Đề tài Xây dựng khả năng phục hồi các chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất do tác động của biến đổi khí hậu ở miền Trung Việt Nam

GIớI ThIệu Báo cáo này tóm tắt những phát hiện chính và các khuyến nghị thông qua nghiên cứu do Dự án Đói nghèo và Môi trường (Hài hoà các Mục tiêu Giảm nghèo và Môi trường trong Chính sách và Lập kế hoạch hướng tới Phát triển Bền vững 2005-2009) của MONRE thực hiện. Dự án do Cơ quan phát triển quốc tế của Vương quốc Anh (DFID) và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ. Dự án nhằm tăng cường năng lực của Chính phủ Việt Nam để ***g ghép các mục tiêu môi trường và giảm nghèo trong khuôn khổ chính sách hướng tới phát triển bền vững. Báo cáo xem xét các phương hướng phục hồi các hệ sinh kế ở vùng ven biển miền Trung Việt Nam, những nơi có nhiều nguy cơ chịu tác động của biến đổi khí hậu nhất. Báo cáo xác định các biện pháp để hình thành các chiến lược thích ứng nhằm Giảm bớt các tổn thương của sinh kế vùng ven biển và xây dựng khả năng phục hồi do các tác động của khí hậu. Xây dựng khả năng phục hồi trước những tác động của biến đổi khí hậu của các hệ sinh thái và xã hội mà những sinh kế này dựa vàovà tăng cường năng lực cung cấp các dịch vụ có chất lượng của các hệ thống này.

pdf17 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xây dựng khả năng phục hồi các chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất do tác động của biến đổi khí hậu ở miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xây dựng khả năng phục hồi các chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất do tác động của biến đổi khí hậu ở miền Trung Việt nam hà nội, 2009 Tóm tắt chính sách Xây dựng khả năng phục hồi các chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất do tác động của biến đổi khí hậu ở miền Trung Việt nam hà nội, 2009 Tóm tắt chính sách ii Bản quyền © 2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (MONRE) và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) Xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng Anh với sự chấp thuận của MONRE và UNDP. Giấy phép xuất bản số Chịu trách nhiệm nội dung: PGS.TS. Trương Mạnh Tiến Biên tập: TS. Nguyễn Trung Thắng Ths. Kim Thị Thuý Ngọc Bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh In xong và nộp lưu chiểu tháng 12/2009 tại Hà Nội, Việt Nam. iii LỜI CẢM ƠN Dự án Đói nghèo và Môi trường (PEP) chân thành cảm ơn tới tất cả những cá nhân/tổ chức đã đóng góp cho việc hoàn thành Báo cáo này, bao gồm những người đã tham gia trong các khảo sát thực địa tại địa phương, các cuộc thảo luận nhóm tại xã, huyện và tỉnh, và tại các cuộc Hội thảo cấp tỉnh ở Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế. Đặc biệt Dự án xin cảm ơn tổ chức Challenge to Change đã đóng góp nguồn lực, với sự tham gia của bà Nguyễn Phúc Hòa trong việc huấn luyện những cán bộ khảo sát thực địa. PEP xin cảm ơn Viện Khí tượng thủy văn và Môi trường (IMHEN) đã cung cấp các bản đồ biến đổi khí hậu và các biểu đồ biểu diễn các dữ liệu chuẩn và các kịch bản dự báo. PEP chân thành cảm ơn: Nhóm chuyên gia xây dựng báo cáo: - TS. Michael Parsons - TS. Trần Thị Việt Nga - TS. Joanna White Chuyên gia GIS - Th.S Trần Trung Kiên Nhóm cán bộ thực địa: - Tại Hà Tĩnh: Hoàng Trung Lập, Đặng Minh Ngọc, Trần Hậu Khanh, Thân Văn Tú, Nguyễn Văn Kiên và Trần Hà Hải. - Tại Thừa Thiên Huế: Nguyễn Minh Đức, Pham Nguyên Thanh, Lâm Thị Thu Sửu, Phạm Thị Diệu Mỹ, Lê Thị Ngọc Sương và Bùi Vĩnh Long. Nhóm cán bộ của văn phòng dự án PEP - TS. Trương Mạnh Tiến - TS. Nguyễn Trung Thắng - Th.S. Kim Thị Thúy Ngọc - Bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh Đồng thời, dự án PEP cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn nhóm chuyên gia đánh giá độc lập cho báo cáo về những ý kiến đóng góp quý báu để hoàn thiện báo cáo và ông Đào Xuân Lai, UNDP về những hỗ trợ cho Dự án. iv CÁC TỪ VIẾT TẮT CBCRM Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng CCFSC Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương CIDA Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada DONRE Sở Tài nguyên và Môi trường FGD Thảo luận nhóm tập trung HVCA Đánh giá hiểm họa, khả năng thích ứng và tình trạng dễ bị tổn thương ICZM Quản lý tổng hợp vùng ven biển IMHEN Viện Khí tượng, Thủy văn và Môi trường Việt nam IMOLA Quản lý tổng hợp các hoạt động đầm phá MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn MOIT Bộ Công thương MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội MONRE Bộ Tài nguyên và Môi trường MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư NCAP Chương trình trợ giúp biến đổi khí hậu của chính phủ Hà lan NTP Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu PEP Dự án Đói nghèo và Môi trường SEA Đánh giá Môi trường Chiến lược SEDP Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội SLF Mô hình sinh kế bền vững UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc UNFCCC Công ước Khung của Liên Hợp quốc về Biến đổi khí hậu UNIFEM Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hợp Quốc VNRC Hội chữ thập đỏ Việt Nam 1GIớI ThIệu Báo cáo này tóm tắt những phát hiện chính và các khuyến nghị thông qua nghiên cứu do Dự án Đói nghèo và Môi trường (Hài hoà các Mục tiêu Giảm nghèo và Môi trường trong Chính sách và Lập kế hoạch hướng tới Phát triển Bền vững 2005-2009) của MONRE thực hiện. Dự án do Cơ quan phát triển quốc tế của Vương quốc Anh (DFID) và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ. Dự án nhằm tăng cường năng lực của Chính phủ Việt Nam để lồng ghép các mục tiêu môi trường và giảm nghèo trong khuôn khổ chính sách hướng tới phát triển bền vững. Báo cáo xem xét các phương hướng phục hồi các hệ sinh kế ở vùng ven biển miền Trung Việt Nam, những nơi có nhiều nguy cơ chịu tác động của biến đổi khí hậu nhất. Báo cáo xác định các biện pháp để hình thành các chiến lược thích ứng nhằm Giảm bớt các tổn thương của sinh kế vùng ven biển và xây dựng khả năng phục hồi do các • tác động của khí hậu. Xây dựng khả năng phục hồi trước những tác động của biến đổi khí hậu của các hệ sinh • thái và xã hội mà những sinh kế này dựa vàovà tăng cường năng lực cung cấp các dịch vụ có chất lượng của các hệ thống này. PhươnG PhÁP luận Nghiên cứu đã được thực hiện theo một cách thức tổng hợp trong ba tháng, bao gồm: Thu thập dữ liệu sơ cấp và tổng quan các tài liệu nghiên cứu, bao gồm những bản đồ và • biểu đồ về những dữ liệu cơ sở về biến đổi khí hậu và các kịch bản A2 và B2 đến năm 2100 do Viện Khí tượng, Thủy văn và Môi trường (IMHEN) cung cấp. Những bản đồ và biểu đồ này được dùng làm cơ sở cho thảo luận nhóm tập trung tại cấp tỉnh, huyện và xã. Phân tích dữ liệu GIS: sử dụng ảnh vệ tinh, bản đồ và biểu đồ để thể hiện các dữ liệu như • sử dụng đất, phân bổ dân số, hạ tầng và những tác động do ngập được IMHEN dự báo cho kịch bản nước biển dâng một mét tại bốn xã đuợc chọn nghiên cứu. Lựa chọn địa điểm nghiên cứu:• o Hai tỉnh được lựa chọn cho nghiên cứu là Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế, chịu nhiều tổn thương do các cơn bão, ngập lụt và hạn hán o Hai xã tại mỗi tỉnh đã được lựa chọn làm đại diện cho các vùng sinh kế ven biển, với sinh kế nông thôn có mức độ rủi ro cao với các nguy hiểm do biến đổi khí hậu gây ra, cũng như những cơ hội mà các tác động tích cực do biến đổi khí hậu mang lại; o Tại mỗi xã, ba làng được lựa chọn theo đề xuất của Ủy ban nhân dân trên cơ sở tính đại diện về sinh kế chính ở xã. 2Đào tạo và điều tra thực địa:• o Những nghiên cứu viên đã tham dự một hội thảo hai ngày về khuôn khổ phân tích và phương pháp nghiên cứu định tính. Những nghiên cứu viên này đã lựa chọn phương pháp nghiên cứu thực địa dựa trên các công cụ PRA và HVCA. o Tiếp sau khóa đào tạo, các cuộc họp đã được tổ chức với chính quyền cấp tỉnh, huyện và xã, và các cơ quan truyền thông để thảo luận về các mục tiêu nghiên cứu, và để chia sẻ dữ liệu. o Tiến hành nghiên cứu thực địa. Thảo luận nhóm: đã được tổ chức với sự tham gia của chính quyền địa phương và các tổ • chức truyền thông tại xã, huyện và rồi tỉnh. Họp thanh niên: được tổ chức với khoảng 300 sinh viên từ trường Cao đẳng nghề Việt • Đức ở Hà Tĩnh do DONRE địa phương và Đoàn Thanh niên hỗ trợ,. Hội thảo tham vấn: được tổ chức tại mỗi tỉnh để tham vấn cho nghiên cứu cấp tỉnhvà hội • thảo quốc gia đã được tổ chức tại Hà Nội để đóng góp cho báo cáo nghiên cứu. Hệ thống sinh kế nông thôn vùng ven biển có nguy cơ cao nhất trước những biến đổi khí hậu là những sinh kế phụ thuộc trực tiếp vào nguồn lực tự nhiên. Xây dựng khả năng phục hồi các sinh kế như vậy đòi hỏi các biện pháp để đảm bảo sự phục hồi các hệ sinh thái có liên kết với nhau. Nghiên cứu này đã tìm kiếm sự liên kết này thông qua cách tiếp cận sinh thái xã hội, sử dụng Mô hình sinh kế bền vững (SLF), đánh giá hiểm họa, khả năng thích ứng và tình trạng dễ bị tổn thương (HCVA), và phân tích khả năng phục hồi sinh thái. nhữnG TÁC độnG Về khí hậu Dưới lăng kính SLF, biến đổi khí hậu có thể được nhìn nhận như yếu tố chủ yếu gây ra các tổn hại đến các sinh kế địa phương, qua quá trình chuyển đổi các điều kiện khí hậu quen thuộc theo mùa. Nghiên cứu cho thấy các cộng đồng ven biển đã phải đối mặt với các tác động của biển đổi khí hậu, ví dụ như lũ lụt bất thường ngày càng tăng, các cơn bão phá hủy tài sản và ảnh hưởng tới nhiều hoạt động sinh kế. Những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt này đã chi phối nhận thức của cộng đồng về biến đổi khí hậu, với những bằng chứng về “thiên tai tự nhiên” ngày càng khốc liệt. Những áp lực nghiêm trọng khác về sinh kế còn do các nguyên nhân như khô hạn, nước biển xâm thực, mặn hóa các vùng đất canh tác. Áp lực này được dự kiến sẽ càng khốc liệt với những biến đổi khí hậu bất ngờ và ngày càng gia tăng, cùng với đó là sự tăng dần của nhiệt độ thời tiết và lượng mưa trung bình hàng năm. Khu vực nuôi trồng thủy sản vẫn là khu vực chịu nhiều rủi ro cao, do tác động thảm khốc của lũ lụt, tăng nhiệt độ, và tác động của ô nhiễm lên sản lượng sản phẩm. Cùng với đó, việc phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thủy sản còn góp phần vào việc suy giảm nguồn lực tự nhiên. Ví dụ, các bằng chứng cho thấy qui mô của nuôi trồng thủy sản ở Phá Tam Giang đã vượt xa “ngưỡng khả năng” của khu vực này. Về khía cạnh an ninh sinh kế, vẫn còn mối nguy cơ đáng kể việc các hộ gia đình sẽ buộc phải tiếp tục các hoạt động nuôi trồng thủy sản đã bị cấm, bị thua lỗ tài chính và phải 3gánh chịu của các khoản nợ lớn. Các tác động của biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục trầm trọng và dồn thêm lên áp lực hiện tại đối với các hệ sinh kế ven biển, như gia tăng dân số, khai thác quá mức đất đai, rừng và các sản phẩm thủy sản, giáo dục và kỹ năng nghề thấp, ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng, sự bất thường của thị trường và đói nghèo dưới mức chuẩn. Các sinh kế khác nhau trong cùng một khu vực có thể chịu những tác động khác nhau do biến đổi khí hậu như trong Hình 1. Do đó cần phải tránh việc tìm kiếm một mô hình chung cho tất cả các sinh kế, mà cần thiết kế và thực hiện các chiến lược linh hoạt XÓI LỞ Xói lở bờ biển Sụt lở bờ sông, đầm phá Sườn đồi bị xói lở và trượt đất Xu hướng: mất bờ biển, bờ sông, đầm hồ,mất đất ở sườn đồi NƯỚC BIỂN XÂM THỰC Nước biển tràn vào khi có mưa bão Nước ngầm, tầng chứa nước bị nhiễm mặn. Nước biển xâm nhập vào mùa khô, hạn hán Xu hướng: Nước biển xâm nhập vào sâu trong đất liền, đất trồng trọt bị mặn hóa HẠN HÁN Hạn hán khí tượng, hạn hán thủy văn, hạn hán nông nghiệp Xu hướng: Hạn hán ngày càng kéo dài và ở mức độ trầm trọng hơn BỒI LẮNG Mưa bão làm các cửa dông, của biển bị bít kín Hàm lượng cặn/phù sa ngày càng lớn ở các sông làm ảnh hưởng của lũ càng cao Xu hướng: tần suất các cửa sông bị bít kín do bồi ngày càng xuất hiện nhiều và kéo dài LỤT Lũ quét Lụt lội do nước sông dâng cao, triều cường, nước biển dâng Xu hướng: Mực nước biển dâng, bão xảy ra với tần suất nhiều hơn, mạnh và kéo dài, lượng mưa lớn hơn và biến đổi bất thường hơn NGỌT HÓA Ngọt hóa do lũ lụt và mưa lớn Xu hướng: Lụt lội ở mức độ trầm trọng hơn về độ sâu và thời gian, và xuất hiện bất thường hơn Các chiến lược đa chiều và linh hoạt HìnH 1: CáC mối nguy Hiểm về kHí Hậu 4CÁC Vấn đề Chính Cải tiến quản trị môi trường Để xây dựng sinh kế phục hồi trước biến đổi khí hậu, cần một cách tiếp cận song hành bao gồm quản trị môi trường khu vực và tăng cường sinh kế. Trong khi cơ cấu chính phủ và quá trình hoạch định từ trên xuống đã được phát triển để đảm bảo sự đồng nhất thực hiện các mục tiêu quốc gia tại tỉnh, chỉ có một số cơ chế quản trị có thể đảm bảo sự đồng nhất trong lập kế hoạch và thực hiện dọc theo các tỉnh lân cận và trong các vùng sinh thái. Dọc theo vành đai ven biển của Việt Nam, cách tiếp cận không phù hợp này có thể hạn chế việc triển khai các chiến lược thích ứng dài hạn đối với các biến đổi khí hậu, như nước biển dâng. Các chiến lược thích ứng bao gồm cả bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên mà các sinh kế nông thôn nghèo dựa vào và có thể bị tác động của biến đổi khí hậu. Cấu trúc quốc gia hiện tại và hệ thống chính quyền địa phương đã giúp đạt được tỷ lệ giảm nghèo cao. Tuy nhiên, trong việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thì chưa đạt được những thành công tương tự. Môt phần của thất bại này có thể do thiếu cơ chế quản trị môi trường có thể triển khai hiệu quả các quy định môi trường cho các tỉnh và trong các vùng sinh thái, ví dụ như dọc các vùng ven biển hay tại các lưu vực sông lớn. Các tỉnh sẽ rất muốn thu hút đầu tư mới để thực hiện các chiến lược thích ứng để giảm thiểu các tác động tiêu cực và nắm bắt các cơ hội mới mà biến đổi khí hậu tạo ra. Tuy nhiên để xây dựng khả năng phục hồi sinh thái chính quyền các tỉnh sẽ cần suy nghĩ và hành động. Sẽ cần có các hành động theo các qui mô thích hợp cho nhiều chiến lược thích ứng, sẽ đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh cần tập trung nhiều hơn trong việc hợp tác và phối hợp hơn là cạnh tranh nhau vì những cơ hội đầu tư mới do biến đổi khí hậu mang lại. Điều này đòi hỏi các cơ chế hiệu quả trong việc phối hợp thực hiện. Các mức thời gian phù hợp cũng cần thiết phải được đánh giá cho mỗi biện pháp và chiến lược thích ứng. Các tác động dài hạn của biến đổi khí hậu có thể yêu cầu các đáp ứng không hoàn toàn phù hợp trong một chu kỳ của Kế hoạch năm năm. Khung thời gian tính bằng thập kỷ của một số chiến lược sẽ yêu cầu phải có các mục tiêu được thiết lập cho từng giai đoạn thực hiện trong chu kỳ kế hoạch đó. Thách thức cho các chính quyền địa phương, và việc quản trị, là có được khung thời gian phù hợp để đảm bảo các chiến lược thích ứng dài hạn được thành công, và các cam kết về tài chính được đo chuẩn, với những mốc thành tựu theo quá trình. Thứ tự thực hiện đúng các biện pháp và chiến lược thích ứng cũng cần được xem xét. Hiệu quả của một số chiến lược sẽ được cải thiện và các bài học nếu được rút ra trước đó, sau đó, hoặc kết hợp cùng với các yếu tố khác. Việc trồng rừng ngập mặn như một biện pháp hỗ trợ xây dựng một đập chắn mới là một ví dụ. Tại Huyện Quảng Điền, cũng có khuyến nghị đưa ra là nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu phải được thực hiện trước khi tổ chức các khóa đào tạo để đa dạng hóa các sinh kế địa phương. Thực hiện đúng thứ tự đòi hòi cam kết của các bên liên quan về một lộ trình thực hiện đầu tư thích ứng trước các biến đổi khí hậu. Hỗ trợ thích ứng phù hợp Chính phủ cần đóng vai trò là người điều khiển mạnh mẽ để đảm bảo các kết quả hợp lý của các chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu. Các chính sách đối phó tập trung vào các công việc cần triển khai khi điều kiện đang có chiều hướng xấu. Các chiến lược thích ứng tập trung vào các vấn đề cần làm để mọi việc tiến triển tốt. Việc sử dụng tài nguyên trước đây đã cho thấy tùy thuộc vào các chiến lược đối phó sẽ có sự khác biệt rõ rệt giữa người chiến thắng và kẻ thua trong việc 5thích ứng với các biến đổi khí hậu. Cần học các bài học từ việc mở rộng các hoạt động nuôi trồng thủy sản thương mại ở Phá Tam Giang từ cơn lũ năm 1999. Đó là những bài học qua việc tư nhân hóa các cơ sở đánh bắt cá vốn trước đó là sở hữu chung. Việc này giúp nâng cao đời sống, tăng xuất khẩu nhưng đổi lại là sinh kế của những ngư dân trôi nổi, và những người có ít vốn đầu tư. Cần có sự can thiệp mạnh từ chính quyền địa phương, các cơ quan, các tổ chức quốc tế, và các đối tác bên ngoài khác để đảm bảo tiếp cận một cách công bằng hơn tới các nguồn lực sinh kế nuôi trồng thủy sản. Những nghiên cứu thực địa cho thấy với sự hỗ trợ của các tổ chức địa phương, như các dịch vụ khuyến nông tại nông thôn, và sự can thiệp của các tổ chức quốc tế, các cộng đồng ven biển đang thích ứng với các chiến lược sinh kế để ứng phó với các thay đổi khí hậu. Một số hoạt động sinh kế phải xem xét đến yếu tố đúng thời điểm để giảm thiểu tổn thương trước các mối nguy từ khí hậu. Tuy nhiên, các hộ gia đình nghèo khó có thể tiếp cận được với một số chiến lược thích ứng, do những chi phí đầu vào cao. Trong tương lai, Chính phủ sẽ phải đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ và trong cùng thế hệ trong việc tăng cường quá trình sự hỗ trợ của Chính phủ để có được sự thích ứng sinh kế thành công trước sự biến đổi khí hậu tăng dần. Ở cấp độ thôn bản, cần có các các chiến lược thích ứng có điều chỉnh đối với các sinh kế khác nhau tại cùng một khu vực, và các sinh kế tương tự tại các khu vực khác nhau. Cũng cần phải xem xét mức độ tổn thương khác nhau theo độ tuổi, giới và các yếu tố khác. Ở mức độ cao hơn, những đánh đổi về ưu thế ngắn hạn không được áp đảo sự bền vững sinh kế dài hạn. Chính phủ sẽ cần phải chú trọng vào việc đưa ra các quy định và giám sát sự bền vững của các nguồn tài nguyên cho sinh kế để đảm bảo phân phát cần thiết các nguồn lực sinh thái và cung cấp dịch vụ một cách bền vững. Theo kịch bản mùa khô sẽ trở nên khô hơn, điều quan trọng nhất là đảm bảo môi trường thích hợp và cung cấp nước có chất lượng tốt cho sinh hoạt và sản xuất. Mặc dù một số phát triển gần đây mang tính tích cực, như tăng cường bảo vệ nguồn nước và hệ thống thủy lợi địa phương, một chính sách và chiến lược quản lý nước là rất cần thiết để cung cấp nước hiệu quả cho mọi lĩnh vực và khu vực trong các vùng lưc vực sông để đáp ứng nhu cầu về nước đang ngày càng tăng, bảo vệ khỏi các mối nguy trong khi cũng duy trì các yêu cầu về sinh thái. Việc cải tiến cách thức lưu giữ nước cũng rất cần thiết cho hoạt động nông nghiệp trong các khu vực ven biển chịu khô hạn, và có thể đạt được thông qua các tầng tái tạo nước nhân tạo. Hỗ trợ cho việc chuyển từ đối phó sang thích ứng với biến đổi khí hậu đòi hỏi những nỗ lực hợp tác và cùng tham gia. Tập trung hàng đầu trong tương lai cho đầu tư về biến đổi khí hậu (ngược lại với quản lý rủi ro thiên tai) sẽ là nâng cao khả năng phục hồi của các hệ thống xã hội và sinh thái để cung cấp các dịch vụ có chất lượng nhằm hỗ trợ cho các sinh kế nông thôn vùng ven biển. Tuy nhiên, việc này sẽ chỉ có thể đạt được thông qua sự tham gia tích cực cộng đồng gắn kết với những sinh kế này, để có thể quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên và cải thiện sự bền vững của các hoạt động sinh kế của chính họ . Nỗ lực hợp tác từ trên xuống/dưới lên là cần thiết để phá vỡ vòng lặp lại của sự khai thác đang gia tăng chưa từng có đối với nguồn tài nguyên đang giảm sút về chất và lượng. Ở một mức độ cao hơn, những nỗ lực địa phương này có thể được hỗ trợ hơn nữa qua việc lồng ghép biến đổi khí hậu và xây dựng kế hoạch phát triển. Nhưng điều này hiện bị cản trở do sự thiếu một mô hình không gian trong các quá trình qui hoạch. Việc lập bản đồ các mối nguy bằng công nghệ GPS/GIS xuống mức độ cấp Xã là cần thiết để thông tin tốt hơn về tương lai của các quyết định hoạch định phát triển cấp tỉnh, huyện và xã. Cần xác định các điểm nóng về chức năng “hệ sinh thái-sinh kế” thông qua tiếp cận có sự tham gia trong quá trình lập bản đồ các mối nguy, từ đó có thể hình thành phần nội dung chính của ICZM cũng như được sử dụng trong việc xây dựng 6ĐMC và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thách thức sẽ là tránh sự không thích nghi khi đối mặt với lựa chọn giưa một bên là phát triển tại các khu vực ven biển có nguy cơ có thể cung cấp những lợi ích ngắn hạn nhưng mức độ rủi ro cao, với một bên là rủi ro thấp và đạt được các lợi ích dài hạn. Di cư và tái định cư như một sự đa dạng hóa sinh kế Kinh nghiệm tại các nước khác cho thấy khả năng đối phó với các mối nguy hiểm ngày càng tăng cao do biến đổi khí hậu phụ thuộc rất lớn vào khả năng đa dạng hóa các nguồn thu nhập. Tại các địa bàn nghiên cứu, các cơ hội việc làm chủ yếu chỉ hạn chế ở khu vực ven biểnvà việc di cư đến các thành phố trở thành cơ hội quan trọng cho các hộ gia đình để cải thiện điều kiện sống thông qua tiền lương gửi về. Các cán bộ khảo sát trong nghiên cứu này ủng hộ quan điểm di cư được coi là một chiến lược làm đa dạng hóa sinh kế hộ gia đình hơn là chiến lược do cá nhân thực hiện. Các thành viên nam thanh niên trong gia đình thường được khuyến khích tìm việc làm bên ngoài. Tiền lương gửi về chủ yếu để trợ giúp nhũng khoản chi tiêu hàng ngày của gia đình. Trong trường hợp này, những người già và phụ nữ có thể hưởng lợi ích kinh tế nhờ tiền hỗ trợ gửi về từ những thành viên lao động chủ chốt trong gia đình đang làm ăn xa dài hạn (quanh năm hay thời vụ). Tuy nhiên, nếu như có thiên tai xảy ra họ lại là đối tượng dễ bị tổn thương thân thể do không có hỗ trợ từ nam giới khi cần chăm sóc các thành viên trong gia đình là trẻ em, người già hay bảo vệ tài sản. Trong bối cảnh các thiên tai do biến đổi khí hậu được dự báo sẽ xảy thường xuyên hơn, cần phải tăng cường các hỗ trợ cần thiết cho những nhóm người dân dễ bị tổn thương này. Vì mức độ di cư từ nông thôn ra thành phố tăng cao, các cạnh tranh về công việc có thu nhập tốt sẽ trở nên gay gắt hơn. Những người di cư cần phải được đào tạo dạy nghề và các kỹ năng cần thiết để có thể tìm kiếm cơ hội việc làm tốt. Ở những khu vực tái định cư xa hẳn với nơi người dân thường kiếm sống nhờ vào các tài nguyên địa phương, thì một gói hỗ trợ tái đinh cư tổng hợp cần phải được cung cấp cho người phải di chuyển. Gói hỗ trọi này có thể bao gồm các cơ hội công việc thay thế, đào tạo nghề và tiếp nhận các kiến thức mới thông qua các khóa dạy nghề, trợ giúp về di cư và tái định cư, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận các vốn xã hội trong việc chuyển đổi và duy trì công viêc. Hạ tầng cứng và mềm Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xem xét các rủi ro có nguy cơ khi giải quyết các nhu cầu phát triển cơ bản, như việc cung cấp nhà ở, cấp nước và qui hoạch hạ tầng, là rất thiết yếu để có thể xây dựng được khả năng phục hồi. Điều này đã được đưa thành luận cứ tại các khu vực nghiên cứu. Nhà ở được cho là kém thích ứng trước những mối nguy hiểm xác định. Người nghèo đặc biệt bị tổn thương, nhưng hầu hết những giải pháp nhà ở với chi phí cao hơn, “hiện đại” dành cho những gia đình khá giả hơn, cũng được phát hiện thấy là bị tổn thương nhiều hơn trước bão và lũ lụt. Mực nước biển dâng được xem là mối đe dọa khẩn cấp của biến đổi khí hậu, nhưng từ quan điểm của những trưởng thôn và lãnh đạo xã khi quan sát trực tiếp như nước biển xâm thực thì điều này không có gì mới. Với mối đe dọa về mực nước biển dâng cao lên 1 mét vào năm 2100, các hệ thống đê có thể là thích hợp để giải quyết trong tương lai, mặc dù phải chi phíCầnhành động nhanh chóng hơn nữa để dừng quá trình mặn hóa đất thông qua các ảnh hưởng của thủy lực tại các tầng đất ngậm nước, và ở các con sông trong suốt mùa khô. Trong khi các xã ven biển được xem là chịu ảnh hưởng nhất, nghiên cứu này cho thấy sự tác động không đồng đều tại các vùng khác nhau khi nước biển dâng cao 1 mét. 7Câu hỏi liệu có hay không nên xây dựng các tường chắn để ngăn chặn nước mặn xâm thực, được xem là thiếu phù hợp hơn việc làm cách nào để xây hay không xây. Các chiến lược kết hợp hạ tầng cứng (tường biển) với mềm (lá chắn sinh học) hay “xử lý có quản lý” là một giải pháp khác có thể vận dụng, theo đánh giá về các cơ hội sinh kế có thể có được. Sẽ cần có một cách tiếp cận tập trung hóa đối với cả việc xây dựng và quản lý hệ thống đê, với một cơ quan có thẩm quyền tập trung để theo dõi cả việc xây dựng và bảo dưỡng. Nâng cao kỹ năng có thể cho phép các lao động địa phương và các vật liệu có chất lượng của địa phương được sử dụng trong các hợp đồng xây dựng. Các cách tiếp cận thích nghi với khí hậu theo lĩnh vực Các chiến lược thích ứng cho nông nghiệp sẽ đòi hòi sự hỗ trợ cho các biện pháp thích ứng hiện tại, cũng như sự thay đổi trong quản lý và các kỹ thuật canh tác để giảm các rủi ro mất mùa, bao gồm sự công nhận quá trình “phụ nữ hóa” nông nghiệp, với việc nhiều phụ nữ sẽ tham gia canh tác hơn nam giới, trong việc cung cấp khuyến nông và thúc đẩy đầu tư mới vào ngành nông nghiệp định hướng xuất khẩu. Đối với đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản, các qui định bắt buộc xử lý nước thải là không thể thiếu. Trong nông nghiệp, các giống mới có khả năng thích nghi với biến đổi khí hậu có thể được áp dụng, nhưng cần đánh giá cẩn thận những tác động tiêu cực lên đa dạng sinh học địa phương. Ngoài ra, cần tiến hành nghiên cứu về cách thức quản lý tốt nhất với biến động về độ mặn. Hỗ trợ theo ngành sẽ cần được cung cấp theo nhiều cách khác nhau. Việc tiếp cận với thông tin, gồm cả những cảnh báo sớm về các nguy cơ khí hậu, các biện pháp thích ứng và thị trường có thể được cung cấp qua hạ tầng thông tin.Nhận thức tốt hơn về biến đổi khí hậu, kể cả các nhu cầu về đa dạng các kỹ năng tại địa phương, có thể là một sản phẩm của việc xác định các mối nguy có sự tham gia của người dân nếu mọi tổn thất có thể được đưa vào. Tiếp cận tín dụng, bảo hiểm một cách hiệu quả hơn và các dịch vụ tài chính khác, đặc biệt cho người nghèo, bao gồm cả các khoản vay bằng tiền mặt là rất cần thiệt. Xây dựng các hệ thống tài chính hỗ trợ các khoản vay có thể khuyến khích giảm bớt các tác động môi trường. Có nhiều cơ hội để kết hợp các biện pháp này với các phương án thị trường cac bon, ví dụ trồng rừng đước. Gia súc thường là những tài sản có giá trị nhất của người nghèo dễ bị tổn thương. Việc tiếp cận, đảm bảo, dự trữ an toàn và bảo vệ tránh khỏi các mối nguy khí hậu cho gia súc cần được xem xét. Điều này cũng sẽ khiến các nhà sản xuất ven biển tránh phải bán hàng khi giá chưa phù hợp. Cần có một cơ chế để chia sẻ và trao đổi thông tin về các chiến lược thích nghi. Mô hình “Hội phụ nữ tương hỗ” có thể được ứng dụng cho các xã có các tác động biến đổi khí tương tự để trao đổi thông tin và các bài học kinh nghiệm. Việc chia sẻ thông tin này có thể tăng cường các hoạt động thích ứng của địa phương đối với các sinh thái xã hội tương tự, ví dụ như những gì đã phát hiện ra tại các Xã Kỳ Ninh và Vĩnh Hiền. Chính phủ có thể hỗ trợ bằng cách giám sát các hỗ trợ sinh kế, theo dõi các tài sản của hộ gia đình và các mối nguy khí hậu trong tương lai, để cung cấp các kinh nghiệm sâu sắc cách thức quản lý rủi ro hiện hành đã được thực hiện thành công như thế nào trong việc tăng cường sự thích nghi của các cộng đồng. Những tác động biến đổi khí hậu trong tương lai sẽ làm cho những sức ép hiện nay thêm mạnh. Trong khi các rủi ro về mất mát gia súc từ do nhiệt độ thấp sẽ giảm dần, và tốc độ xâm mặn và xói mòn ven biển có thể giảm nhờ có các tường chắn xanh, nhiệt độ tăng và lượng mưa có thể cùng xuất hiện với các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt hơn sẽ càng làm tăng áp lực đối với các sinh kế, và các tài nguyên sinh kế dựa vào. Kết hợp các chiến lược thích ứng và giảm nhẹ cần được xem xét lại và xây dựng để đáp ứng mối nguy này. Việc tổng hợp như vậy có thể kỳ vọng từ việc kết 8hợp giữa các chiến lược thích ứng chống lại và phòng ngừa. Từ quan điểm của nghiên cứu này, “thành công” sẽ được đo bằng sự tăng lên khả năng phục hồi của các sinh kế và nguồn tài nguyên chịu nhiều rủi ro nhất. Trong khi thừa nhận vai trò của Chính phủ, “sự thành công” sẽ được nhìn rộng hơn, tuy nhiên sự can thiệp hỗ trợ của Chính phủ trong xây dựng phục hồi sinh kế vẫn là thiết yếu. Các thách thức khác của biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu là một thách thức lớn hiện đang hình thành trên hết các thách thức khác, các thách thức tốn kém mà Chính phủ tại Việt nam phải đối mặt. Nổi bật trong những thách thức này là tốc độ đô thị hóa nhanh, liên quan đến sự di cư từ nông thôn ra đô thị. Đó là những yếu tổ quan trọng của tăng trưởng kinh tế xã hội và giảm nghèo, nhưng đây cũng chính là động lực chính gây ra sự suy giảm môi trường. Chính quyền địa phương tại các khu vực nghiên cứu nhìn nhận xu hướng di cư như hiện tại sẽ bị ảnh hưởng mạnh do biến đổi khí hậu. Hiện tại khoảng 7% dân cư Việt Nam sống tại các vùng nông thôn, và 30% sống tại đô thị. Nếu tỷ lệ hiện tại của tăng trưởng dân số đô thị đã được duy trì, đến năm 2047 tình hình này có thể sẽ đảo ngược. Khoảng 70% dân số Việt Nam sẽ sống tại các khu vực đô thị, và 30% tại nông thôn. Với cách ước tính như thế, câu trả lời cho câu hỏi đâu là sinh kế nông thôn tại miền Trung Việt Nam là – sinh kế đô thị. Dưới một số hình thức thì tương lai này đã đến. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang mở rộng ra khu vực nông thôn, và trong tương lai các thành phố khu vực có thể cũng sẽ theo xu hướng này. Các chiến lược sinh kế hộ gia đình nông thôn – đô thị càng làm gia tăng mối liên kết này. Tiền gửi về từ các gia đình ở đô thị và nước ngoài đang hỗ trọcho các sinh kế của nhiều hộ gia đình trong các địa điểm nghiên cứu. Trong một số trường hợp thu nhập của họ và mạng lưới xã hội có thể khiến các thành viên khác của gia đình được đưa vào thành phố và đưa ra các thị trường lao động nước ngoài. Phát triển các dải du lịch ven biển nếu tiếp tục có thể sẽ càng làm đô thị hóa vùng nông thôn. Tuy nhiên, nhiệt độ cao hơn và thất thường hơn, kéo dài lâu hơn, các hiện tượng thời tiết cực đoan có thể khiến các mùa du lịch ven biển ngắn hơn cũng như đối với nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Điều này sẽ tác động lên các cơ hội việc làm địa phương. Trong dài hạn, du lịch ven biển sẽ phải đối mặt với thách thức do bão và nước biển dâng cao gây ra xói mòn bờ biển và phá vỡ các rạn san hô do nước biển ấm lên. Tuy nhiên các cơ hội do nước biển dâng cao có thể làm mở rộng du lịch giải trí tại các khu vực như Đầm Phá Tam Giang, là nơi cư trú và gần các khu vực đô thị. Tuy nhiên, nếu mọi biện pháp bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên chi tiết trong kế hoạch du lịch của tỉnh được thực hiện, nguồn tài nguyên cho nông nghiệp và đánh bắt cá sẽ được mở rộng. Cần tăng đầu tư cho môi trường để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững và nâng cao khả năng phục hồi sinh kế dựa trên nguồn tài nguyên ven biển. 9Tóm TẮT CÁC khuyẾn nGhị Xây dựng nông nghiệp phục hồi khí hậu Hỗ trợ các biện pháp thích ứng hiện tại của địa phương, ví dụ việc điều chỉnh khi nào thì trồng cây và thu hoạch (lịch gieo trồng); trồng nơi nào (các loại hình thu hoạch); trồng cây gì (chuyển đổi sang các loại cây trồng có khả năng phục hồi theo khí hậu); cách trồng (đa dạng canh tác; xen canh; thu hoạch; mô hình cá lúa). Đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản thích nghi với khí hậu Cải tiến công tác hoạch định và quản lý trong lĩnh vực thủy sản hiện hành, thông qua việc tăng cường các quy định về xử lý chất thải thủy sản, giới thiệu các loài thủy sản đã thích nghi với môi trường có nhiệt độ cao và độ mặn đã thay đổi, thúc đẩy quảng canh và mô hình cá lúa ở những vùng thích hợp và quản lý tổng hợp nguồn nước cho trồng lúa và nuôi trồng thủy sản nước lợ, đánh giá các loài mới, các công cụ và kỹ thuật cần thiết để ngư dân có thể thích ứng với những thay đổi về môi trường sống thủy sinh do sự gia tăng và biến đổi độ mặn vùng cửa sông. Hỗ trợ chung để xây dựng các sinh kế thích nghi với khí hậu Đảm bảo có thể tiếp cận các chương trình tín dụng, các dịch vụ bảo hiểm và tài chính đa dạng theo các nhóm đối tượng, đặc biệt cho người nghèo, “tránh các mối nguy” cho nhà ở, tiếp cận, bảo quản an toàn và bảo vệ tránh những mối nguy từ khí hậu để giúp những người sản xuất ven biển tránh được việc phải bán hàng với giá không phù hợp. Cải thiện khả năng tiếp cận với các nguồn thông tin về khí hậu của những người chịu rủi ro nhất, các biện pháp thích ứng và thông tin thị trường thông qua việc tiếp cận các hạ tầng thông tin kịp thời. Các biện pháp phục hồi đối với các sinh kế dựa vào nguồn lực Kết hợp các góc độ sinh thái xã hội vào quá trình hình thành các chiến lược quản lý thích ứng thông qua lựa chọn các qui mô thích hợp cho hành động và nghiên cứu tập, thiết lập và theo dõi các ngưỡng. Giảm xói mòn dọc theo các cửa sông để ngăn ngừa lắng đọng gần các cửa biển, và ngăn chặn luồng di cư, của các loài cá, di chuyển và neo của tàu thuyền. Trồng rừng ngập mặn hay dừa như các “lá chắn sinh học” để ổn định các vùng đất ven bờ. Chống phá rừng tại các vùng cao; trồng lại rừng ở những khu vực chiến lược. Huấn luyện các nhóm thợ xây dựng địa phương về các biện pháp xây dựng và thích ứng “chống mối nguy”. Việc này có thể sinh lợi nếu chính quyền và các khu vực tư nhân thuê các nhóm này để cải tạo các công trình hiện hữu. Thiết lập các hệ thống khuyến khích để xây dựng các hệ thống khích lệ tài chính cho các chương trình tín dụng cho nông dân và ngư dân ven biển để giảm các tác động môi trường. Các hệ thống này có thể liên kết với các thị trường trao đổi CO2, ví dụ trồng rừng ngập mặn. Bảo tồn các vùng đất cao để đối phó các rủi ro ngập nước trong tương lai, đảm bảo các vùng đất cao được giữ cho các dịch vụ thiết yếu và các mục đích của cộng đồng. Thiết lập “Hội phụ nữ tương hỗ” để tăng cường các hoạt động thích ứng địa phương cho các hệ sinh thái xã hội tương tự. Tăng cường quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng để bù đắp cho các tác động biến đổi khí hậu khiến sử dụng nguồn lực không bền vững. 10 Cải thiện lưu giữ và quản lý nguồn nước Cải thiện, lưu giữ và quản lý nguồn nước tốt hơn qua các biện pháp bù đắp nước ngầm hiệu quả hơn và sử dụng nước mưa. Nghiên cứu các mức độ tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra với các nguồn nước và hệ thống cấp nước,xác định cách thức để đáp ứng nhu cầu nước trong tương lai trong điều kiện có các tổn thương như trên. Xem xét việc tăng mức độ đáng tin cậy, sự đa dạng và linh hoạt của hệ thống cấp nước thông qua việcnâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng và quản lý nguồn nước bền vững. Lồng ghép trong kế hoạch ứng phó với tình trạng khẩn cấp Thực hiện công tác bản đồ hóa bằng GPS/GIS tại các vùng ven biển có nguy cơ tổn thương với biến đổi khí hậu của các huyện (kể cả những khu vực sẽ bị ảnh hưởng do nước biển dâng) và kết hợp các bản đồ này trong công tác qui hoạch phát triển. Nâng cấp hệ thống ứng phó với thảm họa thiên tai để giám sát sự thay đổi của các biện pháp ứng phó theo mùa hoặc theo năm. Trong các kế hoạch ứng phó khẩn cấp của tỉnh và địa phương, đưa vào việc lập mục tiêu tổn thất dùng để xác định những cộng đồng có nhiều hộ gia đình có phụ nữ là chủ hộ (ví dụ những cộng đồng nam giới vắng mặt do di trú), và những cộng đồng cần hỗ trợ nhiều hơn. Lập kế hoạch và quản lý các ứng phó với nước biển dâng Xây dựng hạ tầng cơ sở phòng chống lũ lụt, gồm các công trình phòng chống lũ (ví dụ như đê biển) và hệ thống phòng chống như đất ngập nước, đầm lầy ven biển. Nếu có thể, cần những hỗ trợ cho công tác tăng cường hệ thống công trình và phi công trình (ví dụ “các tường xanh”). Xây dựng và vận hành các đập thượng lưu, các cửa sông và trạm bơm để kiểm soát dòng nước tăng nhanh trong mùa mưa lũ nhằm quản lý dòng nước vào/ra của hệ thống cấp nước. Vấn đề quan trọng là phải giảm tối thiểu những tác động bất thường tới các loài mang tính thương mại do mặn hóa hệ thống cửa sông. Giám sát theo thời gian, các vùng ngập nước và thu nhập sinh kế, ví dụ về thủy sản, hoặc du lịch, do những cách thức ứng phó có tính chất “xử lý có kiểm soát” thay thế. Bất kỳ sự đánh giá nào cũng sẽ cần xem xét tới những được và mất về sinh kế, và các tác động đi kèm (ví dụ sự ô nhiễm). Tập trung hóa việc xây dựng và quản lý đê để đảm bảo sự liên kết. Việc xây dựng các hệ thống đê dài thường gặp khó khăn khi có nhiều nhóm địa phương khác nhau xây dựng theo từng đoạn. Các đoạn như vậy chỉ tạo ra các điểm yếu, và việc kết nối các đoạn với nhau vững chắc là cả một vấn đề. Vì thế cần một cách tiếp cận tập trung để xây dựng và duy tu bảo dướng với một mức độ quyền hạn nhất định để theo dõi và duy trì. Tuy nhiên, việc sử dụng lao động địa phương để xây dựng và giám sát sẽ là vấn đề quan trọng cho các cán bộ của xã. Giám sát nước biển dâng và sự xâm mặn tại địa phương để thông tin cho việc ra quyết định theo mức độ của vấn đề và các yêu cầu, ví dụ tái định cư, mở rộng đất nông nghiệp cần được khử mặn hay điều chỉnh mùa vụ. Một mạng lưới theo dõi sự xâm nhập của mực nước biển có thể liên kết các làng ven biển. Cải tiến quá trình tái định cư cho những hộ gia đình và cộng đồng bị tổn thương Việc tái định cư cần thể hiện nhu cầu của các hộ gia đình sống gần hai bên bờ sông và ven biển; các hộ gia đình sống trên thuyền và những hộ hiện sống gần hay phụ thuộc vào hệ thống đường giao thông, và số cư dân có thể sẽ bị ảnh hưởng. Việc đền bù, tiếp tục tiếp cận các nguồn lực được sử dụng làm sinh kế ngắn hạn và hỗ trợ việc tìm kiếm các lựa chọn sinh kế khác cần được xem xét. Ngoài ra, cần hỗ trợ trong việc đào tạo các kỹ năng nghề thích hợp trước khi tái định cư. 11 Các chiến lược thích ứng ngắn, trung và dài hạn cho các dân di cư tạm thời Cần giáo dục tốt hơn và đào tạo nghề phù hợp, đào tạo lại để tăng cường năng lực cho những người di cư. Cần triển khai các biện pháp khuyến khích người dân di cư tạm thời đầu tư vào các doanh nghiệp địa phương để tạo thêm việc làm. Tại những khu vực mà tiềm năng du lịch có thể khai thác, đào tạo kỹ năng cho các công nhân địa phương có thể cũng là một phương án. Do các khu du lịch nghỉ dưỡng thường theo mùa, và không có vẻ là sẽ tạo ra nhu cầu việc làm nhiều cho địa phương, việc đào tạo nghề cho thanh niên sẽ là cần thiết để đảm bảo cung cấp một sinh kế bền vững. Đánh bắt xa bờ là hoạt động sinh lợi nhưng cũng được cho là nguyên nhân gây ra những tổn hại về sức khỏe – chính phủ cần cung cấp những hỗ trợ bằng các biện pháp bảo vệ người lao động; bao gồm các điều kiện làm việc tốt hơn, bảo hiểm y tế có thể chi trả được, chăm sóc sức khỏe thích hợp. Các chiến lược thích ứng ngắn, trung và dài hạn cho người dân định cư Trong khi việc di dân toàn bộ không phải là một chiến lược sinh kế hiện đang được thực hiện, đây có thể là một lựa chọn trong tương lai nếu các nguồn lực mà các hộ gia đình dựa vào không còn nữa. Trong các trường hợp như vậy, sẽ cần can thiệp sớm để đảm bảo thực hiện đào tạo nghề trước khi tiến hành di cư, giúp họ dễ dàng tiếp cận với cơ hội việc làm ở đô thị hơn. Nghiên cứu về kinh tế xã hội trong tương lai (ngoài những nghiên cứu khoa học về các loại cây đã thích ứng, thủy sản v.v) có thể tập trung vào những kinh nghiệm của các hộ gia đình đã chuyển đổi sinh kế (ví dụ trong các địa điểm nghiên cứu hiện tại, chuyển từ trồng trọt sang nuôi trồng thủy sản) – cách thức chuyển đổi; và những hỗ trợ nào là cần thiết; xem xét các kinh nghiệm, và các chiến lược đối phó của những phụ nữ bị những nam giới di cư bỏ lại trong các khu vực có nguy cơ, điểm mạnh/yếu và các tổn hại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTom tat CS XD kha nang phuc hoi cac CL thich ung cho sinh ke ven bien.pdf
Tài liệu liên quan