- Nghề vũ nữ, ca sỹ, masage tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí đối với lao động nữ;
- Công việc phải tiếp xúc với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thuỷ ngân, kẽm), dọn rác vệ sinh, tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxýt thuỷ ngân;
- Công việc phải tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại;
- Công việc sản xuất, bao gói hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với các hoá chất axit natric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ diệt chuột, sát trùng chống mối mọt có tính độc mạnh;
- Những công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập;
- Những công việc phải điều trị hoặc trực tiếp phục vụ bệnh nhân các bệnh xã hội như: Phong (hủi), HIV, những công việc mổ tử thi, liệm, mai táng, thiêu xác người chết, bốc mồ mả.
103 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Thực trạng và triển vọng đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nạn thất nghiệp đã trở nên nghiêm trọng do mức tăng trưởng kinh tế năm 1999 chỉ đạt mức
4%. Từ tháng 1/1999 đến tháng 6/2000, theo thống kê, Chính phủ đã đưa được khoảng 590.000 lao động sang làm việc ở nước ngoài. Nguồn thu nhập ngoại tệ chuyển về nước từ năm 1996 đến năm 1999 vào khoảng 2,72 tỷ USD, trong đó lớn nhất là từ khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tiếp sau đó là khu vực Trung Đông. Tiền chuyển về từ các lao động làm việc ở khu vực Châu Mỹ và Châu Âu thấp hơn, chỉ chiếm 2,3% tổng số tiền chuyển về nước. Riêng năm 1999 và 4 tháng đầu năm 2000 tổng số ngoại tệ do lao động di cư chuyển về nước đạt gần 1,7 tỷ USD (đây là số ngoại tệ chuyển theo đường chính thức, số thực tế có thể lớn hơn nhiều)*.
Thị trường và cơ cấu lao động
Thị trường lao động của Indonesia ở nước ngoài tập trung vào các nước và khu vực như Đông Nam Á (Malaysia, Singapore,Brunei), Đông Bắc Á (Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản), Trung Đông, Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu. Trong đó tập trung nhiều nhất là A Rập Saudi, Malaysia. Singapo, Đài Loan, Hà Lan, Mỹ.
Một điều cần ghi nhận rằng số lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn từ 1994 - 1998 chiếm ưu thế là các lao động có nghề. Số lao động bán lành nghề có khoảng 1.136.021 người, trong khi đó số lao động bán lành nghề có khoảng 325.021 người. Công nhân xây dựng của Indonesia được ưa thích hơn công nhân xây dựng của các nước khác ở Malaysia.
Tỷ lệ lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài so với lao động nam đã tăng lên trong những năm gần đây (1998 - 2000) và chiếm ưu thế, trong đó:
43% đi làm giúp việc gia đình; 22% làm việc trong các nhà máy; 15% làm việc trong lĩnh vực trồng trọt; 6% trong giao thông vận tải và còn lại làm trong các lĩnh vực khác *.
--------------------
* Nguồn: Tạp chí việc làm ngoài nước số 4 /2000
Chính sách
Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Indonesia xây dựng chính sách về hệ thống tuyển mộ và đào tạo lao động, chính sách đưa lao động ra nước ngoài làm việc và chính sách quan hệ hợp tác lao động với nước ngoài. Chính phủ Indonesia can thiệp vào hoạt động xuất khẩu lao động thông qua quản lý và chỉ đạo chương trình việc làm ngoài nước. Năm 1994 Chính phủ đã ban hành nghị định số PER - 02/MEN 1994, trong đó quy định các thủ tục và hệ thống tuyển mộ lao động; các điều kiện và yêu cầu của tổ chức tuyển mộ; quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, trình tự giải quyết tranh chấp và các vấn đề pháp lý. Quy định này đảm bảo cho người lao động không bị lạm dụng bóc lột và đảm bảo được tiền lương phù hợp cho họ, an toàn về công việc của họ ở nước ngoài cho đến khi họ về nước.
Mục tiêu và chiến lược
Năm 1999, Chính phủ đã thông qua Bộ Nhân lực thực hiện cải cách về chính sách và chiến lược đối với XKLĐ nhằm đạt được mục đích, thể hiện ở bốn điểm: Thứ nhất, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước; Thứ hai, cải thiện việc bảo vệ lao động ở nước ngoài; Thứ ba, nâng cao kỹ năng của lao động xuất khẩu để sẵn sàng đi làm việc ở nước ngoài; Thứ tư, tăng nguồn thu ngoại tệ mạnh.
Kế hoạch XKLĐ dựa trên ba điểm: Nguồn lao động có kỹ năng, mở rộng cơ hội làm việc ở nước ngoài và những thành tựu đạt được trong hoạt động XKLĐ của những năm trước đó. Mục tiêu của chính sách này là đạt được cả về số lượng và chất lượng, theo dự kiến của Chính phủ là trong thời gian từ năm 1999 đến năm 2003 đưa được khoảng 2,8 triệu lao động Indonesia (trong đó bao gồm1.490.000 lao động chính thức là 1.310.000 lao động không chính thức), thu được khoảng 13 tỷ USD (trong đó bao gồm 7,5 tỷ USD từ số lao động chính thức và 5,5 tỷ USD từ số lao động không chính thức). Sự đánh giá này dựa trên cơ sở số lao động nói trên sẽ làm việc ở nước ngoài từ hai năm trở lên và mỗi lao động chỉ sử dụng 30% trong tổng số tiền
kiếm được vào nhu cầu tiêu dùng hàng ngày ở nước ngoài, và 70% còn lại sẽ được chuyển về Indonesia, trong đó số tiền công mà lao động chính thức ở nước ngoài kiếm được khoảng 350 USD mỗi tháng 250 USD mỗi tháng*.
PHILIPPIN Khái quát
Philippin hiện được xem là nước đứng đầu trong việc phát triển và liên tục cải tiến cơ chế quản lý di cư. Thập kỷ 70 và đầu những năm 80 lao động Philippin chủ yếu làm việc ở Ả Rập Xê út. Ngày nay Philippin đưa lao động đi làm việc ở hơn 160 nước trên thế giới với nhiều loại nghề và lĩnh vực cũng như các hình thức cung ứng lao động.
Hai năm 1998 - 1999, mỗi năm lao động Philippin đã đáp ứng được khoảng 830.000 chỗ làm việc. Đó là nhờ khả năng nắm bắt cơ hội việc làm ở nước ngoài và việc xây dựng thành công cơ chế tiếp cận thị trường, phổ biến thông tin và thương lượng các hợp đồng.
Chính sách
Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Chính phủ Philippin đã thành lập 3 cơ quan chuyên nghiệp trực thuộc Bộ lao động và việc làm là: Ban phát triển việc làm ngoài nước, Hội đồng thủy thủ Quốc gia và văn phòng dịch vụ việc làm. Chính phủ tạo mọi điều kiện và đảm bảo quyền lợi cho mỗi người dân muốn làm việc trong nước hoặc nước ngoài, tạo mọi điều kiện cho việc tự do lựa chọn việc làm phù hợp với lợi ích quốc gia. Tạo điều kiện và quản lý di cư lao động, tăng cường mạng lưới các văn phòng việc làm công cộng và hợp lý hoá sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc tuyển và bố trí việc làm cho người lao động ở trong và ngoài nước.
Biện pháp
- Xây dựng nhu cầu tiếp thị việc làm ngoài nước
- Xây dựng chính sách
- Thiết lập hệ thống tiếp thị
- Thiết kế chương trình và chiến lược tiếp thị
----------------------
* Nguồn: Bộ Nhân lực Indonêsia năm 2000
*
* *
Vấn đề giải quyết việc làm trong thời gian qua luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Mặc dù quy mô XKLĐ của ta còn rất khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực, số lao động được giải quyết việc làm bằng con đường XKLĐ còn nhỏ bé so với số người chưa có việc làm hiện tại, nhưng XKLĐ đã góp phần thực hiện được các mục tiêu tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng ngân sách quốc gia, thu được một nguồn lớn ngoại tệ và mở rộng quan hệ hợp tác của nước ta đối với các quốc gia khác nhau trên thế giới
Trong 12 năm vừa qua, hoạt động XKLĐ của nước ta đang ngày càng được mở rộng và phát triển, số người được đưa đi lao động ở nước ngoài ngày càng gia tăng. Song song với nó là thị trường lao động cũng như cơ cấu ngành nghề xuất khẩu cũng đang từng bước được mở rộng, mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cho đất nước. Tuy nhiên, đánh giá chung lĩnh vực XKLĐ của nước ta còn nhiều yếu kém, chưa tương xứng với tiềm năng đất nước và chưa theo kịp các quốc gia trong khu vực. Để lĩnh vực XKLĐ có thể phát triển hơn nữa trong những năm tới cần đưa ra được các định hướng, triển vọng và giải pháp cụ thể cho hoạt động này về trước mắt cũng như lâu dài. Vấn đề này được đề cập trong chương III của khoá luận.
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2003 ĐẾN 2010
3.1. Định hướng XKLĐ của Việt Nam giai đoạn từ 2003 - 2010
Ở nước ta, chiến lược phát triển KT- XH của Nhà nước đang thu được những kết quả khả quan. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh "Trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội, tập trung sức tạo việc làm Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn". Chủ trương này đã được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VIII cụ thể hoá như sau: "Mở rộng XKLĐ trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ XKLĐ trái quy định của Nhà nước".
Nhằm cụ thể hoá thêm một bước và đánh giá vai trò của XKLĐ trong điều kiện hiện nay, ngày 22 tháng 9 năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 41 - CT/TW khẳng định: "XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT - XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong nước và ngoài nước chỉ mới giải quyết được một phần trong khi thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp. Hàng năm lại có hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia còn có vai trò quan trọng trước mắt và lây dài"
Từ quan điểm và chủ trương tổng quát mà Đảng đã đề ra, định hướng phát triển của XKLĐ trong thời gian tới sẽ bao gồm:
3.1.1. Định hướng chung
- XKLĐ là một chiến lược quan trọng, lâu dài, là một nội dung của Chương trình quốc gia về việc làm, một hoạt động KT - XH góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Việt Nam với các nước và củng cố cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
- Đẩy mạnh XKLĐ trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương tới địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh XKLĐ.
- Phải có chiến lược về mở rộng thị trường XKLĐ, củng cố thị trường truyền thống, giữ và phát triển thị trường hiện có, khai thông các thị trường mới. Mỗi khu vực cần xây dựng đề án riêng cho phù hợp với đặc điểm và tình hình của khu vực đó.
- Thực hiện việc XKLĐ theo quan hệ cung - cầu của thị trường lao động. Đa dạng hoá thị trường XKLĐ, cung cấp lao động cho mọi thị trường cần lao động Việt Nam nếu ở đó phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho người lao động.
- Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động, cung cấp lao động với mọi ngành nghề và trình độ tay nghề khác nhau. XKLĐ phải đảm bảo tính cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng có tay nghề trong lao động xuất khẩu... Mặt khác phải đa dạng hoá thành phần tham gia XKLĐ, củng cố các doanh nghiệp chuyên XKLĐ, mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện trực tiếp nhận thầu công trình, đưa lao động đi làm việc tại các thị trường nước ngoài
- Đầu tư để phát triển sự nghiệp XKLĐ, nâng cao năng lực của
cơ quan quản lý Nhà nước, đầu tư cho các tổ chức XKLĐ và người lao động.
Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
3.1.2. Định hướng cụ thể
Trên thế giới hiện nay, nhìn chung nhu cầu sử dụng lao động không còn cao như thời kỳ trước do nhiều nước đang cải cách kinh tế, các tập đoàn đổi mới sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học cộng nghệ mới vào sản xuất để tiết kiệm lao động. Muốn hình thành được một hệ thống thị trường lao động quốc tế tiếp nhận và sử dụng lao động Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng cụ thể cho các năm sắp tới và nỗ lực thực hiện những chủ trương, định hướng đó.
Định hướng của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2010 về lĩnh vực
XKLĐ là:
Đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương tới địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ trong việc mở rộng thị trường, đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia. Trong thời gian tới, phấn đấu đạt quy mô đưa lao động ra nước ngoài như sau:
Từ năm 2001 - 2005: Bình quân hàng năm khoảng 50.000 -100.000 người
Từ năm 2006- 2010: Trung bình hàng năm đưa đi khoảng 100.000 -
150.000 người. Phấn đấu luôn có khoảng một triệu lao động làm việc thường xuyên ở nước ngoài vào năm 2010.
3.2. Triển vọng XKLĐ của Việt nam giai đoạn 2003 - 2010
3.2.1 Triển vọng về nguồn lao động
Dân số chính là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm tăng cung lao động. Dân số Việt Nam năm 1999 là 76,3 triệu với tỷ lệ tăng là
1,7%. Nguồn nhân lực Việt Nam được đánh giá là dồi dào (hiện nay khoảng
38 triệu người). nguồn nhân lực này là nội lực đóng góp đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Việt Nam có cung lớn những người mới bước vào thị trường lao động trong khi đó số về hưu lại rất ít. Mỗi năm khoảng 1,3 triệu người mới tham gia vào thị trường lao động. Với sự giảm hơn nữa tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, số tuyệt đối những người mới bước vào thị trường sẽ vẫn ở mức cao trong vòng vài năm tới.
Bảng 3.1: Số liệu thống kê dân số - lao động tính đến 01/07/2002
Đơn vị: nghìn người
Tổng số
Khu vực
Thành thị
Nông thôn
Dân số
79.390.000
19.880.000
60.050.000
Lực lượng lao động
40.694.360
9.709.967
30.984.393
Thất nghiệp
6,01%
Độ tuổi đi XKLĐ
(ước tính)
18-24
25-34
25.058.055
6.554.260
12.213.304
6.540.520
1.667.932
3.154.956
18.809.845
4.882.065
8.977.475
Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài
Qua kết quả điều tra dân số 1989 và 1999 cho thấy: lao động trong khu vực Nhà nước giảm từ 15% xuống 10%, khu vực tập thể giảm từ 50% xuống
27%, kinh tế cá thể chiếm tới 63%, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mới hình thành nên chỉ chiếm 2,2%. Trong quá trình cải cách, khu vực nhà nước nếu giảm biên chế 15% thì số dôi ra cũng lên đến
30 ngàn người. Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước số lao động dôi dư
chiếm tới 6% tổng số lao động hiện có.
Có thể thấy, nguồn lao động ngày càng tăng cao, trong khi hàng năm số
người được giải quyết việc làm ít hơn nhiều. Cầu lao động trong nước chưa
đáp ứng được cung lao động tăng lên và hiện nay có tới 70% sinh viên ra trường không có việc làm đây chính là nguồn lao động rất lớn có thể cung cấp cho xuất khẩu lao động của Việt Nam trong những năm tới.
XKLĐ và chuyên gia đã được các Nghị định của Đảng và Chính phủ nhiều lần đề cập. Nhiều nước trên thế giới coi trọng XKLĐ và chuyên gia. XKLĐ vừa ích nước vừa lợi nhà, vì nó là mong muốn không chỉ của Chính phủ mà còn của người lao động. Bộ lao động thường binh và xã hội vừa qua đã phối hợp cùng với Tỉnh uỷ, thành uỷ triển khai Chỉ thị 41/CT - TW của Bộ Chính trị về XKLĐ và chuyên gia đến tận cấp uỷ xã, phường tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi thành phần trong xã hội có thể tham gia XKLĐ, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Đã có 28 tỉnh uỷ có Nghị quyết, Chỉ thị cụ thể hóa và chỉ đạo triển khai Chỉ thị 41/CT-TW của Bộ Chính trị. Có 38 tỉnh đã xây dựng kế hoạch XKLĐ và chuyên gia và đã tổ chức triển khai kế hoạch này đến tận xã, phường, tạo thành một phong trào sôi nổi trong địa phương.
Để phát triển bền vững công tác XKLĐ với qui mô lớn, đảm bảo chất lượng và đạt hiệu quả cao trong những thập niên tới, trước mắt là thời kỳ
2003-2010, công tác đào tạo, đào tạo giáo dục định hướng xuất khẩu lao động cần theo những định hướng sau:
Đầu tư cho XKLĐ cho các lĩnh vực: đào tạo nguồn lao động có kiến thực, tay nghề, ngoại ngữ, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và doanh nghiệp XKLĐ.
Thực hiện đa dạng hóa ngành nghề XKLĐ: Đa dạng hóa hình thức và thành phần tham gia đào tạo XKLĐ (đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn về nghề và ngoại ngữ, hợp tác liên doanh để đào tạo XKLĐ....)
Khuyến khích các doanh nghiệp, người lao động, Bộ, Ngành, Địa phương, đơn vị tổ chức đào tạo có trách nhiệm cùng nâng cao chất lượng nguồn lao động vững tay nghề, giỏi ngoại ngữ, thông hiểu pháp luật,...
Trước tình hình thực tế chất lượng lao động của ta hiện nay, không thể không trông chờ vào nguồn lao động đào tạo có sẵn, mà phải chuẩn bị nguồn lao động thông qua một kế hoạch đào tạo được chủ động xây dựng, đáp ứng cho từng thị trường cụ thể, đào tạo phải gắn với thị trường quốc tế sát với nhu cầu. Để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động phải gắn kết giữa các doanh nghiệp XKLĐ với các trường đào tạo. Vừa qua thực hiện chủ trương của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động với nước ngoài kết hợp Tổng cục Dạy nghề đã định hướng cho các doanh nghiệp và các trường hợp tác thực hiện đào tạo lao động xuất khẩu thí điểm và tăng cường tuyển dụng nguồn lao động xuất khẩu từ cơ sở đào tạo nghề. Để có nhiều người tham gia XKLĐ cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ được vay vốn ngân hàng và bảo lưu kết quả học tập (nếu là học sinh, sinh viên đang học dở chương trình) sau khi hết hạn về nước họ được tiếp tục học tập công tác. Các trường khi đào tạo nghề nên lồng ghép học ngoại ngữ. Từ trước đến nay các bài giảng thường bị đóng khung cứng nhắc trong các giáo trình đã được biên soạn nhiều năm nay. Từ nhu cầu thực tế của sự gắn kết và thực hiện chỉ đạo của Bộ, Tổng cục dạy nghề và Cục quản lý lao động với nước ngoài đã chọn được các cặp trường và doanh nghiệp tham gia lao động xuất khẩu thí điểm sau:
+ Trường trung học Điện tử - Điện lạnh Hà nội hợp tác với Công ty cung
ứng dịch vụ Hàng không (AIRSERCO)
+ Trường Cao đẳng sư phạm kỹ thuật sư phạm Vinh hợp tác với Công ty
Cung ứng nhân lực quốc tế và Thương mại (SONA)
+ Trường đào tạo công nhân kỹ thuật may và thời trang (Công ty may 10)
hợp tác với Tổng công ty dệt may (VINATEX).
Do đó, công tác tạo nguồn lao động của Việt Nam không những đảm bảo cho XKLĐ của Việt Nam trong những năm tới mà còn đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong nước.
3.2.2. Triển vọng về thị trường XKLĐ của Việt Nam
Trong những năm qua, với sự phối hợp và hỗ trợ của các cơ quan liên quan, và với sự năng động, nhạy bén và bằng nhiều biện pháp chúng ta đã nâng cao chất lượng lao động, là yếu tố quyết định cho việc ổn định và phát triển thị trường nhờ đó các thị trường cũ như Nhật Bản, Hàn Quốc, lao động trên biển đều tăng. Từ năm 2000 đến nay, Bộ lao động Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ ngoại giao đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thực hiện các hoạt động ngoại giao mở thị trường; đã tổ chức các đoàn bao gồm các doanh nghiệp và bộ chủ quản của một số doanh nghiệp đi khảo sát mở thị trường tại các nước ở khu vực như:
Khu vực Trung Đông đây là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động lớn nhất thế giới, với ngành nghề đa dạng. Một số doanh nghiệp nước ta đã đưa lao động xây dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Một và doanh nghiệp đã nhận thầu xây dựng ở Kuwait bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả và có khả năng tiếp nhận số lượng lớn công nhân xây dựng, công nhân sản xuất của Việt Nam.
Châu Phi cũng có nhu cầu nhận lao động ở nước ngoài. Libya là thị trường đã tiếp nhận lao động xây dựng Việt Nam ổn định trong những năm gần đây theo hình thức cung ứng trực tiếp và qua nước thứ 3, cho đến nay , ta đã đưa được trên 10.000 lượt người. Doanh nghiệp ta cũng có khả năng đưa số lao động lớn lao động thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này. Nhiều nước Châu phi thiếu chuyên gia trong các lĩnh vực, chủ yếu là nông nghiệp, y tế và giáo dục. khả năng đưa chuyên gia Việt Nam sang Châu phi vẫn đang còn rất nhiều.
Các khu vực khác như: Bắc Mỹ và các đảo Nam Thái Bình Dương: đây là thị trường tiếp nhận nhiều lao động nước ngoài (riêng Bắc Mỹ hàng năm nhận khoảng 250.000 người). Hiện nay
đầu ta đã đưa được khoảng gần 800 lao động ngành may mặc, xây dựng đến làm việc ở các đảo Nam Thái Bình Dương. Châu Âu: các nước thuộc Liên xô (cũ) và Đông Âu đã có quan hệ truyền thống trong hợp tác sử dụng lao động với ta trong những năm 1980, nhưng hiện nay nhu cầu sử dụng lao động không cao. Tuy nhiên ở các nước này hiện có hàng chục vạn người Việt Nam đang sinh sống và làm việc, mở ra khả năng đưa lao động sang theo hợp đồng lao động cá nhân.
Bộ ngoại giao cũng đã chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài trong việc thu thập các thông tin về tình hình và nhu cầu lao động của nước ngoài; xúc tiến các hoạt động hỗ trợ mở rộng thị trường. Các thị trường trọng điểm hiện nay là thị trường Lào, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, thị trường lao động trên biển (thủy thủ tàu vận tải, đánh cá) đang rất tiềm tàng, hàng năm thu hút hàng triệu lao động nước ngoài vào các nhóm ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt và chế biến hải sản mà chúng ta có khả năng đáp ứng, và một số thị trường của các nước Châu Phi đang tiếp nhận chuyên gia trong các lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt là thị trường Malaysia, sau một thời gian dài Việt Nam thực hiện nhiều biện pháp tiếp cận thị trường lao động Malaysia, cuối cùng tháng 02/2002 Chính phủ Malaysia đã quyết định cho phép lao động nước ta vào làm việc. Sau thời gian thực hiện thí điểm đưa lao động sang Malaysia làm việc nước ta đã đưa được
23.455 lao động sang làm việc, bình quân mỗi tháng đưa được hơn 3.000 lao động đến Malaysia. Thị trường này đã chấp nhận lao động Việt Nam, ngày càng ổn định và phát triển về qui mô (số lượng tăng nhanh, cơ cấu ngành nghề hợp lý); Thị trường Malaysia có thể tiếp nhận từ 150.000 - 200.000 lao động của Việt Nam.
3.3. Những giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh XKLĐ của Việt Nam
Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động XKLĐ
đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung cơ chế quản lý
1. Cần thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài
Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển XKLĐ. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lượcđể hỗ trợ cho XKLĐ phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong mở rộng thị trường lao động ngoài nước, cũng là khâu mang tính quyết định trong chu trình XKLĐ của bất kỳ nước nào. Do vậy, cần thiết lập quan hệ Nhà nước, hình thành hệ thống tuỳ viên lao động để tham mưu, tư vấn cho Nhà nước các Hiệp định khung hoặc các thoả thuận nguyên tắc để mở đường cho các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước XKLĐ truyền thống, có thể thấy vai trò của tuỳ viên lao động rất lớn, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
2. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong XKLĐ, cụ thể như sau:
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan Chính phủ, thống nhất quản lý Nhà nước về XKLĐ có trách nhiệm: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển; nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về XKLĐ; tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác XKLĐ theo đúng luật lao động.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thiết lập, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam ; chỉ đạo các cơ quan đại
Thương binh và xã hội thông tin về thị trường lao động nước ngoài, thực hiện chức năng lãnh sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc
tế
Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các thủ tục, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động, chuyên gia và tổ chức kinh tế XKLĐ .
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Văn hoá, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thônvà chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động XKLĐ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành địa phương mình theo quy định của Nhà nước; chỉ đạo các tổ chức kinh tế XKLĐ tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài.
3. Công tác thanh tra, kiểm tra
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành qui chế và hướng dẫn công tác thanh tra, kiểm tra về xuất khẩu lao động và chuyên gia; tiến hành thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất
Các Bộ, Ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ quản tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và sử lý vi phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp trực thuộc.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn, phát hiện và sử lý kịp thời các hành vi vi phạm liên quan đến xuất khẩu lao động.
3.2.2. Các giải pháp về chính sách
1. Đối với các doanh nghiệp XKLĐ
Phải xây dựng cho được một đội ngũ doanh nghiệp XKLĐ mạnh, là đội quân tiên phong trong khâu khai thác thị trường mới, cạnh tranh với các nước XKLĐ khác, tham gia đấu thầu quốc tế làm nền tảng và dọn đường cho đội
ngũ doanh nghiệp phía sau thâm nhập thị trường. Muốn vậy phải tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp này. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt động, xây dựng bộ máy và đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác XKLĐ có khả năng tiếp cận và tìm kiếm thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào XKLĐ trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trên thị trường XKLĐ quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế thành công ty đấu thầu quốc tế.
Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới hoa hồng linh hoạt để tạo thế chủ động cho doanh nghiệp trong việc tìm được hợp đồng XKLĐ. Giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nghiên cứu thành lập Hiệp hội XKLĐ và chuyên gia để các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực XKLĐ.
Nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp XKLĐ: nâng vốn điều lệ lên 7 tỷ đồng; về cán có ít nhất 7 cán bộ có trình độ đại học kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ , doanh nghiệp phải có cơ sở đào tạo qui mô trên 100 học viên nội trú trở lên và dành một phần chi phí cho đào tạo lao động.
Các doanh nghiệp tự nâng cao năng lực và khả năng chuyên môn bằng cách tự đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình. trong quá trình đào tạo cần bám sát các chỉ tiêu chuẩn đã được xây dựng trước cho từng vị trí công việc để đáp ứng yêu cầu của hoạt động xuất khẩu lao động trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Bên cạnh việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp, cần phải thu hồi giấy phép đối với các doanh nghiệp hoạt động thiếu năng lực và không có hiệu quả, sáp nhập giải thể các doanh nghiệp có
nhiều đầu mối XKLĐ. Xử lý triệt để và nghiêm minh đối với các trường hợp hoạt động phi pháp, tuyển chọn lao động thông qua cò mồi, trung gian gây thiệt hại cho người lao động và xã hội.
2. Đào tạo nguồn lao động xuất khẩu
Tăng cường công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của thị trường. Hiện nay nguồn lao động của chúng ta thì nhiều nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, do vậy cần phải tăng cường công tác đào tạo nguồn XKLĐ. Phải có sự liên kết giữa các doanh nghiệp XKLĐ với các trường đào tạo mới thực hiện được nhiệm vụ này. Các doanh nghiệp XKLĐ là nơi nắm được yêu cầu, điều kiện và tiêu chuẩn lao động của từng hợp đồng, từng nước. Các trường đào tạo có cơ sở vật chất, trang thiết bị và giáo viên để đào tạo lao động. Sự kết hợp này sẽ nâng cao được chất lượng lao động, đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ với việc chuẩn bị được lực lượng lao động phù hợp, có chất lượng so với yêu cầu quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh và chiếm giữ được thị trường. Chất lượng lao động càng cao thì hiệu quả càng cao. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên, Nhà nước - Doanh nghiệp - Người lao động cùng đầu tư để tạo nguồn lao động cho xuất khẩu. Kết hợp đào tạo kỹ thuật với đào tạo ngoại ngữ, phong tục tập quán, kiến thức pháp luật cho lao động. Đây cũng là chính sách đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước khắc phục tình trạng thiếu công nhân có kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Sớm biên soạn những chương trình đào tạo chuẩn và tổ chức đào tạo cho người lao động về các lĩnh vực như ngôn ngữ, pháp luật, văn hóa và phong tục tập quán của các nước tiếp nhận lao động Việt Nam, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng thích nghi với các điều kiện làm việc và sinh
hoạt, để có thể làm việc một cách tốt nhất. Mặt khác người lao động cũng tránh được những sai phạm do thiếu hiểu biết trong thời gian đầu để có thể tự tin hơn trong việc khẳng định mình qua công việc.
Bộ Lao động - thương binh và Xã hội, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trách nhiệm cung cấp thông tin về nhu cầu và tiêu chuẩn lao động của mỗi thị trường, về kế hoạch học nghề, học ngoại ngữ theo yêu cầu của thị trường lao động để định hướng cho chính quyền địa phương và người lao động.
3. Hoàn thiện chính sách về tài chính
Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả XKLĐ. Trong chính sách tài chính, vấn đề cơ bản cần quan tâm là bảo đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người lao động, lợi ích của các tổ chức XKLĐ, lợi ích của Nhà nước và cũng cần chú ý tới lợi ích của chủ thuê lao
động.
Theo thông tư số 16/2000/TTLT-BTC-BLDTBXH ngày 28/02/2000 thì người lao động khi ra nước ngoài làm việc phải nộp một khoản tiền đặt cọc khá lớn trong tổng số tiền người lao động phải nộp trong 2 năm. Để phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời giảm bớt đóng góp của người lao động trước khi đi, nên điều chỉnh mức tối đa tiền đặt cọc của người lao động bằng một lượt vé máy bay và tiến tới sẽ không thu tiền đặt cọc của người lao động.
Xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng, lâu dài nhưng hoạt động này có nhiều rủi ro, mức bồi thường thiệt hại thường là lớn. Với mức trích và nguồn hình thành qũy dự phòng tài chính theo qui định hiện hành chung cho các loại doanh nghiệp là không đáp ứng được yêu cầu của hoạt động XKLĐ và không có nguồn hỗ trợ cho người lao động bị rủi ro. Vì vậy, nhằm hỗ trợ việc mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước và khắc phục thiệt hại do rủi ro trong hoạt động XKLĐ chúng ta phải thành lập quỹ hỗ trợ XKLĐ trên cơ sở đóng góp của doanh nghiệp, người lao động và
một phần từ ngân sách Nhà nước nhằm hỗ trợ mở rộng thị trường, giải quyết các trường hợp bất khả kháng trước mắt, khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các quỹ dự phòng giải quyết rủi ro.
Nên phân định rõ và giao các chính sách này cho các cơ quan quản lý chức năng cụ thể như Bộ Văn hoá - Thông tin thực hiện tốt dịch vụ văn hoá tinh thần phục vụ cộng đồng lao động của ta ở nước ngoài, các ngành có liên quan như ngành Hàng không, Thuế, Hải quan cần ban hành các quy chế ưu đãi trong việc làm thủ tục và giá cước đối với sản phẩm dành cho người lao động khi đưa ra nước ngoài phục vụ lao động nước ta.
4. Đối với người lao động
Nghiên cứu giảm chi phí cho người lao động; cho người lao động vay tiền để đi làm việc ở nước ngoài; khuyến khích lao động học nghề, học ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của nước ngoài. Quy định mức phí dịch vụ theo thời hạn hợp đồng, doanh nghiệp và người lao động thoả thuận việc thu phí dịch vụ một hoặc nhiều lần.
Cần nghiên cứu, ban hành chính sách thuế hợp lý, nên miễn thuế thu nhập cao nhằm đảm bảo và khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, nên sửa đổi bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội, cho người lao động tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội trước khi đi chứ không nên bắt buộc đóng bảo hiểm xã hội như hiện nay.
Nhà nước cần có chính sách cho người lao động được vay vốn với lãi suất ưu tiên để chi phí cho việc đi nước ngoài làm việc. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo và các nguồn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách được vay với lãi suất ưu đãi mà không cần phải thế chấp tài sản. Nếu được thì sẽ tạo tâm lý an tâm cho người lao động đi làm việc, chấp hành tốt các quy định ở nước ngoài vì họ không phải lo lắng gì về những khoản vay nợ cá nhân.
Tiến hành mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Giải pháp này sẽ giải quyết được ba vấn đề: Quản lý và theo dõi được lượng ngoại tệ chuyển vào nước ta, người lao động an tâm khi họ biết được tiền của họ được bảo vệ và chuyển về nước an toàn, giúp đỡ người nhà gặp khó khăn khi họ còn làm việc ở nước ngoài.
Nên có chính sách khuyến khích người lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài dùng thu nhập ở nước ngoài mà họ kiếm được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tư vấn việc làm, đào tạo lại cho người lao động sau khi về nước. Bên cạnh đó với những lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về nước khác, cần tạo điều kiện tiếp nhận họ vào làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh vì họ có thế mạnh tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ
Nghiên cứu để ban hành các chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với người lao động tự ý bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc làm ảnh hưởng đến hoạt động XKLĐ của đất nước. Có thể đưa ra xử lý theo qui định của pháp luật, đồng thời đưa tin trên phương tiện thông tin để cảnh báo và răn đe đối với trường hợp khác.
3.2.3. Các giải pháp về tổ chức quản lý
1. Hoàn thiện hệ thống quản lý và tổ chức bộ máy cán bộ quản lý Nhà nước về XKLĐ.
Để phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách nền hành chính quốc gia nhằm tăng cường và nâng cao năng lực của quản lý Nhà nước, hệ thống quản lý XKLĐ cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, tập trung chức năng quản lý XKLĐ trong thời gian tới cần bao quát được các nội dung quản lý Nhà nước trong và ngoài nước nhưng bảo đảm tính linh hoạt và năng động. Phân cấp quản lý, làm rõ và tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với các doang nghiệp, trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với hoạt động tuyển chọn lao động xuất khẩu trên địa bàn.Bộ, ngành, địa phương chủ quản chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của doanh nghiệp theo
pháp luật; UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm quản lý hoạt động XKLĐ và chuyên gia trên địa bàn.
Về cán bộ cần tập trung đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức Marketing, ngoại ngữ, kiến thức về lao động, luật pháp, đối ngoại mới đủ điều kiện để làm công tác quản lý.
2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện và quản lý.
Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau:
- Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn: Giai đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ. Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước
ngoài.
- Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các quyền lợi tối thiểu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, tránh sự bóc lột và đối xử phân biệt của chủ đối với lao động
- Xây dựng và ban hành mức lương tối thiểu cho từng khu vực thị
trường sử dụng lao động Việt Nam.
- Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ. Đó là một trong các giải pháp góp phần tăng cường quản lý Nhà nước, đưa hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả KT -XH cao. Việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hàng năm nhằm xác định khả năng và hiệu quả của XKLĐ, động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động, tìm tòi mọi biện pháp để mở rộng thị trường và kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp.
*
* *
Từ định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực trạng XKLĐ của Việt Nam trong những năm qua, khoá luận đã nêu ra một số các giải pháp nhằm xây dựng lĩnh vực hoạt động XKLĐ nước ta về trước mắt cũng như lâu dài. Các giải pháp này được thể hiện một cách đồng bộ và thống nhất từ cơ chế quản lý, chính sách đến việc tổ chức quản lý, nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động XKLĐ. Bên cạnh đó đề ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho XKLĐ trong tương lai.
Các định hướng và giải pháp nêu trên được dựa trên cơ sở tham khảo và đánh giá các kiến nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và được xây
dựng trên cơ sở trình độ nhận thức của một sinh viên Đại học. Có thể những giải pháp này chưa thật hoàn chỉnh, nhưng người viết mong muốn có thể góp phần sức mình vào sự nghiệp XKLĐ nói riêng và sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Xuất khẩu lao động là một hoạt động phổ biến trên thế giới và mang tính KT -XH cao. Hoạt động này sẽ còn tiếp tục phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế của thế giới.
Đối với nước ta, con người luôn là một vốn quý, lợi thế, nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển đất nước. Là một quốc gia có đông dân số tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào, người Việt Nam cần cù, sáng tạo, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp còn gặp không ít khó khăn lúng túng trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt, ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư để tạo mới công ăn việc làm còn rất hạn chế thì việc xuất khẩu lao động trở thành một biện pháp hữu hiệu. Tăng cường xuất khẩu lao động, ngoài mục tiêu giải quyết việc làm có thời hạn cho một bộ phận người lao động, cải thiện đời sống của chính bản thân người lao động và gia đình họ còn thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ đáng kể để dáp ứng cho công cuộc đầu tư, xây dựng đất nước, giải quyết căn nguyên chính của hiện tượng đói nghèo và các tệ nạn xã hội phát sinh từ việc thiếu vốn và không có việc làm.
Với lợi thế về nhân lực chúng ta hoàn toàn có thể phát triển KT - XH của đất nước thông qua XKLĐ, coi đây như là một thế mạnh của quốc gia. XKLĐ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và giải quyết các nhu cầu xã hội. Chính vì vậy khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu lĩnh vực XKLĐ này trở nên một vấn đề phức tạp và cấp bách hiện nay. Chi phí đầu tư ban đầu cho việc XKLĐ không lớn hiệu quả thu được trong thời gian ngắn, người lao động nhanh chóng có việc làm với mức thu nhập cao lại nâng cao được trình độ tay nghề, học được tác phong làm việc công nghiệp. Đó chính là các yếu tố rất
cần thiết cho nền sản xuất trong nước phát triển bắt kịp với nhịp độ phát triển của các nền kinh tế trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Ngoài những lợi ích về kinh tế - xã hội việc thực hiện tốt công tác này còn có một ý nghĩa chính trị sâu sắc đó là tăng cường sự hiểu biết đoàn kết gắn bó lẫn nhau giữa dân tộc Việt nam với các dân tộc trên toàn thế giới. Chính vì vậy xuất khẩu lao động là một lĩnh vực được Đảng và Chính phủ quan tâm chỉ đạo và cho phép mọi thành phần kinh tế có khả năng được phép tham gia.
Trên cơ sở trình bày một cách khái quát một số vấn đề lý luận chung về XKLĐ, tình hình XKLĐ thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Qua những kinh nghiệm của các quốc gia khác trong cùng khu vực, nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp của nước ta trong những năm tới. Khóa luận này đã tiến hành nghiên cứu thực trạng, phân tích đánh giá hoạt động XKLĐ của Việt Nam giai đoạn từ 1991 đến nay và đưa ra được những giải pháp thiết thực về những vấn đề mà trong lý luận và thực tiễn XKLĐ của nước ta còn đang vướng mắc. Từ việc phân tích, đánh giá và so sánh để rút ta được các bài học kinh nghiệm, qua khoá luận này, tôi mong mình có thể đóng góp một phần ý kiến vào công cuộc nghiên cứu đối với lĩnh vực đang được ưu tiên hiện nay của nước ta.
PHỤ LỤC 1
DI CƯ LAO ĐỘNG KHÔNG THEO HỢP ĐỒNG
TẠI CÁC QUỐC GIA CHÂU Á
Số
T T
Lao động
đi từ nước
Thị trường tiếp nhận lao động
Cộng
Nhật
Hàn
Quốc
Đài
Loan
Malaysia
Thái
Lan
1
Bănglađes
5.864
6.939
-
246.400
-
259.203
2
Campuchia
-
-
-
-
81.000
81.000
3
Trung Quốc
38.957
53.429
-
-
-
92.386
4
Indonêsia
-
1.013
2.700
475.200
-
478.913
5
Hàn Quốc
52.854
-
-
-
-
52.854
6
Malaysia
10.926
-
400
-
-
11.326
7
Mianma
5.957
-
-
25.600
810.000
841.557
8
Pakistan
4.766
3.350
-
12.000
-
20.116
9
Philipin
42.627
6.302
5.150
7.600
-
61.679
10
Đài Loan
9.403
-
-
-
-
9.403
11
Thái Lan
38.191
2.528
6.000
8.000
-
54.719
12
Việt Nam
-
3.181
-
-
-
3.181
13
Khác
72.242
18.285
5.750
23.000
109.000
207.577
Cộng
281.157
95.617
20.000
800.000
1.000.000
2.173.914
Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài
PHỤ LỤC 2
NHÂN KHẨU NAM - NỮ TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN TRONG CẢ NƯỚC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ THƯỜNG XUYÊN CHIA THEO TRÌNH ĐỘ
CHUYÊN MÔN.
Trình độ chuyên
môn
1996
1997
1998
Tổng
số
Nam
Nữ
Tổng
số
Nam
Nữ
Tổng
số
Nam
Nữ
Tổng số (1000
người)
35.867
17715
18152
36296
18144
18152
37409
18688
18751
Không có chuyên
môn
31452
15059
16393
31838
15490
16348
32431
15750
16681
Sơ cấp
637
313
324
546
268
278
545
259
286
Công nhân kỹ
thuật không bàng
762
508
254
848
557
291
968
649
319
Công nhân kỹ
thuật có bằng
810
688
122
742
628
114
808
686
122
Trung học chuyên
nghiệp
1378
663
715
1380
657
723
1517
696
821
Cao đẳng và đại
học
816
474
342
910
519
319
1110
628
482
Trên Đại học
12
10
2
17
14
3
30
20
10
Khác
0
0
0
15
11
4
0
0
0
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
PHỤ LỤC 3
CƠ CẤU NGÀNH CỦA NỀN KINH TẾ THEO GDP VÀ LAO ĐỘNG
Đơn vị tính: %
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1.NÔNG
NGHIỆP
GDP
40,6
33,9
29,9
28,7
28,4
27,1
25,8
25,8
25,4
24,2
LAO ĐỘNG
72,6
72,9
73,0
72,8
69,7
69,2
69,0
63,5
63,7
62,6
2. CÔNG
NGHIỆP
GDP
23,8
27,3
28,9
29,6
29,9
30,7
32,0
32,5
34,5
36,9
LAO ĐỘNG
13,6
13,5
13,4
13,6
13,3
12,9
12,5
11,9
12,4
13,2
3. DỊCH
VỤ
GDP
35,7
38,8
41,2
41,7
41,7
42,1
42,2
41,7
40,0
39,0
LAO ĐỘNG
13,8
13,6
13,6
13,6
17,0
17,8
18,5
24,5
23,9
24,3
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê
PHỤ LỤC 4
NHÂN KHẨU NAM NỮ TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN Ở NÔNG THÔN CÓ VIỆC LÀM THƯỜNG XUYÊN CHIA THEO NHÓM NGÀNH KINH TẾ
Đơn vị tính: 1000 người
Ngành kinh
tế
1996
1997
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
28443
13901
14542
27858
13775
14083
Nông lâm
ngư nhiệp
23221
11170
12051
21752
10622
11130
Công nghiệp
và xây dựng
1942
1172
770
1910
974
936
Dịch vụ
3280
1559
1721
4196
2179
2017
Nguồn: Số liệu của Tổng Cục Thống kê
PHỤ LỤC 5
LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀI LOAN THÁNG 10/2002
(Số lượng lao động )
Quốc gia
Số lao động có mặt 9/2002
Tăng, giảm so với 9/2001
Thái Lan
119.675
-16.485
Philippine
67.908
-12.098
Indonesia
97.359
+5.965
Việt Nam
22.599
+10.975
Malaysia
26
-30
(Cơ cấu lao động phân theo quốc gia và một số lĩnh vực chính tháng /2002)
Nghề
Tổng số
Inđônêxia
Malaysia
Philippin
Thái
Lan
Việt Nam
Thuyền
viên
2.494
815
-
601
14
1.064
KHC và
GVGĐ
118.183
85.213
2
20.038
2.841
10.089
Nguồn: Tạp chí việc làm ngoài nước số 5/2002
CÁC NGHỀ VÀ KHU VỰC KHÔNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀ M VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
(Ban hành kèm theo thông tư số 28/1999/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 11 năm 1999 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội)
I - NGHỀ:
- Nghề vũ nữ, ca sỹ, masage tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí đối với lao động nữ;
- Công việc phải tiếp xúc với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thuỷ ngân, kẽm), dọn rác vệ sinh, tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxýt thuỷ ngân;
- Công việc phải tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại;
- Công việc sản xuất, bao gói hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với các hoá chất axit natric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ diệt chuột, sát trùng chống mối mọt có tính độc mạnh;
- Những công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập;
- Những công việc phải điều trị hoặc trực tiếp phục vụ bệnh nhân các bệnh xã hội như: Phong (hủi), HIV, những công việc mổ tử thi, liệm, mai táng, thiêu xác người chết, bốc mồ mả.
II- KHU VỰC:
- Đang có chiến sự hoặc có nguy cơ xảy ra chiến sự;
- Bị bệnh xạ, nhiễm độc.
III- Đối với một số nghề như phục vụ gia đình, dịch vụ trên các tàu biển du lịch đối với lao động nữ, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại khác và một số khu vực có tính chất phức tạp, trước khi ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải báo cáo với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số thị trường lao động ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, 2001
2. Chính sách di cư quốc tế, Liên hợp quốc, 1998.
3. CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Lao động, việc làm và thu nhập, Kinh tế Việt Nam, 2000.
4. Dự thảo: Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH của nước ta đến năm 2000, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội,1990.
5. Đề án đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia giai đoạn 1998 - 2010, Bộ
Lao động - Thương binh và xã hội, ngày 24/8/1998.
6. Lê Trung, Nhìn lại vấn đề việc làm sau 15 năm đổi mới, Tạp chí
Thông tin thị trường lao động, số 1/2001.
7. TS. Linh Anh, Luật bảo hiểm xã hội và việc áp áp dụng đối với người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2002.
8. Manuel Imson, Kinh nghiệm của Philipin trong tìm kiếm việc làm nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2000
9. Niên giám thống kê 2000, Nhà xuất bản Thống kê.
10. TS. Trần Văn Hằng, Xuất khẩu lao động cơ hội và thách thức, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2002.
11. Nghị định số 370/ HĐBT ngày 9/11/1991 của Hội Đồng Bộ trưởng.
12. Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ.
13. Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
14. Nguyễn Ngọc Quỳnh, Thị trường XKLĐ và một vài suy nghĩ về mở rộng thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2000.
15. TS. Cao Văn Sâm, Một vài suy nghĩ về đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật cho XKLĐ, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2002.
16. Nguyễn Xuân Lưu, Những thuận lợi khó khăn trong việc hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2000.
17. Paul R.Krugman và Maurice Obstfeld, Kinh tế học quốc tế lý thuyết và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1996.
18. PGS. TS Phạm Đức Thành và TS Mai Quốc Chánh, Kinh tế lao
động, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
19. Lâm Hà, Cung ứng lao động sang làm việc tại Malaysia trong những tháng đầu thực hiện, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2002.
20. Phan Thị Bé, Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với lao động XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/1999.
21. Trần Thị Thanh Bình, Qua 3 năm đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại Đài Loan, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2002.
22. Phạm Đỗ Nhật Tân, Thị trường XKLĐ tại Trung Đông thực trạng và định hướng, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2002.
23. Thông báo kết quả hội nghị toàn quốc về XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2000.
24. ThS. Nguyễn Lương Phương, Những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong tình hình mới, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2000.
25. Tin kinh tế ngày 16/9/2000, Tình hình lao động ở Châu Á, Tạp chí
Việc Làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2000.
26. Mô hình liên kết giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp
XKLĐ trong việc chuẩn bị tạo nguồn và tuyển chọn lao động đi Malaysia.
27. TS. Cao Văn Sâm, Tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu và chuyên gia , Tạp chí Việc làm với nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 1/2001.
28. TS. Phạm Đỗ Nhật Tân, Thị trường lao động ngoài nước. Thực trạng và giải pháp ổn định, phát triển thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2000.
29. TS. Trần Văn Hằng, Hoạt động XKLĐ và chuyên gia năm 2000. Nhiệm vụ và định hướng công tác năm 2001, Tạp chí Việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/1999.
30. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, 1996. Lần thứ IX,
2001.
31. Viện chiến lược phát triển, Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong
chiến lược phát triển KT -XH Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
32. TS. Trần Văn Hằng, XKLĐ thị trường lao động và chuyên gia
2000-2001 và chủ trương, phương hướng đến 2005, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 1/2002.
33. TS. Trần Văn Hằng, Đào tạo nghề-đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ thuật cho công tác XKLĐ, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2002.
34. Huyền Tím, Xuất khẩu lao động - cạnh tranh gay gắt, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2002.
35. Huyền Tím, Xuất khẩu lao động 2002,đối sách cụ thể cho từng thị
trường, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số
3/2002.
36. Đào Đông Hải, Tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản, Hàn Quốc: Tồn tại và giải pháp, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2002.
37. Nguyễn Bá Hải, Thị trường lao động Malaysia qua thời gian thí
điểm, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số
6/2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8387.doc