LỜI MỞ ĐẦU
Các công cụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ hợp đồng tương lai hay quyền chọn nói riêng là
một trong những hình thức được đánh giá là rất hữu dụng trên thị trường hàng hóa và thị trường
chứng khoán. Đặc biệt là đối với thị trường chứng khoán, một thị trường đầy rủi ro thì công cụ
phái sinh này sẽ giúp nhà đầu tư tránh được tình trạng thua lỗ nặng khi thị trường đi xuống sâu và
ngược lại, nhà đầu tư có thể đạt mức lợi nhuận rất cao khi thị trường có xu hướng như thế nào.
Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu nói chung hay thị trường Việt Nam nói riêng, mọi
người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và đây cũng là thời điểm tốt để một thị trường non trẻ,
với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp dụng
những hình thức giao dịch như quyền chọn chứng khoán.
Quyền chọn có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro nên hình thức này giúp nhà đầu
tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị
trường. Vì vậy, đối với những thị trường chứng khoán mới nổi như Việt Nam , mới được gần 8
năm tuổi đời với sự bất ổn trong của tâm lý nhà đầu tư, quy mô của thị trường chứng khoán Việt
Nam nếu so sánh với thị trường chứng khoán thế giới thì có một sự “khập khiễng” rõ nét, nên việc
sử dụng một công cụ để phòng ngừa rủi ro là không thể thiếu.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài với những cơ sở lý luận đã được học tại trường, tôi quyết
định chọn đề tài: “Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam”. Đây là một
sản phẩm mới nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng khả năng thu hút vốn đầu
tư, cũng như là một công cụ phòng ngừa rủi ro cho thị trường chứng khoán. Chuyên đề có nội
dung bao gồm:
Mục đích nghiên cứu
Phân tích tình hình thị trường chứng khoán – option chứng khoán thế giới, rút ra bài học kinh
nghiệm cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhận diện các yếu tố rủi ro trên thị
trường, qua đó thấy được sự cần thiết của việc thành lập thị trường quyền chọn ở Việt Nam, những
thuận lợi và khó khăn khi thành lập thị trường Quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam.
Nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, cấu trúc thị trường
quyền chọn, những điểm nổi bật căn bản của thị trường quyền chọn so với thị trường chứng khoán.
Qua kiến thức về Quyền Chọn, các mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán thế giới, đưa
ra ý tưởng thiết lập mô hình quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam, mức phí quyền chọn hợp lý,
điều kiện và giải pháp cho thị trường Quyền chọn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các lý luận về sản phẩm quyền chọn và thị trướng quyền chọn.
Nghiên cứu quá trình hoạt động của thị trướng chứng khoán Việt Nam từ lúc thành lập đến
thời điểm cuối thàng 3/2008.
Nghiên cứu mô hình thị trường Chứng Khoán Việt Nam, mô hình thị trường quyền chọn các
nước trên thế giới, và các điều kiện thực tiễn để ứng dụng một mô hình quyền chọn vào Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân tích – tổng
hợp, so sánh – đối chiếu, và quan sát từ thực tiễn để khái quát bản chất của các vấn đề cần nghiên
cứu. Đề tài này của nhóm tác giả dựa vào cơ sở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh nghiệp kết
hợp với nguồn dự liệu thu thập được từ thực tế (sách báo, tạp chí, internet )
Kết cấu của đề tài
Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của đề tài gồm 4 chương:
Chương 1: Lịch sử phát triển của thị trường quyền chọn cổ phiếu – Bài học kinh nghiệm cho
thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam – Rủi ro và hướng khắc phục
Chương 3: Tổng quan về quyền chọn
Chương 4: Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
Phần phụ lục, tài liệu tham khảo.
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Phần nội dung
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CỔ
PHIẾU – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán 1
1.2 Thị trường quyền chọn giao dịch có tổ chức 2
1.2.1 Thị trường Mỹ .2
1.2.2 Thị trường Nhật .4
1.2.3 Thị trường Hàn Quốc 6
1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thị trường các nước trên thế giới .7
CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM – RỦI RO VÀ HƯỚNG
KHẮC PHỤC
2.1 Tính hình thị trường chứng khoán Việt Nam 9
2.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam .9
2.1.2 Những đặc điểm đáng nổi bật của TTCK nước ta từ năm 2006 đến nay 11
2.1.3 Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng hàm chứa nhiều rủi ro 13
2.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của thị trường chứng khoán Việt Nam 17
2.2 Sự cần thiết của Option chứng khoán . 18
2.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán . 18
2.2.2 Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài
nước 19
2.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán . 19
2.2.4 Ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế . 19
2.2.5 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam . 20
2.3 Một số thuận lợi và khó khăn khi xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu ở Việt
Nam hiện nay 21
2.3.1 Những thuận lợi 21
2.3.1.1 Tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán . 21
2.3.1.2 Sức cầu về đầu tư chứng khoán cao . 21
2.3.1.3 Sự quyết tâm và cam kết của Chính phủ xây dựng và phát triển thị trường chứng
khoán ở Việt Nam 22
2.3.1.4 Sự ra đời của các hiệp hội . 22
2.3.1.5 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở
Việt Nam . 22
2.3.1.6 Đặc điểm kinh tế của Việt Nam . 22
2.3.2 Những khó khăn . 23
2.3.2.1 Chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này 23
2.3.2.2 Hạn chế về mặt pháp lý,quy mô họat động . 23
2.3.2.3 Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư,người quản lý . 24
2.3.2.4 Tiến trình cổ phần hoá và niêm yết diễn ra quá chậm 24
2.3.2.5 Chính sách quản lý, kiểm soát thị trường còn hạn chế 25
CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN
3.1 Giới thiệu về quyền chọn 26
3.1.1 Định nghĩa . 26
3.1.2 Quyền chọn mua 26
3.1.3 Quyền chọn bán 27
3.1.4 Phân loại quyền chọn theo thời gian thực hiện . 28
3.2 Cấu trúc cơ bản của thị trường quyền chọn 28
3.2.1 Điều kiện niêm yết . 29
3.2.2 Quy mô hợp đồng 29
3.2.3 Giá thực hiện 30
3.2.4 Chi phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng . 30
3.2.5 Ngày đáo hạn . 30
3.2.6 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện 31
3.3 Thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu 31
3.3.1 Quyền chọn cổ phiếu có nhiều nét tương đồng với cổ phiếu trên sàn giao dịch . 31
3.3.2 Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng thị trường quyền chọn và thị trường cổ
phiếu vẫn có những điểm khác nhau quan trọn 32
3.3.2.1 Về phương diện giao dịch và thời gian . 32
3.3.2.2 Về phương diện quản trị rủi ro . 32
3.3.2.3 Về phương diện đòn bẩy . 33
3.3.2.4 Thị trường quyền chọn cũng cung cấp một thông tin hiệu quả về xu hướng giá 34
3.3.2.5 Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả . 34
3.3.2.6 Thị trường sản phẩm phái sinh chứa đựng đầy rủi ro so với thị trường giao
ngay? 35
CHƯƠNG IV: MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM
4.1 Điều kiện cần để xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán 37
4.1.1 Có hệ thống cơ sở pháp lý hoàn thiện . 37
4.1.2 Điều kiện về hàng hóa trên TTCK . 37
4.1.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường . 37
4.1.4 Điều kiện về kỹ thuật 38
4.1.5 Điều kiện về con người . 38
4.2 Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam 38
4.2.1 Môi trường giao dịch . 39
4.2.2 Sàn giao dịch quyền chọn . 39
4.2.3 Phương thức giao dịch . 40
4.2.4 Phí quyền chọn . 43
4.3 Thị trường quyền chọn chứng khoán và nhà đầu tư . 45
4.3.1 Mua quyền chọn mua cổ phiếu 45
4.3.2 Mua quyền chọn bán cổ phiếu . 46
4.4 Giải pháp xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam . 47
4.4.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường option chứng
khoán . 47
4.4.2 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho thị trường option chứng khoán và hoàn thiện hệ
thống cung cấp thông tin 48
4.4.3 Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán . 48
4.4.4 Nâng cao vai trò , trách nhiệm của các cơ quan chức năng 49
4.4.5 Tăng cung kích cầu cho thị trường chứng khoán và option chứng khoán 49
4.4.6 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị
trường chứng khoán . 49
4.4.7 Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền . 50
4.4.8 Tăng cường hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư 50
Phần kết luận
Phần phụ lục
Phụ lục 1: Thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam - Thực tế hoạt động và
những thách thức tiềm ẩn.
Phụ lục 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam trước những thách thức của việc gia nhập
WTO.
Phụ lục 3: Những giải pháp điều chỉnh đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian
tới.
Phụ lục 4: Tính ưu việt của hợp đồng quyền chọn cổ phiếu so với các loại khác.
Phụ lục 5: Chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn.
Phụ lục 6: Mô hình định giá Black-Scholes.
Phụ lục 7: Danh mục phí quyền chọn.
Phụ lục 8: Các loại hợp đồng giao dịch quyền chọn cổ phiếu.
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cổ phiếu dẫn đến số cổ phiếu mới là bội số
lẻ của 100, những người nắm giữ các hợp đồng hiện hành được đảm bảo bằng các hợp đồng bổ
sung. Ví dụ, nếu một cổ phiếu được tách thành hai cổ phiếu, người mua và người bán sẽ nhận được
hai hợp đồng ứng với mỗi hợp đồng cũ. Bên cạnh đó, giá thực hiện cũng giảm còn phân nửa giá trị
trước đây.
3.2.3 Giá thực hiện
Trên sàn giao dịch quyền chọn, giá thực hiện được chuẩn hóa. Sàn giao dịch quy định mức giá
thực hiện có thể ký kết hợp đồng quyền chọn. Các nhà đầu tư phải sẵn lòng giao dịch quyền chọn
với mức giá thực hiện được quy định. Dĩ nhiên, các giao dich OTC có thể nhận bất cứ mức giá
thực hiện nào mà hai bên tham gia thỏa thuận.
Việc thiết lập giá thực hiện của quyền chọn cổ phiếu, sàn giao dịch thường tuân theo quy luật
là các mức giá thực hiện có khoảng chênh lệch $2,50 nếu giá cổ phiếu thấp hơn $25, khoảng $5
nếu giá cố phiếu từ $25 đến $200, và trong khoảng $10 nếu giá cổ phiếu trên $200. Đối với các
quyền chọn chỉ số, các khoảng chênh lệch giá thực hiện có khác biệt nhiều do biên độ rộng của
nhiều chỉ số khác nhau. Có một số ngoại lệ đối với các quy luật này. Các quyền chọn có giao dịch
rất sôi động có giá thực hiện rất gần nhau.
Ngoài ra còn có quyền chọn FLEX, quyền chọn linh hoạt, là một dạng quyền chọn có tính
chuẩn hóa của các thị trường giao dịch quyền chọn có tổ chức. Các quyền chọn FLEX có thể có
bất cứ mức giá thực hiện nào.
3.2.4 Chi phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng
Phí giao dịch trên sàn và phí thanh toán là các khoản phí tối thiểu do sàn giao dịch ấn định,
trung tâm thanh toán và công ty thanh toán để xử lý một giao dịch. Với các nhà kinh doanh thông
qua môi giới, các phí này được tính gộp trong hoa hồng của người môi giới. Còn với những nhà
tạo lập thị trường, các khoản phí này do công ty thanh toán của nhà tạo lập thị trường thu.
Khi thực hiện quyền chọn cổ phiếu, nhà đầu tư phải trả hoa hồng cho việc mua bán cổ phiếu.
Nếu một nhà đầu tư thực hiện một quyền chọn thanh toán bằng tiền, giao dịch này chỉ kéo theo
một bút toán kế toán. Một số công ty môi giới không tính phí thực hiện quyền chọn thanh toán
bằng tiền. Khi bất kỳ dạng quyền chọn nào hết hiệu lực mà không được thực hiện, thường thì công
ty môi giới không tính hoa hồng.
3.2.5 Ngày đáo hạn
Ngày đáo hạn của các quyền chọn OTC được thiết kế phù hợp với như cầu của người mua và
người bán. Trên sàn giao dịch quyền chọn, mỗi cổ phiếu được phân loại vào các chu kỳ đáo hạn
riêng. Các chu kỳ đáo hạn là (1) tháng 1, 4, 7 và 10; (2) tháng 2, 5, 8 và 11; và (3) tháng 3, 6, 9 và
12. Các chu kỳ này được gọi là chu kỳ tháng 1, 2 và 3. Các ngày đáo hạn hiện có hiệu lực là tháng
hiện tại, tháng tiếp theo và 2 tháng tiếp theo trong chu kỳ tháng 1, 2 hoặc 3 mà chứng khoán được
phân vào. Ví dụ, đầu tháng 6, IBM, cổ phiếu được phân vào chu kỳ tháng 1, sẽ có quyền chọn đáo
hạn vào tháng 6 và tháng 7 cộng với hai tháng sau trong chu kỳ tháng 1: tháng 10 và tháng 1 sắp
tới. Khi quyền chọn tháng 6 hết hiệu lực, quyền chọn tháng 8 sẽ được bổ sung; khi quyền chọn
tháng 7 đáo hạn, quyền chọn tháng 9 sẽ được bổ sung; và khi quyền chọn tháng 8 hết hiệu lực,
quyền chọn tháng 4 sẽ được đưa vào. Quyền chọn chỉ số thường có ngày đáo hạn là tháng hiện tại
và 2 tháng sau đó.
Kỳ hạn của quyền chọn đối với cổ phiếu đơn lẻ kéo dài không quá 9 tháng trừ một số ngoại lệ.
LEAPS (cổ phiếu được nắm giữ dài hạn – Long term Equity Anticipation Share) là các quyền chọn
đối với một số cổ phiếu cụ thể và chỉ số có thời gian đáo hạn lên đến 3 năm.
Quyền chọn FLEX cũng có thể có bất cứ ngày đáo hạn nào, có thể lên đến 5 năm đối với
quyền chọn chỉ số và 3 năm đối với quyền chọn đối với cổ phiếu riêng lẻ.
Ngày đáo hạn của quyền chọn giao dịch trên sàn là ngày thứ bảy liền sau ngày thứ sáu tuần
thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng mà quyền chọn giao dịch là ngày thứ sáu tuần thứ ba của tháng.
3.2.6 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện
Hạn mức vị thế (position limit): là số lượng quyền chọn tối đa mà một nhà đầu tư có thể nắm
giữ về một phía của thị trường mà các sàn giao dịch đã áp đặt.
Hạn mức thực hiện (exercise limit): tương tự như hạn mức vị thế. Một hạn mức thực hiện là số
quyền chọn tối đa có thể được thực hiện trong vòng 5 ngày làm việc liên tục bất kỳ bởi mỗi nhà
đầu tư riêng lẻ hay một nhóm các nhà đầu tư cùng hành động với nhau. Các số liệu về hạn mức
thực hiện cũng giống hạn mức vị thế.
Mục tiêu của hạn mức thực hiện và hạn mức vị thế là nhằm ngăn cản từng cá nhân hoặc một
nhóm người có tác động đáng kể đến thị trường. Tuy nhiên, vẫn chưa có gì rõ ràng rằng các hạn
chế như vậy là cần thiết. Tuy nhiên chúng thật sự ngăn chở các nhà đầu tư lớn sử dụng quyền
chọn trên sàn giao dịch, và chúng làm giảm tính thanh khoản. Chúng có thể tổn hại sàn giao dịch
thông qua việc buộc các nhà đầu tư có tổ chức thực hiện giao dịch trên thị trường OTC.
3.3 Thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu
3.3.1 Quyền chọn cổ phiếu có nhiều nét tương đồng với cổ phiếu trên sàn giao dịch
Cả quyền chọn và cổ phiếu đều được niêm yết trên sàn giao dịch. Lệnh mua và lệnh bán
quyền chọn cũng được thực hiện thông qua nhà môi giới cũng giống như cách đặt lệnh mua và
lệnh bán khi giao dịch cổ phiếu trên sàn. Và tất cả mọi giao dịch của quyền chọn và giao dịch cổ
phiếu đều được thực hiện trên sàn giao dịch.
Cũng giống như giao dịch cổ phiếu, với giao dịch quyền chọn, người mua sẽ thực hiện lệnh
mua, còn người bán thực hiện lệnh bán. Trong giao dịch cổ phiếu, lệnh mua bán được thực hiện
đối với cổ phiếu. Còn với quyền chọn cổ phiếu, lệnh được thực hiện chính là quyền được mua
hoặc bán 100 cổ phiếu (mỗi hợp đồng quyền chọn) về một cổ phiếu cơ sở tại một mức giá thỏa
thuận vào một thời điểm đã xác định trong tương lai.
Những nhà đầu tư quyền chọn cũng có khả năng kiếm lời trên sự chênh lệch giá và biết được
mọi thông tin về giao dịch và chỉ số thị trường cũng giống như nhà đầu tư về cổ phiếu. Người mua
và người bán quyền chọn có thể nhanh chóng biết được mức giá tại thời điểm mà lệnh được thi
hành.
3.3.2 Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng thị trường quyền chọn và thị trường cổ
phiếu vẫn có những điểm khác nhau quan trọng
3.3.2.1 Về phương diện giao dịch và thời gian:
Không giống như giao dịch cổ phiếu, quyền chọn có một thời gian giao dịch nhất định. Cổ
phiếu có thể được nắm giữ không giới hạn với hi vọng giá trị của nó sẽ tăng lên, còn quyền chọn
thì lại có ngày đáo hạn cụ thể. Nếu quyền này không được thực hiện sau một thời gian ấn định,
hợp đồng option đáo hạn, người mua sẽ bị mất khoản phí thực hiện quyền chọn một cách vô ích.
Hợp đồng quyền chọn thì không có số lượng giới hạn về hợp đồng, cũng giống như với các cổ
phiếu có giá trị. Một quyền chọn đơn giản chỉ là một hợp đồng bao gồm việc người mua sẵn sàng
chi trả một mức giá để quyền đó có hiệu lực và người bán sẵn sàng nhượng lại quyền này với mức
giá như vậy. Vì vậy không giống như cổ phiếu, số hợp đồng quyền chọn còn hiệu lực phụ thuộc
duy nhất dựa trên số người mua và người bán ký nhận và chuyển nhượng quyền đó.
Trong giao dịch, mua bán cổ phiếu là hợp đồng chắc chắn về quyền sở hữu cổ phiếu đó, với
quyền chọn thì không có sự đảm bảo về quyền được thực hiện sở hữu cổ phiếu vì phụ thuộc giá cả
quyền chọn vào ngày đáo hạn. Vị thế của quyền chọn được ghi trong bản in được chuẩn bị bởi
công ty môi giới của người mua hoặc người bán. Một sự đổi mới trong thị trường quyền chọn, sự
giao dịch ko chắc chắn đã được giảm nhiều về công việc giấy tờ và giảm sự trì hoãn.
Trong khi quyền sở hữu cổ phiếu thì cung cấp cho người nắm giữ được nắm giữ cổ phiếu của
công ty, có quyền bầu cử, và được nhận cổ tức khi công ty chia lợi nhuận, còn người sở hữu quyền
chọn chỉ được nhận lợi tức về sự chênh lệch giá cổ phiếu khi thực hiện quyền chọn.
3.3.2.2 Về phương diện quản trị rủi ro
Giá của quyền chọn cố phiếu có quan hệ với giá của cố phiếu đó trên thị trường giao ngay, các
quyền chọn có thể được sử dụng để làm giảm hay tăng rủi ro của cố phiếu đó. Trong khi đó, khi
nhà đầu tư chỉ giao dịch trên thị trường chứng khoán thì sẽ gặp hoàn toàn rủi ro khi giá của cố
phiếu rớt giá và chỉ có lợi nhuận khi giá tăng lên. Do đó, khi nhà đầu tư sử dụng quyền chọn đối
với cổ phiếu này, thì họ có thể kiếm được lợi nhuận dù thị trường có đi xuống hay đi lên.
Ví dụ, khi nhà đầu tư mua một cố phiếu trên thị trường và thực hiện một hợp đồng quyền chọn
bán sẽ làm giảm rủi ro của nhà đầu tư. Nếu giá cố phiếu giảm xuống, giá của hợp đồng quyền chọn
bán cũng sẽ giảm. Khi đó, nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn, và bán cổ phiếu mà họ sở hữu với
giá mua đã thỏa thuận trước, và thực hiện việc mua lại cổ phiếu đó trên thị trường giao ngay với
giá thấp hơn, do đó nhận được một khoản lợi nhuận ít nhất có thể bù đắp phần nào mức lỗ từ cổ
phiếu giảm giá của họ. Với trường hợp thị trường tăng giá, thị họ sẽ bỏ lệnh thực hiện hợp đồng
quyền chọn và chịu mất đi một khoản phí quyền chọn giống như việc bỏ tiền để mua một hợp
đồng bảo hiểm cho cổ phiếu của họ. Dạng giao dịch này được gọi là phòng ngừa rủi ro.
Ngoài ra, các nhà đầu tư có khẩu vị rủi ro khác nhau. Một số nhà đầu tư có khả năng chấp
nhận rủi ro tốt hơn các nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, tất cả các nhà đầu tư đếu muốn giữ cho khoản
đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Với thị trường giao ngay, các nhà đầu tư
ít có khả năng linh động về việc chuyển giao rủi ro của mình. Nhưng với thị trường sản phẩm phái
sinh (quyền chọn với cổ phiếu, trái phiếu), nó cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của
mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là các nhà đầu cơ. Vì vậy, các
thị trường này rất hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải
chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Do đó, các nhà đầu tư sẵn sàng cung
cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính. Điều này sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho nền kinh tế, vì nó
tạo điều kiện cho nhiều công ty có khả năng huy động vốn trên thị trường hơn và giữ cho chi phí
sử dụng vốn càng thấp càng tốt.
Ngược lại với phòng ngừa rủi ro là đầu cơ. Trừ khi người phòng ngửa rủi ro tìm được một
người phòng ngửa rủi ro khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, rủi ro của người phòng ngửa
rủi ro phải được hấp thụ bởi nhà đầu cơ. Thị trường các sản phẩm phái sinh cung cấp một công cụ
hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Thay vì giao dịch cổ phiếu hoặc trái phiếu cơ sở, nhà đầu tư có thể
giao dịch sản phẩm phái sinh. Nhiều nhà đầu tư thích đầu cơ với công cụ sản phẩm phái sinh hơn
là bằng chứng khoán cơ sở. Việc đầu cơ dễ dàng hơn bằng sản phẩm phái sinh lại tạo điều kiện cho
việc phòng ngừa rủi ro ít tốn kém hơn.
Tuy nhiên, đầu cơ là một hoạt động gây nhiều tranh cãi. Thị trường các sản phẩm phái sinh đã
nhận rất nhiều chỉ trích từ những người ngoài cuộc, bao gồm cả những cáo buộc rằng hoạt động
của họ cũng tương tự nhưng việc hợp pháp hóa bài bạc. Vậy chúng ta sẽ xem xét vấn đề này ở các
phần sau.
3.3.2.3 Về phương diện đòn bẩy
Khi ta bỏ cùng một số vốn nhưng đầu tư trên cả thị trường giao ngay (chứng khoán) và thị
trường quyền chọn thì thị trường quyền chọn cho ta một tỷ suất sinh lợi cao hơn so với khi đầu tư
trực tiếp trên thị trường chứng khoán.
Ví dụ:
Khi một nhà đầu tư có số vốn là 2.000$, họ mua cổ phiếu ABC với giá ngày hôm nay là 32$
và bán lại với mức giá 36$ trong 3 tháng tới. Điều này có nghĩa là họ đã mua 60 cổ phiếu ABC với
tổng số tiền là 1,920$ (= 60 x 32$ ), và ba tháng sau họ bán 60 cổ phiếu này và thu được 2,160$ (=
60x36$), vậy tỷ suất sinh lợi là (2,160 – 1,920)/1,920=12.5%.
Nếu họ dùng số tiền đó để mua quyền chọn cổ phiếu ABC với giá thực hiện là 32$ được giao
dịch với mức phí là 2.3$ và đáo hạn trong 3 tháng tới. Do trên chứng khoán phái sinh, tất cả các
quyền chọn được căn cứ trên 100 cố phiếu, nên khi nhà đầu tư mua một quyền chọn cổ phiếu
ABC, họ phải trả cho người bán 230$ (= 2.3$ x 100). Nên với số vốn là 2.000$, nhà đầu tư có thể
mua tối đa 8 quyền mua với giá 1840$ (= 8 x 230$). Sau 3 tháng, giá cố phiếu tăng là 36$, do đó
nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn mua của mình và mua 800 cổ phiếu với giá 25,600$ (= 800 x
32$) và ngay lập tức họ bán những cổ phiếu này với mức giá 36$/cổ phần, họ thu về được 28,800$
(= 800 x 36$). Giao dịch này mang lại cho họ một khoản lợi nhuận là 3,200$ (= 28,800$ -
25,600$). Với số tiền đầu tư là 1,840$, tỷ suất sinh lợi là (3,200 – 1,840)/1,840=73.9%.
Vậy, khi nhà đầu tư đầu tư trên thị trường quyền chọn thì nó sẽ mang lại cho họ một tỷ suất
sinh lợi cao hơn tương ứng với rủi ro cao hơn cho các nhà đầu tư trên thị trường này so với thị
trường chứng khoán.
3.3.2.4 Thị trường quyền chọn cũng cung cấp một thông tin hiệu quả về xu hướng giá
Với thị trường quyền chọn thì nó cung cấp những thông tin quý giá về độ bất ổn, và cũng là
rủi ro của tài sản giao ngay cơ sở. Khi nhiều nhà đầu tư thực hiện mua hợp đồng quyền chọn của
một cổ phiếu nào đó, thể hiện xu hướng tăng giá của cố phiếu đó trong tương lai, và ngược lại, khi
nhiều lệnh bán được thực hiện thể hiện xu hướng giảm giá của nó trong tương lai. Qua đó nó cung
cấp được những thông tin rất hiệu quả về xu hướng tương lai của giá cổ phiếu trên thị trường.
3.3.2.5 Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả
Các thị trường sản phẩm phái sinh cung cấp rất nhiều lợi thế về hoạt động:
Thứ nhất, chúng có chi phí giao dịch thấp hơn, có nghĩa là hoa hồng và các chi phí giao dịch
khác đối với người tham gia giao dịch là thấp hơn. Điều này làm cho việc sử dụng giao dịch trên
các thị trường này thay thế hoặc bổ sung cho các giao dịch trên thị trường giao ngay trở nên dễ
dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ hai, thị trường các sản phẩm phái sinh, đặc biệt là sàn giao dịch quyền chọn, có tính thanh
khoản cao hơn so với thị trường giao ngay. Mặc dù thị trường giao ngay nói chung là có tính thanh
khoản rất cao đối với các chứng khoán của các công ty lớn, chúng không thể hấp thu được các các
giao dịch có giá trị lớn mà không gây ra các biến động giá đáng kể. Trong một số trường hợp,
người ta có thể nhận được cùng một mức tỷ suất sinh lợi mong đợi và rủi ro như vậy khi sử dụng
thị trường sản phẩm phái sinh, đồng thời các thị trường này có thể thích ứng với các giao dịch khối
lượng lớn dễ dàng hơn. Tính thanh khoản cao hơn một phần là do mức vốn yêu cầu để tham gia
vào thị trường sản phẩm phái sinh là thấp hơn. Tỷ suất sinh lợi và rủi ro có thể được điều chỉnh ở
bất cứ mức độ nào như mong muốn, nhưng vì cần ít vốn hơn nên các thị trường này có thể hấp thu
nhiều giao dịch hơn.
Thứ ba, các thị trường sản phẩm phái sinh cho phép các nhà đầu tư bán khống dễ dàng hơn.
Thị trường chứng khoán áp đặt nhiều giới hạn được thiết kế để hạn chế hoặc không khuyến khích
việc bán khống, nhưng những giới hạn này thì không được áp dụng cho giao dịch sản phẩm phái
sinh. Kết quả là nhiều nhà đầu tư thực hiện bán khống trên các thị trường này thay vì bán khống
chứng khoán cơ sở và tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể kiếm được những khoản lợi
nhuận đáng kể từ chênh lệch giá.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý
định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường
giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó.
3.3.2.6 Thị trường sản phẩm phái sinh chứa đựng đầy rủi ro so với thị trường giao ngay?
Các sản phẩm phái sinh cho phép chuyển giao rủi ro từ những người muốn loại trừ hay giảm
thiểu rủi ro sang những người muốn chấp nhận hay gia tăng rủi ro. Thị trường này đòi hỏi phải tồn
tại các nhà đầu cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà phòng ngừa
rủi ro mong muốn giảm thiểu những bất ổn mình phải gánh chịu. Hầu hết các nhà đầu cơ thật sự
không kinh doanh các tài sản cơ sở và đôi khi không biết gì về chúng. Vì vậy, những nhà đầu cơ
có một số đặc tính giống như những tay cờ bạc.
Quan điểm phần nào mang tính phiến diện và đã bỏ qua rất nhiều lợi ích của thị trường các
sản phẩm phái sinh. Quan trọng hơn, quan điểm này cho rằng thị trường đã dẫn vốn trong nền kinh
tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Điều này đã đi quá xa so với sự thật. Không giống như
các thị trường tài chính, các thị trường sản phẩm phái sinh không hề tạo ra mà cũng không hề phá
hủy tài sản – chúng chỉ cung cấp phương tiện để chuyển giao rủi ro.
Ví dụ thị trường chứng khoán có thể tạo tài sản. Xét một công ty có một ý tưởng mới và phát
hành cổ phiếu ra công chúng. Các nhà đầu tư mua cổ phiếu, và công ty sử dụng nguồn vốn đó để
phát triển và thương mại hóa ý tưởng của mình. Sau đó, các khách hàng mua sản phẩm hoặc dịch
vụ đó, công ty thu được lợi nhuận, giá cổ phiếu tăng, và mọi người đều trở nên giàu có hơn. Trái
lại, trên thị trường sản phẩm phái sinh, lợi nhuận của một bên là khoản lỗ của bên còn lại. Thị
trường này không tạo thêm bất kỳ rủi ro nào cho nền kinh tế, chúng chỉ đơn thuần cho phép rủi ro
chuyển từ một nhà đầu tư này sang một nhà đầu tư khác. Hơn nữa chúng cho phép rủi ro giao dịch
bằng tài sản thực chuyển từ những người không muốn sở hữu nó sang những người sẵn sàng chấp
nhận điều đó.
Một khác biệt quan trọng giữa thị trường sản phẩm phái sinh và đánh bạc là về phương tiện
tạo lợi ích cho xả hội. Lợi ích của đánh bạc chỉ thuộc về người tham gia và có lẽ cho một số người
nào đó nhận được lợi nhuận một cách gián tiếp. Lợi ích của sản phẩm phái sinh vượt xa ra khỏi lợi
ích của những người tham gia thị trường. Sản phẩm phái sinh giúp cho thị trường tài chính trở nên
hiệu quả hơn và tạo ra những cơ hội tốt hơn để phòng ngừa rủi ro. Những lợi ích này lan tỏa ra
trong toàn xã hội.
CHƯƠNG IV: MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM
4.1 Điều kiện cần để xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán
4.1.1 Có hệ thống cơ sở pháp lý hoàn thiện
Hiện nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán vẫn bộc lộ những
điểm hạn chế nhất định, chưa mang tính pháp lý cao, chưa đồng bộ làm cản trở sự phát triển của
thị trường, chưa bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như định hướng chiến lược phát
triển thị trường chứng khoán đến năm 2010.
Do vậy không thể giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn với các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán còn hẹp, chưa bao quát và điều chỉnh thống nhất việc phát hành chứng khoán ra công
chúng, các hoạt động kinh tế chứng khoán của các đối tượng tham gia thị trường, chưa tạo cơ sở
pháp lý cao cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ chứng khoán, phát triển các sản phẩm phái
sinh... và đặc biệt quyền chọn có phương thức giao dịch khá đặc biệt có sự tham gia của nhiều bên
như: người mua, người bán, CTCK, CTNY, công ty thanh toán, công ty lưu ký,…
Vì vậy, để tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý cũng như mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động trên thị trường, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư
vào thị trường chứng khoán cũng như các sản phẩm phái sinh và từ đó thu hút được các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước tham gia,tạo cho TTCK ít xảy ra gian lận, phạm pháp; mọi hành vi sai
phạm phải bị xử lý nghiêm minh, chính xác... thì việc xây dựng một môi trường pháp lý ổn định,
vững chắc, phù hợp với thực tiễn thị trường là cần thiết.
4.1.2 Điều kiện về hàng hóa trên TTCK
Quyền chọn là công cụ chứng khoán phái sinh, sự tồn tại của quyền chọn phụ thuộc tương đối
vào các chứng khoán trên thị trường. Để ứng dụng giao dịch quyền chọn, trước tiên phải có các
chứng khoán trên thị trường, những loại chứng khoán đó là: cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số,... Càng
nhiều loại chứng khoán trên thị trường, quyền chọn càng có cơ hội phát triển.
Để ứng dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu, trước tiên phải có nhiều cổ phiếu được giao dịch,
đa dạng về chủng loại, đảm bảo về chất lượng nhằm thu hút, kích thích các nhà đầu tư sử dụng
năng lực của mình để kinh doanh kiếm lời dựa trên các sản phẩm mà thị trường cung cấp.
4.1.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường
Các giao dịch quyền chọn đều dựa trên sự biến động giá chứng khoán cơ sở, mà sự biến động
giá chứng khoán cơ sở dựa vào phản ứng của người đầu tư trên thị trường thông qua những thông
tin nhận được như thông tin về môi trường pháp lý, cơ chế thể thức vận hành thị trường, tình hình
kế hoạch và kết quả hoạt động kinh doanh, trạng thái tài chính, trong đó báo cáo tài chính của công
ty là quan trong nhất. Hiện nay trên TTCK Việt Nam có nhiều trường hợp cung cấp thông tin thiếu
minh bạch, thiếu công khai và không rõ ràng ảnh hưởng không nhỏ đến nhà đầu tư. Do đó, cung
cấp thông tin minh bạch, đầy đủ và kịp thời vô cùng quan trọng, là một điều kiện để người đầu tư
có cơ sở rõ ràng và chính xác để thực hiện các quyết định đầu tư của mình.
4.1.4 Điều kiện về kỹ thuật
Hoạt động của TTCK nói chung và quyền chọn nói riêng phải đòi hỏi một số yêu cầu về kỹ
thuật: kỹ thuật định giá; kỹ thuật chọn phương án đầu tư; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh mua và lệnh
bán; kỹ thuật hạch toán và chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng khoán; kỹ thuật lưu trữ
lệnh;… Tất cả các kỹ thuật này đòi hỏi phải có quy trình và hệ thống quản lý hiện đại.
Việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường cũng đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường quyền chọn. Bởi hệ thống giao dịch và công bố
thông tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán hiện tại còn rất hạn chế và thủ công, hệ thống hạ
tầng truyền thông của thị trường chứng khoán là chưa thống nhất và khá lãng phí. Vì thế chúng ta
cần đưa ra những giải pháp kỹ thuật một cách hợp lý cả về phần cứng (máy móc, thiết bị) và phần
mềm một cách đồng bộ.
4.1.5 Điều kiện về con người
Tất cả các điều kiện nói trên có thực hiện được hay không là đều do con người. Con người để
điều hành, quản lý, thực hiện nghiệp vụ, đầu tư,… Do đó, để áp dụng được giao dịch quyền chọn
thì trước tiên phải có yếu tố con người am hiểu về TTCK cũng như các lĩnh vực liên quan đến kinh
tế. Những con người am hiểu về TTCK không chỉ là những nhà quản lý TTCK, hay là đội ngũ
thực hành các giao dịch quyền chọn ở các CTCK mà cả đại đa số công chúng đầu tư. Chính công
chúng đầu tư mới là nhân tố tác động vào nguồn cầu cho thị trường này phát triển. Hiện nay đông
đảo nhà đầu tư Việt Nam thường đầu tư theo tâm lý bầy đàn, đồng loạt bán ra rồi đồng loạt mua
vào, chỉ có một số ít nhà đầu tư là có kiến thức nhất định áp dụng những biện pháp kỹ thuật để đưa
ra quyết định đầu tư. Vì thế việc đưa ra các biện pháp khắc phục là việc làm bức thiết.
4.2 Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
Trên cơ sở tham chiếu các mô hình thị trường quyền chọn trên thế giới của các nước Mỹ,
Nhật, Hàn Quốc… và sự hoạt động của mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam, chúng ta có
thể xây dụng một mô hình quyền chọn cổ phiếu sơ khai cho thị trường chứng khoán Việt Nam theo
những quy mô hiện tại của thị trường.
4.2.1 Môi trường giao dịch
Sau khi học hỏi kinh nghiệm vệ hoạt động và phương thức giao dịch của thị trường quyền
chọn thế giới, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống chương trình tự động riêng cho thị trường
giao dịch quyền chọn cổ phiếu, tại đó, toàn bộ lệnh sẽ thực thi thông qua hệ thống điện tử được
nhập từ các công ty chứng khoán đến sở giao dịch, đóng vai trò là môi giới của các nhà đầu tư.
Sở giao dịch chứng khoán sẽ quy định các điều kiện để các loại cổ phiếu có thể được giao dịch
trên thị trường quyền chọn, và trước mắt sẽ là các loại cổ phiếu của những công ty lớn, có tỷ suất
sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính thanh khoản theo yêu cầu để duy trì
việc niêm yết quyền chọn.
Sở giao dịch chứng khoán cũng nên tiến hành cho phép các công ty chứng khoán tham gia
không những với tư cách là nhà môi giới mà còn là nhà tạo lập thị trường. Lúc đó, các công ty
chứng khoán sẽ vừa thực hiện lệnh mua bán cho các nhà đầu tư quyền chọn và trên cơ sở tính toán
giá mua bán một cách hợp lý và có lãi, các công ty chứng khoán có thể thực hiện việc yết giá để
duy trì hoạt động của thị trường một cách trơn tru và có tính thanh khoản cao nhất.
Thời gian giao dịch cần được quy định song song với thời gian giao dịch các chứng khoán cơ
sở, số phiên khớp lệnh tương ứng vơi số phiên khớp lệnh hiện tại của thị trường chứng khoán cơ
sở nhằm đáp ứng được các thông số cần thiết của quyền chọn để đáp ứng được nhu cầu mua bán
hợp đồng quyền chọn của các nhà đầu tư.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị
trường quyền chọn chứng khoán, từ đó, các Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm lưu ký - thanh
toán bù trừ sẽ ban hành các nguyên tắc, quy định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm
mẫu biểu, quy mô hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ và
thanh toán hợp đồng đáo hạn .…
4.2.2 Sàn giao dịch quyền chọn
Nhà tạo lâp thị trường (Market Makers): là cá nhân hay người được uỷ nhiệm của tổ chức
thành viên, để trở thành nhà tạo lập thị trường trên sàn giao dịch, các nhân viên này phải nộp lệ phí
mua seat – vị trí giao dịch trên sàn, đồng thời, nộp thủ tục đăng ký, trải qua cuộc thi sát hạch và
cuối cùng là được Ủy ban thành viên xác nhận, vị trí của nhà tạo lập thị trường trên sàn cũng có
thể được cho các công ty thành viên thuê lại với giá niêm yết công khai. Các nhà tạo lập thị trường
có trách nhiệm thiết lập thị trường giao dịch hợp đồng quyền chọn theo nguyên tắc giá cả hợp lý,
trật tự, không mâu thuẫn và mang tính cạnh tranh lành mạnh. Khi một công chúng nào đó muốn
mua (bán) một quyền chọn và không có thành viên nào trong công chúng bán (mua) quyền chọn
đó, nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó. Hệ thống này đảm bảo rằng nếu một nhà đầu
tư tư nhân muốn mua một quyền chọn cụ thể, sẽ có người bán sẵn sang chào bán và nếu một người
mua quyền chọn và sau đó muốn bán nó đi sẽ có người sẵn sang mua. Nhà tạo lập thị trường cung
cấp cho công chúng tiện ích về thực hiện ngay lập tức, họ làm tăng khả năng linh họat cho thị
trường đồng thời cũng tạo ra lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán.
Môi giới trên sàn giao dịch (Floor Broker): là cá nhân hay người được uỷ nhiệm của một tổ
chức đăng ký hoạt động tại sàn giao dịch nhằm thực hiện các lệnh mua bán từ các thành viên trên
sàn hoặc các nhà môi giới ngoài sàn. Nếu một người nào đó muốn mua hoặc bán một quyền chọn,
người đó phải thiết lập một tài khoản ở công ty môi giới. Công ty này phải thuê một nhà môi giới
trên sàn hoặc có hợp đồng hợp tác với hoặc là một nhà mội giới độc lập trên sàn giao dịch hoặc là
môi giới trên sàn của một công ty đối thủ. Để làm nhà môi giới tại sàn, nhà môi giới phải hoàn tất
thủ tục đăng ký, trải qua cuộc thi sát hạch năng lực và được Ủy ban phụ trách thành viên Sở giao
dịch phê duyệt. Nhà môi giới trên sàn thường không cần quan tâm đến việc tăng giá hay giảm, tuy
nhiên nhà môi giới giỏi sẽ làm việc mẫn cán để đạt được mức giá tốt nhất cho khách hàng
Nhân viên giữ sổ lệnh (Order Book Officials): là một nhân viên của sàn giao dịch, có chức
năng nhận và cập nhật các lệnh giới hạn của tất cả khách hàng. Nếu các điều kiện thay đổi đến
mức có ít các mức giá tốt nhất, lúc này, bằng lệnh giới hạn, nhân viên giữ sổ lệnh sẽ thực hiện giao
dịch (trong phạm vi giới hạn) thay cho các nhà môi giới, bằng sự nhận định của mình, khi tiếp thu
các lệnh giới hạn, các nhân viên giữ sổ lệnh này sẽ thông báo giá mua thấp nhất và giá bán cao
nhất đến các nhà tạo lập thị trường. Lệnh sẽ được thực hiện khi các điều kiện thay đổi đến mức có
ít nhất một nhà tạo lập thị trường sẵn sàng chấp nhận ở những mức giá đó.
Trung tâm thanh toán: Sau khi các giao dịch được thực hiện, trung tâm thanh toán - Công ty
thanh toán bù trừ trên quyền chọn - là một công ty độc lập đảm bảo cho việc thực hiện của người
bán. Công ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn là trung gian trong mỗi giao dịch. Người mua sẽ
thực hiện quyền chọn không hướng vào người bán mà hướng vào trung tâm giao dịch. Người bán
quyền chọn được thực hiện chi trả hoặc giao chứng khoán cho trung tâm giao dịch. Mỗi thành viên
của Công ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn, được gọi là công ty thanh toán, có mở một tài
khoản tại Công ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn. Các nhà tạo lập thị trường phải thanh toán tất
cả các giao dịch thông qua một công ty thành viên, cũng như mỗi công ty môi giới, mặc dù trong
một số trường hợp một công ty môi giới có thể đồng thời là một công ty thanh toán.
4.2.3 Phương thức giao dịch
Hình 4.2.3: Phương thức giao dịch quyền chọn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Với quy mô còn hạn chế và trong giai đoạn thử nghiệm thị trường quyền chọn cổ phiếu Việt
Nam, phương thức giao dịch cần được đơn giản hoá nhằm mục đích có thể tiếp cận đến các nhà
đầu tư một cách nhanh chóng, dễ dàng, và gần gũi với thị trường chứng khoán Việt Nam nhất theo
phương thức giao dịch sau:
Giai đoạn giao dịch
Một nhà đầu tư muốn giao dịch quyền chọn cổ phiếu đầu tiên phải mở một tài khoản
và tiến hành ký quỹ ở công ty chứng khoán.
Bước Phương thức giao dịch
(1a) (1b) Nhà đầu tư sẽ viết hợp đồng thực hiện mua hoặc bán một quyền chọn cụ
thể với giá cụ thể hay giá yết trên sàn giao dịch và chuyển hợp đồng đến
phòng tiếp thị của công ty chứng khoán để ghi lênh.
(2a) (2b) Phòng tiếp thị sẽ phân loại và tập hợp các lệnh mua, bán quyền chọn rồi
chuyển đến phòng giao dịch.
(3a) (3b) Phòng giao dịch sẽ chuyển lệnh mua, bán sau khi đã phân loại cho
người môi giới của công ty chứng khoán tại sở giao dịch.
(4a) (4b) Nhà môi giới sẽ nhập lênh của nhà đầu tư vào hệ thống đấu giá tự động
Hệ thống giao dịch đấu giá tự động sẽ tiến hành khớp lệnh theo như các mức giá đã
được đặt ra và thời gian đáo hạn của hợp đồng quyền chọn. Sau đó, hệ thống sẽ thông
báo kết quả giao dịch lên bảng điện tử và chuyển giá trị đã khớp lệnh đến trung tâm
lưu ký, thanh toán bù trừ ()
(5a) (5b) Nhà môi giới sẽ gởi những thông số khớp lệnh đến phòng giao dịch của
công ty chứng khoán.
(6a) (6b) Phòng giao dịch sẽ chuyển những lệnh thực hiện đến phòng thanh toán
và hủy bỏ những lệnh không khớp.
(7a) (7b) Phòng thanh toán sẽ thông báo đến nhà đầu tư khớp lệnh việc rút một
khoản phí quyền chọn (người mua quyền chọn) và một khoản ký quỹ
(người bán quyền chọn) trong tài khoản theo như hợp đồng đã ký kết.
(8a) (8b) Phòng thanh toán sẽ chuyển khoản phí quyền chọn đến trung tâm lưu
ký, thanh toán bù trừ
Giai đoạn đáo hạn
Nhà đầu tư không thực hiện quyền chọn thì quyền chọn sẽ tự đồng hủy bỏ. Những nhà
đầu tư thực hiện lệnh thì tiến trình sẽ tiếp tục.
Người mua quyền chọn Bước Người bán quyền chọn
Nhà đầu tư sẽ ra lệnh thực hiện
quyền chọn và chuyển một khoản
tiền theo hợp đồng đến công ty
(7a) (7b) Nhà đầu tư sẽ ra lệnh thực hiện
quyền chọn và chuyển số lượng
chứng khoán theo hợp đồng đến
chứng khoán. công ty chứng khoán.
Phòng thanh toán sẽ chuyển khoản
tiền của nhà đầu tư đến trung tâm
lưu ký, thanh toán bù trù.
(8a) (9b) Phòng thanh toán sẽ chuyển số
lượng chứng khoán của nhà đầu tư
đến trung tâm lưu ký, thanh toán
bù trù.
Trung tâm lưu ký, thanh toán bù
trừ sẽ chuyển số lượng chứng
khoán đã ký kết đến phòng thanh
toán.
(9a) (8b) Trung tâm lưu ký, thanh toán bù
trừ sẽ chuyển khoản tiền đã ký kết
đến phòng thanh toán.
Phòng thanh toán sẽ chuyển số
lượng chứng khoán đó đến nhà
đầu tư.
(7a) (7b) Phòng thanh toán sẽ chuyển khoản
tiền đó đến nhà đầu tư.
Phương thức giao dịch kết thúc khi quyền chọn được thực hiện
4.2.4 Phí quyền chọn
Phí quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam sẽ được tính bằng công thức Black-Scholes (công thức
đoạt giải nobel) để định giá quyền chọn theo giá cổ phiếu, giá thực hiện, lãi suất phi rủi ro, thời
gian đến khi đáo hạn, và phương sai của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu.
Công thức Black-Scholes là:
Quyền chọn mua:
)()( 21 dNXedNSC
Tr
o
c
Quyền chọn bán:
)(1)(1 102 dNSdNXeP Trc
(*) Nếu có chi trả cổ tức:
Ta thay thế 0S trong công thức trên bằng
'
0S : trt ceDSS
0
'
0
Với:
T
TrXSd c
)2/()/ln( 20
1
Tdd 12
)(),( 21 dNdN = xác xuất phân phối chuẩn tích lũy.
= độ bất ổn hàng năm (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi ghép lãi liên tục (logarit) của cổ
phiếu.
cr = lãi suất phi rủi ro ghép lãi liên tục: )1ln( rrc .
0S = giá cổ phiếu ở hiện tại.
X = giá thực hiện.
T = thời gian cho đến khi đáo hạn (thể hiện dưới dạng phân số của một năm).
tD = giá trị cổ tức
t = thời gian đến khi giao dịch ko hưởng cổ tức (thể hiện dưới dạng phân số của một năm).
Các yếu tố:
Quy mô hợp đồng: một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn tiêu chuẩn gồm 100 cổ
phiếu. Khi đó, nhà đầu tư có thể mua mua bao nhiêu hợp đồng tùy vào nhu cầu của họ, nhưng tối
thiểu là 100 cổ phiếu đơn lẻ.
Giá cố phiếu: là giá thị trường của một cổ phiếu. Giá cổ phiếu càng cao dẫn đến giá quyền
chọn mua sẽ càng cao.
Giá thực hiện:
Giá cổ phiếu thấp hơn 10.000 đồng: chênh lệch so với giá thị trường là 1.000 đồng.
Giá cổ phiếu từ 10.000 đồng – 75.000 đồng: 2.000 đồng.
Giá cổ phiếu từ 75.000 đồng – 150.000 đồng: 3.000 đồng.
Giá cổ phiếu trên 150.000 đồng: 4.000 đồng.
Lãi suất phi rủi ro (r): là lãi suất ở thị trường Việt Nam.
Ngày đáo hạn: ngày thứ bảy tuần thứ ba của tháng.
Phí quyền chọn của FPT, NKD, PRUBF1, REE, SAM, STB, VFMVF1, VNM:
Thời gian đáo hạn: 19/04, 17/05, 21/06
Giá cổ phiếu vào ngày 26/03 là:
NGÀY FPT NKD PRUBF1 REE SAM STB VFMVF1 VNM
26/03/2008 94.5 93.5 7.7 53.5 38.5 36.2 15.1 106
Bảng phí quyền chọn:
QUYỀN CHỌN MUA QUYỀN CHỌN BÁN
GTH tháng 4 tháng 5 tháng 6 tháng 4 Tháng 5 tháng 6
FPT
91.5 6.831 9.353 11.738 3.425 5.475 7.274
94.5 5.235 7.829 10.263 4.815 6.923 8.751
97.5 3.920 6.496 8.934 6.487 8.561 10.375
NKD 90.5 6.670 9.112 11.425 3.269 5.244 6.978
93.5 5.067 7.581 9.943 4.652 6.684 8.447
96.5 3.754 6.247 8.611 6.326 8.322 10.068
PRUBF1
6.7 1.121 1.289 1.466 0.091 0.224 0.359
7.7 0.467 0.697 0.912 0.433 0.623 0.789
8.7 0.143 0.336 0.537 1.105 1.253 1.398
REE
51.5 3.785 5.070 6.298 1.556 2.576 3.474
53.5 2.683 4.022 5.284 2.446 3.509 4.428
55.5 1.827 3.141 4.397 3.580 4.608 5.509
SAM
36.5 3.632 4.814 5.934 1.470 2.464 3.350
38.5 2.548 3.797 4.961 2.377 3.428 4.345
40.5 1.719 2.952 4.120 3.539 4.564 5.472
STB
34.2 3.018 3.875 4.706 0.866 1.547 2.159
36.2 1.865 2.794 3.668 1.704 2.446 3.089
38.2 1.061 1.950 2.812 2.891 3.583 4.201
VFMVF1
13.1 2.184 2.466 2.775 0.126 0.340 0.565
15.1 0.830 1.241 1.627 0.763 1.096 1.386
17.1 0.211 0.535 0.883 2.135 2.371 2.610
VNM
103 7.477 10.332 13.026 4.020 6.344 8.378
106 5.898 8.820 11.560 5.427 7.803 9.865
109 4.568 7.477 10.225 7.084 9.431 11.481
4.3 Thị trường quyền chọn chứng khoán và nhà đầu tư
4.3.1 Mua quyền chọn mua cổ phiếu:
Vào ngày 26/03/2008, trên thị trường chứng khoán, giá cổ phần của FPT là 94.500 VND/1CP
Sau khi phân tích, một nhà đầu tư dự báo rằng giá cổ phiếu sẽ lên cao trong thời gian tới. Do
đó, nếu nhà đấu tư này muốn mua 1.000 cổ phần của FPT ông ta phải chi ra là 1.000cp x 94.500 =
94.500.000 VND. Nhưng nếu chẳng may sau một thời gian cổ phiếu của FPT giảm xuống nhiều sẽ
làm cho nhà đầu tư thua lỗ một khoản tiền lớn. Trong trường hợp này để an toàn và hạn chế rủi ro
nhà đầu tư nên đầu tư vào Option, cụ thể là ông ta sẽ đi mua quyền chọn mua cổ phiếu FPT với giá
thực hiện là 94.500 VND/1CP, thời gian đáo hạn vào ngày 17/05/2008. Mức phí gồm:
Phí quyền chọn mua : 7.829 x 1.000cp = 7.829.000 VND
Phí giao dịch trên sàn: 7.829.000 VND x 0.5% = 39.145 VND
Vậy tổng mức phí nhà đầu tư phải trả là: # 7.868.000 VND
Nhà đầu tư mở tài khoản và ký hợp đồng mua quyền chọn mua với giá cụ thể như trên, sau đó
chuyển hợp đồng đến phòng tiếp thị của công ty chứng khoán để ghi lệnh (theo mẫu ở phụ lục).
Khi giá quyền chọn khớp lệnh ở mức giá 94.500 VND/1CP, nhà đầu tư sẽ trả một khoản phí
quyền chọn là 7.868.000 VND (nó là khoản phí không được bồi hoàn lại khi mua quyền chọn).
Khi đó nhà đầu tư tiếp tục theo dõi thị trường cho đến ngày đáo hạn hợp đồng.
Vào ngày đáo hạn, giá cổ phiếu FPT tăng lên 120.000VND/CP, nhà đầu tư mua quyền chọn
mua sẽ thực hiện quyền được mua cổ phiếu FPT với giá thực hiện là 94.500VND/CP. Lúc đó, nhà
đầu tư:
Trả hoa hồng thực hiện quyền chọn cho Cty CK là: 7.829.000 VND x 0.5% = 39.145 VND
Đem ra thị trường bán với giá 120.000VND/CP, nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận là (120.000 –
94.500) x 1000cp = 25.500.000VND.
Sau khi trừ đi chi phí nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận ròng là : 25.500.000 – 7.907.000 =
17.593.000VND.
Do đó, chúng ta thấy nhà đầu mua quyền chọn mua lỗ chỉ là mức phí, lời thì vô cùng lớn.
4.3.2 Mua quyền chọn bán cổ phiếu:
Vào ngày 26/03/2008, trên thị trường chứng khoán, giá cổ phần của STB là 36.200 VND/1CP
Sau khi phân tích một nhà đầu tư dự báo rằng giá cổ phiếu STB sẽ giảm trong thời gian tới,
hiện tại nhà đầu tư đang nắm giữ 1.000 cp STB. Do đó, trong trường hợp này để bảo vệ cố phiếu
của mình, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Option, cụ thể là ông ta sẽ đi mua quyền chọn bán 1.000cp
STB với giá thực hiện là 36.200 VND/CP , thời gian đáo hạn ngày 17/05/2008. Mức phí gồm:
Phí quyền chọn mua : 2.446 VND/CP x 1.000 CP = 2.446.000 VND
Phí giao dịch trên sàn: 2.446.000 VND x 0.5% = 12.230 VND
Vậy tổng mức phí nhà đầu tư phải trả là: # 2.458.000 VND
Nhà đầu tư mở tài khoản và ký hợp đồng mua quyền chọn bán với giá cụ thể như trên, sau đó
chuyển hợp đồng đến phòng tiếp thị của công ty chứng khoán để ghi lệnh (theo mẫu ở phụ lục).
Khi giá quyền chọn khớp lệnh ở mức giá 36.200 VND/CP, nhà đầu tư sẽ trả một khoản phí
quyền chọn là 2.458.000 VND (nó là khoản phí không được bồi hoàn lại khi mua quyền chọn).
Khi đó nhà đầu tư tiếp tục theo dõi thị trường cho đến ngày đáo hạn hợp đồng.
Vào ngày đáo hạn, giá cổ phiếu STB giảm còn 30.100 VND/CP, nhà đầu tư mua quyền chọn
bán sẽ thực hiện quyền được bán cổ phiếu STB với giá thực hiện là 36.200 VND/CP. Lúc đó, nhà
đầu tư:
Trả hoa hồng thực hiện quyền chọn cho Cty CK là: 2.446.000 VND x 0.5% = 12.230 VND
Bán 1.000 cp STB với giá 36.200 VND/CP, nhà đầu tư sẽ thu được khoản tiền là: 36.200
VND/CP x 1000 CP = 36.200.000VND.
Sau đó, nhà đầu tư ra sàn giao dịch chứng khoán, mua lại 1.000 cp STB với giá 30.100
VND/CP với số tiền là: 30.100 VND/CP x 1.000 CP = 30.100.000 VND.
Vậy, sau khi thực hiện hợp đồng mua quyền chọn bán, số tiền mặt nhà đầu tư có được là:
36.200.000 VND–30.100.000 VND–2.458.000 VND–12.230 VND = 3.629.770 VND
Qua đó ta thấy, mặc dù giá cổ phiếu đi xuống, nhưng với hợp đồng quyền chọn, nhà đầu tư đã
giảm đáng kể khoản lỗ của mình từ số vốn ban đầu (lỗ phí quyền chọn để bảo vệ danh mục).
4.4 Giải pháp xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
4.4.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường option chứng
khoán
Các quy định về phát hành chứng khoán cần đơn giản hoá, gia tăng hàng hoá cho thị trường
nhưng phải đảm bảo khả năng quản lý của nhà nước. Ví dụ như giảm mức vốn điều lệ của tổ chức
phát hành cổ phiếu ra công chúng, tạo điều kiện cho các công ty vừa và nhỏ có thể tham gia.
Bổ sung các quy định về thủ tục và điều kiện giao dich option chứng khoán tại các trung tâm
giao dịch chứng khoán cũng như trách nhiệm của các tổ chức niêm yết và các bên có liên quan.
Bổ sung những quy định về giao dịch option chứng khoán, ngoài việc quy định những giao
dịch thông thường còn được quy định rõ những giao dịch đặc biệt nhằm bảo vệ quyền lợi của các
bên có liên quan.
Sửa đổi những quy định về Công ty chứng khoán cho phù hợp với quy định của Luật doanh
nghiệp, đồng thời cụ thể hoá các nội dung về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của Công ty
chứng khoán.
Bổ sung những quy định nhằm tăng cường hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán. Những
quy định hiện hành rất khó thực thi, hạn chế sự hình thành của các quỹ này.
Bổ sung các quy định về việc tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam, đặc biệt là bổ sung hình thức góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức kinh doanh chứng khoán
nước ngoài cho phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.
Trên cơ sở những quy định trong Nghị định này, các cơ quan chức năng tiến hành rà soát, sửa
đổi, bổ sung và ban hành các văn bản có liên quan nhằm tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong khung
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện để phát triển thị trường option.
Như vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán và thị
trường option là nội dung các văn bản pháp lý một việc làm cấp bách. Hy vọng trong thời gian tới,
với những sửa đổi kịp thời nội dung các văn bản pháp lý, thị trường chứng khoán nước ta sẽ phát
huy được vai trò tích cực đối với kinh tế trong nước.
4.4.2 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho thị trường option chứng khoán và hoàn thiện hệ thống
cung cấp thông tin
Đưa hệ thống giao dịch tự động hiện đại tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh vào vận hành. Kết nối giữa hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
với các công ty chứng khoán thành viên. Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ
thống giao dịch, công bố thông tin, trung tâm lưu ký, thanh toán.
Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho
các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công
bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ.
Tự động hoá hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng
khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh
khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán để cung cấp chính xác, kịp thời những thông tin về người sở hữu chứng khoán.
Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin (CNTT) cần phải hoàn thiện, nâng cấp hệ
thống tại các sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán và option chứng khoán
để thực hiện giao dịch từ xa, đưa màn hình nhập lệnh về các công ty chứng khoán.
Phát triển hệ thống giám sát thị trường để có thể phù hợp với thực phát tế phát sinh.
Khuyến khích huy động các nguồn lực trong nước, nguồn tài trợ của nước ngoài, nguồn của
các tổ chức cá nhân tham gia thị trường để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt
động phát hành và giao dịch chứng khoán.
4.4.3 Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán.
Xây dựng và phát triển các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán,
Trung tâm Lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh
toán chứng khoán theo hướng hiện đại hoá.
Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và
thanh toán cho hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng khoán chưa niêm yết.
Phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động.
Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng
khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty
chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư..., tạo điều
kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường.
Tăng số lượng và nâng cao chất lượng nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán; các công ty chứng khoán phải thực thi quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
4.4.4 Nâng cao vai trò , trách nhiệm của các cơ quan chức năng
Tăng cường công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính, xây dựng và tăng cường công tác
kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông tin của các công ty tham gia trên thị trường
option chứng khoán,
Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với thị
trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách,
công cụ kinh tế tài chính-tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác.
Phối hợp chặt chẽ giữa ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong việc
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công tác
quản lý thị trường chứng khoán.
Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các
thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
4.4.5 Tăng cung kích cầu cho thị trường chứng khoán và option chứng khoán
Gắn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng
và niêm yết trên thị trường chứng khoán để đa dạng hóa cổ phiếu.
Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện để phát
hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và có
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường tập trung.
Phát triển các loại chứng khoán khác như : quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu
chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên thị
trường chứng khoán.
4.4.6 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường
chứng khoán.
Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế, phí đối với nhà đầu tư.
Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước ngoài
tham gia thị trường chứng khoán.
Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu, giao dịch option đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp
vốn, mua cổ phần hoặc thành lập Công ty Chứng khoán liên doanh với các pháp nhân trong nước;
cho phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tăng cường hợp tác quốc tế trên các mặt như : tư vấn xây dựng chính sách phát triển và quản
lý thị trường; xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán; đào tạo đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý; từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán thế giới theo lộ
trình đã cam kết.
4.4.7 Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền.
Xây dựng và phát triển các Trung tâm Nghiên cứu và Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và
thị trường chứng khoán, option chứng khoán thành các đơn vị có đủ điều kiện và khả năng nghiên
cứu về thị trường chứng khoán; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thị trường chứng khoán.
Hợp tác với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước trong hoạt động
nghiên cứu, đào tạo cơ bản và nâng cao kiến thức về thị trường vốn.
Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng
và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng.
Ngoài ra, có thể phổ biến cho công chúng hiểu hơn về nghiệp vụ option chứng khoán thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo, đài, internet…
4.4.8 Tăng cường hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư
Option chứng khoán là một nghiệp vụ còn rất mới mẻ đối với các nhà đầu tư Việt Nam, vì vậy
để giúp nhà đầu tư hiểu rõ về nghiệp vụ này hơn cần có sự tư vấn kỹ lưỡng của các chuyên viên tư
vấn khi tiến hành giao dịch, mua bán quyền chọn. Các nhà tư vấn có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp
thông tin cho khách hàng, đưa ra những lời khuyên dựa trên cở sở lý luận hợp lý về thị trường
option. Khi đó sẽ giúp cho các nhà đầu tư lựa chọn cho mình những chiến lược đầu tư hữu hiệu
nhất. Để tiến hành được công việc như trên, yêu cầu cần thiết phải có là:
Cần một đội ngũ nhân viên, chuyên viên tư vấn có năng lực, năng động, có phẩm chất đạo đức
tốt, cần có ngoại ngữ tốt để có thể tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thường xuyên có chính
sách khen thưởng cho nhân viên để khuyến khích họ làm việc tốt hơn.
Các công ty chứng khoán nên thường xuyên các cuộc hội thảo, tập huấn về nghiệp vụ chuyên
môn, hoặc giới thiệu cho các nhà đầu tư hiểu về các sản phẩm mới.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu
Tài chính quốc tế - Chủ biên :PGS.TS Trần Ngọc Thơ và TS. Nguyễn Ngọc Định – NXB
Thống kê.
Quản trị rủi ro tài chính – Chủ biên TS . Nguyễn Thị Ngọc Trang – Nhà xuất bản thống
kê.
Thị trường chứng khóan – Chủ biên GS.TS Lê Văn Tư và TS. Thân Thị Thu Thủy – Nhà
xuất bản tài chính.
Thị trường chứng khoán – Chủ biên GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền và PGS.TS Nguyễn
Đăng Dờn - Nhà xuất bản thống kê.
Giới thiệu về thị trường Future và Option – TS . Bùi Lê Hà và tập thể các tác giả.
Quyền chọn tiền tệ. Nhà xuất bản thống kê,2004. Tác giả Nguyễn Văn Tiến
Tạp chí phát triển kinh tế các số năm 2006,2007
Tạp chí đầu tư chứng khóan
Tạp chí nghiên cứu tài chính
“Option strategy analysis tools” – Peter Hoadley’s
“Considerations for Employee option expense” . William H. Scott(2003)
“ The true cost of Stock options” – rich Wayman
Các trang web :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf