Qua việc nghiên cứu về thực trạng kinh tế - xã hội Hà nội trong giai đoạn hiện nay cũng như việc nghiên cứu về sự phát triển bền vững của các đô thị trong nước cũng như ngoài nước ta thấy việc xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát trỉên đô thị bền vững là một điều tất yếu. Phát triển bền vững nhằm mục đích nâng cao tối đa chất lượng cuộc sống của nhiều thế hệ con người trong khuôn khổ cho phép của hệ thống sinh thái. Quá trình phát triển bền vững nhằm đồng thời vươn tới sự phồn vinh về kinh tế, công bằng về xã hội, môi trường sinh thái trong lành và được đảm bảo trường tồn. Các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá phải được phối hợp với nhau một cách hài hoà. Với những mục tiêu tốt đẹp nhưng đầy thách thức, quan điểm về phát triển bền vững đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi và trở thành trào lưu hiện thực.
Là một trong những quốc gia cam kết thực hiện phát triển bền vững, Việt Nam đã tích cực thực hiện những công việc nhằm tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững. Phát triển bền vững của Việt Nam đã trở thành quan điểm chủ đạo và được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để có thể thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên, Hà nội cần phải có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, chính quyền địa phương và sự phối hợp tham gia của nhân dân trong việc vạch ra các kế hoạch hành động địa phương nhằm phát triển đô thị Hà nội theo hướng bền vững.
33 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 856 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát triển đô thị bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trưởng trên, Hà Nội đang ngày càng đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đến nay, mặc dù chỉ chiếm 3.6% về dân số và 2.8% diện tích lãnh thổ quốc gia, hàng năm, Hà Nội đóng góp tới 7.8% vào GDP cả nước; 9.4% giá trị sản xuất; 10% giá trị kim ngạch xuất khẩu; 9.6% tổng mức bán lẻ hàng hoá; 11.7% vốn đầu tư xã hội. Đến năm 2002; GDP bình quân đầu người Hà Nội đạt14.2 triệu đồng, cao gấp 2 lần mức bình quân chung của cả nước.
Hà Nội đã biết tận dụng và phát huy được những lợi thể về mặt địa lý, có vai trò là đầu mối giao thương của cả khu vực phía Bắc, cũng như cả nước; là thị trường có mức tiêu thụ cao, có khả năng tiếp cận và vươn ra thị trường quốc tế. Các ngành thương mại dịch vụ tiếp tục phát triển. Thương mại, dịch vụ là lĩnh vưc thu hút khoảng 1/4 số doanh nghiệp Nhà nước, gần 2/3 số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 3/5 số hộ kinh doanh cá thể hoạt động với 40 siêu thị và trung tâm thương mại; 270 cửa hàng tự chọn và 600 văn phòng đại diện thương mại của nước ngoài. Trong 2 năm trở lại đây, có thêm 35 dự án đầu tư nước ngoài được thành lập (chiếm 1/3 số dự án mới) tập trung vào các ngành dịch vụ trình độ cao như tư vấn tài chính, sản xuất phần mềm máy tính, thiết kế, tạo mẫu, giáo dục và đầo tạo.... Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng trên 10%/ năm; chiếm 9.6% tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội của cả nước. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân 10.2%/năm; 6 tháng đầu năm 2003, tăng 8.2% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân đạt 9.2%/ năm; trong đó một số ngành lớn như thương nghiệp tăng 11.1%, khách sạn, nhà hàng tăng 9.8%, vận tải đạt 11.9%, bưu điện đạt 13% du lịch đạt 9.9%/năm. Từ năm 2001 đến nay, hình thức kinh doanh, phục vụ chất lượng cao được chú trọng với việc xây dựng cá tuyến phố văn minh thương mại và hệ thống các cửa hàng tự chon, siêu thị, trung tâm thương mại.
Hoạt động thương mại gắn liền với giá cả thị trường. Nếu như trước năm 2001, giá cả không tăng, thậm chí giảm, thì sang năm 2001, chỉ số giá tăng 0.66%, năm 2002 tăng 5.42%. Điều này có tác dụng giúp người sản xuất bù đắp chi phí, đồng thời mức tăng này vừa phải, không gây xáo động thị trường và ảnh hưởng đến đời sống người dân. Mặc dù Hà Nội đã trải qua các đợt tăng giá cao của vàng, USD, vật liệu xây dựng, phân đạm, sắt thép, thuốc tân dược và xăng dầu; song đã được dự kiến trước hoặc được kiểm soát kịp thời nên không có nhiều tác động xấu. Quan hệ thương mại trong nước và quốc tế được mở rộng và ngày càng phát triển. Với kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 1.6 tỷ USD mỗi năm; đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội đã tăng 6.2 lần so với năm 1990 và chiếm gần 10% kim ngạch xuất khẩu cả nước, đạt mức kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người là 560 USD/người. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng thay đổi dần: nhóm hàng nông sản chiếm tỷ trọng 32.2% năm 2000 đã giảm xuống 31.8% năm 2001; hàng dệt may tăng từ 24.1% lên 25.8% cùng thời điểm trên. Riêng hàng điện tử chỉ tăng 1.5ổctng những năm trước thì đến thời kỳ năm 2001 - 2002 với tỷ trọng giảm từ 6.5% còn 5.6% do thị trường của mặt hàng này có mức tiêu thụ giảm nhiều so với trước.
Kim ngạch nhập khẩu đạt trung bình 4.3 tỷ USD mỗi năm trong đó nhập máy móc thiết bị chiếm 16.5%, nguyên liệu vật tư sản xuất chiếm 30.8%, hàng tiêu dùng chiếm 21.6% và xăng dầu chiếm 31.1%.
Hiện nay, Hà Nội có khoảng 2000 doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, trong đó 27 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ 10 - 90 triêu USD mối năm, 63 doanh nghiệp xuất từ 1 - 10 triệu USD. Doanh nghiệp Thủ đô đã có chỗ đứng trên các thị trường lớn như khối ASEAN (chiếm tỷ trọng 7.5% trong kim ngạch xuất khẩu), Nhật Bản (4.4%), Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan và Hồng Kông chiếm 14.9%), EU (14.1%) và thị trường Bắc Mỹ. Trong đó, một số thị trường mới tăng khá như Mỹ tăng trên 2 lần. Đây là kết quả của đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của chúng ta từ năm 1986 đến nay.
Hà Nội - một đầu mối giao thông quan trọng nhất miền Bắc Việt Nam; nơi quy tụ đầy đủ các hình thức giao thông như: đường bộ, đường sông; đường sắt; đường hàng không; và cũng là nơi hội tụ các tuyến đường giao thông trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện đáng kể trong hệ thống giao thông đường bộ. Giai đoạn 1996 - 2000 đã triển khai xây dựng được 61 km đường, duy tu, duy trì và cải tạo nâng cấp nhiều tuyến đường cũ, đưa tỷ lệ đường được rải thảm lên hơn 90% ở nội thành và hơn 50 % ở ngoại thành. Nhiều nút giao thông quan trọng được mở rộng; hệ thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông hiện đại được lắp đặt tại hơn 100 nút đã làm giảm tình trạng ùn tắc, lộn xộn và mất an toàn giao thông. Với sự đầu tư trên và vị trí của một thủ đô, Hà Nội đã, đang và sẽ trở thành đầu mối trung chuyển hàng hoá và hành khách của cả khu vực. Bình quân năm thời kỳ 2001 - 2002; ngành vận tải (không kể đường sắt và hàng không) đã thực hiện chuyên chở 13 triệu tấn hàng hoá và 50 triệu lượt hành khách. Với số lượng hàng hoá luân chuyển tăng 15.2 % và hành khách tăng 26.2 % năm, hoạt động vận tải ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại, giao thương, hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu suất phục vụ của hoạt động vận tải, Thành phố đã thành lập Công ty Vân chuyển hành khách và dịch vụ (tháng 7/2001) trên cơ sở sáp nhập 4 đơn vị vận tải hành khách (Công ty xe buýt, Công ty vận chuyển hành khách phía Nam, Công ty xe du lịch và công ty xe điện), đầu tư, tăng cườnghệ thống xe buýt với lộ trình gần 600 km gồm 32 tuyến tiêu chuẩn, tuyến dài nhất là 37 km với 450 đầu xe buýt. Hai năm 2002 - 2003, hoạt động vận chuyển hành khách địa phương tăng mạnh (lượng khách năm 2002 cao gấp 2 lần so với năm 2001, 6 tháng đầu năm 2003, cao gấp 4 lần cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đường bộ trong nội thành còn chưa tăng. Mật độ đường còn thấp, phố không đồng đều, cấu trúc hỗn hợp và thiếu sự liên thông. Quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật không đồng nhất. Trong giờ cao điểm, trên các đường trục, hệ số sử dụng lòng đường vượt quá từ 1 đến 3 lần so với tiêu chuẩn. Cùng với nó là chất lượng đường xấu, lòng đường thường quá hẹp và các giao cắt đồng mức quá gần nhau đã dẫn đến hiện tượng tắc nghẽn giao thông ở các giờ cao điểm gây mất an toàn giao thông. Mạng lưới đường sắt trên địa bàn Hà Nội có hình bán nguyệt với tổng chiều dài là 90 km với 5 ga đường sắt lớn là: ga Hà Nội, ga Giáp Bát, ga Văn Điển, ga Gia Lâm và ga Yên Viên. Hiện nay, Hà Nội có cơ cấu phương tiện đi lại là xe đạp (chiếm 31.6%), xe máy (chiếm 60.3%), xe ô tô con (2.8%), xe buýt (chiếm 1.5%) và các loại phương tiện khác chiếm 1.2%.
Hoạt động bưu chính viễn thông phát triển nhanh, hàng năm đảm nhận 5.6 triệu bưu phẩm, 194 nghìn bưu kiện (đến và đi), phát hành 26.8 triệu tờ báo và thực hiện 104 triệu cuộc gọi đường dài. Doanh thu của ngành hàng năm đạt 2157 tỷ đồng, bình quân tăng20.5% năm, trong đó, thu bưu chính đạt 88 tỷ đồng, tăng 12.6%/ năm; thu viễn thông đạt 1911 tỷ đồng, tăng 22.4%. Đến cuối năm 2002, tỷ lệ máy điện thoại (có thuê bao) bình quân 100 dân đạt 25.4 máy, vượt kế hoạch đặt ra (đến năm 2005 đạt 25 máy trên 100 dân). Số đầu máy điẹn thoại cố định và di động (ca thuê bao và tính cước cuộc gọi) đến giữa năm 2003 đạt 926 nghìn chiếc. Để đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc đa dạng và phù hợp với thu nhập của các tầng lớp dân cư, ngoài điện thoại cố định và hai hệ thống thông tin di động được lắp đặt từ trước, từ năm 2003, Hà Nội còn triển khai thêm mạng điện thoại nội thị.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ, dù trong điều kiện diện tích canh tác bị thu hẹp dần, ngành nông nghiệp Thủ đô nhiều năm qua vẫn không ngừng phát triển và có những bước chuyển biến về cơ cấu sản phẩm và giá trị sản xuất. Hà Nội đã và đang tiếp tục thực hiện theo sự chỉ đạo và các định hướng phát triển nông lâm nghiệp là chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng trọng chăn nuôi, thuỷ sản, từ trồng trọt chuyển sang chăn nuôi, từ các cây, con truyền thống sang các giống cây, con có chất lượng và giá trị cao. Quán triệt mục tiêu phát triển, Hà Nội đã tăng tốc độ giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp bình quân đạt 2.5%/năm (thời kỳ 2001 - 2003), trong đó chăn nuôi đạt 7.26%/năm, ngành thuỷ sản là 7.54%/năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt đã giảm từ trên 60% (1996 - 2000) xuống còn 55.6% (năm 2002), ngành chăn nuôi tăng từ 34.9% lên 41.3%, ngành thuỷ sản tăng từ 4.7% lên 5.1%. Qua 2 năm, diện tích đất canh tác giảm 900 ha, diện tích lúa gieo trồng giảm hơn 2000 ha, diện tích ngô giảm 2300 ha, cây sắn giảm 100 ha. Trong khi đó, diện tích rau sạch tăng 810 ha (tăng 2.2 lần), diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 760 ha, hoa các loại tăng 100 ha, cây lâu năm tăng 300 ha. Trong chăn nuôi, đàn trâu so với năm 2000 đã giảm 2500 con (tương đương 17%), thay vào đó, đàn lợn thịt tăng 60 nghìn con (tăng 19%)... Từ thế độc canh, các sản phẩm như cá chim trắng, tôm càng xanh, rô phi đơn tính được nuôi thí điểm ở 1 huyện, đến nay đã mở rộng ra khắp 5 huyện ngoại thành. Nhờ đó, hiệu quả sản xuất nông nghiệp được cải thiện, giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản trên 1 ha đất tăng 7.1% qua hai năm, đạt mức 40 triệu đồng/ha (giá hiện hành). Sự chuyển biến về cơ cấu cây, con tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhân dân Thủ đô, đồng thời góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập của nông dân ngoại thành.
1.2. Vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội Thủ đô. Sau một thời kỳ dài sụt giảm lớn do những bất ổn về tài chính, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp và do sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư trong khu vực, nguồn vốn FDI thực hiện đã phần nào phục hồi, với mức tăng 26.6%/năm trong 2 năm 2001 - 2002 và chiếm 11.4% trong tổng vốn đầu tư xã hội. Từ đầu năm 2001 đến nay đã có thêm121 dự án mới được cấp giấy phép thành lập. Nhiều dự án lớn hoạt động khá hiệu quả, có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh đã bổ sung vốn đầu tư như hợp đồng hợp tác kinh doanh thông tin di động (bổ sung 100 triệu USD), công ty đèn hình Orion Hanel (50.8 triệu USD), công ty Khu công nghiệp Thăng Long (23.6 triệu USD), công ty Sứ vệ sinh Inax (10 triệu USD)... Tính đến cuối năm 2002, Hà Nội đã thu hút được 546 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đầu tư đăng ký đạt 8.86 tỷ USD. Hà Nội đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với 42 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung và hàng chục khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây dựng nhiều nhà máy lớn hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, tin học, viễn thông, điện tử, chế tạo thép, xây dựng...
Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước mỗi năm đầu tư thêm khoảng 4.8 nghìn tỷ đồng, bằng 1/4 tổng vốn đầu tư trên địa bàn. Tỷ trọng của vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đã tăng từ 20.2% thời kỳ 1996 - 2000 lên đến 23.6% trong hai năm 2001 - 2002. Trong phần vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm 2/3, vốn do dân đầu tư chiếm 1/3. Hai năm vừa qua, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng bình quân 21.5%/năm, trong đó năm 2001 tăng 34.3%. Với trên 4000 doanh nghiệp mới thành lập mỗi năm, mặc dù không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tồn tài, thành công và tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường, song khu vực này đang dần khẳng định vị trí của mình trong thời gian tới.
Nhờ việc thu hút, hấp dẫn được nguồn vốn đầu tư nước ngoài, cho đến cuối năm 2002, Hà Nội đã tạo thêm công ăn, việc làm cho hơn 24.000 lao động, góp phần giải quyết 1 vấn đề nan giải của Thủ đô Hà Nội.
Vốn đầu tư tăng nhanh nhưng với tốc độ giảm dần. Thành phố vẫn chưa khai thác hết tiếm năng huy động vốn, hiệu quả đầu tư còn thấp. Nừu quan sát liên tục trong 3 năm trở lại đây thì đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có tốc độ giảm dần rất rõ do sự cạnh tranh khá gay gắt của các địa bàn lân cận như Vĩnh Phúc, Hải Dương và Hưng Yên. Nguyên nhân là ở các tỉnh này, giá thuê đất, chi phí nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào, hâp dẫn với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.
Vốn FDI vẫn chưa hoàn toàn hồi phục so với mức năm 1996. Vốn FDI thực hiện năm 2002 mới đạt 2.5 nghìn tỷ đồng, bằng mức của 10 năm trước đó và mới bằng 1/3 so với những năm 1996 - 1998. Trong tổng số gần 600 doanh nghiệp FDI được cấp phép, đến nay đã có 150 dự án hết hạn, tự giải thể hoặc bị rút giấy phép hoạt động, khoảng 150 dự án khác chưa triển khai. Chỉ có khoảng 300 đơn vị đã đi vào hoạt động, nhưng sản xuất tăng giảm thất thường. Vốn đầu tư đăng ký của các dự án còn hiệu lực lên đến 7.3 tỷ USD, nhưng số vốn thực hiện của toàn bộ các dự án từ trước đến nay mới đạt 2.9 tỷ USD. Vì vậy, bên cạnh các biện pháp tích cực đang thực hiện như cải tiến quy trình thẩm định, rút ngắn thời gian cấp phép nhằm xúc tiến, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thì Thành phố phải có những biện pháp chủ động hơn nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án, đẩy mạnh hơn nữa tiến độ giải ngân vốn FDI.
1.3. Mạng lưới thông tin liên lạc của Hà Nội
Trong 10 năm qua (1991 - 2000), nhờ thực hiện kế hoạch tăng tốc của ngành Bưu điện, Hà Nội đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực này. Mạng lưới viễn thông không ngừng được mở rộng và nâng cấp đạt tiêu chuẩn tiên tiến. Năm 2000, Hà Nội có 540.000 cửa thuê bao (có 20 tổng đài trung tâm và 130 tổng đài vệ tinh). Trong số đó, máy điện thoại phổ thông đạt 1.400 máy Cardphone, 50.000 máy nhắn tin, 15.000 thuê bao dịch vụ Internet và 15.000 đường truyền số liệu riêng. Mật độ điện thoại đạt 18 máy/100 dân; tăng gấp 18 lần so với năm 1991 (1 máy/100 dân). Cùng với việc nâng cấp, hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc, Hà Nội không những tăng các dịch vụ gia tăng phục vụ các nhu cầu thông tin liên lạc của Thủ đô mà còn triển khai các dịch vụ điện thoại nội hạt, nội tỉnh, liên tỉnh, quốc tế và nhiều dịch vụ khác.
Đến năm 2003, ngoài hệ thống thuê bao cố định sẵn có, hệ thống bưu chính viễn thông Hà Nội đã xây dựng được thêm mạng di động nội thị và 2 mạng thông tin di động. Số đầu máy điện thoại cố định và di động đến giữa năm 2003, ước đạt 926 nghìn chiếc.
Tuy nhiên, bưu điện Hà Nội chưa thực sự phát triển một cách mạnh mẽ. Một trong những nguyên nhân chính làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành Bưu điện chính là chưa có một quy hoạch phát triển đồng bộ với quy hoạch phat triển chung của thành phố và ngành bưu điện Hà Nội chưa được thành phố cấp đất xây dựng các đài trạm chuyển mạch điện thoại nên gặp khó khăn trong việc tạo, mở rộng năng lực phục vụ. Để có thể phát triển mạnh, đồng bộ và tránh lãng phí, ngành bưu điện Hà Nội cần phải có sự phối hợp với các ngành khác đồng thời xem xét cho phù hợp với quy định chung của thành phố.
1.4. Giáo dục - đào tạo và lao động của Hà nội
Hà nội là nơi có tiềm năng khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất trong cả nước, có đội ngũ cán bộ giỏi thuộc nhiều lĩnh vữc then chốt, đủ năng lực để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh hoá Thủ đô. Thật vậy, chất lượng lao động của Hà nội là khá nhất trong cả nước hơn nữa người dân Hà Thành còn có nhiều nghề tinh sảo ở đỉnh cao của quốc gia. Hà Nội hiện nay đã phổ cập trung học cơ sở, có 85,96% số người tốt nghiệp từ THCS trở lên. Số người được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên là 42,26% trong khi đó cả nước chỉ có 13,3%. Số lao động có chứng chỉ ngoại ngữ chiếm 9,66%, trong đó tiếng anh chiếm 6,12%; có 8,97% số người biết vi tính, trong đó có 4,7% biết sử dụng thành thạo các phần mềm kế toán. Lao động có trình độ CNKT có bằng chiếm 10,1% so với nguồn lao động; trong đó ở thành thị chiếm 12,5% và ở nông thôn chiếm 6,4%. Lao động có trình độ THCN chiếm 8,6% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 12% và ở nông thôn là 3,4%. Lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 11,1% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 17,1% và ở nông thôn là 2,1%.
Qua các số liệu trên cho thấy: lao động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật chủ yếu tập trung ở thành thị còn ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội
Hà nội là nơi tập trung hầu hết các cơ quan trung ương về quản lý khoa học công nghệ, và phần lớn các viện nghiên cứu, các trường đại học. Hà nội hiện có 44 trường đại học và cao đẳng, 34 trường trung học chuyên nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 Viện nghiên cứu cơ bản và chuyên ngành (chiếm 86% tổng số các viện nghiên cứu trong cả nước).
Như vậy, Hà nội là địa phương có lợi thế so sánh trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến quản lý chính quyền, trong nghiên cứu và các ngành công nghiệp sử dụng kỹ thuật cao. Nếu Hà nội biết tận dụng những lợi thế này để thực hiện chiến lược công nghiệp, hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế- xã hội thì sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh ngày càng tốt hơn các địa phương khác. Từ đó, Hà nội sẽ dễ dàng giải quyết các vấn đề bức xúc hiện nay như nạn thất nghiệp, vấn đề việc làm, vấn đề nghèo đói, các vấn đề về nhà ở, tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng lợi ích xã hội... Tuy nhiên để có thể khai thác được các lợi thế cạnh tranh này, Hà nội cần phải đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ và dịch vụ xã hội.
2. Quản lý tốt.
2.1 Nguồn nhân lực Hà nội.
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số. Năm 1990 nguồn lao động có 1.193.600 người, năm 1995 có 1.331.000 người, năm 1996 có 1.366.000 người, năm 1999 có 1.504.260 người. Hà Nội là một thành phố có dân số tương đối già so với các tỉnh trong cả nước. Năm 1999, số người dưới 15 tuổi chỉ chiếm 27,9% dân số toàn Thành phố. Bộ phận dân số trong độ tuổi lao động chiếm một phần lớn trong tổng dân số Hà Nội. Trong giai đoạn 1994-1999, số lượng lao động Hà Nội tăng nhanh. Năm 1995 tăng 33.000 người so với năm 1994 (tăng 2,54%), năm 1996 lượng lao động tăng 35.000 người so với năm 1995 (tăng 2,63%). Năm 1998, lao động Hà Nội có 1.441.000 người. Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng số người trong độ tuổi lao động tính tới 31/12/1998 là 1,441 triệu người, chiếm 56,15% tổng dân số Thành phố .
Số người đến tuổi lao động năm 1999 tăng 45.100 người so với năm 1998 (tăng khoảng 2,94%). Mức tăng bình quân nguồn nhân lực Hà Nội giai đoạn 1994-1999 là 2,65%. Tính trung bình giai đoạn 1994-1999, hàng năm số lượng người đến tuổi lao động tăng khoảng 38.000 - 40.000 người.
Trình độ văn hoá của người lao động cao, có 85,96% số người tốt nghiệp từ trung học cơ sở trở lên, riêng tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 45,3% (trong đó tỷ lệ này ở quận Thanh Xuân đạt 61,61%).
Lớp học cao nhất đã qua bình quân cho 1 lao động của Hà Nội là 9,9 năm, riêng nội thành là 10,6 năm, ngoại thành là 9,1 năm .
Lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 11,1% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 17,1% và ở nông thôn là 2,1%.
Bảng
Cơ cấu lao động Thủ đô chia theo trình độ văn hóa năm 1998*
Cơ cấu chia theo trình độ văn hoá (%)
Lớp học cao nhất đã qua bình quân cho 1 LĐ
Chưa biết chữ
Chưa tốt nghiệp cấp I
Đã tốt nghiệp cấp I
Đã tốt nghiệp cấp II
Đã tốt nghiệp cấp III
Tổng
Toàn TP
0,4
4,3
11,0
33,5
50,8
100
9,9
Nội thành
0,2
2,0
6,8
26,8
64,2
100
10,6
Ngoại thành
0,5
6,9
16,2
41,5
34,9
100
9,1
Nguồn: Thực trạng Lao động- Việc làm ở Việt Nam 1998 - NXB Thống kê 1999
* Số người từ đủ 15 tuổi trở lên HĐKT thường xuyên chia theo trình độ văn hoá
Qua bảng trên, chúng ta thấy số người có trình độ văn hoá thấp (tức là từ cấp I trở xuống là 15,7%) của Hà Nội ít hơn nhiều so với số người có trình độ từ bậc THCS trở lên chiếm 84,3%; trong đó tỷ lệ người đã tốt nghiệp cấp III là 50,8%, riêng ở nội thành là 64,2%.
Hiện nay vẫn còn 4,3% số lao động chưa tốt nghiệp tiểu học, riêng huyện Từ Liêm có tới 14,8%, trong đó vẫn còn một số thanh niên cá biệt ở nội, ngoại thành còn mù chữ.
Dân số và nguồn nhân lực Hà nội năm 2000
Đơn vị: Nghìn người
Tiêu chí
Chỉ tiêu
Tổng dân số trung bình năm
2734,1
Dân số trong độ tuổi lao động
% so với dân số
1.561,0
57,1%
Lao động cần bố trí việc làm
% so với dân số
1.273,8
81,6%
Tỷ lệ tăng cơ học của dân số Hà nội
- Năm 1995
- Năm 1996
- Năm 1997
0,8%
1,23%
2,1%
Tóm lại, tuy trình độ văn hoá của lao động Hà Nội cao nhất so với vùng đồng bằng sông Hồng và so với cả nước nhưng nói chung, so với yêu cầu của quá trình đổi mới hiện nay thì nhiều điều còn bất cập. Đây là một tồn tại cần phải tập trung giải quyết trong giai đoạn 2000 - 2010.
2.2. Các vấn đề về quản lý xã hội.
Thành phố Hà nội là đô thị đặc biệt trực thuộc Trung Ương. Hệ thống quản lý nhà nước được tổ chức theo ba cấp:
UBND Thành phố.
UBND 12 quận huyện.
UBND 224 phường, xã, thị trấn.
UBND thành phố Hà nội bao gồm 22 sở, viện, ban ngành chuyên môn giúp việc với tổng số cán bộ là 25.000 người.
Bộ máy quản lý nhà nước của Hà nội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý theo ngành với quản lý lãnh thổ.
Trong thời gian qua, công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị Hà nội đã có nhiều chuyển biến tích cực, đúng hướng, kết quả đạt được tương đối toàn diện. Thành phố đã tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc trong công tác xây dựng và quản lý đô thị, đặc biệt là những chương trình phát triển nhà ở, tổ chức giao thông đô thị, quản lý đất đô thị, quản lý trật tự xây dựng đô thị... Cơ chế chính sách về quản lý đô thị từng bước được hoàn chỉnh; quy hoạch xây dựng bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thành phố; quản lý xây dựng theo quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đô thị tiếp tục được củng cố, đã có những chuyển biến nhất định; quản lý đất đô thị, giải phóng mặt bằng chủ động hơn trước và có nhiều cố gắng; quảng lý xây dựng được thực hiện toàn diện có hiệu quả; hoàn thành vượt mức chỉ tiêu phát triển nhà, kết cấu hạ tầng đô thị ở một số lĩnh vực được cải thiện đáng kể.
Nhờ có quá trình cơ cấu, sắp xếp lại và đổi mới quản lý so với giai đoạn trước, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả đã được sát nhập, giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Mặt khác, thời gian chờ được cấp giấy phép đầu tư đã giảm xuống còn 15 ngày. Năm 2000, hàng loạt các chính sách và cơ chế mới đi vào cuộc sống như luật doanh nghiệp, chính sách kích cầu tiêu dùng và đầu tư, công tác xúc tiến đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh được đẩy mạnh. Trong đó có việc bải bỏ giấy phép kinh doanh con. Việc giảm ngắn thời gian xin cấp phép đầu tư và đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, cùng các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu và ký kết các hiệp định song phương đã phát huy vai trò tích cực của việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước, thu hút vốn đầu tư thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhờ có công tác quản lý tốt mà công tác hoạt động văn hoá thông tin được tổ chức sôi động, phong phú, đa dạng phát huy hiệu quả phục vụ sự kiện chính trị của đất nước. Năm 2000 đã có 56,7 vạn hộ đăng ký "gia đình văn hoá" đạt 9...3%; năm 2001 là 59,7 vạn hộ chiếm 94,43%; năm 2002 là 58,8 vạn hộ (94,58%). Đến đầu năm 2003 có 57,7% tổ dân phố đạt danh hiệu tổ văn hoá. Phong trào thể thao quần chúng Thủ đô có nhiều chuyển biến với tỷ lệ người tham gia tập thể thao thường xuyên tăng từ 15% năm 2000 lên 18,6% năm 2001 và 22,0% năm 2002. Các câu lạc bộ sức khoẻ ngoài trời cấp xã, phường tổ chức liên hoan văn hoá, thể dục thể thao, 12/12 quận huyện nhân dịp quốc tế người cao tuổi tổ chức thi đấu thể thao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Hà nội cũng đang đứng trước những thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vấn đề về quản lý trật tự xây dựng đô thị vẫn là một vấn đề phức tạp, bức xúc, số vụ vi phạm lấn chiếm đất công, xây dựng không phép, sai phép tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao. Do Hà nội luôn có sực hút với lực lượng lao động các tỉnh lân cận nên tốc độ dân di cư về thành phố có chiều hướng gia tăng. Điều này đã ảnh hưởng nhiều đến công tác quản lý trật tự an toàn đô thị. Các vấn đề xã hội bức xúc như mại dâm, ma tuý, tội phạm hình sự, văn hoá độc hại có xu hướng gia tăng. Theo số liệu của Sở Y tế Hà nội, tỏng hai năm 2001-2002, mỗi năm trên địa bàn thành phố có thêm 1400 người bị nhiễm HIV. Đến ngày 15/5/2003 có tổng số 4838 ca mắc HIV, gây tử vong 348 người.Sự gia tăng dân số ( chủ yếu là gia tăng cơ học) và quá trình đô thị hoá nhanh chóng, ngoài sự tác động tiêu cực đến phát triển cơ sở hạ tầng còn làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề về xã hội đòi hỏi cân phải được giải quyết như việc làm, nhà ở, trật tự vệ sinh môi trường đô thị và các tệ nạn xã hội khá. Mặc dù các cấp chính quyền , các ngành Thành phố đã phối hợp chạt chẽ trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội, số vụ phạm pháp vẫn có xu hướng gia tăng. Theo số liệu của các ngành thống kê cho thấy trung bình mỗi năm xảy ra 6500 vụ phạm pháp hình sự, 600 vụ vi phạm kinh tế, 1500 vụ buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma tuý. Bình quân cứ 1 tháng xảy ra 160 vụ tai nạn giao thông làm 45 người thiệt mạng và 150 người bị thương.
Sở dĩ Hà nội còn đứng trước những khó khăn, thách thức trên một phần là do công tác đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng còn yếu, việc kiểm tra xử lý sai phạm có nhiều vụ còn chưa nghiêm túc và thiếu tính kịp thời. Nhiều cơ sở chưa phát huy được tính dân chủ và chưa duy trì kỷ cương. Mặc dù các cấp chính quyền quốc gia đặt tại Hà nội và công tác quản lý đô thị đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đạt được kết quả cao. Do đó cần phải có các biện pháp đưa quản lý đô thị phù hợp và theo kịp sự phát triển nhanh chóng đến chóng mặt của thời đại và giúp cho Hà nội có khả năng cạnh mạnh mẽ, tốt hơn các tỉnh thành phố khác trong cả nước.
3. Khu định cư lành mạnh.
3.1. Môi trường
Môi trường là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đối với phát triển bền vững. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thành phố thì vấn đề kiểm soát và quản lý môi trường cũng được trỉên khai và đặt thành một trong những nhiệm vụ quan trọng.Tình hình môi trường về cơ bản đã được kiểm soát và cố gắng xử lý cải thiện. Các chất thải sinh hoạt và một số loại chất thải khác đã được thu gom và đưa về nơi tập kết để xử lý. Lượng chất thải y tế ở các bệnh viện phần lớn đã được thu gom riêng bởi công ty môi trường đô thị Hà nội; tuy nhiên nó chưa được xử lý riêng mà được chôn chung với rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp. Dưới sự quản lý của Sở giao thông công chính Hà nội, nhiều chương trình nhằm mục đích bảo vệ môi trường Hà nội đã, đang được thực hiện như chương trình tăng diện tích cây xanh trên đô thị. Do đó, Hà nội được coi là một thành phố xanh. Hiện nay, diện tích cây xanh bình quân cây xanh trong nội thành đạt 2,3 m2/người. Vấn đề cấp nước Hà nội đã được sự đầu tư của Nhà nước và chính phủ Phần Lan nên người dân Hà nội phần lớn đã có nước sạch dùng trong sinh hoạt và sản xuất. Hà nội với hệ thống các sông hồ, cống, rãnh, đầm rộng lớn và trải khắp làm nơi tiêu nước, lưu trữ nước trong mùa mưa cũng như làm hệ thống thoát nước thải. Tuy nhiên, hệ thống này đã được xây dựng từ lâu nên đã bị hư hỏng nhiều đòi hỏi cần phải có sự sửa chữa, và xây dựng mới.
Nhờ có sự phân chia nhiệm vụ rõ ràng mà hiện nay công tác quản lý chất thải, chất độc hại đã có nhiều tiến triển giúp cho môi trường đô thị Hà nội ngày càng trong sạch hơn. Việc thu gom rác thải trong khu vực nội thành do 4 Xí nghiệp môi trường đô thị trực thuộc công ty môi trường tại 4 quận đảm nhiệm. Việc thu gom, vận chuyển rác được thực hiện vào ban đêm nên đã tạo được không khí trong lành cho cư dân đô thị. Các khu nhà cao tầng, các khu tập thể được đặt các thùng chứa lớn có dung tích từ 6 đến 8 m3 để thu phế thải rồi sử dụng các xe chuyên dụng để vận chuyển đến các bãi chôn lấp phế thải của thành phố. Đường phố Hà nội thường xuyên được quét và dọn dẹp sạch sẽ nên đã làm giảm lượng bụi trên đường do các phương tiện gây ra.
Song song với công tác quản lý môi trường đô thị thì vấn đề giáo dục ý thức môi trường ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục và truyền thông về môi trường được đẩy mạnh mộtcách đáng kể. Giáo dục môi trường được thực hiện ở tất cả các bậc học. Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý tài nguyên; ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường; cải thiện một cách rõ nét môi trường .
3.2. Y tế
Trong những năm gần đây, các cơ sở khám chữa bệnh ở Hà nội có nhiều thay đổi, nhiều cơ sở khang trang, phục vụ với chất lượng tốt. Năm 2000, trên địa bàn Hà nội có 29 bệnh viện công lập, 7085 giường bệnh. Bình quân 29 giường bệnh trên 1 vạn dân. Số bác sĩ/ 1vạn dân đạt 21,7 bác sĩ. Ngoài ra, số cơ sở y tế do địa phương quản lý gồm 4 nhà hộ sinh khu vực, 18 phòng khám đa khoa khu vực, 228 trạm y tế xã phường, một trại phong. Trên địa bàn còn có nhiều cơ sở y tế do Bộ Y tế, các bộ ngành và do tư nhân quản lý. Tổng số cán bộ y tế thuộc thành phố quản lý là 6430 người.
Năm năm qua, Thành phố đã quan tâm đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của ngành, mở rộng cải tạo các bệnh viện tạo điều kiện khám chữa bệnh. Nhờ đó mà công tác khám chữa bệnh có nhiều chuyển biến tốt. Nhiều phương thức tiên tiến, hiện đại đã được áp dụng để khám và điều trị bệnh. Công suất sử dụng giường được nâng lên rõ rệt đạt trên 100% giường định mức kế hoạch.
3.3. Dân số.
Năm 2000, Hà nội có 2734,1 nghìn người; tăng 7,1 lần so với năm 1954. Tỷ lệ dân số đô thị đạt tới mức 57,7%. Mật độ dân số của thành phố Hà nội là rất không đồng đều. Trong nội thành, mật độ dân số rất cao còn ở ngoại thành mật độ lại thưa thớt. Năm 2000 dân số nội thành chiếm 53,4% nhưng lại tập trung trên một diện tích nhỏ hẹp: 84,3% km2 (chỉ chiếm 9,1% diện tích thành phố) trong khi đó dân số ngoại thành chiếm 46,6% nhưng lại cư trú trên diện tích rộng lớn: 836,67 km2 (chiếm 90,9% diện tích thành phố). Nếu tính chung toàn thành phố thì mật độ dân số trung bình là 2.993 người/km2. Đây là mật độ dân số trung bình cao nhất cả nước.
Do có sự quan tâm trong công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình nên tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số Hà nội đã có chiều hướng giảm nhiều. Tỷ lệ sinh thô năm 2000 là 15‰; năm 2002 giảm còn 14,65‰. Tỷ lệ sinh con thứ 3 của người mẹ giảm từ 5,5% xuống còn 5%. Đến năm 2002 có 55 phường, xã không có người sinh con thứ ba. Do tỷ suất sinh giảm, tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số cũng giảm từ 10,87‰ năm 2000 còn 10,56‰ năm 2002. Tuy nhiên dân số Hà nội vẫn tăng nhanh trong thời gian gần đây. Dân số Hà nội tăng nhanh trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là tăng cơ học do quá trình đô thị hoá, mở rộng diện tích nội thành, phát trỉên các khu công nghiệp trên địa bàn nên đã thu hút lao động từ các tỉnh khác tham gia vào lực lượng lao động của Hà nội. Tốc độ tăng dân số cơ học từ 0,5% vào thời kỳ 1975-1980 lên 1,5% vào thời kỳ 1990-1995 và 1% vào thời kỳ 1996-2000.
3.4. Các vấn đề xã hội.
Trong những năm vừa qua, hạ tầng kỹ thuật đô thị Thủ đô Hà nội được tập trung đầu tư và cải thiện rõ rệt. Đến năm 2000, tổng công suất cấp nước toàn thành phố đã đạt 420.000 m3/ngày đêm. Số hộ tiêu dùng nước sạch của cả thành phố đã tăng từ 50% số hộ năm 1996 lên 68% năm 2000; trong đó số hộ được sử dụng nước sạch ở thành thị là trên 80%. Bình quân mức sử dụng là 100 lít/ngày. Trong 2 năm 2001-2002, nhờ có sự đầu tư của địa phương cho hạ tầng kỹ thuật đã thúc đẩy cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là trong việc cải tạo và lắp đường ống mới phát triển nhanh chóng. Điều này góp phần đáng kể cho việc phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất của nhân dân Thủ đô. Trong thời gian này, toàn thành phố đã xây dựng thêm được 15 km2 đường ống dẫn nước;160km ống phân phối, đảm bảo lượng nước sạch bình quân 1 ngày 480 nghìn m3 tức là 168 lít/người/ngày; hình thành 9 công trình cấp nước sạch ngoại thành. Cùng với việc tăng lượng nước sử dụng thì tỷ lệ chiếu sáng cũng tăng lên đạt bình quân 90%; tỷ lệ cây xanh trên đầu người đạt 4 m2/người. Công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị cũng từng bước được nâng cao.
Nhiều công trình giao thông quan trọng đã được hoàn thành góp phần giảm ùn tắc giao thông, đưa tỷ lệ đường nội thị được rải thảm lên 92%. Tuy vậy, hệ thống giao thông đường bộ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển với tốc độ đô thị hoá nhanh dẫn đến quá tải. Mạng lưới giao thông chưa đồng bộ, tỷ lệ đất giao thông còn thấp mới ở mức 8% trong khi tỷ lệ này thường là 25% ở các thành phố phát triển trên thế giới. Lượng phương tiện tư nhân quá dày đặc cùng với chất lượng đường xấu, quá hẹp (7-11m); các đường giao cắt đồng mức và quá gần nhau đã dẫn tới sự ùn tắc, lộn xộn và mất an toàn giao thông. Trong khi đó, mạng lưới vận tải hành khách công cộng mới chỉ đáp ứng được 4,3% nhu cầu đi lại của người dân (năm 2000); chiếm 1,5% trong cơ cấu phương tiện đi lại của người dân Hà nội.
Cơ cấu phương tiện đi lại của Hà nội năm 2000
Đơn vị: %
Phương tiện
Tỷ lệ
Xe máy
60,3
Xe đạp
31,6
Xích lô
1,2
Xe con
2,8
Xe buýt
1,5
Phương tiện khác
1,2
Từ bảng số liệu trên ta thấy người dân Hà nội ngày nay vẫn sử dụng phương tiện chính để đi lại là xe máy và xe đạp. Để giảm bớt tình trạng ách tắc giao thông cũng như giảm bớt tai nạn giao thông thì Hà nội cần phải nhanh chóng có các biện pháp và chính sách để phát triển giao thông công cộng.
Cùng với sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng thì ngành giáo dục cũng được đầu tư và ngày càng mở rộng với thiết bị học tập ngày càng hịên đại hơn. Do đó quy mô giáo dục tiếp tục được giữ vững và mở rộng ở một số bậc học, ngành học. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi ra nhà trẻ năm học 2001-2002 đạt 16,7%, tăng 1,5% so với năm học trước. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi vào mẫu giáo đạt 75,4%, tăng 3,6%; tỷ lệ vào lớp 1 đạt 99,2% đúng độ tuổi; tỷ lệ học sinh vào lớp 6 đạt 100%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS vào THPT đạt 92,0%. Năm học 2002-2003 bậc tiểu học có 265 trường tổ chức dạy 2 buổi/ngày; có 15612 học sinh (chiếm 70%) được học 2 buổi/ngày. Nhờ đó, mà hiện nay Hà nội đã đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học đầu tiên trong cả nước và đang tiến tới phổ cập PTTH.
4. Công tác quản lý đô thị và tình hình xây dựng, thực hiện quy hoạch tổng thể của Hà Nội.
Từ cuối những năm 1980, chính sách đổi mới do Đảng cộng sản Việt nam khởi xướng đã tạo ra một bước ngoặt mới trong toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam, trong đó có lĩnh vực xây dựng nhà ở. Những lực lượng kinh tế thị trường mới hình thành, đầu tư nước ngoài, sự gia tăng mức sống, nhiều chính sách mới về nhà ở được ban hành... Do đó đã làm bùng nổ các hoạt động xây dựng tự phát, chủ yếu trên cơ sở các hộ gia đình.Có thể nói đây là một nguyên nhân gây ra tình trạng phá vỡ trật tự không gian, trật tự xã hội hiện nay. Nó có thể dẫn tới tình trạng phá hoại môi trường xây dựng và không gian kiến trúc của thành phố. Thời kỳ này, tại các khu phố cổ, những nhà ống quá tải và cũ nát bị mất dần và thay thế vào đó là những ngôi nhà mới với kiến trúc tân kỳ, những biệt thự ở "khu phố Tây" được phục chế. Các khu nhà tập thể thì ngày càng trở nên cũ nát, quá tải về cơ sở hạ tầng, đơn điệu về diện mạo kiến trúc với những không gian ở tù túng, chật chội, kém chất lượng.
Những năm sau đó cho đến nay, dọc theo các tuyến phố hàng loạt các "nhà ống dựng đứng", "nhà cọc" được xây dựng rất đa dạng.Chúng đã xé nát và băm vụn không gian kiến trúc đô thị, phản ánh tính thiếu trật tự không gian ( và cả trật tự xã hội) trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
Bằng những quan sát thông thường, bất kỳ ai tới Hà nội đều có thể nhận thấy sự bùng nổ xây dựng nhà trên quy mô toàn thành phố theo hai hướng tương phản rõ nét của môi trường Hà nội.
Một mặt, đó là sự xuất hiện của các cao ốc ( 15-20 tầng) dùng làm khách sạn, văn phòng, các trung tâm thương mại. Chúng mọc rải rác ở khu vự trung tâm thành phố và thường là những công trình liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Chúng tạo nên những nét" chấm phá" đứt đoạn hoặc những " dấu ấn" sắc nét trên toàn cảnh đường chân trời của đô thị Hà nội. Tương phản với những "dấu nhấn" kiến trúc đó là những "biển" ngôi nhà đơn lẻ được xây dựng bởi các hộ gia đình ở khắp nơi trong thành phố, rất đa dạng về kiểu loại và quy mô.
Chính sự bung ra xây dựng nhà ở tư nhân trong thời kỳ này đã làm thay đổi khung cảnh đường phố, nhiều nơi xây dựng lộn xộn mất mỹ quan đô thị, đe doạ những cảnh quan đô thị độc đáo vốn có và điều đó đã nói lên tình trạng bất cập trong năng lực quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển trên địa bàn Hà nội. Nếu như vào thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, các chủ đầu tư đều là Nhà nước, công tác quy hoạch đô thị đã phát huy hiệu quả của mình thì ngược lại khi chuyển sang kinh tế thị trường với sự đa dạng các loại chủ đầu tư của nhiều thành phần kinh tế thì công tác quy hoạch và quản lý đô thị đã bộc lộ rõ những hạn chế và yếu kém.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây Hà nội đã rất chú ý đến xây dựng các quy hoạch. Hệ thống quy hoạch hiện nay ở Hà nội đang được xây dựng bao gồm quy hoach tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch không gian, quy hoạch phát triển ngành trên địa bàn, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, quy hoạch chi tiết các quận, huyện, quy hoạch dự án. Nhiều công trình đã bước đầu được thực hiện theo quy hoạch.
III. Quan điểm, nguyên tắc chính và một số giải pháp để thực hiện phát triển bền vững đô thị Hà nội.
1. Quan điểm:
Quan điểm phát triển bền vững nhấn mạnh đồng thời tới sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các cá nhân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Tính cân đối và mối quan hệ hài hoà giữa ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường được coi là tiêu chí quyết định tính bền vững của phát triển. Song mỗi một mặt lại có những ý nghĩa khác nhau trong mục tiêu chung của sự phát triển. Tính bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng ổn định và cơ cấu cân đối của nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ sau.
Tính bền vững về xã hội thể hiện ở mức độ bảo đảm dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội. Tính bền vững về xã hội đòi hỏi không ngừng nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên của xã hội và giữa các thế hệ của một xã hội. Nó bao hàm cả tính bền vững về mặt văn hoá, biểu hiện ở sự duy trì và phát huy tính đa dạng và bản sắc văn hoá dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh của đời sống vật chất và tinh thần. Tính bền vững về môi trường thể hiện ở việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm, cải thiện môi trường. Mục tiêu phát triển lâu dài của Việt Nam đã được đề ra trong Hiến pháp và các văn bản của Đảng và Nhà nước là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) đã cụ thể hóa hơn mục tiêu phát triển cho thời gian tới. Đó là:
"Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao". và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
2. Nguyên tắc và một số giải pháp để đạt được phát triển bền vững:
Để đạt được mục tiêu nêu trên và đảm bảo tính bền vững của quá trình phát triển, cần thực hiện những nguyên tắc phát triển sau đây.
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và văn minh là mục đích thường xuyên và cuối cùng trong mọi giai đoạn phát triển. Để đạt được mục đích này, phải dựa vào tăng trưởng kinh tế; còn tăng trưởng kinh tế lại phải được đặt trên nền tảng sử dụng lâu dài các nguồn tài nguyên, bảo tồn và cải thiện môi trường, không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Như vậy, chiến lược phát triển bền vững nhằm đạt được những kết quả xã hội cao nhất nhờ tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả và sử dụng hợp lý tài nguyên, môi trường trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái.
Thứ hai, để có thể đáp ứng được những nhu cầu phát triển con người và xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường, thì ít nhất trong thời gian mười năm tới Việt Nam phải coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, là một phương tiện chủ yếu để đạt được mục đích nêu trên. Có tăng trưởng nhanh về kinh tế mới có đủ điều kiện phát triển con người và cải thiện môi trường một cách tốt nhất. Song, tăng trưởng kinh tế phải dựa trên nguyên tắc hài hòa xã hội, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường lâu bền. Phải cố gắng tìm mọi cách để thực hiện nguyên tắc "mọi mặt (kinh tế, xã hội và môi trường) đều cùng có lợi". Trong những trường hợp không thể thực hiện được nguyên tắc này, cần tính toán đến cái giá phải trả về mặt xã hội và môi trường cho nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế sao cho tăng trưởng kinh tế được tính toán ở mức hợp lý để không vượt quá giới hạn tải trọng mà môi trường tự nhiên có thể chịu đựng được, không được để tác động nghiêm trọng tới môi trường ở mức không thể sửa chữa được, hoặc nếu sửa chữa thì phải trả giá quá đắt; và phải nằm trong khuôn khổ có thể chấp nhận được về những bất bình đẳng xã hội, như sự chênh lệch mức sống ở một mức độ nhất định giữa các vùng, các ngành, các tầng lớp xã hội, không gây nên những xung đột xã hội căng thẳng.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển.
Để bảo vệ và cải thiện môi trường sống, Hà nội phải xây dựng hệ thống pháp luật có hiệu lực về bảo vệ môi trường, chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển. Tích cực và chủ động ngăn chặn, phòng ngừa những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Khi chưa đánh giá tác động môi trường hoặc khi chưa biết chắc chắn căn cứ khoa học của tác động môi trường, thì không vội vã thực hiện hoạt động. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc "người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn". Cần phải sử dụng ngày càng tăng các công cụ kinh tế và các biện pháp khuyến khích về kinh tế để sử dụng hợp lý tài nguyên và thực hiện phát triển bền vững về mặt môi trường sinh thái.
Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Một mặt, cần phải tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng.
Mặt khác, thế hệ hiện nay cần phải tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, đồng thời cố gắng sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện môi tr-ờng sống, phát triển hệ thống sản xuất thân thiện với môi trường, xây dựng một lối sống lành mạnh, hài hoà với thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Phải chú trọng phát triển năng lực khoa học trong nước, kết hợp với tăng cường trao đổi kiến thức khoa học và công nghệ với các nước khác trên thế giới, chủ động tiếp nhận và tích cực chuyển giao công nghệ. Công nghệ hiện đại và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng ở những ngành và lĩnh vực có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực khác.
Thứ sáu, phát triển bền vững phải là sự nghiệp của toàn dân.
Để sự nghiệp phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn dân thì ngay từ bây giờ chúng ta giúp người dân có nhận thức đúng đắn về môi trường sống của chúng ta, về sự nghiệp phát triển bền vững cũng như quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ môi trường. Từ đó cần nâng cao nhận thức, năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải tạo môi trường. Thực hiện tốt quy định "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong mọi quyết định về phát triển ở các cấp chính quyền và các địa phương. Mọi quyết định về kinh tế, xã hội, môi trường có liên quan đến nhiều người, ở một phạm vi rộng đều phải tuân theo quá trình công khai thông tin và tham khảo ý kiến của những người có liên quan. Đảm bảo cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong quá trình ra quyết định về các dự án phát triển lâu dài. Phát triển bền vững phải được quy hoạch, lập kế hoạch và thực hiện ở mọi vùng và địa phương trong cả nước. Phát triển bền vững phải là mối quan tâm chung của chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Thứ bảy, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế là quan trọng đối với sự phát triển đất nước.
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Chủ động ngăn chặn, phòng ngừa những tác động xấu về môi trường do quá trình toàn cầu hóa kinh tế gây ra. Tích cực thực hiện những cam kết quốc tế và phối hợp với các nước, các tổ chức có liên quan để giải quyết những vấn đề phát triển khu vực và toàn cầu.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng và an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Kết luận
Qua việc nghiên cứu về thực trạng kinh tế - xã hội Hà nội trong giai đoạn hiện nay cũng như việc nghiên cứu về sự phát triển bền vững của các đô thị trong nước cũng như ngoài nước ta thấy việc xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát trỉên đô thị bền vững là một điều tất yếu. Phát triển bền vững nhằm mục đích nâng cao tối đa chất lượng cuộc sống của nhiều thế hệ con người trong khuôn khổ cho phép của hệ thống sinh thái. Quá trình phát triển bền vững nhằm đồng thời vươn tới sự phồn vinh về kinh tế, công bằng về xã hội, môi trường sinh thái trong lành và được đảm bảo trường tồn. Các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá phải được phối hợp với nhau một cách hài hoà. Với những mục tiêu tốt đẹp nhưng đầy thách thức, quan điểm về phát triển bền vững đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi và trở thành trào lưu hiện thực.
Là một trong những quốc gia cam kết thực hiện phát triển bền vững, Việt Nam đã tích cực thực hiện những công việc nhằm tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững. Phát triển bền vững của Việt Nam đã trở thành quan điểm chủ đạo và được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để có thể thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên, Hà nội cần phải có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, chính quyền địa phương và sự phối hợp tham gia của nhân dân trong việc vạch ra các kế hoạch hành động địa phương nhằm phát triển đô thị Hà nội theo hướng bền vững.
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô thời kỳ 2001-2010.
Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Tuyển tập báo cáo tại hội thảo quốc gia về báo cáo môi trường và phát triển
bền vững tại Hà nội từ ngày 7-9 tháng 10 năm 1993.
Bộ xây dựng. Quy hoạch xây dựng đô thị - Tiêu chuẩn thiết kế TCVN 4449-
1987 -NXB Xây dựng Hà nội.
Bộ Xây dựng- Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam
đến 2002 -Hà nội 1999.
Breuste,J. và đồng sự. Sinh thái đô thị. Springer, London,UK., 1998
Cục môi trường, khuôn khổ chính sách Bảo vệ môi trường của Việt Nam giai
đoạn 2001-2010. NXB Thế giới, Hà nội, 2001.
De La court, T và đồng sự. Các chỉ số phát triển đô thị bền vững - Quản lý
thông tin môi trường để sử dụng ở cấp quốc gia
Đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình Kinh tế đô thị - NXB Giáo dục 2002.
Đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình quản lý đô thị - NXB Thống kê 2003
Hội thảo dự án " Hà nội hướng tới tương lai" của Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hà nội - Tháng 6 năm 2003.
Giới thiệu phát triển bền vững. Routledge,London & New York,1994.
Kinh tế chất thải đô thị ở Việt Nam. - Nhà xuất bản chính trị quốc gia -1999.
Khái niệm đô thị bền vững và việc ứng dụng tại Việt Nam.
- NXB Thống kê 2000.
Niên giám thống kê 2001-2002
Tạp chí con số sự kiện
- Số tháng 7/1999 Bảo vệ môi trường vì một tương lai phát triển bền vững
Tác giả: Nguyễn Thế Sinh
Tạp chí con số sự kiện:
- Số thàng 12/1999 Bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam của tiến sĩ Lê Minh Đức.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV227.doc