Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tín dụng:
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp nhiều hạn chế, vì người có nhu cầu khó tìm gặp nhiều người có khả năng cung cấp. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đã khắc phục được hạn chế trên, đứng ra tập trung tiền tệ chưa sử dụng của tất cả chủ thể trong nền kinh tế, bao gồm các nhà doanh nghiệp, cá nhân và các cơ nhà nước, trên cơ sở đó cung cấp cho các chủ thể có nhu cầu cần bổ sung, tạm thời. Như vậy, Ngân hàng vừa là “người” đi vay vừa là “người” cho vay, hay nói cách khác nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng là đi vay để cho vay.
Trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế, phần lớn các quan hệ tín dụng được tập trung qua Ngân hàng, còn đối với các nhà doanh nghiệp thì nguồn tín dụng do các ngân hàng cung cấp đã trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết cấu tài sản nợ của Ngân hàng.
72 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xu thế cạnh tranh mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng tăng nhanh. Hầu hết các NHTM đã tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của dự án WB, bình quân mỗi ngày xử lý gần 10.000 chứng từ với số tiền 4.000 tỷ đồng, ngày cao điểm 15.000 chứng từ với 7.000 tỷ đồng. Mỗi giao dịch thanh toán thực hiện chỉ dưới 10 giây. Mới vài năm trước đây, chuyển tiền từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh phải mất trung bình từ 3 đến 5 ngày thì nay chỉ gần 1 giờ.
Nhìn chung công nghệ của các NHTM nhà nước ở nước ta những năm vừa qua đã phát triển vượt bậc so với những năm trước đây. Nhiều công nghệ hiện đại đã và đang được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như máy rút tiền tự động ATM, vấn tin tài khoản BBMS, dịch vụ Phone Banking, Internet Banking, thanh toán điện tử ,sản phẩm của INCAS, thẻ tín dụng nội địa,thẻ tín dụng quốc tế VISA, MASTER, song chưa đạt trình độ trung bình của khu vực. Nhiều NHTM quốc tế đã đạt trình độ công nghệ cao, các sản phẩm dịch vụ của NHTM ngày càng thỏa mãn nhu cầu của xã hội mang lại thu nhập từ dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng. Nhiều NHTM quốc tế tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ ngân hàng chiếm trên 40% tổng thu nhập trong khi các NHTM Nhà nước ở nước ta đạt mức trên dưới 20%.
Đầu tư chiều sâu để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM tập trung vào việc hiện đại hoá thanh toán. Ngân hàng Nhà nước và 4 NHTMNN, 2 NHTMCP hoàn thành giai đoạn I dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do WB tài trợ trên 40 triệu USD. Dự án tương tự giai đoạn II thực hiện từ năm 2005 – 2008, trị giá 112 tiệu USD đã được Chính phủ phê duyệt. Bao gồm: NHNN, 4 NHTMNN và NHTMCP hàng hải. Các NHTMCP khác tự tìm kiếm nguồn tài trợ và từ nguồn vốn của ngân hàng, chủ động liên hệ và thuê các hãng trên thế giới để lắp đặt và triển khai công nghệ hiện đại.
Trong cạnh tranh hoạt động nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, công nghệ ngân hàng hiện đại giữ vai trò quan trọng. Khi thực hiện hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, công nghệ ngân hàng giữ vai trò quyết định. Đưa công nghệ ngân hàng vào hoạt động kinh doanh đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ chuyên môn hóa và kỹ năng lao động cao, tạo nên năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh cao. Từ đó, có điều kiện tài chính thu hút lao động chất xám có trình độ cao thông qua cơ chế tiền lương, tiền thưởng và điều kiện làm việc.
Các NHTM nhà nước ở nước ta hiện nay, do lịch sử để lại, với biên chế khá đông, trình độ lao động nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa ngân hàng là thách thức lớn của các nhà quản trị ngân hàng khi ứng dụng công nghệ hiện đại.
PHỤ LỤC 3:
Hiện đại hoá, đa dạng hoá nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng
Đây là xu thế phát triển tất yếu của NHTM hiện nay nhằm duy trì quan hệ với các khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng trên các thị trường tiềm năng. Một ngân hàng kinh doanh đa năng – thực hiện kinh doanh đa dạng nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng cho khách hàng trong nền kinh tế – sẽ có nhiều lợi thế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng thông qua việc áp dụng các tiến bộ của công nghệ hiện đại, sẽ thu hút nhiếu khách hàng, tăng được nguốn vốn thông qua các khoản thu dịch vụ giúp cho ngân hàng có khả năng phân tán, hạn chế các rủi ro; nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và từng bước vươn ra thị trường bên ngoài. Do đó, các NHTM cần tập trung phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại và phải không ngừng nâng cao chất lượng các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng truyền thống đã có, xây dựng chiến lược tăng trưởng hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở hiện đại hoá, đa dạng hoá nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng; các NHTM được tự chủ trong việc quyết định đầu tư cho việc phát triển công nghệ về mặt tài chính, sản phẩm đầu tư; trong đó xác định bước đi thích hợp cho từng giai đoạn mở cửa hội nhập với khu vực, với quốc tế và phù hợp với định hướng chung của NHNN về chiến lược hiện đại hoá ngân hàng.
Có thể nói, sự cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất diễn ra trong lĩnh vực phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp. Tính đến nay có khoảng trên 20 NHTM tại Việt Nam thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ. Tổng số tài khoản cá nhân là khoảng 1,3 triệu tài khoản.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh tính đến cuối năm 2004, có tổng số 398.598 tài khoản cá nhân, tăng 53% so với năm 2003; với số dư tiền gửi trên tài khoản đạt 6.076 tỷ đồng, tăng 87,5% so với năm trước. Tại Hà Nội, cũng thời điểm cuối năm 2004, có tổng số 216.473 tài khoản cá nhân, với số dư 3.600 tỷ đồng, tăng khoản 40% - 50% so với cuối năm 2003.
Tính đến cuối năm 2004, trong toàn quốc có trên 650.000 chủ thẻ, với gần 600 máy ATM của các NHTM. Nhu cầu liên kết, nối mạnh sử dụng chung hệ thống máy ATM tăng lên. Do đó, trung tuần tháng 8/2004, công ty Chuyển mạch tài chính quốc gia đã khai trương hoạt động, với 11 thành viên là các NHTM và dự kiến quý II/2005, khách hàng sử dụng thẻ của 7 NHTM có quy mô lớn thuộc công ty này sẽ thực hiện rút tiền mặt, thanh toán qua hệ thống máy ATM của các NHTM này, sau đó mở ra tất cả các NHTM thành viên khác. Bên cạnh đó, 3 NHTM khác là Chohung Vina Bank, NHTM cổ phần kỹ thương và NHTM cổ phần quân đội cũng kết nối mạng hệ thống máy ATM của mình với ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, một NHTM đang dẫn đầu về cạnh tranh trên thị trường thẻ nước ta hiện nay.
Cạnh tranh mở ra nhiều loại dịch vụ mới đây là xu hướng phù hợp với ngân hàng các nước trong khu vực và quốc tế. NHTMCP xuất nhập khẩu Việt Nam Eximbank thỏa thuận với Công ty mua bán nợ thuộc Bộ tài chính về việc xử lý 300 tỷ đồng nợ xấu của mình, trong đó năm 2004 đã xử lý xong 150 tỷ đồng cón 150 tỷ đồng được xử lý vào năm 2005. NHTMCP Á Châu cũng thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, để chuyên lo xử lý nợ xấu của ngân hàng. Trước đó, 4 NHTMNN và NHTMCP quân đội cũng đã vận hành có hiệu quả Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của mình.
Cũng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá hàng xuất khẩu và bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng. NHTMCP các doanh nghiệp ngoái quốc doanh – VP Bank triển khai dịch vụ tiết kiệm bù trượt giá tiền gửi tiết kiệm VND theo mức độ trượt giá USD, nếu tỷ giá VND/USD tăng trên 0,5%/tháng thì khách hàng được VP Bank bù mức trượt trên 0,5%/tháng. NHTMCP Á Châu và NHTMCP Đông Á triển khai dịch vụ quyền lựa chọn mua bán vàng, bảo hiểm rủi ro mua bán vàng cho các khách hàng. Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ – OPTION, bảo hiểm rủi ro biến động tỷ giá cho khách hàng chính thức được thực hiện tại tất cả các NHTM được phép hoạt động kinh doanh ngoại tệ. NHTMCP kỹ thương Việt Nam – Techcombank triển khai nghiệp vụ quyền lựa chọn trong mua bán cà phê, bảo hiểm rủi ro xuất khẩu cà phê cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, cũng mở ra loại hình gửi tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ.
Việc mở rộng dịch vụ đã làm cho quy mô thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng nhanh. Tại Thành phố Hồ Chí Minh tính đến hết năm 2004, tổng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng trên địa bàn ước tính đạt 1.638.112 tỷ đồng, tăng 45% so với năm 2003, chiếm 85% trong tổng khối lượng thanh toán qua ngân hàng; trong đó phương thức thanh toán uỷ nhiệm chi chiếm 70%; uỷ nhiệm thu 2,6%; thanh toán thẻ chiếm 0,57% và các phương thức thanh toán khác chiếm 26,83%. Còn tại Hà Nội, doanh số thanh toán năm 2004 ước tính đạt 3.211.280 tỷ đồng, chiếm 91,3% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Trong toàn quốc, tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không ngừng tăng cao (xem bảng sau). Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng phát triển góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn cho các tổ chức và cá nhân, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ theo lãnh thổ dân cư thuận lợi, tiết kiệm nhiều chi phí và huy động được nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn đầu tư cho nền kinh tế.
Bảng 12: Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt của các NHTM
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt (%)
69,2
73,4
70,9
75
75
76
77
86
Nguồn: Kinh tế 2004 - 2005
PHỤ LỤC 4:
Bảng 13: Các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam
Năm
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
02
03
04
1- NHTMNN
4
4
4
4
4
5
6
6
6
6
6
6
5
5
2- NHTMCP
4
22
41
45
48
51
51
50
48
48
43
39
4
36
NHCP đô thị
4
16
25
29
29
31
31
30
28
-
-
-
-
25
NHCP nông thôn
0
6
16
16
19
20
20
20
20
-
-
-
-
11
3- NH liên doanh
1
2
3
3
4
4
4
4
5
5
5
5
5
4
4-CNNH nước ngoài
0
5
8
9
18
22
24
25
26
26
26
26
26
28
Nguồn: NHNN, số các NHTMCP giảm đi từ năm 1997 thể hiện một số ngân hàng bị sáp nhập trong quá trình cơ cấu lại
PHỤ LỤC 5:
Những chương trình thực hiện quá trình kế hoạch hoá chiến lược
khách hàng mà ngân hàng cần hoạch định:
Lựa chọn khách hàng chủ yếu
Giai đoạn này ngân hàng phải thu thập thông tin về khách hàng tiềm năng, phân loại và phân tích các thông tin để đưa ra danh sách khách hàng mà ngân hàng hướng tới theo mức độ hấp dẫn của hai loại thị trường, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.
Khách hàng trên thị trường đầu vào được phân loại dựa trên mức độ ổn định về thu nhập và chi tiêu của khách hàng. Khách hàng hấp dẫn nhất là khách hàng có thu nhập cao, chi tiêu hợp lý và ổn định. Vì hạn chế của ngân hàng là không thể kiểm soát chặt chẽ được điều đó do chỉ tiêu phân loại còn mang tính chất chung, hơn nữa ngân hàng lại có nhiều cách để duy trì sự ổn định trên thị trường này nên việc phân loại khách hàng chủ yếu tập trung ở thị trường đầu ra – nơi có tính chất quyết định đối với thị trường đầu vào. Tiêu chuẩn phân loại khách hàng cũng rõ ràng, chính xác và phát huy được hiệu quả cao.
Tiếp xúc khách hàng
Nhiệm vụ của giai đoạn này là làm cho khách hàng biết tới ngân hàng cũng như sản phẩm sẽ được cung ứng và từ đó nảy sinh quan hệ với ngân hàng. Ngân hàng có nhiều phương pháp tiếp xúc nhưng phương pháp thông dụng nhất là gửi tài liệu tra cứu về ngân hàng (tạp chí), quảng cáo sản phẩm của ngân hàng, tiếp xúc qua điện thoại, thông qua dịch vụ bưu chính hiện đại khác như thư điệu tử hay internet. Mỗi phương pháp luôn đi kèm với chi phí nhưng hiệu quả lại không đi liền kề. Mỗi ngân hàng dựa trên sự quản bá của mình để tìm ra phương pháp phối hợp với chi phí ít nhất nhưng hiệu quả cao nhất.
Phát triển nhu cầu khách hàng
Xuất phát từ những nhận định ban đầu về nhu cầu của khách hàng, để hiểu sâu sắc hơn về nhu cầu khách hàng, ngân hàng tổ chức những buổi gặp gỡ khách hàng trên cơ sở phân tích các vấn đề thuộc dịch vụ cung ứng như:
Phân tích các thông tin về các ngân hàng đang phục vụ khách hàng đó. Việc phân tích phải chỉ ra được việc sử dụng dịch vụ của ngân hàng mình sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Đánh giá điểm mạnh, yếu của từng ngân hàng, đánh giá khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng cạnh tranh. Biện pháp được sử dụng là nâng cao chất lượng phục vụ, hạ giá thành, cung ứng các dịch vụ bổ sung, tăng cường tiếp xúc với khách hàng.
Ngân hàng cũng cần nắm bắt được quá trình sử dụng dịch vụ tài chính của mình, nghiên cứu cơ cấu tổ chức của khách hàng – xem xét ai là người cuối cùng đưa ra quyết định sử dụng dịch vụ tài chính và cá tính của họ. Nắm bắt được nhu cầu tài chính trên cơ sở nhận biết từ các quyết sách, chiến lược của công ty.
Các phân tích trên cho phép xác định khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng, song cũng cần phải phân tích tính hợp lý của việc tranh chấp khách hàng, bởi tranh giành khách hàng của nhau sẽ gây những sứt mẻ trong quan hệ giữa các ngân hàng.
Duy trì quan hệ đối với khách hàng
Đây là giai đoạn kết chặt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng khi khách hàng đã có những giao dịch thường xuyên với ngân hàng, nhằm mục đích chính là làm cho họ trở thành những khách hàng thực sự trung thành. Đây là giai đoạn mấu chốt của chiến lược khách hàng, nó quyết định thành công của ngân hàng, lợi nhuận đạt tới mức cao và ổn định.
Các NHTM hiện nay đang từng bước nghiên cứu ứng dụng marketing vào hoạt động kinh doanh dưới các hình thức như thông tin quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, chăm sóc đối với khách hàng có quan hệ và khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, việc đầu tư cho các công tác này còn hạn chế. Theo xu thế chung, hoạt động ngân hàng ngày càng có sự cạnh tranh quyết liệt hơn khi mà nước ta thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tiến trình gia nhập WTO, cùng với sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường, việc thực hiện tốt chiến lược khách hàng cần được các NHTM xem xét đánh giá xem như vấn đề sống còn để tồn tại và phát triển.
PHỤ LỤC 6:
Các bước cho quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế
của hệ thống NHTMVN
Một số chỉ tiêu quan trọng để phát triển ngành ngân hàng từ nay đến năm 2010:
- Lạm phát bình quân (CPI) 5 – 6%/năm.
- Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2) đạt 15 – 20%/năm. Tỷ lệ M2 trên GDP phải đạt gần 50% vào 2005 và đạt 60% vào năm 2010.
- Hoàn thiện hệ thống thanh toán lên ngân hàng.
- Tốc độ tăng vốn huy động 20 – 25%/năm. Nâng quy mô huy động vốn lên 60%GDP vào năm 2005 và khoảng 70%GDP vào năm 2010.
- Tăng trưởng tín dụng cho vay đối với nền kinh tế 16 – 20%/năm. Trong năm 2005, mức dư nợ cho vay nền kinh tế đạt khoảng trên 60%GDP, phấn đấu đưa tỷ lệ đầu tư tín dụng chiếm khoảng 25% đến 30% tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó tín dụng trung dài hạn duy trì 40% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại: Vốn tự có/ Tổng tài sản có đạt trên 8%.
- Chất lượng tín dụng: tỷ lệ nợ quá hạn dưới 4% (theo kiểm toán quốc tế).
- Khả năng sinh lời (ROE) của hệ thống NHTM bình quân 14 – 16%.
- Nâng tỷ trọng cán bộ ngân hàng có trình độ Đại học và trên đại học lên 50% năm 2005 và đạt 70% năm 2010.
Để đạt được các chỉ tiêu này, các bước đi cụ thể về tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế về ngân hàng có thể chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn một từ nay đến hết năm 2005:
Đây là năm mà hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải thực hiện việc chuẩn bị cho tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế theo cam kết song phương và đa phương như ASEAN, AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và tiến tới WTO. Với điều kiện như vậy, các ngân hàng cần phải:
Mở rộng quy mô và hiệu suất hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam để có đủ năng lực huy động các nguồn lực tài chính từ trong nước và nước ngoài cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của Việt Nam trong những năm tới.
Củng cố tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng, đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả trong cơ chế thị trường – mở cửa hội nhập quốc tế. Đối tượng thuộc diện củng cố/cơ cấu lại bao gồm các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần và kể cả hệ thống quỹ tín dụng nhân dân còn hết sức mong manh.
Tăng cường tính hiệu quả đối với thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường mở trên cơ sở tăng hàng hoá cho thị trường, thay đổi cơ chế chính sách, đổi mới công cụ chính sách tiền tệ hiện nay, cơ cấu lại ngân hàng Nhà nước.
Cải thiện hệ thống thanh toán của ngân hàng trên cơ sở hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tin học hoá công nghệ ngân hàng, hệ thống thông tin quản lý nhằm giảm tình trạng sử dụng tiền mặt và thanh toán ngoài Ngân hàng ở Việt Nam.
Xoá bỏ cơ chế quản lý ngoại tệ đóng và xây dựng cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng mở cửa, đồng thời có quy chế kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài, đặc biệt là nợ ngắn hạn và các luồng vốn đầu cơ khác.
Nới lỏng các hạn chế về hoạt động ngân hàng cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nhằm tạo một “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các ngân hàng và nâng cao tính minh bạch của hệ thống tài chính.
Thực hiện chuyển đổi VND trên tài khoản vãng lai. Thực hiện việc tự do hoá tài khoản vãng lai nhằm nâng cao vị thế và khả năng chuyển đổi của VND.
Giai đoạn hai từ 2006 đến 2010
Đây là giai đoạn mà Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại và dịch vụ (AFTA) của ASEAN, như xây dựng môi trường pháp lý cho hệ thống ngân hàng phù hợp thông lệ quốc tế, không hạn chế số lượng các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam, không hạn chế về tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng, không hạn chế về tổng người được tuyển dụng vào các tổ chức tài chính nước ngoài, không có các biện pháp hạn chế hay yêu cầu phải mang một hình thức pháp nhân nào, không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ phần trăm tối đa trong số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ.
Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng phải thực hiện các cam kết theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và các cam kết quốc tế khác như xem xét cho thí điểm bán cổ phần NHTMNN cho nhà đầu tư nước ngoài. Các nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn này là: Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng phải phù hợp với luật pháp quốc tế, hình thành một số tập đoàn tài chính vào loại trung bình trong khu vực, các hạn chế về số lượng và phạm vi hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được loại bỏ, Đồng Việt Nam có một vị trí nhất định trong giao dịch quốc tế về khả năng chuyển đổi, tiến tới hoạt động ngân hàng Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế.
Xây dựng tập đoàn Tài chính của Nhà nước
Năm 2005 là năm cuối của giai đoạn 2001 – 2005 chuẩn bị cho quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào cộng đồng tài chính quốc tế. Do đó, vấn đề tăng tiềm lực tài chính và năng lực cạnh tranh cho các NHTM, cả trên thị trường trong nước lẫn nước ngoài là yêu cầu hàng đầu. Việc nghiên cứu xây dựng mô hình Tập đoàn tài chính – ngân hàng của Nhà nước có thể sẽ là giải pháp để ngân hàng Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và mở rộng hoạt động ngân hàng ra nước ngoài.
Trong định hướng xây dựng Tập đoàn tài chính, NHTMNN cần đưa ra mô hình tổ chức phù hợp, mà đây là tập đoàn tài chính có khả năng hoạt động ở tầm quốc tế (về mặt tổ chức lẫn tài chính). Hệ thống quản lý tài chính, quản lý rủi ro, quản lý khách hàng, cũng phải được cơ cấu lại cùng với cơ cấu lại tài chính, tổ chức để đảm bảo vào năm 2006, Việt Nam có một tập đoàn tài chính vào cỡ trung bình ở khu vực. Mô hình tập đoàn ngân hàng sẽ là ngân hàng đa năng.
Huỷ bỏ các giới hạn về số lượng ngân hàng nước ngoài và phạm vi hoạt động của nó trên lãnh thổ Việt Nam
Tiếp theo việc nới lỏng những hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005, trong giai đoạn 2006 – 2010, theo các cam kết quốc tế, Việt Nam cần phải huỷ bỏ toàn bộ các quy định giới hạn về số lượng ngân hàng nước ngoài và phạm vi hoạt động của nó trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có thể chủ động thực hiện trước một số điểm nào đó trong lộ trình cam kết này.
Những lộ trình cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới như:
Về thuê mua tài chính: Từ 10/12/2010 (sau 9 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực), các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng có 100% vốn Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam.
Về bảo lãnh và cam kết:
Từ 10/12/2009 (sau 8 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực), bãi bỏ hạn chế về quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng VND từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng.
Từ 10/12/2011 (sau 10 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực), bãi bỏ hạn chế về quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng VND từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng.
Về môi giới tiền tệ: Từ 10/12/2009 (sau 8 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực), các định chế đầu tư tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát hành thẻ tín dụng được hưởng chính sách đối xử quốc gia.
Chuyển đổi nội bộ Đồng Việt Nam
Từ năm 2006 đến 2010, có thể thực hiện chuyển đổi nội bộ VND. Đặc biệt khi Việt Nam đã có tập đoàn tài chính mạnh, hệ thống ngân hàng mạnh, hoạt động rộng khắp trên thế giới, dự trữ ngoại tệ không tính bằng tuần nhập khẩu mà theo mức độ chu chuyển vốn quốc tế, khi Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trung tâm tài chính quốc tế quan trọng.
Nâng tầm hoạt động của ngân hàng Việt Nam ra thị trường quốc tế
Trên cơ sở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, các ngân hàng sẽ chuyển một số thành chi nhánh ngân hàng Việt Nam hoạt động tại nước ngoài vào những năm 2006 trở đi.
Từ 2010, Việt Nam đã có một số tập đoàn tài chính vào loại trung bình ở khu vực; tầm hoạt động của các ngân hàng, tập đoàn tài chính sẽ trên phạm vi toàn cầu (24 múi giờ – aruond o’clock). Thành phố Hồ Chí Minh có thể là trung tâm tài chính quốc tế quan trọng say năm 2010. Và đó là cơ sở để hệ thống ngân hàng Việt Nam vươn ra thị trường tài chính quốc tế.
Chuyển đổi VND về các dòng vốn lưu chuyển
Từ năm 2006 – 2010 và những năn tiếp theo, thị trường tài chính Việt Nam , trong đó có thị trường chứng khoán sẽ phát triển về quy mô và tầm liên kết với các trung tâm tài chính khu vực và thế giới. Khi đó, các giao dịch về vốn sẽ được chu chuyển khá tự do theo quy định về chu chuyển vốn quốc tế, VND được tự do chuyển đổi theo các giao dịch vốn quốc tế.
Gia nhập thị trường tài chính quốc tế
Năm 2010, thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển, thị trường tài chính đã có sự hội nhập rất cao với thị trường tài chính quốc tế.
Các ngân hàng Việt Nam cũng có tầm hoạt động rộng khắp, các nhà đầu tư Việt Nam cũng được đầu tư ra nước ngoài một cách trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp qua thị trường Tài chính quốc tế.
Khi chúng ta thực hiện một cách chủ động theo các bước nói trên, có thể nói đến năm 2010 cơ chế tự do hoá Tài chính đã có chỗ đứng vững chắc, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ hội nhập vào hệ thống tài chính ngân hàng thế giới. Chúng ta có thể hoàn toàn có điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
PHỤ LỤC 7:
Bảng 14: Nhu cầu bổ sung vốn cho NHTMNN Việt Nam
Thời điểm 2000
Thời điểm 2006
Nghìn tỷ đồng
%GDP
Nghìn tỷ đồng
%GDP
NH Ngoại thương
3
0,8
0
NH Nông nghiệp
6
1,2
8
1,7
NH Công thương
11
1,8
15
2,9
NH Đầu tư & phát triển
5,5
1,2
7
1,4
Tổng số 4 NHTMNN
25,5
4,5
30
6
Nguồn: Báo cáo kiểm toán 4 NHTMNN, bản dự thảo 6/2002 – WB
PHỤ LỤC 8:
Củng cố sức mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã thực hiện chương trình cải cách kinh tế toàn diện. Cùng với tiến trình cải cách này, hệ thống ngân hàng cũng được cải cách, chuyển đổi theo cơ chế thị trường, góp phần đem lại cho Việt Nam nhiều thành tựu trong những năm đầu của thập kỷ 90 như ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, Tuy nhiên, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 – 1998, những yếu kém vốn có của khu vực ngân hàng đã lộ rõ. Một số ngân hàng yếu kém đứng trước nguy cơ đổ vỡ, tình hình dollar hoá trở nên trầm trọng Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam cũng đã suy giảm đáng kể, đầu tư và tiêu dùng giảm sút mạnh dẫn đến hậu quả vốn ứ đọng tại các ngân hàng và mở rộng tín dụng gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương thực hiện một bước mới cải cách kinh tế toàn diện. Khu vực ngân hàng cũng được đặt trong chương trình cải cách toàn diện đó.
Cải cách hệ thống NHTM đảm bảo để hệ thống này hoạt động lành mạnh và hiệu quả, làm tốt chức năng kênh dẫn vốn từ khu vực tiết kiệm sang khu vực đầu tư theo cách phân bổ hiệu quả nhất. Kết quả của cải cách hệ thống ngân hàng sẽ góp phần cải thiện tỷ lệ tiết kiệm trong nước và phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, tăng cường khả năng cạnh tranh, năng lực quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế tự do hoá tài chính. Cải cách cũng đảm bảo để hệ thống NHTM là kênh truyền tải chính sách tiền tệ, qua đó đảm bảo để NHNN thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Trong quá trình cải cách NHTM, Việt Nam đã và đang từng bước tách bạch cho vay chính sách và cho vay thương mại đảm bảo hạn chế những rủi ro đạo đức, đảm bảo sự minh bạch giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Tính hiệu quả, lành mạnh hơn của hệ thống ngân hàng trong nước do cải cách này mang lại cũng tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam, giảm thiểu rủi ro do có sự chuyển vốn ồ ạt như tình trạng ở Thái Lan năm 1997.
PHỤ LỤC 9:
XU THẾ CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
VÀ NHTM TRONG NƯỚC
Lợi thế cạnh tranh của các NHTM trong nước.
Thứ nhất: Các NHTM Việt Nam hiện đang chiếm lĩnh thị phần lớn thị trường tài chính trong nước. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước là khách hàng gửi tiền và vay vốn của các NHTM Việt Nam. Các NHTM quốc doanh chủ yếu cho vay doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân lớn và khu vực nông thôn, các NHTM cổ phần chủ yếu cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa và tham gia một phần thị trường nông thôn, còn các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phục vụ chủ yếu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, các NHTM Việt Nam có mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước, là điều kiện để thâm nhập vào hầu hết các nhóm dân cư, qua đó có tiềm năng lớn mở rộng khả năng huy động vốn. Đây có thể nói là lợi thế lớn của các NHTM Việt Nam. Khả năng thâm nhập, mở rộng thị phần của các ngân hàng nước ngoài là khá khó khăn (kể từ năm 1995 đến nay hầu như thị phần của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng không đáng kể, chỉ khoảng 2-3%). Tuy nhiên, trong tương lai, nếu các NHTM trong nước không phát huy thế mạnh vốn có này bằng việc nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, tạo hình ảnh tốt của ngân hàng với khách hàng, tìm hiểu để đưa vào khai thác những sản phẩm độc đáo phù hợp với thị hiếu của người dân Việt Nam hay nói cách khác không làm tốt nhiệm vụ Marketing ngân hàng thì sẽ làm giảm bớt , có thể mất đi lợi thế này.
Trong lợi thế vốn có này, điều đáng lưu ý sự phân đoạn thị trường tương đối rõ nét của các NHTM quốc doanh với các NHTM cổ phần, dẫn đến sự cạnh tranh hầu như không ảnh hưởng đến các NHTM quốc doanh, trong khi đó, các NHTM cổ phần bị cạnh tranh nhiều về lãi suất. Điều này cũng hạn chế đáng kể khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam nói riêng và hệ thông tài chính-ngân hàng nói chung.
Thứ hai: Các NHTM Việt Nam có sự hiểu biết sâu sắc tâm lý, phong tục tập quán, thu nhập, văn hoá-xã hội của khách hàng, những thành viên tham gia thị trường tài chính là một lợi thế mà các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khó có thể thâm nhập. Việc này cho phép các NHTM hiểu biết một cách tốt nhất nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, qua đó tạo ra những sản phẩm dịch vụ thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng, tìm kiếm và xác định thị trường mục tiêu phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình.
Thứ ba: Trong thời điểm hiện nay, một lợi thế nữa của các NHTM Việt Nam, đó là được điều kiện pháp lý thuận lợi hơn các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đó là việc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được nhận tiền gửi không kỳ hạn của các cá nhân và tổ chức kinh tế không có quan hệ tín dụng ở mức không vượt quá 25% vốn tự có, không được đặt máy ATM Tuy nhiên, những hạn chế này dần được xoá bỏ, nên lợi thế này không phải là lợi thế căn bản, chỉ mang tính thời điểm, nhưng rất cần thiết để các NHTM Việt Nam có đủ thời gian để hạn chế những lợi thế khác của các đối thủ cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Thứ nhất: Năng lực kinh doanh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là rất cao, họ có một bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh ngân hàng. Hơn nữa, họ lại được đào tạo bài bản về nghiệp vụ kinh doanh, quản trị điều hành trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, năng lực quản lý của các NHTM Việt Nam nhìn chung còn thấp hơn, do Việt Nam mới thực hiện chuyển đổi theo nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 10 năm. Thêm vào đó, đội ngũ của các cán bộ của các ngân hàng trong nước phần lớn chưa được đào tạo một cách căn bản về những kiến thức, nghiệp vụ cần thiết của kinh tế thị trường và ngân hàng hiện đại. Mặt khác, cơ cấu quyền lực và quan hệ lợi ích trong các NHTM quốc doanh cũng như cổ phần chưa rõ ràng. Để có thể cạnh tranh đựơc với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đòi hỏi phải có thời gian và các NHTM Việt Nam phải có chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán bộ các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường và NHTM hiện đại.
Thứ hai: Các chi nhánh ngân hành nước ngoài được trang bị công nghêï ngân hàng hiện đại. Có thể nói, công nghệ ngân hàng, số lượng và chất lượng các dịch vụ ngân hàng tài chính của các ngân hàng Việt Nam còn kém xa so với các ngân hàng nước ngoài. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi lẽ các ngân hàng nước ngoài đã có rất nhiều năm hoạt động kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường phát triển với môi trường công nghệ hiện đại. Trong khi các ngân hàng Việt Nam mới có gần chục năm được hình thành và phát triển, chủ yếu mới chỉ hoạt động nghiệp vụ truyền thống là hoạt động tín dụng, huy động để cho vay, các công nghệ là các công nghệ truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hầu như chưa thực hiện nhiều, chỉ một số dịch vụ như thanh toán, chuyển tiền và bảo lãnh. Trong khi các ngân hàng Việt Nam hiện nay mới đang loay hoay với một số công nghệ và dịch vụ được coi là mới như phát hành và thanh toán thẻ, thì các ngân hàng nước ngoài đã phát triển nhiều các dịch vụ khác nhau với những công nghệ ngân hàng rất hiện đại như Internet Banking, Home Banking, E – Banking
Hiện tại mới chỉ một số NHTMCP đô thị đã và đang thực hiện việc hiện đại hoá phần mềm công nghệ như NHTMCP Sài Gòn Thương Tín, NHTMCP Phương Nam, Đông Á, Á Châu, Kỹ Thương Trên thực tế cho thấy, số lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng Việt Nam chiếm tới trên 75% tổng lợi nhuận, và chỉ khoảng trên 10% là lợi nhuận thu được từ phí dịch vụ ngân hàng so với tổng lợi nhuận. Trong khi nhiều ngân hàng nước ngoài lợi nhuận từ phí dịch vụ vào khoảng trên 60% tổng lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, do thực trạng công nghệ tin học ở Việt Nam chưa phát triển, do vậy, cũng hạn chế các chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng các dịch vụ này, vì nhu cầu khách hàng về các dịch vụ này thấp. Song với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập thì đây là một lợi thế quan trọng, các NHTM trong nước cần có những nỗ lực để chiếm lĩnh được lợi thế này.
Thứ ba: Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các NHTM trong nước trong việc sử dụng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ hiểu biết đầy đủ hơn các sản phẩm phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai Do vậy, việc đưa các sản phẩm này vào hoạt động sẽ thuận lợi hơn các NHTM trong nước.
Thứ tư: Năng lực tài chính của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là mạnh hơn các NHTM trong nước: (Tỷ lệ vốn điều lệ / Tổng tài sản có) của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 14,6%, trong khi đó, NHTM trong nước chỉ 4,6%; nợ quá hạn của các NHTM trong nước cao hơn nhiều so với chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (Tỷ lệ nợ quá hạn của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài dưới 1%). Tỷ lệ nợ quá hạn cao khiến các ngân hàng dễ bị tổn thương bởi các cú sốc bên trong và bên ngoài, nó ảnh hưởng đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam nói riêng, của Quốc gia nói chung.
Vốn điều lệ/Tổng tài sản có
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
14,60%
Hệ thống NHTM trong nước
4,60%
Các NHTMCP có vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ rất nhỏ so với các ngân hàng nước ngoài. Có thể nói rằng, toàn bộ vốn của của tất cả mấy chục NHTMCP của Việt Nam có khi chỉ bằng hoặc không bằng vốn của một ngân hàng tầm cỡ trên thế giới (như các ngân hàng của Mỹ hay Nhật). Chúng ta không thể so sánh giữa vốn điều lệ của các NHTM trong nước với vốn được cấp của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà phải so sánh với vốn của ngân hàng nước ngoài đó, bởi lẽ: các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài mặc dù vốn được c61p chỉ vào khoảng 15 – 20 triệu USD (tức chỉ khoảng 250 – 350 tỷ) song các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không chỉ hoạt động bằng số vốn được cấp này. Số vốn được cấp của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ là số vốn ban đầu mà ngân hàng mẹ cấp để hoạt động, mà chi nhánh ngân hàng nước ngoài nó là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài, hạch toán phụ thuộc.
Thứ năm: Mức độ rủi ro trong họat động của các NHTM trong nước lớn hơn nhiều so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Trước hết, là khả năng sinh lời rất thấp và có xu hướng giảm. Mặc dù các NHTM mđã có nhiều cố gắng phát triển các dịch vụ phi tín dụng như đầu tư, kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán nhưng lợi nhuận từ các hoạt động hầu như không bù đắp nổi việc suy giảm nhanh chóng của lợi nhuận từ khu vực tín dụng do nợ quá hạn lớn; chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay thu hẹp nhanh; công nghệ ngân hàng còn lạc hậu. Đây chính là vấn đề cấp bách của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Yếu tố quan trọng khác gây rủi ro tài chính cho các ngân hàng Việt Nam hiện nay là sự mất cân đối về các loại ngoại tệ do tình trạng đôla hoá nền kinh tế gây ra và sự mất cân đối kỳ hạn trong hoạt động cho vay và huy động tiền gửi. Điều này làm tăng rủi ro hối đoái và rủi ro tín dụng. Một rủi ro khác là nợ quá hạn bằng ngoại tệ có tỷ lệ gấp đôi nợ quá hạn bằng VND trong ttổng dư nợ cùng loại. Đối với các ngân hàng quốc doanh, tính dễ thay đổi của tiền gửi ngoại tệ có thể làm trầm trọng thêm vấn đề thanh khoản và khả năng làm giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia. Như vậy, xét chung theo tình trạng nợ, tiền gửi ngoại tệ trong các bảng cân đối tài sản các ngân hàng và hiệu quả điều tiết, giám sát tài chính thì các mức độ rủi ro tài chính vẫn còn cao, tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn yếu kém so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Từ những phân tích về lợi thế cạnh tranh của các NHTM trong nước và của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có thể thấy rằng lợi thế cạnh tranh thuộc về các NHTM trong nước nhiều hơn. Những nỗ lực gầm đây trong việc cải cách, đặc biệt là công nghệ ngân hàng đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong các NHTM quốc doanh và các NHTM cổ phần, cho thấy những lợi thế vốn có của các ngân hàng đã được khai thác và thâm nhập. Tuy nhiên, sự phân đoạn thị trường trên thị trường tài chính Việt Nam, cũng như sự kém phát triển của thị trường này là một bất lợi lớn để các NHTM Việt Nam nâng cao vị thế cạnh tranh của mình. Việc phân đoạn thị trường còn là một khó khăn cho NHNN thực thi chính sách tiền tệ gián tiếp của mình. Mặc dù chính sách tiền tệ và tỷ giá của NHNN đã có những nới lỏng đáng kể, song do sự phân đoạn thị trường quá rõ nét đã làm cho lãi suất trên thị trường được hình thành ở nhiều mức khác nhau, qua đó hạn chế khả năng kiểm soát lái suất NHNN thông qua các công cụ tiền tệ gián tiếp.
PHỤ LỤC 10:
Nới lỏng hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Quyết định 210/2005/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ huy động tiền gửi VND đối với chi nhánh ngân hàng của các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) hoạt động tại Việt Nam. Theo đó, các ngân hàng này được phép nhận tiền gửi bằng VND từ pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng tối đa bằng 400% vốn được cấp, từ thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng tối đa bằng 350% vốn được cấp. Như vậy, so với quyết định được ban hành vào tháng 4/2004 thì tỷ lệ này đã được nới rộng hơn (mức trước đây là 250%) và hiện đã tương đương với chi nhánh ngân hàng Mỹ hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ thì lộ trình nới lỏng tỷ lệ huy động tiền gửi VND tiếp tục được thực hiện qua từng năm và sẽ xoá hẳn vào năm 2010.
Theo một quan chức NHNN, việc ban hành Quyết định trên nằm trong kế hoạch của Chính phủ trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Thực ra đây không phải là lần đầu tiên NHNN nâng tỷ lệ huy động VND cho các ngân hàng châu Âu, trong năm 2004, NHNN đã có quyết định tương tự khi nâng từ mức 50% áp dụng suốt thời gian trước đó lên 250%. Như vậy, trong 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đến từ nhiều nước, chỉ có ngân hàng Mỹ và châu Âu là có mức huy động cao hơn cả. Ngân hàng châu Âu mặc dù ngang bằng với ngân hàng Mỹ nhưng vẫn chưa có lộ trình nâng tỷ lệ huy động này. Sau năm 2005, các ngân hàng châu Âu có được tiếp tục nâng tỷ lệ huy động VND hay không là điều chưa chắc chắn. Đây chính là điều mà nhiều ngân hàng nước ngoài luôn lên tiếng về việc NHNN cần có một lộ trình áp điều chung cho tất cả các ngân hàng nước ngoài như ngân hàng Mỹ. Mặc dù đáp ứng này chưa được NHNN thỏa mãn nhưng theo ông Alain Cany, Giám đốc ngân hàng HSBC tại Việt Nam, việc nâng tỷ lệ huy động VND cho các ngân hàng thuộc EU lên ngang bằng với Mỹ là một tín hiệu tốt. “Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình hội nhập, việc mở cửa cho lĩnh vực ngân hàng và nới lỏng các hạn chế đối với ngân hàng nước ngoài sẽ sớm diễn ra và đây là cơ hội để ngân hàng nước ngoài đẩy mạnh hoạt động tại Việt Nam”. Hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được NHNN đánh giá cao, tuy nhiên, hiện tại khối ngân hàng nước ngoài mới chỉ chiếm hơn 10% thị phần ngân hàng Việt Nam.
PHỤ LỤC 11:
TRUNG QUỐC TRÊN CON ĐƯỜNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Trước năm 1993, 4 NHTM quốc doanh (hoặc “Big Four”) thường không bao giờ công khai thừa nhận khái niệm cũng như số lượng các khoản nợ xấu. Năm 1999, NHTW Trung Quốc (PBOC) đã tiến hành thành lập 4 công ty quản lý tài sản (AMC) nhằm xử lý nợ xấu tồn tích dự kiến chiếm tới 70% dư nợ tín dụng. Nhiệm vụ của các AMC là tập trung thu thập, tái cơ cấu hoặc chuyển nhượng các khoản nợ khê đọng (NPL) chuyển đổi các NPL thành cổ phiếu, phát hành trái phiếu tài chính và vay mượn từ các tổ chức tài chính, tư vấn (và bảo lãnh) niêm yết. Các NPL được chia thành 4 cấp độ từ bình thường đến dưới tiêu chuẩn và cuối cùng là tiềm ẩn “mất trắng”. Trong năm 2000 đã có khoảng 1,4 tỷ NDT (tương đương 160 tỷ USD) đã được chuyển giao cho các AMC, con số này chỉ thể hiện một phần giá sổ sách của các NPL của Big Four. Hiện tại theo dự đoán hệ thống ngân hàng Trung Quốc đang nắm giữ trên 500 tỷ USD các NPL. Nguồn tin từ các AMC cho hay, tính đến 31/3/2003, đã có 343 tỷ NDT các NPL đã được bán và thu về khoảng 71 tỷ NDT tiền mặt (khoảng 20,7%).
Thực tế là nếu Big Four muốn đạt được những chỉ tiêu về các NPL, dự phòng thua lỗ tín dụng và an toàn vốn đến năm 2005 do Chính phủ áp đặt thì cần rất nhiều nguồn hỗ trợ. Hoạt động của các tổ chức tài chính này vẫn bị ràng buộc bởi nhu cầu tạo thêm các khoản dự phòng mới nếu muốn tự mình tạo ra vốn. Lợi nhuận ròng của Big Four, thể hiện ở chỉ số thu lời từ tài sản có, vẫn ở mức thấp do chúng tiếp tục sử dụng một tỷ lệ lớn lợi nhuận hoạt động trước dự phòng để xoá sổ các tài sản khê đọng, bù đắp các khoản lãi phải thu và trích lập các khoản dự phòng bổ sung cho tài sản khê đọng. Việc tăng nhanh chóng dư nợ tín dụng có thể giúp ngân hàng nâng cao lợi nhuận hoạt động trong tương lai gần, song chất lượng của các danh mục cho vay cũng có thể trở thành một trở ngại trên con đường cải cách lĩnh vực dịch vụ tài chính. Để cải thiện danh mục tín dụng nhằm đảm bảo xếp hạng cao, Big Four phải thực hiện tái vốn hoá thỏa đáng và cải tiến chất lượng tài sản. Việc tái vốn hoá có thể được tiến hành thông qua hoặc là trực tiếp phát hành cổ phiếu hoặc là gián tiếp xử lý một lượng lớn các NPL với giá xử lý gần bằng mệnh giá. Tất nhiên, mức độ tái vốn hoá phụ thuộc vào khả năng của từng tổ chức song trong hầu hết trường hợp cần phải lớn hơn năng lực tạo vốn nội bộ của tổ chức đó.
Với quy mô hoạt động hiện thời, Big Four không thể giảm tỷ lệ nợ khê đọng/tổng dư nợ xuống còn 15% đến năm 2005. Đánh giá của công ty Standard&Poor’s cho rằng riêng lĩnh vực ngân hàng, Trung Quốc sẽ cần ít nhất 10 năm và có thể 20 năm để giảm tỷ lệ trên xuống mức quản lý 5%. Dù vậy cần thừa nhận sau một vài năm cải cách, các quyết định cho vay của Big Four ít bị chi phối bởi quyết định hành chính, ngoại trừ trường hợp các ngân hàng nội địa khác. Bước tiếp theo của cải cách là nâng cao tính tự trị của các ngân hàng. Thất bại ở bước này có thể tạo ra một cơ chế cho vay mang nặng tính hàng chính từ Trung ương.
Xem ra việc thâm nhập vào Big Four của các nhà đầu tư nước ngoài là tương đối khó khăn, do vậy, xúc tiến mua cổ phần chiến lược tại các NHTM quy mô vừa đang là mục tiêu hàng đầu của giới đầu tư nước ngoài. Đến nay, lĩnh vực ngân hàng Trung Quốc tiếp tục được bảo hộ mạnh. Sự tham gia của nước ngoài bị hạn chế bởi một số các hình thức giới hạn cả về quy mô cũng như phạm vi hoạt động. Theo những cam kết với WTO, đến năm 12/2006, Trung Quốc sẽ phải dần dỡ bỏ các hàng rào đối với nhà đầu tư nước ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH CHUYÊN NGÀNH
Thái Bá Cần – Trần Nguyên Nam (Học viện tài chính), Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB Tài chính
2. Wendy Dobsen – Pierre Jacquet, Tự do hoá tài chính trong khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm các nước, Viện nghiên cứu tài chính
Phạm Văn Năng, (2003), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Cục xuất bản – Bộ Văn hoá Thông tin
4. Trần Ngọc Thơ, (2005), Kinh tế Việt Nam trên đường hội nhập: Quản lý quá trình tự do hoá tài chính, NXB Thống Kê
5. Võ Thanh Thu, (2003), Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống Kê
6. Lê Văn Tư, Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản (NXB) Thống Kê
Edward W.Reed PH.D – Edward K.Gill PH.D (Lê Văn Tề & Hồ Diệu biên dịch), Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê
8. Học viện Ngân hàng, (2001), Quản trị ngân hàng, NXB Thống Kê
TÀI LIỆU BÁO, TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH, TÀI LIỆU INTERNET
Đặng Ngọc Ba, (2004), Khách hàng và chiến lược khách hàng trong hoạt động kinh doanh của NHTM, Tạp chí ngân hàng, Số 10, Trang 43-45
2. Đinh Anh Dũng, (2005), Ngân hàng nước ngoài - đối thủ cạnh tranh của các NHTM cổ phần trong hội nhập, Thị trường tài chính tiền tệ, Trang 26-27&36
3. Nguyễn Đức Hoàn, (2005), Diễn biến tiền tệ-ngoại hối năm 2004, Kinh tế 2004-2005, Trang 34-38
4. Nguyễn Đắc Hưng, (2005), Một năm thành công về chính sách tiền tệ, Kinh tế 2004-2005, Trang 29-33
Lê Quốc Lý – Đặng Đức Anh, (2004), Tăng cường khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, Số 5,
Trang 9-11
6. Nguyễn Trọng Nghĩa, (2004), Một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của các NHTM cổ phần Việt Nam, Thị trường tài chính tiền tệ, Trang 7-10
7. Nguyễn Văn Phúc, (2005), Giải pháp nào cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước, Công nghệ ngân hàng, Số 3, Trang 22-24
8. Martin Rama, (2005), Một số ưu tiên về cải cách ngân hàng trong xây dựng kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, Tạp chí ngân hàng, Số chuyên đề năm 2005, Trang 18-20&24
9. Hoàng Liên Sơn, (2004), Trung Quốc trên con đường cải cách hệ thống Ngân hàng, Thị trường tài chính tiền tệ, Trang 29-31
10. Nguyễn Văn Thầy, (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí ngân hàng, Số 3, Trang 38-40
11. Nguyễn Đồng Tiến, (2005), Tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, Số 1, Trang 8-12
12. Nguyễn Khắc Việt Trung, (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Tạp chí ngân hàng, Số 2, Trang 18-21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4233.doc