Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng và khẩn trương hơn đặt Việt Nam trước nhiều thử thách, nhất là trong bối cảnh đất nước có điểm xuất phát là một nước nông nghiệp với hơn 60% lao động và 70% dân số sống ở nông thôn, cùng với những yếu kém trong công tác quản lý, còn tồn tại bắt nguồn từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Điều này đòi hỏi để tiếp tục phát huy tác động của các khu công nghiệp, cần tiếp tục có một sự nhìn nhận một cách thống nhất, khách quan các nhân tố hình thành khu công nghiệp, tác động và đặc biệt là các trở ngại trong việc phát triển các khu công nghiệp, mới có thể có giải pháp xử lý thích hợp. Có như vậy, các khu công nghiệp mới thực sự đóng góp thích đáng cho sự thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta diễn ra một cách nhanh chóng, có chất lượng và bền vững.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c khu công nghiệp trong việc tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (khối lượng vốn đầu tư cho công nghiệp, giá trị doanh thu và xuất khẩu của các khu công nghiệp, số việc làm tạo ra, trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý,…) tạo nên một số ngành công nghiệp có năng lực cạnh tranh, một vài ngành công nghệ cao (sản xuất các phụ tùng, phụ kiện cho máy bay Airbus…) cũng như sự chuyển giao công nghệ tiên tiến hơn, kỹ năng quản lý và tiếp thụ, đào tạo tay nghề cho người lao động Việt Nam (kể cả tâm lý xã hội và phong cách lao động công nghiệp - một yếu tố không nhỏ trong quá trình phát triển).
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Những thành tựu đạt được
Xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở nước ta được đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, quá trình triển khai Nghị quyết của Đảng, xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kì nhất định. Trong giai đoạn vừa qua (1991 – 2006), hoạt động của các khu công nghiệp trong cả nước đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Hình thành hệ thống các khu công nghiệp trên cả nước, huy động được lượng vốn đầu tư lớn.
Các khu công nghiệp được hình thành trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. Đến cuối tháng 12/2005, các nước có 131 khu công nghiệp, được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 26.986 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 18.044 ha. Các khu công nghiệp được phân bố trên 47 tỉnh thành trên cả nước theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn, có động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Quy mô các khu công nghiệp đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương. Phần lớn các khu công nghiệp thuộc danh mục các khu công nghiệp ưu tiên thành lập theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Các khu công nghiệp đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Việc áp dụng các chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, các khu công nghiệp ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đăng kí vào khu công nghiệp ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5 năm 1991 – 1995, số dự án đầu tư nước ngoài có 155 dự án, đến năm 2001 – 2005 là 1.377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 – 2001. Tính đến cuối tháng 12/2005, các khu công nghiệp đã thu hút được 2.120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16.843 triệu USD.
Thực tế đã chứng tỏ, nguồn vốn nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển khu công nghiệp những năm qua là hết sức quan trọng. Cùng với nguồn lực từ bên ngoài, chúng ta còn đặc biệt coi trọng phát huy nội lực của thành phần kinh tế trong nước. Nếu như trong 5 năm 1991 – 1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các khu công nghiệp, thì đến 5 năm 2001 – 2005 thu hút được 1.870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng.
Khu công nghiệp đã tạo ra một kết cấu hạ tầng mới, hiện đại
Tại các khu công nghiệp, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại đó có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có khu công nghiệp mà góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước.
Đến cuối tháng 12/2005, 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp trên cả nước bao gồm 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 112 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đạt hơn 1 tỷ USD và 33 nghìn tỷ đồng. Hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc các hình thức với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế: đơn vị sự nghiệp có thu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó, các khu công nghiệp do doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm chủ đầu tư chiếm số lượng lớn nhất: 45 khu công nghiệp với tổng vốn đầu tư 15.673 tỷ đồng; 33 khu công nghiệp được đầu tư theo cơ chế đơn vị sự nghiệp với tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt trên 7.424 tỷ đồng, các khu công nghiệp còn lại do doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư hơn 9.835 tỷ đồng (34 khu công nghiệp). Đã hình thành một đội ngũ doanh nghiệp phát triển hạ tầng có kinh nghiệm và năng lực quản lý, điển hình là Công ty Phát triển KCN Thăng Long, Công ty Phát Triển KCN Biên Hoà (Sonadezi), Công ty cổ phần KCN Tân Tạo,… Trên phạm vi cả nước, đến cuối năm 2005, có 79 khu công nghiệp đã hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận hành; 51 khu công nghiệp còn lại đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Không chỉ vậy, các khu công nghiệp sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên hệ liên kết ngành trong phát triển kinh tế. Cùng với việc gia tăng diện tích thành lập mới và mở rộng hàng năm, trong thời gian qua các địa phương đã thành lập và hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng mỗi năm tăng thêm từ 2 – 5 khu công nghiệp. Trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, có thêm 15 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các khu công nghiệp ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu:
Trong thời kỳ 2001 – 2005, các khu công nghiệp đã cho thuê thêm được khoảng 7.000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đã vận hành được nâng lên hàng năm từ 40% năm 1996 lên 50% năm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005.
Tính đến cuối tháng 12/2005, bình quân 1 ha đất công nghiệp của các khu công nghiệp đã vận hành thu hút được hơn 2 triệu USD tăng 60% so với năm 2001 (1,2 triệu USD/ha). Giá trị sản xuất công nghiệp do 1 ha đấy công nghiệp tạo ra tăng đều qua các năm từ 0,54 triệu USD/ha lên 0,76 triệu USD/ha; giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm trong 5 năm 2001 – 2005 đạt trên 0,33 USD/ha.
Số lao động thực tế sử dụng bình quân một ha đất sản xuất trong khu công nghiệp được huy động khoảng 80 – 100 người với giá trị sản xuất ra khoảng 30 tỷ đồng/ha/năm.
Khu công nghiệp có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương
Các khu công nghiệp tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh trạnh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung của cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế.
Giá trị sản xuất công nghiệp của các khu công nghiệp tăng đều qua các năm và tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong khu công nghiệp đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các khu công nghiệp thời kỳ 1996 – 2000 đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm. Trong thời kỳ 2001 – 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp khu công nghiệp (kể cả trong và ngoài nước) đạt khoảng 44,4 tỷ USD, gấp 5 lần so với 5 năm trước. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp khu công nghiệp trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và từ mức 17% năm 2001 lên khoảng 28% năm 2005.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp khu công nghiệp trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp thời kỳ 5 năm 1996 – 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm; trong 5 năm tiếp sau (2001 – 2005), giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên gần 20% năm 2005.
Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp thời kỳ 2001 –2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong 5 năm 1996 – 2000.
Các doanh nghiệp khu công nghiệp bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001 – 2005, tổng nộp ngân sách của các doanh nghiệp khu công nghiệp tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm và gấp 6 lần so với 5 năm 1996 – 2000.
Khu công nghiệp là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất cùng với những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghiệp kỹ thuật cao với 11 doanh nghiệp đều tập trung ở khu công nghiệp với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD (phần lớn của Nhật Bản) như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel,… Các dự án đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản xuất mà còn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư từng bước nâng cao vị thế và sự hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực.
Ngoài ra, các khu công nghiệp còn có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành các lĩnh vực. Khu công nghiệp mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh khu công nghiệp. Liên kết ngành trong khu công nghiệp bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ khu công nghiệp bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho các doang nghiệp khu công nghiệp hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh khu công nghiệp.
Các khu công nghiệp ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các khu công nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ,…góp phần tiêu thụ nông sản các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn cung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân. Khu công nghiệp góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, có sức lan toả lớn, chuyển các địa phương từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan toả từ các khu công nghiệp, ở các địa phương này sẽ còn được mở rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình Phước,…
Việc phát triển các khu công nghiệp có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi khu công nghiệp đóng và địa phương lân cận. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiến bộ, các doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất lượng và ổn định. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã và đang tác động tích cực tới yếu tố chất lượng sản phẩm của công nghiệp địa phương, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu.
Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các khu công nghiệp không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Các khu công nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí, thực hiện chính sách xã hội địa phương
Phát triển khu công nghiệp đã mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Trong thời kỳ 2001 – 2005, các khu công nghiệp đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời ký trước (1991 – 2000), hiện nay (đến tháng 5/2006), các khu công nghiệp đã thu hút được khoảng 864.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút còn lớn hơn nhiều (ước tính lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người).
Phát triển khu công nghiệp đồng nghĩa với việc hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Hiện nay, một số khu công nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẳng kỹ thuật – công nghệ Biên Hoà,…).
Doanh nghiệp trong khu công nghiệp có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam.
Tóm lại, quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng thông qua những thành tựu đã đạt được ở trên. Các khu công nghiệp đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hoá công nghệ, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, các khu công nghiệp cũng thể hiện vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, nhằm thích ứng với nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
Những mặt hạn chế
Mặc dù trong thời gian qua, các khu công nghiệp đã khẳng định những thành công và đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tuy nhiên đã xuất hiện những hạn chế nổi cộm trong quá trình xây dựng và phát triển khu công nghiệp. Đó là:
Chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch chưa triệt để
Danh mục quy hoạch các khu công nghiệp mới nêu được tên, địa điểm và diện tích, việc ưu tiên thành lập các khu công nghiệp trong quy hoạch theo thứ tự chưa được đề cập tới. Việc xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở đề nghị của địa phương. Xuất hiện tình trạng phát triển khu công nghiệp quá nóng ở các địa phương có nhiều tiềm năng (như các vùng kinh tế trọng điểm đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam).
Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các khu công nghiệp bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, thiếu sự chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư. Khu công nghiệp được xây dựng ở các địa phương có nội dung hoạt động, lĩnh vực ngành nghề thu hút đầu tư gần giống nhau (chế biến nông sản, may mặc, cơ khí, điện tử,…), cho nên khi đi vào sản xuất, chắc chắn có những sản phẩm giống nhau, dẫn đến những sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh, làm nản lòng các nhà đầu tư.
Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu quả sử dụng đất khu công nghiệp còn chưa cao
Một số khu công nghiệp triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp chưa phát triển như KCN Đài Tư, KCN Nam Thăng Long, KCN Sài Đồng A (Hà Nội), KCN Đình Vũ, Hải Phòng 96 (Hải Phòng), KCN Bắc Phú Cát (Hà Tây), KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc), KCN Cái Lai IV (Thành phố Hồ Chí Minh),…Tại một số địa phương như Long An, Tây Ninh,… trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, do sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân, dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp về đất đai ảnh hưởng tới tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng và tiến độ chung của dự án. Về công tác tái định cư và tình hình đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại khu vực quy hoạch phát triển khu công nghiệp còn nhiều khó khăn. Người dân sau thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, cuộc sống không ổn định,…
Các khu tái định cư chậm được đầu tư xây dựng, thiếu đất để xây dựng hoặc đang xây dựng dở dang. Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp thường chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, dẫn tới ảnh hưởng đến tính bền vững trong phát triển; chưa chú trọng gắn việc xây dựng quy hoạch chi tiết từng khu công nghiệp với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống người lao động làm việc trong khu công nghiệp.
Vấn đề lao động trong khu công nghiệp
Trong những năm qua, các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được lực lượng lao động hàng năm khoảng trên 7 vạn lao động, tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng thấp, khoảng 4 – 5% trong tổng số lao động trong các khu công nghiệp, kỹ thuật viên chiếm 4 – 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo hơn 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn. Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp đang gặp mâu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao động cần tạo công ăn việc làm còn rất dư thừa. Để giải quyết tình trạng này, các chủ doanh nghiệp phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh, tăng chi phí cho đào tạo. Đây là yếu tố vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp.
Hiện các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được hơn 860.000 lao động trực tiếp, trong đó gần 40% là lao động ngoại tỉnh. Tại hầu hết các khu công nghiệp, lao động ngoại tỉnh thường phải sống và làm việc trong điều kiện rất khó khăn. Họ phải thuê nhà ở khu vực xung quanh khu công nghiệp để cư trú với điều kiện sống tạm hết sức tạm bợ. Rất ít doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân. Các địa phương có nhiều khu công nghiệp cũng chỉ bảo đảm về nhà ở cho số lượng công nhân rất thấp: khoảng 6,5% – 15% trong tổng số công nhân làm việc trong các khu công nghiệp.
Việc thực hiện các chính sách, pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa tuân thủ các quy định của pháp luật. Một số doanh nghiệp xử lý kỷ luật, sa thải công nhân một cách tuỳ tiện, trái pháp luật. Nhiều doanh nghiệp chưa ký kết thoả ước lao động tập thể, hay hợp đồng lao động và chưa thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Chính sách tiền lương trả cho người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chậm thay đổi và rất lạc hậu so với biến động của giá cả thị trường và tỷ giá hối đoái. Do các vấn đề tiền lương, đời sống người lao động chưa được giải quyết thoả đáng, nên trong thời gian vừa qua đã xảy ra các tranh chấp lao động. Đặc biệt trong những tháng cuối năm 2005 và đầu năm 2006, tình trạng đình công xảy ra liên tiếp với số lượng lớn công nhân.
Vấn đề môi trường trong khu công nghiệp
Trong thời gian vừa qua, công tác bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp mặc dù đã được chú trọng hơn nhưng đa số các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước còn chưa được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. Nhiều khu công nghiệp chưa xây dựng nơi tập trung và xử lý rác thải. Việc thu gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy. Những nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất, nhựa,… thường có những chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trường nước mặt, nước ngầm và đất.
Ô nhiễm về nước thải công nghiệp càng trở nên nghiêm trọng. Hiện chỉ có 33 khu công nghiệp đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 khu công nghiệp đang xây dựng, còn lại các khu công nghiệp khác đều trực tiếp thải ra sông, biển đã gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường xung quanh, nhất là những khu công nghiệp tập trung các ngành công nghiệp dệt, thuộc da, hoá chất,… có lượng nước thải ra với khối lượng lớn và có tính độc hại cao.
Một số vấn đề khác
Hiện nay các khu công nghiệp hoạt động trên cơ sở Nghị định 36/CP ngày 24 tháng 04 năm 1997 của Chính phủ, nhưng những năm vừa qua, nhiều văn bản mới đã được ban hành và áp dụng trong thực tế, nhiều điều khoản trong Nghị định 36/CP đã bộc lộ những bất cấp, chưa được đổi mới phù hợp với các quy định hiện hành. Chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mang tính bảo hộ đối với doanh nghiệp trong nước. Tuy Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (năm 2003) về cơ bản đã thể hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, song phạm vi điều chỉnh còn chưa bao quát và thiếu nhiều quy định riêng đối với hoạt động đầu tư trong khu công nghiệp.
Trong thẩm định dự án thành lập khu công nghiệp chưa thực sự chú trọng đến phương án đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi; việc phối hợp giữa chính quyền địa phương với chủ đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và người dân còn chưa chặt chẽ, dẫn đến người dân bị thu hồi đất chưa được đền bù thoả đáng, gây khiếu kiện kéo dài; chính sách về việc làm, ổn định đời sống, xây dựng khu tái định cư cho người dân còn chậm thiếu thống nhất, gây khó khăn cho dân. Thủ tục cấp phép đầu tư còn nhiều vấn đề bất cập, chưa thực sự phát huy nguyên tắc “một cửa, một đầu mối” trong khu công nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý về khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Trình độ, năng lực cán bộ, công chức của Ban Quản Lý khu công nghiệp ở địa phương còn thấp so với yêu cầu.
Vậy trong quá trình phát triển khu công nghiệp cũng đặt ra cho các cơ quản lý nhà nước những mục tiêu khắc phục yếu kém, hạn chế, nâng cao hơn nữa hiệu quả và vai trò của khu công nghiệp trong giai đoạn tới, góp phần tích cực hơn nữa vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Bài học kinh nghiệm
Đối với nước ta - một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách, đầu tư phát triển các khu công nghiệp của các nước phát triển vẫn rất bổ ích.
Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về khu công nghiệp, tiến tới ban hành Luật về khu công nghiệp làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp phải rõ ràng, minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu công nghiệp hoá cho từng thời kỳ.
Thứ hai, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp của từng địa phương phải phù hợp với quy hoạch tổng thể các khu công nghiệp trên cả nước và quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp. Cần tăng cường cơ chế phối hợp và tạo sự liên thông giữa các khu công nghiệp của các địa phương để hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển theo một quy hoạch chung thống nhất của cả nước, khắc phục tình trạnh cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương, làm phá vỡ mặt bằng ưu đãi chung và môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững lâu dài của các khu công nghiệp. Các khu công nghiệp cần được quy hoạch xây dựng đồng bộ với các khu thương mại, đô thị, dịch vụ theo mô hình tổ hợp liên hoàn trong đó phát triển khu công nghiệp là trọng tâm, còn các khu vệ tinh khác về thương mại, dịch vụ, đô thị mới là hết sức quan trọng, có vai trò tác nhân thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái của các khu công nghiệp tại địa phương.
Thứ ba, cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các khu công nghiệp theo hướng khuyến khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu đầu tư trong các khu công nghiệp phải tính tới lộ trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế theo hướng tận dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phát huy lợi thế so sánh các ngành công nghiệp trong nước để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, sớm hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về khu công nghiệp theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền trực tiếp cho các Ban quản lý các khu công nghiệp của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước cần có chiến lược ưu tiên phát triển và tăng cường năng lực thể chế, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý các khu công nghiệp tại địa phương.
Thứ năm, đổi mới vai trò, hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước trong đầu tư phát triển khu công nghiệp, chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào các quan hệ thị trường, phát triển các khu công nghiệp, đảm bảo cơ cấu các nguồn lực cơ bản được phân bố theo cung cầu thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước theo các mục tiêu đã xác định. Nhà nước chỉ hỗ trợ phát triển các khu công nghiệp ở các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, môi trường đầu tư hạn chế trong giai đoạn phát triển ban đầu với những hình thức hỗ trợ đa dạng, lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác để đảm bảo đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất.
Định hướng và mục tiêu
Định hương phát triển
Đằng sau những thành công của khu công nghiệp (như đã thu hút trên 4.400 dự án đầu tư gồm 2.202 dự án đầu tư nước ngoài và 2.314 dự án đầu tư trong nước, với tổng số vốn đầu tư khoảng 17 tỷ đồng USD và trên 100 nghìn tỷ đồng đầu tư trong nước, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt 14 tỷ USD, xuất khẩu đạt 6 tỷ USD, nhập khẩu 8 tỷ USD, nộp ngân sách tăng và đạt 650 triệu USD, thu hút 740 ngàn lao động trực tiếp), lại đi đôi với những hạn chế, sai lầm trong công tác quy hoạch, trong thẩm định dự án và đánh giá kết quả hoạt động, những vấn đề xã hội và môi trường nổi lên. Bệnh thành tích chạy theo phát triển số lượng ở các cấp đã che tầm nhìn những vấn đề mang tính quy luật phát triển kinh tế nói chung và phát triển khu công nghiệp nói riêng trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm cho nước ta ngày càng tụt hậu hơn so với khu vực thế giới, mà mức độ tụt hậu này đang là một sức ép không nhỏ trước Đại hội X của Đảng. Vì vậy cần nhận rõ những định hướng, những tính quy luật của con đường phát triển để chủ động hơn trong hoạt động thực tiễn.
Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức quản lý các khu công nghiệp
Xây dựng các khu công nghiệp và quản lý nó vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối với Nhà nước ta, dù đã trải qua thực tiễn 15 năm phát triển khu công nghiệp với nhiều cố gắng đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý. Nhiều vấn đề đã được phát hiện, kể cả một số vấn đề có tính chất chiến lược, đã nêu lên nhiều lần nhưng chưa giải quyết được. Nguồn gốc vấn đề vẫn là thiếu một tầm nhìn phù hợp với bối cảnh trong nước, thiếu một năng lực tổ chức, quản lý có tính chuyên nghiệp.
Hiện nay, nâng cao hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp trong cả nước là một yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2006 trở đi. Vì vậy, vấn đề tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và quản lý hệ thống khu công nghiệp dựa trên tầm nhìn mới và định hướng mới phát triển khu công nghiệp trở nên cấp bách.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của hệ thống khu công nghiệp trong phát triển theo con đường rút ngắn
Trong thời đại hiện nay, để tồn tại và phát triển bền vững, nước ta nhất định phải đi theo con đường phát triển rút ngắn. Phát triển có hiệu quả cả kinh tế, xã hội, môi trường các khu công nghiệp là một nội dung quan trọng của con đường rút ngắn đấy.
Trong lịch sử, Lênin là người đầu tiên phát hiện ra con đường phát triển rút ngắn hợp quy luật (sau những thất bại của chính sách cộng sản thời chiến) với các chính sách kinh tế mới (NEP), chính sách kinh tế tư bản nhà nước và tô nhượng. Tuy vậy, các chính sách đó đã kết thúc sau khi Lênin mất. Cá Mác, Ăngghen và Lênin đều nhấn mạnh phải làm sao nắm bắt được các thành tựu tiên tiến về phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục của CNTB như một trong điều kiện chủ yếu để xây dựng CNXH, nhưng Liên Xô và các nước XHCN đã không làm được nên suy thoái dần.
Trong thời đại ngày nay, yêu cầu đó được thực hiện thông qua hợp tác đầu tư, mà hình thức tổ chức hiệu quả nhất và chất lượng cao là hệ thống khu công nghiệp. Vị trí, vai trò của hệ thống khu công nghiệp không phải chỉ có tăng trưởng GDP, mà là đòn bẩy để nước ta nâng cao trình độ lực lượng sản xuất và phương thức tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường hiện đại. Nói cụ thể hơn thì vai trò của khu công nghiệp không nên chỉ phát triển đầu tư và thương mại, mà còn nâng cao trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, đào tạo nguồn nhân lực hiện đại của đất nước.
Xây dựng quy hoạch hệ thống khu công nghiệp theo định hướng phát triển bền vững
Sau 15 năm phát triển khu công nghiệp, nhưng nước ta vẫn chưa có một quy hoạch phát triển khu công nghiệp, vì cả nền kinh tế quốc dân cũng chưa xây dựng quy hoạch phát triển hợp lý dù đã có văn bản quy hoạch. Trong thời gian qua sự phát triển khu công nghiệp hầu như đều do các địa phương đua nhau xây dựng khu công nghiệp với những chức năng tương tự giống nhau. Vì vậy các khu công nghiệp phát triển riêng lẻ, phải đầu tư cho tất cả các hạng mục công trình (kể cả cụm dân cư). Tình hình đó đem lại thực trạng rất nhiều khu công nghiệp không hoạt động hay hoạt động kém hiệu quả, nó phản ánh trình độ và tầm nhìn của cả Trung ương và địa phương chưa phù hợp.
Thực tế phát triển kinh tế thị trường hiện đại chỉ ra rằng: kinh tế thị trường phát triển theo vùng, dựa trên lợi thế so sánh, chứ không phải phát triển theo địa phương hành chính. Khu công nghiệp ra đời trong vùng kinh tế nhằm chuyển lợi thế so sánh của vùng thành lợi thế cạnh tranh trong thương mại và đầu tư của cả nước. Các trung tâm khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cần gắn liền với đòi hỏi phát triển vùng và khu công nghiệp. Đã đến lúc cấp quản lý vỹ mô nên mời các chuyên gia liên ngành đánh giá lại chất lượng làm quy hoạch, từ đó sửa đổi, xây dựng quy hoạch hợp lý dựa trên tầm nhìn mới về kinh tế thị trường và khu công nghiệp.
Đánh giá lại và đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý đầu tư
Công tác tổ chức và cơ chế quản lý không theo kịp yêu cầu phát triển khu công nghiệp là một nhân tố chủ yếu tạo nên thực trạng kinh tế và xã hội trong các khu công nghiệp hiện nay, gây nên những thua thiệt về phía Việt Nam và thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tầm cỡ lớn. Nhược điểm lớn nhất trong lĩnh vực tổ chức, quản lý khu công nghiệp và nền kinh tế là thiếu tính chuyên nghiệp của bộ máy và người đứng đầu, do công tác tổ chức cán bộ bất cập kéo dài trong khi vận động nền kinh tế - xã hội chứ không thể chờ đợi họ. Vì vậy, trong quá trình đầu tư kể cả tiếp cận đầu tư nước ngoài, từ thẩm định dự án, quản lý dự án, giám sát đầu tư ở nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng lạc hậu. Chúng ta chưa quen hay chưa muốn thuê các công ty quản lý dự án chuyên nghiệp nước ngoài, cũng chưa có ý định thành lập các công ty chuyên làm nghề quản lý dự án và áp dụng hình thức đấu thầu quản lý dự án. Tại sao các bộ, ngành có dự án đầu tư xây dựng lại nhất thiết làm nhiệm vụ quản lý dự án? Câu trả lời đã rõ qua các vụ tiêu cực nổi cộm gần đây.
Vấn đề giám sát, thanh tra về đầu tư càng lúng túng và chậm chạp. Như Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đến cuối năm 2002, Bộ mới tổ chức Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư, cuối năm 2003 mới thành lập Thanh tra kế hoạch đầu tư, còn công tác giám sát cộng đồng thì vẫn chỉ là văn bản. Trong tình hình hiện nay, khi nạn tham nhũng khá nặng nề, khi tổng số nợ đã tới con số 20 tỷ USD vốn viện trợ đầu tư phát triển và mỗi năm nước ta phải có 2 tỷ USD trả nợ nước ngoài (theo Bộ Tài chính) thì vấn đề cải cách về tổ chức và cơ chế quản lý đầu tư có ý nghĩa quan trọng và rất cấp bách.
Mục tiêu
Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các khu công nghiệp có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp; đưa tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24% hiện nay lên lên khoảng 39 – 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo; tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các khu công nghiệp từ 19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn vào giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn đến năm 2010:
Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy các khu công nghiệp đã được thành lập; thành lập mới một cách có chọn lọc các khu công nghiệp với diện tích tăng thêm khoảng 15.000 ha – 20.000 ha, nâng tổng diện tích các khu công nghiệp đến năm 2010 lên khoảng 45.000 – 50.000 ha.
Đầu tư đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp hiện có, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải và đảm bảo diện tích trồng cây xanh trong các khu công nghiệp theo quy hoạch xây dựng được duyệt nhằm bảo vệ môi trường và phát triển công nghiệp bền vững.
Giai đoạn đến năm 2015:
Đầu tư đồng bộ để hoàn thiện các khu công nghiệp hiện có, thành lập mới một cách có chọn lọc các khu công nghiệp với tổng diện tích tăng thêm khoảng 20.000 ha – 25.000 ha; nâng tổng diện tích các khu công nghiệp đến năm 2015 khoảng 65.000 ha – 70.000 ha. Phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%.
Có các biện pháp, chính sách chuyển đổi cơ cấu các ngành công nghiệp trong các khu công nghiệp đã và đang xây dựng theo hướng hiện đại hoá phù hợp với tính chất và đặc thù của các địa bàn lãnh thổ.
Xây dựng các công trình xử lý rác thải công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực tập trung các khu công nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp; phấn đấu thu hút thêm khoảng 6.500 – 6.800 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên khoảng 36 – 39 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện khoảng 50%.
Giai đoạn đến năm 2020:
Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý diện tích đất dự trữ cho xây dựng khu công nghiệp.
Hoàn thiện về cơ bản mạng lưới khu công nghiệp trên toàn lãnh thổ với tổng diện các khu công nghiệp đạt khoảng 80.000 ha vào năm 2020.
Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các khu công nghiệp đã được thành lập theo hướng đồng bộ hoá.
Một số giải pháp
Hoàn thiện khung pháp lý về khu công nghiệp
Việc xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp chưa thực sự gắn quy hoạch khu công nghiệp với quy hoạch ngành, quy hoạch tồng thể phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trên cả nước; chưa gắn kết đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Để quy hoạch đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cần hoàn thiện khung pháp lý về quy hoạch nghiên cứu, xây dựng, triển khai quy hoạch theo hướng:
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp phải gắn chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của vùng và địa phương.
Xây dựng phát triển khu công nghiệp phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt và gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực; việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp phải đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội nhằm đảm bảo tính bền vững trong phát triển.
Xây dựng nhà ở cho công nhân trong khu công nghiệp
Nhà ở cho công nhân hiện nay thiếu về cả số lượng lẫn chất lượng, phát triển tự phát, không theo quy hoạch. Công nhân khu công nghiệp sống trong điều kiện nhà cho thuê rất tạm bợ, điều kiện sống khó khăn. Nhà ở có tác động lớn đến phát triển khu công nghiệp trên các mặt: đời sống người lao động, an ninh, trật tự trên địa bàn, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khu công nghiệp. Hiện nay, Bộ Xây Dựng đang nghiên cứu cơ chế xây dựng nhà ở cho công nhân theo hướng: huy động tổng hợp các nguồn lực để đầu tư nhà ở; dành một phần tỷ lệ vốn ngân sách, các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, huy động tiềm lực của dân doanh dưới sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước và áp dụng mức ưu đãi ở mức cao nhất về thuế, đất đai,…; nhà ở cần được xây dựng phù hợp với người lao động về mức thu nhập, trình độ văn hoá; cần quản lý điều kiện tối thiểu về nhà ở cho thuê.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong khu công nghiệp
Thực tế còn xuất hiện một số khu công nghiệp triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp vì còn nhiều lý do chủ quan và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp chưa phát triển. Một số khu công nghiệp được thành lập từ những vùng đất nông nghiệp tương đối tốt nhưng hiện để trống không triển khai xây dựng gây lãng phí. Công tác tái định cư và ổn định đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại nhiều khu công nghiệp tiến hành chưa tốt.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất khu công nghiệp cần: nâng cao hơn nữa chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất khu công nghiệp, phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch sử dụng đất khu công nghiệp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cả nước, vùng lãnh thổ để bảo đảm hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội, môi trường; kết hợp chặt chẽ với công tác phổ biến, rà soát, điều chỉnh quy hoạch và phát triển chính sách đất đai phù hợp với từng giai đoạn.
Chăm lo đời sống cho người lao động, chú trọng công tác bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp
Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, tổ chức công đoàn nhiều nơi vẫn chưa hình thành và mang tính hình thức. Thời gian tới cần chăm lo các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ, vấn đề cư trú và chăm lo các quyền lợi của công dân theo hướng đảm bảo công bằng giữa lao động địa phương và lao động nhập cư.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát việc thực hiện Nghị định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 của Chính phủ, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về lao động; thường xuyên rà soát điều chỉnh các quy định về tiền lương tối thiểu phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội cơ sở trong các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Công tác bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp cần có những giải pháp khắc phục như vấn đề xây dựng bộ phận chuyên trách về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp, vấn đề phân cấp quản lý môi trường trong khu công nghiệp, điều chỉnh văn bản pháp quy về tiêu chuẩn môi trường phù hợp với thực tiễn hoạt động của khu công nghiệp, xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính và huy động vốn xây dựng công trình xử lý chất thải trong khu công nghiệp,...
Về tổ chức bộ máy và chính sách phát triển
Trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban quản lý khu công nghiệp theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” cần đẩy mạnh phân cấp, gắn với nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của Ban quản lý khu công nghiệp, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý tại các Ban quản lý cũng là vấn đề cần triển khai để các Ban quản lý đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới.
Hiện tại, các chính sách liên quan tới phát triển khu công nghiệp đã được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, lao động, xây dựng thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu,… không còn bó hẹp trong Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ. Thời gian tới cần bổ sung và hoàn chỉnh các quy định liên quan đến khu công nghiệp như chính sách về thuế, đất đai kết hợp với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường để tiến tới có một hệ thống các quy định pháp luật về khu công nghiệp hoàn chỉnh.
Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng và khẩn trương hơn đặt Việt Nam trước nhiều thử thách, nhất là trong bối cảnh đất nước có điểm xuất phát là một nước nông nghiệp với hơn 60% lao động và 70% dân số sống ở nông thôn, cùng với những yếu kém trong công tác quản lý, còn tồn tại bắt nguồn từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Điều này đòi hỏi để tiếp tục phát huy tác động của các khu công nghiệp, cần tiếp tục có một sự nhìn nhận một cách thống nhất, khách quan các nhân tố hình thành khu công nghiệp, tác động và đặc biệt là các trở ngại trong việc phát triển các khu công nghiệp, mới có thể có giải pháp xử lý thích hợp. Có như vậy, các khu công nghiệp mới thực sự đóng góp thích đáng cho sự thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta diễn ra một cách nhanh chóng, có chất lượng và bền vững.
Hy vọng những nội dung trên đây sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở xây dựng và phát triển khu công nghiệp, đem lại hiệu quả tích cực cho việc phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Song trong quá trình nghiên cứu, với thời gian có hạn, đề tài chỉ dừng ở mức nội dung cơ bản, không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.PTS. Nguyễn Đình Phan (Chủ biên), 1997, Kinh tế và quản lý công nghiệp, Nhà xuất bản Giáo Dục.
GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên), 2004, Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia.
PGS.TS. Lê Văn Tâm (Chủ biên), 2000, Quản trị chiến lược, Nhà xuất bản Thống Kê.
PGS.TS. Lê Công Hoa (Chủ biên), 2005, Phương pháp nghiên cứu kinh doanh, Khoa Quản Trị Kinh Doanh (Lưu hành nội bộ).
NEU và JICA, 2003, Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống Kê.
Bộ luật Thương mại sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006).
Nghị Định số 36/CP ngày 24 tháng 04 năm 1997 của Chính phủ.
PHỤ LỤC
SỐ LƯỢNG VÀ DIỆN TÍCH CÁC KCN TÍNH ĐẾN 6/2006
Các KCN đã thành lập và hoạt động
STT
Tên KCN
Tỉnh/TP
Thời gian
cấp GP
Diện tích (ha)
Tự nhiên
Đất CN cho thuê
1
KCN Đà Nẵng
Đà Nẵng
1994
50
43
2
KCN Liên Chiểu
Đà Nẵng
1998
374
300
3
KCN Hoà Cầm
Đà Nẵng
2003
137
74
4
KCN Hoà Khánh (GĐ1&MR)
Đà Nẵng
1997, 2004
572
358
5
KCN AMATA (GĐ1&2)
Đồng Nai
1994
361
250
6
KCN Biên Hoà II
Đồng Nai
1995
365
261
7
KCN Gò Dầu
Đồng Nai
1995
184
137
8
KCN Nhơn Trạch I
Đồng Nai
1995
430
323
9
KCN LOTECO
Đồng Nai
1996
100
72
10
KCN Nhơn Trạch III (GĐ1)
Đồng Nai
1997
368
240
11
KCN Hố Nai
Đồng Nai
1998
230
146
12
KCN Sông Mây
Đồng Nai
1998
227
158
13
KCN Biên Hoà I
Đồng Nai
2000
335
231
14
KCN Tam Phước
Đồng Nai
2003
323
215
15
KCN Nhơn Trạch II (GĐ1&2)
Đồng Nai
1997, 2005
533
405
16
KCN Long Thành
Đồng Nai
2003
510
352
17
KCN Dệt may Nhơn Trạch
Đồng Nai
2003
184
121
18
KCN Sóng Thần I
Bình Dương
1995
180
154
19
KCN Đồng An
Bình Dương
1996
132
93
20
KCN Sóng Thần II
Bình Dương
1996
319
225
21
KCN Việt Hương
Bình Dương
1996
46
24
22
KCN Bình Đường
Bình Dương
1997
17
14
23
KCN Tân Đông Hiệp A
Bình Dương
2001
47
30
24
KCN Mỹ Phước
Bình Dương
2002
377
267
25
KCN Tân Đông Hiệp B
Bình Dương
2002
164
115
26
KCN Việt Nam - Singapore
Bình Dương
1996, 2004
500
315
27
KCN Dệt may Bình An
Bình Dương
2004
26
18
28
KCN Đông Xuyên
BR-VT
1996
161
104
29
KCN Mỹ Xuân B1
BR-VT
1998
226
154
30
KCN Phú Mỹ I
BR-VT
1998
954
651
31
KCN Mỹ Xuân A2
BR-VT
2001
313
145
32
KCN Cái Mép
BR-VT
2002
670
449
33
KCN Mỹ Xuân A
BR-VT
1996, 2002
270
171
34
KCN Đức Hoà I (GĐ1&2)
Long An
1997
274
183
35
KCN Thuận Đạo - Bến Lức
Long An
2003
114
80
36
KCN Trảng Bàng (GĐ1&2)
Tây Ninh
1999, 2003
191
135
37
KCX Tân Thuận
TP. HCM
1991
300
195
38
KCX Linh Trung 1
TP. HCM
1992
60
40
39
KCN Bình Chiểu
TP. HCM
1996
27
18
40
KCN Hiệp Phước
TP. HCM
1996
332
216
41
KCN Tân Tạo
TP. HCM
1996
444
240
42
KCN Lê Minh Xuân
TP. HCM
1997
100
65
43
KCN Tân Bình
TP. HCM
1997
186
146
44
KCN Tân Thới Hiệp
TP. HCM
1997
29
21
45
KCN Tây Bắc Củ Chi
TP. HCM
1997
220
143
46
KCN Vĩnh Lộc
TP. HCM
1997
202
130
47
KCX Linh Trung 2
TP. HCM
1997
62
40
48
KCN Cát Lái (II)
TP. HCM
2003
117
75
49
KCN Phú Tài(GĐ1, 2, 3)
Bình Định
1998, 2003
348
244
50
KCN Suối Dầu
Khánh Hòa
1997
78
54
51
KCN Điện Nam (GĐ1&MR)
Quảng Nam
1996, 2005
390
251
52
KCN Tịnh Phong
Quảng Ngãi
1997
139
100
53
KCN Quảng Phú
Quảng Ngãi
1998
100
73
54
KCN Phú Bài (GĐ1&2)
TT-Huế
1998, 2004
185
118
55
KCN Quế Võ
Bắc Ninh
2002
312
232
56
KCN Tiên Sơn (GĐ1&MR)
Bắc Ninh
1998, 2004
349
239
57
KCN Nội Bài
Hà Nội
1994
100
66
58
KCN Sài Đồng B
Hà Nội
1996
73
39
59
KCN Thăng Long (GĐ1&2)
Hà Nội
1997, 2002
198
145
60
KCN Nam Sách
Hải Dương
2003
64
44
61
KCN Đại An
Hải Dương
2003
171
109
62
KCN Phúc Điền
Hải Dương
2003
87
59
63
KCN Nomura-HP
Hải Phòng
1994
153
123
64
KCN Đình Vũ (GĐ1)
Hải Phòng
1997
164
130
65
KCN Cái Lân
Quảng Ninh
1997
78
56
66
KCN Quang Minh
Vĩnh Phúc
2004
344.4
221
67
KCN Sa Đéc
Đồng tháp
1998
70
52
68
KCN Trà Nóc I
Cần Thơ
1995
135
77
69
KCN Trà Nóc II
Cần Thơ
1998
165
90
70
KCN Mỹ Tho
Tiền Giang
1997
79
52
71
KCN Hoà Phú
Vĩnh Long
2004
121
92
72
KCN Tâm Thắng
Đắc Nông
2002
181
131
73
KCN Phan Thiết (GĐ1&2)
Bình Thuận
1998
124
81
74
KCN Bắc Vinh
Nghệ An
1998
60
42
75
KCN Hoà Hiệp
Phú Yên
1998
102
62
76
KCN Lễ Môn
Thanh Hoá
1998
88
65
77
KCN Đình Trám (GĐ1&2)
Bắc Giang
2003, 2005
95
68
78
KCN Đồng Văn (GĐ1&2)
Hà Nam
2003, 2006
110
63
79
KCN Hoà Xá
Nam Định
2003
327
220
80
KCN Thuỵ Vân (GĐ1,2&3)
Phú Thọ
1997, 2003, 2004
306
220
81
KCN Sông Công I
Thái Nguyên
1999
69
48
Các KCN đã thành lập và đang trong thời kỳ XDCB
STT
Tên KCN
Tỉnh/TP
Thời gian cấp GP
Diện tích (ha)
Tự nhiên
Đất CN cho thuê
1
KCN An Phước
Đồng Nai
2003
130
91
2
KCN Nhơn Trạch V
Đồng Nai
2003
302
205
3
KCN Định Quán
Đồng Nai
2004
54
38
4
KCN Nhơn Trạch 6
Đồng Nai
2005
320
224
5
KCN Nhơn Trạch 2 - Lộc Khang
Đồng Nai
2006
70
50
6
KCN Mai Trung
Bình Dương
2005
51
35
7
KCN Việt Hương II
Bình Dương
2004
110
70
8
KCN Mỹ Phước II
Bình Dương
2005
472
329
9
KCN Nam Tân Uyên
Bình Dương
2005
331
204
10
KCN Rạch Bắp
Bình Dương
2005
279
190
11
KCN Chơn Thành
Bình Phước
2003
115
73
12
KCN Phú Mỹ II
BR-VT
2004
572
311
13
KCN Xuyên Á
Long An
1997
306
212
14
KCN Tân Kim
Long An
2003
117
70
15
KCN Tân Đức (GĐ1)
Long An
2004
273
178
16
KCN Vĩnh Lộc 2
Long An
2005
226
136
17
KCN Linh Trung III
Tây Ninh
2002
204
126
18
KCN Cát Lái (IV)
TP. HCM
1997
112
83
19
KCN Phong Phú
TP. HCM
2002
148
110
20
KCN Tân Phú Trung
TP. HCM
2004
543
335
21
KCN Long Mỹ (GĐ1)
Bình Định
2004
100
73
22
KCN Ninh Thuỷ
Khánh Hòa
2004
206
143
23
KCN Đại Đồng-Hoàn Sơn
Bắc Ninh
2005
230
162
24
KCN Yên Phong
Bắc Ninh
2006
341
220
25
KCN Đài Tư-Hà Nội
Hà Nội
1995
40
30
26
KCN Nam Thăng Long (GĐ1)
Hà Nội
2001
30
21
27
KCN Bắc Phú Cát
Hà Tây
2002
327
180
28
KCN Tân Trường
Hải Dương
2005
200
131
29
KCN Đồ Sơn - Hải Phòng
Hải Phòng
1997
150
105
30
KCN Hải Yên
Quảng Ninh
2005
193
112
31
KCN Phố Nối B (GĐ1&2)
Hưng Yên
2003
95
71
32
KCN Phố Nối A
Hưng Yên
2004
390
274
33
KCN Kim Hoa
Vĩnh Phúc
1998
50
33
34
KCN Giao Long
Bến Tre
2005
96
66
35
KCN Khánh An GĐ1
Cà Mau
2004
180
123
36
KCN Hưng Phú I (GĐ1&2)
Cần Thơ
2004
350
212
37
KCN An Nghiệp
Sóc Trăng
2005
257
178
38
KCN Tân Hương (GĐ1)
Tiền Giang
2004
197
131.64
39
KCN Long Đức
Trà Vinh
2005
100
62
40
KCN Trà Đa
Gia Lai
2003
109.3
71
41
KCN Vũng Áng I
Hà Tĩnh
2002
116
62
42
KCN Sao Mai (GĐ1)
Kon Tum
2005
79
43
43
KCN Lộc Sơn
Lâm Đồng
2003
93
65
44
KCN Nam Cấm (GĐ1)
Nghệ An
2003
79
52
45
KCN Hòn La (GĐ1)
Quảng Bình
2005
98
78
46
KCN Tây Bắc Đồng Hới
Quảng Bình
2005
66
40
47
KCN Nam Đông Hà
Quảng Trị
2004
99
60
48
KCN Ninh Phúc (GĐ1&GĐ1MR)
Ninh Bình
2003
165
121
49
KCN Trung Hà
Phú Thọ
2005
127
89
50
KCN Phúc Khánh
Thái Bình
2002
120
74
51
KCN Sông Hậu
Hậu Giang
2006
126
80
52
KCN Quang Châu
Bắc Giang
2006
426
277
53
KCN Nguyễn Đức Cảnh
Thái Bình
2005
68
44
Ghi chú: Tính đến tháng 6 năm 2006, trên cả nước có 134 KCN đã thành lập, đang hoạt động hoặc trong thời kỳ XDCB với tổng diện tích tự nhiên là 27.745 ha, tổng diện tích đất CN cho thuê là 18.561 ha; không kể khu kinh tế Dung Quất (diện tích 10.300 ha) và khu kinh tế mở Chu Lai (diện tích 27.040 ha), khu kinh tế Nhơn Hội (diện tích 12.000 ha) và các khu kinh tế khác.
(Theo tài liệu của Vụ Quản lý KCN & KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0225.doc