với một công ty cổ phần là khá ít, ảnh hưởng
không nhỏ đến tính thanh khoản của cổ phiếu nếu niêm yết. Con số này còn có khả
năng thấp hơn nữa vì theo Luật Doanh nghiệp 2005, các cổ đông sáng lập phải
nắm giữ tổng cộng ít nhất 20% số cổ phần thường chào bán.
Ngoài ra, để tăng tính thanh khoản cho TTCK, ngoài các chỉ tiêu trên, Luật Chứng
khoán nên đề ra các chỉ tiêu về EPS, hiệu quả hoạt động cao và được xếp hạng tín
nhiệm từ BB trở lên, từ đó chất lượng của các doanh nghiệp niêm yết sẽ tăng cao.
Mặt khác, quy định về việc giám sát việc công bố thông tin của UBCKNN còn khá
hạn chế, chưa được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ, làm ảnh hưởng đến kênh
thông tin, chiến lược đầu tư và lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường.
2.2.3. Một số đánh giá, nhận xét khác:
2.2.3.1. Đánh giá về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp:
Bảng 2.10:
Thống kê số lượng công ty niêm yết theo xếp hạng tín dụng năm 2006
Xếp hạng tín dụng 2006 Số lượng công ty
AAA 54
AA 16
A 17
BBB 9
BB 7
B 2
CCC 3
CC 0
C 0
Nhìn vào thực trạng hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn, ta có thể
đánh giá hiệu quả của tiêu chuẩn niêm yết này. Trong 154 công ty niêm yết trên
sàn hiện nay có 1/3 số công ty có vốn điều lệ nhỏ hơn 80 tỷ, hơn 30 công ty có vốn
điều lệ nhỏ hơn 40 tỷ. Và với quy định tăng vốn để thoả tiêu chuẩn này thì tổng
vốn tất cả các công ty phải tăng khoảng hơn 2.356 tỷ. Trong giai đoạn này việc
tăng vốn là rất khó khăn và dường như tiêu chuẩn về vốn điều lệ trên 80 tỷ là
không hợp lý cho tất cả các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp có vốn lớn nhưng
làm ăn không hiệu quả, trong khi một số doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ lại làm
ăn và hoạt động rất hiệu quả từ khi niêm yết.
Tính trung bình, những công ty lớn trên sàn đã tăng vốn điều lệ lên 86,6% kể từ
đầu năm 2007. Điều này có nghĩa nếu muốn EPS năm nay sẽ duy trì ở cùng mức
so với năm ngoái thì các doanh nghiệp sẽ phải tăng lợi nhuận thực tương đương
năm ngoái. Nhưng điều này không phải dễ dàng trong điều kiện nền kinh tế đang
có nhiều diễn biến bất lợi. Do đó, khi các doanh nghiệp cùng tăng vốn sẽ làm cho
EPS thị trường giảm, sẽ làm thị trường trở nên kém hấp dẫn hơn cho các nhà đầu
tư; đặc biệt là với các doanh nghiệp kém hiệu quả EPS sẽ trở nên rất thấp (số
lượng doanh nghiệp có EPS dưới 1.000 đồng sẽ rất nhiều nếu tính trên lợi nhuận
2007 và với mức vốn 80 tỷ đồng). Do đó, ta có thể thấy thêm tính không hiệu quả
của tiêu chuẩn vốn điều lệ.
Ví dụ như MCV (Công ty cổ phần khai thác mỏ và xây dựng Cavico Việt Nam) có
vốn điều lệ tính đến cuối năm 2007 là 85 tỷ đồng nhưng theo đánh giá của CIC về
xếp hạng tín nhiệm là loại CCC và với lợi nhuận hàng năm không cao, từ năm
2003 đến cuối 2007 lợi nhuận chỉ nằm trong khoảng 3,66 tỷ đến hơn 9 tỷ đồng.
EPS năm 2007 chỉ đạt 1.149 đồng. Ngoài ra một số doanh nghiệp khác như HAX
(Công ty cổ phần Ô Tô Hàng Xanh) cũng được đánh giá là doanh nghiệp hoạt
động với quy mô vừa nhưng xếp hạng tín nhiệm cũng là CCC, hay Công ty cổ
phần gạch men Vitaly (VTA) được xếp vào loại hình doanh nghiệp có quy mô
hoạt động lớn nhưng hệ số tín nhiệm cũng không cao. Một doanh nghiệp niêm yết
khá lâu nhưng tính từ khi niêm yết chưa thực sự thấy hiệu quả hoạt động và gây
được niềm tin cho nhà đầu tư có thể nói như BBT, mức giá thị trường luôn duy trì
ở mức thấp (dưới 20.000), tính đến ngày 25/4/2008 giá cổ phiếu BBT cũng chỉ là
13.500đ/cổ phiếu (thấp hơn giá của cổ phiếu quỹ VFMVF1 là 13.900đ/cp). EPS
duy trì như năm 2007 ở mức dưới 1000đ. Vậy liệu khi doanh nghiệp này đáp ứng
nhu cầu tăng vốn như tiêu chuẩn mới ban hành, đồng vốn của nhà đầu tư liệu có
đem lại hiệu quả hoạt động cao? Do đó sẽ tác động không tốt đến tâm lý nhà đầu
tư khi nhìn nhận về thị trường và chất lượng của sàn, cũng như tiêu chuẩn liệu đã
chọn lọc được những doanh nghiệp thực sự có tiềm năng …
Trong khi một số doanh nghiệp khác có quy mô hoạt động nhỏ nhưng hiệu
quả hoạt động lại rất tốt và có tiềm năng; EPS ổn định và tương đối tốt trong thị
trường Việt Nam như UNI (Công ty cổ phần Viễn Liên), hoạt động với quy mô
nhỏ, xếp hạng tín nhiệm AAA, EPS 2007 đạt 5.749 đồng, và duy trì ổn định. Là
một cổ phiếu có tính thanh khoản tương đối tốt trên sàn. Hay ST8 (công ty cổ
phần Siêu Thanh) có mức vốn nhỏ hơn 40 tỷ, xếp hạng tín nhiệm AAA, mức lợi
nhuận tăng trưởng gần gấp đôi sau mỗi năm (2005 – 2007), với EPS (2007) đạt
hơn 6.550 đồng, cổ đông nước ngoài nắm giữ tới 48,82% (phần nào cho thấy được
chất lượng của doanh nghiệp) …
Vậy trong bối cảnh cần phải tăng vốn theo tiêu chuẩn đề ra tại thời điểm khó khăn
và nhạy cảm này là không hợp lý. Hoặc nếu những doanh nghiệp tiềm năng này bị
loại khỏi sàn, phải chăng chúng ta đang bỏ qua những hàng hóa tốt cho sự phát
triển của thị trường?
Tính đến ngày 25/04/2007, có 15 công ty (trong tổng số 107 công ty và quỹ) có
giá trị thị trường dưới 100 tỷ đồng (tỷ trọng chỉ chiếm từ 0,01% - 0,05% toàn thị
trường), tới cuối năm 2007 đầu 2008 có hơn 18 công ty có giá trị thị trường dưới
100 tỷ đồng. Phân tích một số công ty có hiệu quả hoạt động không cao, lượng
giao dịch thấp, vốn hóa thấp của thị trường như: LBM, SFN, BTC, VTC,
SDN,HBD, BBT,…
Không những vậy, quy định về mức có lãi ít nhất 2 năm trước khi niêm yết cũng
thực sự không rõ ràng và hiệu quả trong việc sàng lọc doanh nghiệp khi mà Thị
trường chứng khoán đã hoạt động được 7 năm và bắt đầu cần phải có những sự
sàng lọc khắt khe hơn. Theo tiêu chuẩn của một số sàn có uy tín như Singapore
hay Hong Kong, có quy định rõ mức doanh thu hay lợi nhuận cụ thể là bao nhiêu.
Điều này sẽ cực kỳ hiệu quả trong việc thúc đẩy doanh nghiệp muốn niêm yết
nâng cao hiệu quả hoạt động, trong việc sử dụng vốn, để dòng vốn chảy vào doanh
nghiệp được sử dụng có hiệu quả hơn, nhà đầu tư cũng có thêm niềm tin, thị
trường trở nên tốt hơn và có uy tín hơn.
2.2.3.2. Vấn đề công bố thông tin:
TTCK, hiểu một cách bình dân nhất, chỉ là một cái chợ nơi diễn ra việc mua bán
các loại chứng khoán. Mà điều kiện để một cái chợ hoạt động sôi động là cần có
nhiều người bán, nhiều hàng hóa và nhiều người mua. Ở đó, người mua và người
bán có thể thuận mua vừa bán, nhưng ít ra thì người mua cũng phải biết được mình
đang bỏ tiền ra mua cái gì.
Về phía người bán, hiện nay cả nước có khoảng 5.000 công ty cổ phần, bao gồm
2.000 DNNN cổ phần hóa và còn lại là các công ty thành lập theo luật doanh
nghiệp. Chỉ cần khoảng 10% số công ty trên tham gia bán cổ phần ra chợ thì
chúng ta có lượng cung cao gấp 15 lần như hiện nay.
Về phía người mua, Việt Nam hiện có tổng số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng
hơn 400.000 tỷ đồng, cộng với hàng chục ngàn tỷ đồng tiền mua bảo hiểm hàng
năm và một lượng tiền không nhỏ đổ vào bất động sản, vàng, ngoại tệ… Nếu
những khoản tiền này được đưa vào TTCK, đây là một tiềm năng rất lớn từ phía
cầu của thị trường.
Giá trị của cổ phiếu ảnh hưởng như thế nào?
Nếu lượng tiềm năng thị trường rất lớn về cung và cầu như vậy, tại sao chúng ta
chưa có số lượng trao đổi mua bán lớn. Cung và cầu chưa gặp được nhau chính
bởi sự ngăn cách của bức tường thông tin.
Vấn đề công bố thông tin là một vấn đề rất rộng và chứa đựng nhiều bất cập trên
thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Đây là một nguyên nhân cũng khá
quan trọng làm giảm đi tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
con mắt của những nhà đầu tư quốc tế. Trong đề tài này, đề cập đến một tiêu
chuẩn quan trọng nhưng hiện nay các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chưa thực
hiện tốt đó là việc công bố thông tin hàng tháng về lượng vốn đang tham gia vào
các dự án, tiến độ thực hiện dự án, phần vốn đang nắm giữ tại các dự án đầu tư dài
hạn – liên doanh liên kết, việc sử dụng nguồn vốn khi phát hành thêm, các cổ đông
lớn hiện tại … Trên thực tế, các nhà đầu tư thường chỉ biết rõ các vấn đề này qua
Đại Hội cổ đông thường niên và báo cáo thường niên. Một số doanh nghiệp lại cho
rằng vấn đề này là bí mật nên cũng không công bố ra bên ngoài. Yêu cầu chính
đáng của các cổ đông bị hạn chế, nhà đầu tư sẽ tiếp nhận thông tin có một độ trễ
và ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. Bởi trong môi trường tài chính hội nhập và
các thị trường lớn, những vấn đề này cần được công bố thường xuyên ra bên ngoài
cho nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi trong phân tích tài chính và ra quyết định
đầu tư.
Nguyên nhân người mua rất ít thông tin về cổ phiếu mình mua:
- Thứ nhất, rất khó tìm được báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, cần
phải nhìn nhận vấn đề công khai thông tin như một điều kiện tiên quyết cho
một TTCK lành mạnh.
- Thứ hai, dù có được thông tin nhưng rất khó tin được là thực hư thế nào.
- Thứ ba, không phải ai cũng có khả năng phân tích toàn diện thông tin mình
có được. Việt Nam rất cần những tổ chức độc lập có đủ trình độ và uy tín
để đánh giá đúng “sức khỏe” của doanh nghiệp. Những đánh giá chính xác
và công bằng sẽ giúp cho nhà đầu tư đủ tự tin để quyết định mua hàng.
Ví dụ điển hình:
Vụ việc của Bà Giao Thị Yến – khi còn là Tổng Giám Đốc Quỹ đầu tư và Phát
triển đô thị thành phố trong việc có quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần Cơ
điện lạnh (REE) và Công ty cổ phần Phát triển nhà Thủ Đức (TDH). Bà Giao Thị
Yến không chấp hành quy định của Nhà nước và nghị quyết của hội đồng quản lý
quỹ, tự quyết định vượt thẩm quyền trong việc bán quyền mua cổ phiếu của Công
ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE), bỏ quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần Phát
triển nhà Thủ Đức (TĐH); việc mua và bán cổ phần của Công ty cổ phần Chứng
khoán TP, kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ và phân bổ quyền mua cổ
phiếu tại công ty này gây thiệt hại nghiêm trọng tài chính của quỹ, đặc biệt là làm
giảm tỷ lệ vốn Nhà nước tại các công ty trên. Ngoài ra, do thiếu dân chủ, công
khai trong quản lý điều hành của bà Yến nên dẫn đến nội bộ có nghi ngờ tiêu cực,
mất đoàn kết. Bên cạnh đó, do thiếu ý thức kỷ luật, bà Yến đã vi phạm Luật Doanh
nghiệp Nhà nước khi tự ý tham gia HĐQT Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE).
Hoặc theo báo cáo tài chính công bố của các doanh nghiệp hiện nay phải làm theo
mẫu của bộ tài chính cũng thể hiện nhiều bất cập do mỗi ngành có những đặc
trưng riêng về các chỉ tiêu tài chính. Trong báo cáo tài chính của Công ty cổ phần
Thủy sản số 1 có khoản mục Đầu tư tài chính 30 tỷ, hầu hết các nhà đầu tư đều
hiểu rằng đây là khoản mục mua cổ phiếu nhưng thực chất là gửi tiền vào ngân
hàng vì ngay cả thuyết minh báo cáo tài chính cũng không được trình bày trong
Đại hội cổ đông. Điều này phần nào có trách nhiệm của công ty kiểm toán dù rằng
công ty kiểm toán này nằm trong danh mục công ty kiểm toán mà UBCKNN chấp
nhận, nên cần nâng cao việc kiểm tra, giám sát và thường xuyên đánh giá chất
lượng của các công ty kiểm toán cũng như kiểm toán viên hiện nay. Không chỉ có
công ty này, mà nhiều doanh nghiệp khác cũng không công bố thuyết minh báo
cáo tài chính cho cổ đông khi mà bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh chưa
phản ánh được hết bản chất của tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp. Cổ đông càng bức xúc hơn khi khoản tiền gửi tiết kiệm này là vốn
phát hành thêm từ năm 2007. Doanh nghiệp tăng vốn khi chưa có phương án sử
dụng hiệu quả, cổ đông không nắm bắt được thông tin từ doanh nghiệp một cách
rõ ràng, … qua đây cũng thấy thêm được bất cập từ tiêu chuẩn niêm yết hiện nay.
2.2.3.3. Đánh giá về chất lượng của kế toán, kiểm toán Việt Nam:
Hiện tại, Bộ Tài chính đã ban hành Chuẩn mực kế toán – kiểm toán của Việt Nam.
Về cơ bản, các chuẩn mực đã đáp ứng được nhu cầu hướng dẫn trong quá trình lập
báo cáo tài chính. Tuy nhiên, với xu thế đầu tư nước ngoài gia tăng trong điều kiện
hội nhập, các tập đoàn đa quốc gia có cơ sở tại Việt Nam thường yêu cầu các chi
nhánh hoặc công ty con tại Việt Nam trình bày Báo cáo tài chính phù hợp với
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRSs). Đây là một điều khó cạnh tranh đối
với các công ty kiểm toán Việt Nam so với các công ty kiểm toán nước ngoài bởi:
Hệ thống luật pháp liên quan tới hoạt động dịch vụ kiểm toán và kế toán
của Việt Nam chưa thật hoàn chỉnh và đồng bộ; Trình độ tổ chức kinh doanh dịch
vụ kiểm toán và kế toán của các công ty kiểm toán còn nhiều hạn chế; sự cạnh tranh
giữa các công ty kiểm toán còn mang nặng lợi ích kinh tế cục bộ; Nhà nước chưa có
hướng dẫn thống nhất qui trình nghiệp vụ kỹ thuật, chưa thực hiện các biện pháp
quản lý và chưa có qui chế về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán…
Chuẩn mực kế toán - kiểm toán của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, có
nhiều khác biệt so với chuẩn mực kế toán - kiểm toán quốc tế nên gây khó khăn cho
việc báo cáo và quản lý của các công ty nước ngoài.
Qui mô thị trường kiểm toán còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và
tốc độ tăng trưởng của kinh tế - xã hội. Trong mấy năm qua, các công ty kiểm toán
mới được thành lập nhiều dẫn đến sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán ngày
càng gay gắt, cả về chất lượng dịch vụ và giá phí. Khách hàng kiểm toán là công ty
cổ phần, công ty TNHH và tư nhân còn rất ít do Luật Doanh nghiệp chưa qui định
bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính cùng với sự hiểu biết của các doanh
nghiệp về lĩnh vực này còn hạn chế nên khách hàng tìm đến các công ty kiểm toán
chủ yếu là bị bắt buộc theo yêu cầu của luật định chứ không phải do tự nguyện.
Một trong những lý do khiến cho hoạt động kiểm toán chưa đạt chất lượng
là do công tác kiểm tra vẫn còn một số tồn tại. Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực
chất, còn mang tính hình thức hành chính, nặng về kiểm tra các loại giấy phép,
chứng chỉ; qui trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về qui
chế và qui trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán...
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước, chỉ chiếm 31% GDP
(cập nhật đến ngày 01/10/2007), trong khi mức bình quân của các quốc gia trong
khu vực khoảng 40% GDP. Nhìn chung, ngoại trừ một số công ty lớn, lĩnh vực kinh
doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm (khoảng trên 10
công ty), còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là đại diện tiêu biểu
cho các ngành kinh tế đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Chính vì vậy,
chỉ số giá cổ phiếu VN-Index tăng, giảm thất thường và chưa trở thành phong vũ
biểu của nền kinh tế. TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự tăng trưởng
bền vững.
Hơn nữa, tiêu chuẩn niêm yết hiện nay còn tồn tại không ít vướng mắc, không ít
vấn đề chưa phù hợp và chưa có được một tiêu chuẩn định lượng đối với các chỉ
tiêu cần định lượng nên TTCK chưa thể phát triển bền vững được.
Như vậy, qua 2 chương vừa nghiên cứu, chúng ta đã thấy được những bất cập của
tiêu chuẩn hiện tại, đồng thời cũng nhận ra được những điểm mạnh trong các quy
định, tiêu chuẩn niêm yết của một số thị trường trong khu vực, tạo cơ sở để xây
dựng nên hệ thống tiêu chuẩn mới cho TTCK Việt Nam ở chương tiếp theo nhằm
nâng cao chất lượng cho TTCK Việt Nam và cho các doanh nghiệp niêm yết.
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT
CHO TTCK VIỆT NAM TỪ 2010 – 2020
Trong bối cảnh tình hình Việt Nam hiện nay đang từng bước xây dựng và phát
triển thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu tiêu chuẩn niêm yết của một số
nước trong khu vực và trên thế giới như: Singapore, EURONEXT, London, Hong
Kong… đã đem lại những kinh nghiệm bổ ích trong việc xây dựng một hệ thống
tiêu chuẩn niêm yết cho Việt Nam nói chung và Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ
Chí Minh nói riêng.
3.1. Nâng cao tiêu chuẩn niêm yết cho Sở GDCK TP.HCM (HOSE):
Theo mục tiêu của Nhà nước phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu
huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010
giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
Với đề án này sẽ từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn, đảm bảo khả
năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Trong đó có phát triển TTCK theo nhiều cấp
độ để đáp ứng nhu cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình
doanh nghiệp và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng
tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC),
thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ việc nghiên cứu những mô hình hoạt động của những nước trên thế giới kết
hợp với tình hình, điều kiện của TTCK Việt Nam hiện nay, chúng tôi xây dựng
cho HOSE 2 khu vực niêm yết:
- Khu vực 1 (main board): dành cho những công ty lớn, đáp ứng tốt các yêu
cầu khắt khe của sàn này về vốn điều lệ, lợi nhuận hàng năm, tốc độ tăng
trưởng, tính minh bạch về thông tin đưa ra công chúng …
- Khu vực 2 (second board): có tiêu chuẩn niêm yết ít khắt khe hơn sàn chính
(maim board), dành cho những công ty vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được đầy
đủ yêu cầu đặt ra của sàn chính (main board).
3.1.1. Những cơ sở phân tích để đưa ra tiêu chuẩn niêm yết:
- Đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp hiện đang niêm yết trên
sàn và những doanh nghiệp hiện tại đang có nhu cầu niêm yết.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp còn có vốn điều lệ
nhỏ hiện đang niêm yết.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của sàn giao dịch (quan hệ cung cầu) đặt ra
yêu cầu cần phải sàng lọc những doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động tốt để
nâng cao chất lượng của sàn.
- So sánh với các sàn trong khu vực và trên thế giới để đưa ra tiêu chuẩn
tương đượng với các sàn có uy tín và hiệu quả thu hút vốn cao.
- Phù hợp với những định hướng và chiến lược phát triển TTCK trong tương
lai của chính phủ …
3.1.2. Tiêu chuẩn niêm yết:
Tính đến tháng 4 năm 2008 trên SGDCK TP.HCM có tổng cộng 154 công ty niêm
yết, hầu hết là những doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô vốn nhỏ, chỉ có khoảng
61 công ty có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo thông kê đến tháng 4 năm 2008 có tổng cộng 174 công ty đại
chúng có mức vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng. Trong đó từ 100 – dưới 500 tỷ có 124
công ty, từ 500 – 1.000 tỷ có 30 công ty, trên 1.000 tỷ có 20 công ty. Những công
ty này đang có nhu cầu được niêm yết trên TTCK.
Về lâu dài, chứng khoán được niêm yết trên HOSE phải là hàng hóa có chất lượng
cao, đảm bảo tính thanh khoản và hấp dẫn nhà đầu. Do vậy, tiêu chuẩn về quy mô
vốn được xây dựng bao gồm:
3.1.2.1. Tiêu chuẩn quy mô vốn điều lệ:
Đối với những công ty nhóm 1 niêm yết trên sàn chính (main board):
Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 100 tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
Bảng 3.1:
Danh sách một số công ty đại chúng có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ (chưa niêm
yết tính đến 20/04/2008):
Tên công ty Vốn điều lệ
NHTM CP Đại Dương 1,000,000,000,000
NH TMCP Quốc tế Việt Nam 1,000,000,000,000
CTCP Tập đoàn HANAKA 1,000,000,000,000
NHTM CP An Bình 1,131,950,500,000
CTCP Thuỷ điện miền Trung 1,200,000,000,000
NHTMCP Sài Gòn 1,200,000,000,000
NHTM CP Nhà Hà Nội 1,260,000,000,000
NHTM CP Phương Nam 1,290,789,000,000
NHTM CP Đông Á 1,400,000,000,000
NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam 1,500,000,000,000
CTCP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam 1,500,000,000,000
Tổng CTy XNK & Xây dựng Việt Nam 1,500,000,000,000
Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam 1,870,124,000,000
Tập Đoàn Bảo Việt 5,730,266,050,000
CTCP Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp và tư vấn đầu tư 250,000,000,000,000
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC)
Đối với những công ty nhóm 2 niêm yết trên sàn thứ 2 ( second board):
Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Nếu không đủ tiêu
chuẩn này thì doanh nghiệp phải đạt chỉ tiêu về lợi nhuận.
Do hiện nay trên sàn HOSE vẫn còn tồn tại rất nhiều công ty niêm yết nhưng có
kết quả hoạt động kinh doanh quá kém, hầu như không có được sự tăng trưởng
như mong đợi trước khi niêm yết dù rằng các công ty này đã có thời gian niêm yết
trên sàn HOSE trên 2 năm bởi họ nhận được khá nhiều ưu đãi của Nhà nước khi
niêm yết trên sàn này. Nếu tình trạng này cứ kéo dài thì chính sự ưu ái này sẽ làm
giảm đi chất lượng của sàn HOSE nói riêng, của TTCK nói chung và ảnh hưởng
luôn cả tiêu chuẩn niêm yết của HOSE. Một giải pháp được đưa ra là sắp xếp lại
chất lượng của các công ty niêm yết rồi chuyển các công ty không có sự tiến bộ
lớn sau khi niêm yết cũng như không có khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn
mới của sàn HOSE sau một lộ trình điều chỉnh của UBCKNN sang sàn thứ hai.
3.1.2.2. Lịch sử hoạt động, khả năng sinh lời và tiềm năng tương lai:
Tiêu chuẩn này quy định một công ty niêm yết phải có một nền tảng kinh doanh
đầy đủ và phát triển trước khi niêm yết. Thông thường để được niêm yết, các
doanh nghiệp phải chứng minh được khả năng phát triển của mình trong tương lai
qua các phương án hoạt động sản xuất kinh doanh và định hướng phát triển trong
các năm tới có triển vọng thực hiện; đồng thời ít nhất một số năm liền trước đó
doanh nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan.
Tùy thuộc vào đặc trưng của từng nước và trong từng thời kỳ mà thị trường các
nước có những qui định riêng phù hợp. Từ sự nghiên cứu những thị trường khu
vực và trên thế giới, kết hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay, tôi đề
xuất tiêu chuẩn niêm yết này như sau:
Đối với những công ty nhóm 1 (main board):
Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tích luỹ đạt ít nhất 60 tỷ đồng trong vòng 3 năm và
lợi nhuận trước thuế hợp nhất tối thiểu mỗi năm là 15 tỷ đồng.
Đối với những công ty nhóm 2 (second board):
Yêu cầu các doanh nghiệp trước khi thực hiện niêm yết phải có 3 năm liền trước
hoạt động kinh doanh có lãi và có tốc độ tăng trưởng vốn cổ phần tối thiểu là 10%
hàng năm.
Tiêu chuẩn chung: Ngoài ra doanh nghiệp đó không có các khoản nợ chưa được
dự phòng; phải công khai mọi khoản nợ với thành viên hội đồng quản trị, ban
giám đốc, cổ đông lớn và những người có liên quan.
3.1.2.3. Ban quản lý công ty:
Hội đồng quản trị, Ban giám đốc điều hành, Ban kiểm soát … phải có đủ năng lực
điều hành, đảm bảo tính độc lập và không có xung đột về lợi ích
Đối với những công ty nhóm 1: Ban giám đốc phải liên tục trong 3 năm
Đối với những công ty nhóm 2 : 1 hay 2 năm tùy trường hợp.
3.1.2.4. Tỷ lệ phân bổ cho cổ đông:
Để duy trì tính thanh khoản ở một mức độ hợp lý, tỷ lệ phát hành ra bên ngoài
phải đạt 30% - 50% vốn cổ phần và cho ít nhất 100 nhà đầu tư.
3.1.2.5. Thời hạn ràng buộc chuyển nhượng:
Cổ đông là thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát và kế toán
trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong
thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6
tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên
đại diện nắm giữ.
3.1.2.6. Chuẩn mực kiểm toán:
Chuẩn mực áp dụng theo đúng chuẩn mực hiện hành của Việt Nam hoặc theo
chuẩn mực của quốc tế.
3.1.2.7. Công bố thông tin vốn cổ phần:
Doanh nghiệp cần thường xuyên cung cấp thông tin ra công chúng về: số lượng cổ
đông, tỷ lệ sở hữu cổ phần của công ty kịp thời và chính xác để bảo vệ cổ đông
công ty cũng như nhà đầu tư.
3.1.2.8. Những điều kiện khác:
Nhận định đánh giá của tổ chức bảo lãnh phát hành, tư vấn đối với tổ chức đăng
ký niêm yết là có triển vọng tốt.
Tổ chức công bố thông tin: có bộ máy công bố thông tin nội bộ hoàn chỉnh và có
bộ phận quan hệ với người đầu tư nhằm đảm bảo cũng câp thông tin nhanh chóng,
chính xác ra thị trường.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Tính đến cuối năm 2007, tại sàn HOSE có gần 60 doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ
hơn 80 tỷ, do đó theo luật chứng khoán mới thì các công ty phải chịu thêm áp lực
tăng vốn để đảm bảo đủ vốn theo tiêu chuẩn mới là hơn 2.358 tỷ.
Mặt khác, một số doanh nghiệp trên OTC cũng chuẩn bị niêm yết như Exim,
Hoàng Anh Gia Lai, … để thu hút vốn sẽ hút một lượng vốn rất lớn. Do đó, việc
nâng tiêu chuẩn niêm yết là một việc cần thiết để cân bằng hơn trong cung cầu và
đưa thị trường dần ổn định, phát triển bền vững hơn.
Với tiêu chuẩn niêm yết mới, chúng tôi đã khắc phục một số khuyết điểm của tiêu
chuẩn hiện tại như lượng hóa chỉ tiêu về lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng của doanh
nghiệp, đồng thời đề ra giải pháp để tiêu chuẩn niêm yết mới có thể thực thi tốt đối
với tình hình rối rắm các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HASTC, tạo
tiền đề để TTCK phát triển bền vững hơn.
Một khi TTCK phát triển mạnh, sẽ có nhiều cơ hội sẽ đến với Việt Nam và thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đó là cơ hội thu hút các
doanh nghiệp của nước ngoài đến Việt Nam niêm yết, quảng bá hình ảnh một đất
nước Việt Nam có một thị trường tài chính phát triển giúp cho dòng vốn gián tiếp
vào Việt Nam tăng cao sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Và một
tương lai không xa, VN-Index sẽ có mặt trên các bản tin tài chính uy tín, sánh
ngang với những Hang Seng, NIKKEI, S&P …
KẾT LUẬN
TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển biến để trở thành một bộ phận của
thị trường tài chính trong khu vực và trên thế giới. Một TTCK hiện đại và hội
nhập phải đi kèm với chất lượng của những công ty niêm yết. Vì nó có ý nghĩa
quan trọng trong thúc đẩy tính hiệu quả của việc đầu tư kinh doanh chứng khoán
và là lực đẩy cho sự phát triển của TTCK trong tương lai.
Trải qua hơn 7 năm vận hành và phát triển, TTCK Việt Nam cũng đã có những
thay đổi mang tính bước ngoặt quan trọng. Mục tiêu phát triển của TTCK hiện nay
là tăng nhanh qui mô thị trường thông qua tăng cung hàng hóa có qui mô và chất
lượng. Như vậy, với đề tài này, chúng ta phải giải quyết được vấn đề: “Làm sao để
chọn lựa được những công ty thật sự có chất lượng để niêm yết?”.
Với mong muốn nghiên cứu đóng góp, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống tiêu chuẩn niêm yết, chúng tôi hy vọng rằng đề tài này sẽ góp phần xây
dựng TTCK Việt Nam theo định hướng và mục tiêu của Chính phủ đề ra trong
giai đoạn hội nhập.
Tuy nhiên, vấn đề khó khăn là TTCK Việt Nam hiện nay đang trong quá trình
hình thành, phát triển và còn quá nhỏ so với các thị trường chứng khoán trên thế
giới, nên việc áp dụng những giải pháp chúng tôi đề ra sẽ gặp nhiều trở ngại. Mặt
khác, trong đề tài này không tránh khỏi hạn chế vì chúng tôi chỉ xây dựng tiêu
chuẩn niêm yết cho sàn HOSE, còn tiêu chuẩn cho sàn HASTC và thị trường OTC
cùng với tiêu chuẩn dành cho các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết trên TTCK
Việt Nam khi TTCK Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa sẽ là hướng nghiên cứu
tiếp cho chúng tôi và những người quan tâm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính, Luật Doanh Nghiệp - Những Quy Định Mới Nhất Về Cổ Phần
Hoá, Quản Lý Tài Chính, Doanh Thu, Chi Phí Hợp Lý, NXB Lao động Xã hội,
tháng 6/2007.
2. Thủ Tướng Chính Phủ - Nguyễn Tấn Dũng, Quyết định: 128/2007/QĐ-TTg –
Về việc phê duyệt phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn
2020, Hà Nội, tháng 8/2007.
3. Nguyễn Đình Thiêm, Luật chứng khoán và văn bản hướng dẫn thực hiện, NXB
Lao động Xã hội, tháng 3/2007.
4. Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước, “Báo cáo hoạt động TTCK năm 2007, giải
pháp phát triển TTCK năm 2008”.
5. TS. Trần Xuân Hà, “Phát triển thị trường chứng khoán và những vấn đề về thu
hút vốn đầu tư trong và ngoài nước”, Chứng khoán Việt Nam, số 7/2004
6. Vụ Quản lý Phát hành chứng khoán – UBCKNN, “Công tác tạo hàng cho
TTCK Việt Nam – Một số tồn tại và kiến nghị”, Chứng khoán Việt Nam, số
7/2004.
7. BIDV Securities Company, “ VietNam Securities Market Report - 2007
Revisited and Outlook for 2008”, 2008.
8. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC), “Xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao Động năm
2007.
9. Sở giao dịch chứng khoán Singapore - Singapore Exchange Limited, internet:
www.sgx.com
10. Sở giao dịch chứng khoán London - London Stock Exchange, internet
www.londonstockexchange.com
11. Sở giao dịch chứng khoán Hong Kong - The Hong Kong Stock Exchange,
internet: www.hkex.com.hk
12. Sở giao dịch chứng khoán Châu Âu – EURONEXT, internet:
www.euronext.com
13. Sở giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh, internet: www.vse.org.vn
14. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, internet: www.hastc.org.vn
15. Ủy ban chứng khoán Nhà nước, internet: www.ssc.gov.vn
16. Malaysia Stock Exchange, www.biz.thestar.com.my.
17. Thailand Stock Exchange, internet: www.set.org.th.
18. Khoa Tài chính doanh nghiệp – ĐH Kinh Tế Tp.HCM, internet:
www.cfo.com.vn …
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf
- phu luc.pdf