Đề tài Xuất khẩu nông sản trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc

Sau gần 20 năm đổi mới, hoạt động xuất khẩu noi chung và xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc nói riêng đã thu được những thành tựu đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản ngày một tăng năm sau cao hơn năm trước. Chủng loại hàng hoá, chất lượng, mẫu mã hàng nông sản ngày càng được đổi mới và cải thiện, các mặt hàng chủ lực dần khẳng định vị trí, trong đó có những mặt hàng đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu Tỷ trọng hàng nông sản chế biến trong cơ cấu xuất khẩu tăng nhanh, thị trường Trung Quốc đang dần được chú trọng là một trong những thị trường truyền thống, tiềm năng của ta. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì xuất khẩu nông sản của ta sang thị trường Trung Quốc vẫn còn yếu thế, chưa cạnh tranh cao ngoài một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cao su, hạt điều, rau quả Do vậy, ngoài việc phát huy các mặt hàng chủ lực, Việt Nam nên tập trung vào một số mặt hàng mới có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao: như thịt lợn, lâm sản.

doc87 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 969 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu nông sản trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đăng ký thương hiệu trong nước, và chỉ có 5 doanh nghiệp đăng ký thương hiệu nước ngoài: bưởi năm roi Hoàng Gia, Vải thiều Lục Ngạn, gạo Sohafarm,... Việc có quá ít doanh nghiệp đăng ký thương hiệu nước ngoài đã làm cho hơn 90% lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải mang thương hiệu nước khác. - Công tác quản lý, buôn bán hai bên chưa có các quy định đồng bộ và hoàn chỉnh. Tình trạng buôn lậu, trốn thuế vẫn thường xuyên diễn ra do trình độ quản lý của nhân viên hải quan còn yếu, thiếu phương tiện kỹ thuật giám sát, địa hình đồi núi ven biên giới hiểm trở gây khó khăn cho việc quản lý xuất nhập khẩu. - Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được hết thế mạnh về nông sản nhiệt đới của ta. - Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm đổi mới, chủ yếu là xuất nguyên liệu hoặc hàng thô có giá trị gia tăng thấp. Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là nguyên liệu như than đá, dầu thô, các loại quặng, gỗ, cao su, chiếm 70% kim ngạch và nông sản rau quả nhiệt đới, hải sản chiếm 20% kim ngạch. Chỉ có dưới 10% kim ngạch là các sản phẩm công nghiệp, chế tạo như đồ nội thất, mạch điện tử, thiết bị điện, sản phẩm nhựa, dệt may - Tính chủ động trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá còn kém, thường xuyên xảy ra tình trạng bị khách hàng ép cấp, ép giá nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. - Doanh nghiệp của chúng ta khi làm ăn với đối tác Trung Quốc vẫn mang nặng tư duy cũ, làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ, ngắn hạn, thanh toán trao tay. Điển hình như trường hợp xuất khẩu rau quả tươi sang Trung Quốc. - Điều đáng quan ngại là hàng xuất khẩu sang Trung Quốc thường phải qua tay trung gian, môi giới. - Thanh toán phần nhiều theo hình thức biên mậu, phi chính ngạch gây nhiều rủi ro. - Xuất khẩu tiểu ngạch chiếm tỷ trọng lớn, việc thanh toán trực tiếp giữa các doanh nghiệp, hộ cá thể còn khá phổ biến nên việc theo dõi, giám sát còn gặp khó khăn. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản lớn của cả hai bên chưa tham gia vào hoạt động kinh tế, thương mại qua biên giới Việt – Trung. - Tiêu cực trong xuất khẩu hàng hoá vùng biên còn nhiều: buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế, còn khá phổ biến. Đặc biệt là tình trạng gian lận thương mại, khai khống giá và kim ngạch xuất khẩu để được lĩnh khấu trừ thuế giá trị gia tăng. Nhìn một cách khách quan, những thách thức khi Việt Nam và Trung Quốc cùng tham gia chương trình này là điều cần tính tới. Do cắt giảm thuế theo EHP sẽ tạo cơ hội cho hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, tuy vậy những mặt hàng theo cam kết cắt giảm thuế này của Trung Quốc, phần nhiều là mặt hàng ít có ưu thế cạnh tranh chất lượng với hàng Việt Nam tại thị trường Việt Nam. Những nhóm hàng này chủ yếu là các loại trứng chim, hải sản, nấm, hoa quả tươi, một số giống cây, các loại thịt gà chủ yếu nhập qua đường tiểu ngạch, và chịu sự kiểm dịch của cơ quan quản lý chuyên ngành. Mặt khác, một số mặt hàng của Trung Quốc được cắt giảm thuế quan khi xuất sang Việt Nam với giá cả cạnh tranh sẽ khiến cho các nhà kinh doanh, sản xuất của Việt Nam phải nhìn nhận lại mình để làm sao tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành, cải tiến kỹ thuật, quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc. 2.2.6.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên là: - Một trong những nguyên nhân chính của dẫn đến nhiều sản phẩm thế mạnh của Việt Nam xuất sang Trung Quốc có xu hướng suy giảm đáng kể là do cung cách kinh doanh, buôn bán thiếu tổ chức và kế hoạch dài hạn của các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. Đã từ lâu, rau quả tươi của Việt Nam và Thái Lan đã đứng trên hai đoạn thị trường có đẳng cấp hoàn toàn khác nhau. Trong khi Thái Lan đã xâm nhập được vào kênh buôn bán, các siêu thị trong thị trường nội địa, các thành phố lớn của Trung Quốc với giá cao, thì Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu vào thị trường biên giới, nơi có bộ phận dân cư có thu nhập thấp, yêu cầu chất lượng trung bình. - Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Trung Quốc đã đổi mới theo thông lệ quốc tế, trong khi đó, doanh nghiệp của ta vẫn loay hoay với nếp kinh doanh cũ, tiến hành các giao dịch nhỏ lẻ, thiếu an toàn với đối tác Trung Quốc để lại tiếp tục gánh chịu những rủi ro, thua thiệt về mình mỗi khi thị trường bên kia biên giới có biến động bất lợi. - Việc xuất khẩu hàng nông lâm sản thời gian qua phần lớn dựa vào tự thân vận động của các doanh nghiệp và hộ cá thể. Vai trò điều tiết hỗ trợ về mặt cơ chế chính sách của Nhà nước còn chưa thật mạnh mẽ, do đó dẫn đến tình trạng thiếu định hướng trong chiến lược kinh doanh dài hạn, doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ lẻ. - Cơ sở vật chất phục vụ xuất khẩu ở các cửa khẩu còn rất nghèo nàn, thiếu hệ thống kho trung chuyển và lưu giữ hàng hoá. Hệ thống kho bảo quản sau thu hoạch, đặc biệt các kho ngoại quan tại các cửa khẩu còn chưa đạt tiêu chuẩn dẫn đến tình trạng hàng hoá bị hư hang gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. - Các nhà xuất khẩu nước ta còn thiếu thông tin cần thiết về thị trường Trung quốc như: nhu cầu, thị hiếu, giá cả và các chính sách của bạn đối với hàng nông sản của Việt nam xuất sang, dẫn đến tình trạng hàng hoá không đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, hoặc hàng bị ách tắc khi chuyển đến cửa khẩu Việt - Trung. - Vấn đề thanh toán qua ngân hàng chiếm tỷ lệ rất nhỏ, hình thức phổ biến nhất trong thanh toán giữa các doanh nghiệp hai nước là tiền mặt dẫn đến tình trạng rủi ro trong kinh doanh xuất nhập khẩu, phá hoại môI trường buôn bán giữa hai nước. - Việt Nam chưa có hệ thống Kiểm dịch động, thực vật đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tại hội nghị Bảo vệ thực vật ở các nước ASEAN diễn ra mới đây đã đưa ra đánh giá “Hệ thống bảo vệ thực vật Việt Nam” nằm trong tốp 4 nước chậm phát triển nhất gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar. Do yếu kém này nên mới sinh ra chuyện từ lâu nay phía Trung Quốc theo đường biên mậu nhập hàng loạt trái cây Việt Nam với giá cực rẻ không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang thị trường Hoa Kỳ. Đơn giản là vì họ có công nghệ bảo quản trái cây sau thu hoạch. Trong khi hệ thống kiểm dịch động thực vật của Việt Nam còn đang mò mẫm tập đi, thì hệ thống kiểm dịch Trung Quốc đã biết đi tắt, đón đầu. Với cơ sở kỹ thuật được trang bị hiện đại, họ sẵn sàng làm trung gian kiểm dịch, sau đó xuất khẩu trái cây đến những thị trường khó tính, lãi đầu ra này gấp hàng chục lần. Từ những thuận lợi, khó khăn rút ra trên đây, các cấp lãnh đạo và doanh nghiệp Việt Nam sẽ tìm ra được giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 10 tỷ USD vào năm 2010 sẽ không nằm ngoài tầm tay. Việt Nam cần đề ra hàng loạt những biện pháp cụ thể nhằm khai thác mạnh mẽ ưu thế về tiềm năng nước nhà. Đó là việc hướng cho các doanh nghiệp lớn của hai nước ký kết các hợp đồng dài hạn trao đổi các sản phẩm chủ lực mà hai nước có thế mạnh như: cao su, rau quả, thuỷ hải sản than đá, dầu thô, gỗ (Việt Nam); vật tư nông nghiệp, gang thép, máy móc thiết bị (Trung Quốc). Chú trọng đẩy mạnh hợp tác gia công chế biến hàng nông sản để cung cấp cho thị trường Trung Quốc. Trong mậu dịch biên giới cần tiến đến cơ chế định kỳ phối hợp trao đổi các biện pháp quản lý và giám sát buôn bán biên giới giữa cấp tỉnh và các ban ngành hai bên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước trong trao đổi hàng hoá, kiểm nghiệm, kiểm dịch và thanh toán. Chương 3 Quan điểm, mục tiêu, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 3.1. Các quan điểm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010 3.1.1. Quan điểm thứ nhất Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng nông sản là nhiệm vụ chiến lược quan trọng và là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 3.1.2.Quan điểm thứ hai Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng nông sản phải xuất phát từ lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo thế cạnh tranh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng nông sản, cần phải chú trọng cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa tăng mặt hàng, tăng khối lượng và tăng kim ngạch xuất khẩu. 3.1.3. Quan điểm thứ ba Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng nông sản và mở rộng thị trường xuất khẩu phải dựa trên nhu cầu của thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đồng thời phải chú trọng các thị trường trọng điểm. 3.1.4. Quan điểm thứ tư Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. 3.1.5. Quan điểm thứ năm Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản gắn chặt với hoạt động nhập khẩu nhằm tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp trong nước phát triển và tạo nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu. 3.2. Mục tiêu và phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 3.2.1. Mục tiêu Sự tăng trưởng mạnh thương mại Việt – Trung thời gian qua là thành quả tất yếu những nỗ lực của hai nước. Để tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã đề ra những mục tiêu cụ thể về đẩy mạnh kim ngạch buôn bán hai chiều nói chung cũng như kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng như sau: - Về kim ngạch buôn bán hai chiều: Mục tiêu trước mắt là: (1) đưa kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc dự kiến đạt 3 tỷ USD, tăng 9,68% so 2004; (2) đưa kim ngạch hai chiều lên 10 tỷ USD vào năm 2010; (3) giảm dần sự chênh lệch về cán cân thương mại; (4) không ngừng mở rộng hợp tác sản xuất. - Dự kiến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam xuất sang thị trường Trung Quốc (gồm: cao su thiên nhiên, gạo, hạt điều, thuỷ hải sản, rau quả, chè các loại, sản phẩm gỗ, nước quả) đạt 776 triệu USD, chiếm 24,6% tổng kim ngạch nông sản xuất khẩu Việt Nam và tương đương 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Định hướng cụ thể một số nhóm hàng xuất khẩu trong năm 2005 như sau: dầu thô đạt 1.450 triệu USD; cao su duy trì ở mức năm 2004; rau quả đạt 50 triệu USD; thuỷ sản 70 triệu USD. 3.2.2. Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Qua việc phân tích dự báo chung về tình hình thương mại hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc cho ta thấy Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn thứ ba và là nơi có nguồn nhập khẩu lớn nhất ở Việt Nam; hai nước đã từng bước hình thành cơ chế hợp tác toàn diện, kinh tế hai nước có độ bổ sung cho nhau rất lớn; tuy nhiên bên cạnh đó còn không ít khó khăn như tình trạng mất cân bằng về mậu dịch, hiện tượng xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch vẫn cao, hàng hoá tham gia trao đổi buôn bán biên giới có chất lượng chưa cao làm giảm lòng tin của các bạn hàng hai bên, việc quản lý hai bên chưa có quy định đồng bộ và hoàn chỉnh, trình độ quản lý chưa thích ứng với nhu cầu phát triển buôn bán biên giới, tương quan trao đổi hàng hoá hiện nay bất lợi cho phía Việt Nam Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong thời gian qua, đòi hỏi Việt Nam phải có các giải pháp điều chỉnh quy mô sản xuất, chiến lược sản phẩm, tài chính – tín dụng, tổ chức và quản lý xuất khẩu nông sản, tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp cho phù hợp để đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian tới, đạt mục tiêu đã đề ra. Hơn nữa, theo dự đoán của nhiều chuyên gia, các điều kiện cạnh tranh của hàng lắp ráp khá là không ổn định, trong khi đó điều kiện cạnh tranh của hàng nông sản có xu hướng mang lại hiệu quả cao hơn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong quá trình phát triển này, Trung quốc được dự đoán sẽ trở thành một nước nhập siêu rất lớn về nông sản thô, thực phẩm chế biến, đặc biệt là ngũ cốc, thịt và các cây đặc sản khác. Những kết quả này dẫn đến một lịch trình chính sách bổ trợ cho việc mở rộng xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc, lịch trình này có thể được tạo điều kiện thông qua cải cách trong nước và đàm phán song phương, tái khẳng định trọng tâm vào sản lượng tiềm năng này. 3.3. Triển vọng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Dự báo về tăng trưởng của nền kinh tế Trung quốc cho thấy Trung quốc có thể trở thành nước nhập khẩu lương thực lớn nhất thế giới vào năm 2010 và sẽ tiếp tục duy trì xu hướng này tới thập kỷ sau vì Trung Quốc hiện đang là thành viên của WTO và đang là nước có lợi thế so sánh so với các nước trong tổ chức. Đồng thời, Trung quốc được dự đoán sẽ trở thành một nước nhập siêu rất lớn về nông sản thô, thực phẩm chế biến, đặc biệt là ngũ cốc, thịt và các cây đặc sản khác mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Ngay cả khi nếu dân số Trung quốc không thay đổi, mức tăng thu nhập theo dự đoán có thể dẫn tới tăng cầu về thực phẩm. Từ ngày 1-1-2004, Việt Nam và Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo chương trình “Thu hoạch sớm” (EHP) được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc trong chương trình sớm đi đến hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Trong quá trình thực hiện chương trình này, Việt Nam và Trung Quốc, mỗi nước đều có khoảng gần 500 mặt hàng tham gia vào chương trình thu hoạch sớm, hầu hết các mặt hàng tham gia vào Chương trình này là các mặt hàng nông sản, rau quả và thuỷ hải sản, đó là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh. Điều này sẽ mang lại ưu thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp của Việt Nam khi tiết kiệm chi phí về thuế. Vì đa số các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thuỷ sản chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đều đang chịu mức thuế cao trên 15% sẽ được giảm thuế ngay từ đầu. Từ khi Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nước ASEAN mà Việt Nam là thành viên có thể khai thác qua những ưu đãi mà Trung Quốc dành cho các nước này trong quá trình đi tới ký Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – ASEAN. Chẳng hạn như, năm 2003, Trung Quốc đã cắt giảm mức thuế nhập khẩu chung từ 12% xuống mức hiện tại tức 11%. Chuyên gia xác định có 2 cơ hội quan trọng đối với các nhà sản xuất lương thực và thực phẩm của Việt Nam. Thứ nhất là tiếp thị hàng hóa vào nền kinh tế Trung quốc đang phát triển nhanh và có khả năng hấp thụ lớn. Thứ hai là xu hướng tạo ra sự phụ thuộc lớn vào nhập khẩu lương thực khiến nông dân Việt Nam sẽ dành được một phần quan trọng trong thị trường rộng lớn này. Dự tính kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Tính đến hết năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại số 1 của Việt Nam với tổng kim ngạch hai chiều đạt 7,191 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 2,735 tỷ USD, đứng thứ 3 sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Xác định đây là thị trường trọng điểm, Bộ Thương mại đưa ra dự báo định hướng các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc thời kỳ 2005 – 2010. Bảng 3.1: Định hướng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt nam sang trung quốc thời kỳ 2005 – 2010 Tên hàng hoá Dự kiến năm 2005 (triệu USD) Dự kiến năm 2010 (triệu USD) Cao su thiên nhiên 480 650 Rau quả 40 250 Gạo 55 200 Hạt điều 80 180 Thuỷ hải sản 75 350 Sản phẩm gỗ 40 300 Chè các loại 6 20 Nước quả - 20 Nguồn: Bộ thương mại 2005 3.4. Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 3.4.1. Nhóm giải pháp về chiến lược sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tuy đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, đã có những bước tiến vượt bậc, nhưng những thách thức đặt ra cho nền kinh tế nước nhà cũng không phải là nhỏ. Thực tế cho thấy: Nguyên nhân có tính bao trùm cản trở đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này là chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu khó tính của thị trường đông dân Trung Quốc, việc hàng giả, nhái mẫu mã, bao bì, đã làm giảm lòng tin phía bạn hàng. Để thúc đẩy sản xuất, phát huy tốt các lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mọi mặt và ngày càng đa dạng của thị trường Trung Quốc thì giải pháp về sản phẩm là giải pháp có tính chiến lược và lâu dài. 3.4.1.1. Quy hoạch vùng sản xuất tập trung Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc là do hệ quả của lối sản xuất tuỳ tiện, manh mún, nhỏ lẻ, không đồng bộ, chất lượng giống không cao. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết của ta là phải quy hoạch vùng sản xuất nông sản chất lượng cao dành cho xuất khẩu, đồng thời tổ chức sản xuất kinh doanh theo vùng đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lớn và hiện đại. 3.4.1.2. Tăng cường đầu tư áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn nhằm phát triển khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam Nhà nước cần đổi mới một cách căn bản chính sách đầu tư, trong đó tăng tỷ trọng nguồn vốn ngân sách cho nông nghiệp lên khoảng 25 – 28% tương ứng với tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP. - Trước hết, cần tập trung cho công tác nghiên cứu, lai tạo giống .Hiện nay thì chúng ta cũng đã phát minh ra thêm nhiều loại giống có năng xuất cao như : CMS ,TGMS ,VL20 ,HYT57 . - Đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản: Đối với nông dân Việt Nam, công nghệ chế biến ướt, công nghệ phân loại, tách màu cà phê còn là mới mẻ. Nông dân vùng trồng cà phê vối rất quen với công nghệ chế biến khô - cà phê hái về cả quả xanh và quả chín đem phơi khô. Đó là một công nghệ thô sơ và có phần không khoa học. Chuyển sang chế biến ướt cần phải có tập huấn, hướng dẫn bằng nhiều cách. 3.4.1.3. áp dụng nghiêm ngặt chế độ đăng ký, kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu Hiện nay, Trung Quốc cũng từng bước thiết lập “hàng rào xanh” cho riêng mình để hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài mà không vi phạm quy định của WTO. Đây là một thách thức lớn đối với nông sản của Việt Nam khi tham gia hội nhập WTO mà trước hết là hội nhập ACFTA bởi vì Việt Nam chưa có hệ thống giám sát chất lượng hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế.trong khi đấy thì Việt Nam có khoảng 15 – 20 tổ chức đang làm nhiệm vụ chứng nhận và cấp chứng chỉ ISO cho các doanh nghiệp. Các tổ chức này cũng chính là những đơn vị kiểm soát việc áp dụng ISO của doanh nghiệp. Theo quy định, nếu doanh nghiệp nào áp dụng ISO không tốt sẽ bị tước ISO. Còn tại nước ngoài, hệ thống này cập nhật đến mức cứ 6 tháng lại 1 lần thay đổi. Nếu doanh nghiệp nào không theo nổi cấp độ thay đổi này thì sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi. Lâu nay, Việt Nam chưa thực sự có một sân chơi ISO để các nhà doanh nghiệp có thể giãi bày. Hệ thống này còn quá mới mẻ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa quen áp dụng khiến bộ máy trở nên rối ren, không mang lại giá trị. Bản thân người lãnh đạo cao nhất chưa hiểu rõ mục tiêu chiến lược, định hướng khách hàng và các nguyên tắc về chất lượng một cách đầy đủ nhất. Vì thế, trong thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp mất công sức chạy theo các chứng chỉ chất lượng để có nhiều khách hàng, nhưng lại quên mất việc giữ khách hàng. Theo khuyến cáo, chi phí bỏ ra để có được khách hàng mới gấp 6 lần chi phí giữ chân khách hàng. Doanh nghiệp đúng là “thiệt đơn thiệt kép”. 3.4.1.4. Đa dạng các hình thức xuất khẩu Hiện nay, quan hệ buôn bán nói chung và nông sản nói riêng giữa hai nước mới chỉ dừng lại ở hình thức buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch. Để tăng cường quan hệ kinh tế, các hình thức như: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gián tiếp, xuất khẩu bằng phương thức hàng đổi hàng, xuất khẩu thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, xuất khẩu thông qua liên doanh liên kết và hợp tác kinh tế quốc tế cần được đẩy mạnh và phát triển. 3.4.2. Nhóm giải pháp về Tài chính – tín dụng Trong những năm qua, nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước chủ yếu cho các doanh nghiệp Nhà nước và tập trung vào khâu chế biến. Tuy nhiên, qua những phân tích cho thấy khâu bảo quản và xử lý sau thu hoạch chính là khâu cần phải nhanh chóng và phát triển trong thời gian trước mắt. Cụ thể hơn, Nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho hệ thống kho chứa ở các cửa khẩu, vùng nguyên liệu, chợ đầu mối để tạo điều kiện hơn nữa cho công tác xuất khẩu nông sản nói chung và sang thị trường Trung Quốc nói riêng. Có thể nói, chính sách ưu đãi về tài chính và tín dụng đối với nông sản xuất khẩu đã góp phần tạo điều kiện để các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh về giá của nông sản trên thị trường Trung Quốc, khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng đầu tư sản xuất chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Các giải pháp cụ thể trong lĩnh vực Tài chính – Tín dụng bao gồm : 3.4.2.1. Lãi suất và tỷ giá hối đoái linh hoạt Một chính sách định giá đồng nội tệ quá cao sẽ làm tăng giá xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam và đồng thời làm giá hàng nhập khẩu rẻ hơn. Điều này sẽ có lợi cho ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Do tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là lớn, vào khoảng 28%, việc định giá đồng nội tệ quá cao sẽ có tác động tiêu cực không chỉ đến tăng trưởng nông nghiệp mà còn ảnh hưởng xấu đến lợi ích lâu dài của nền kinh tế. Do nhiều nước trong khu vực xuất khẩu hàng nông sản giống như Việt Nam nên sự phá giá mạnh đồng bản tệ ở những nước này đã tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn cho hàng nông sản xuất khẩu của các nước này so với Việt Nam. Vì vậy, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế từng thời kỳ mà vận dụng công cụ tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng một cách sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo để nông sản Việt Nam xuất khẩu có hiệu quả sang thị trường Trung Quốc. 3.4.2.2. Bảo hiểm, hỗ trợ xuất khẩu Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và độ rủi ro cao. Để giảm bớt rủi ro và phát triển bền vững, Nhà nước cần có sự hỗ trợ để các cơ quan chức năng tiến hành các dịch vụ bảo hiểm cho nông nghiệp. Tự do hóa trong lĩnh vực nông sản giữa nước ta và các nước ASEAN với Trung Quốc đã đạt được qua việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại trong những năm gần đây, đặc biệt là Hiệp định thu hoạch sớm. Do đó, khả năng các mặt hàng nông sản nước này sẽ tràn vào Việt Nam là rất hiện thực. Vì vậy, để bảo vệ sản xuất trong nước, chúng ta cần khẩn trương xây dựng các văn bản pháp lý liên quan đến các biện pháp tự vệ trong thương mại đối với hàng nông sản. Hiện nay, trong khuôn khổ WTO đã đạt được cam kết tự do hoá thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn nằm trong chính sách bảo hộ của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển. Các biện pháp bảo hộ thường bằng các rào cản kỹ thuật để bảo vệ người tiêu dùng và môi trường. Do đó, các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải căn cứ vào tính chất bảo hộ của từng loại sản phẩm ở từng thị trường cụ thể để xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn vệ sinh thực phẩm cho phù hợp. Vấn đề về việc bảo hộ và trợ cấp nông nghiệp ở nước ta không cao nhưng trong tương lai nhu cầu bảo hộ và hỗ trợ sẽ ngày càng cao bởi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn. Điều đó sẽ gây nhiều khó khăn trong các cuộc đàm phán của nước ta để gia nhập WTO sắp tới. Do đó, vấn đề đặt ra là trong khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần bị hạ thấp và tiến tới dỡ bỏ hoàn toàn thì Việt Nam cần phải làm gì để vẫn hỗ trợ được cho nông dân mà không làm ảnh hưởng tới quá trình gia nhập WTO. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, mặc dù các khoản hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu bị cắt giảm nhiều và thậm chí không còn được áp dụng khi Trung Quốc gia nhập WTO nhưng họ vẫn có thể dành hỗ trợ và trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp trong nước theo các quy định thuộc “hộp màu xanh lá cây”, “hộp màu xanh da trời” và “hộp màu xanh hổ phách”. Tự do hoá trong lĩnh vực nông sản giữa nước ta và các nước ASEAN với Trung Quốc đã đạt được qua việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại những năm gần đây, đặc biệt là Hiệp định Thu hoạch sớm. Do đó, khả năng các mặt hàng nông sản của nước này sẽ tràn vào Việt Nam là rất hiện thực. Vì vậy, trong thời gian tới, bên cạnh tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến bảo vệ sản xuất trong nước như các biện pháp chống bán phá giá, thuế đối kháng chính sách thương mại cần hướng các doanh nghiệp xây dựng các công cụ có khả năng vượt qua các hàng rào bảo hộ mới của thị trường Trung Quốc. 3.4.2.3. Chính sách thuế nông nghiệp và thuế xuất nhập khẩu Nhìn chung, mức thuế đánh vào hàng xuất khẩu là khá thấp nhưng thuế đánh vào hàng chế biến lại quá cao. Đối với hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, cao su tự nhiên, chè, tiêu không chịu thuế xuất khẩu. Đối với các hàng chế biến, các sản phẩm nhập khẩu chịu mức thuế cao như gạo đã xay xát có thuế suất 15%, cà phê rang 75%, chè 75%, rau quả 45%. Có thể nhận thấy rằng thuế suất nhập khẩu cao đánh vào hàng chế biến là để bảo hộ ngành chế biến thực phẩm. Vì Việt Nam là thành viên của AFTA và lịch trình cắt giảm thuế theo CEPT đã rất gần, như vậy ngành chế biến nông sản trong nước sẽ gặp thách thức lớn do áp lực cạnh tranh từ các nước ASEAN. Theo CEPT, thuế suất nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng sẽ giảm xuống còn từ 0-5% vào năm 2006. 3.4.2.4. Chính sách đầu tư Đối với vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước, cần phải xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên mà đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm thích đáng. Từ trước đến nay, vốn đầu tư từ ngân sách có xu hướng phân tán, hiệu quả không cao. Trong những năm tới đây, do yêu cầu về chất lượng ngày càng cao của thị trường quốc tế cũng như Trung Quốc, cơ cấu đầu tư phải có những điều chỉnh thích hợp, theo đó, tăng cường đầu tư hơn nữa cho công tác khuyến nông và nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học ứng dụng. Việc nghiên cứu chọn lọc, lai tạo các giống mới, giống có chất lượng cần được đầu tư thích đáng. Cho đến nay, đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước vẫn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất mà chưa có sự hỗ trợ thích đáng cho khâu tiêu thụ – thị trường. Do vậy, Nhà nước cần đầu tư thoả đáng cho “đầu ra” của quá trình sản xuất. Một hướng cần ưu tiên đầu tư hơn nữa từ nguồn ngân sách Nhà nước là hệ thống cơ sở hạ tầng tiêu thụ (kho tàng, bến bãi, cơ sở vận tải), đặc biệt là các chợ đầu mối, chợ buôn bán nông sản để khuyến khích phát triển mạnh mạng lưới giao lưu nông sản giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài ra, đầu tư của Chính phủ vào nông nghiệp có vẻ không hiệu quả do chủ yếu chỉ tập trung vào các doanh nghiệp quốc doanh. Trong khi đó, thiếu vốn đầu tư của Chính phủ cho khu vực tư nhân là một hạn chế lớn ngăn cản các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Đầu tư cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất thấp, khoảng 10% tổng đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh. Một trong những lo ngại là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp rất thấp, chỉ chiếm khoảng 7%, điều này có nghĩa khu vực nông thôn chưa tạo thành địa bàn hấp dẫn cho các nhà đầu tư. 3.4.3. Nhóm giải pháp về tổ chức và quản lý xuất khẩu nông sản 3.4.3.1.Tạo lập môi trường cho thị trường tiêu thụ nông sản a/ Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại hàng nông sản: Đường giao thông: Nhà nước ưu tiên dành vốn hỗ trợ phát triển giao thông, đảm bảo giao thông thông suốt trong mọi thời tiết để lưu thông vận chuyển hàng hoá sang Trung Quốc, trước hết là các vùng sản xuất tập trung. Hệ thống thông tin Xây dựng và phát triển nhanh mạng lưới bưu chính – viễn thông, thông tin tới tận các hộ gia đình sản xuất nông sản, bảo đảm tính sẵn sàng, tính tiếp cận và tính phổ cập thông tin trong mọi lĩnh vực, mọi thời tiết, mọi điều kiện và mọi đối tượng để họ nắm bắt được nhanh nhất nhu cầu từ phía các doanh nghiệp đối tác Trung Quốc. Xây dựng hệ thống tham tán thương mại ở Trung Quốc để tìm hiểu và nắm bắt rõ nhu cầu thị trường đối tác, từ đó phổ biến cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam nắm rõ nhu cầu, tình hình, để ra chiến lược sản xuất cũng như tiêu thụ các sản phẩm nông sản của mình. Hệ thống chợ Hoàn thiện hệ thống chợ, các điểm họp chợ chung và các cửa khẩu buôn bán trên biên giới Việt Trung. Đầu tư xây dựng kho ngoại quan ở Trung Quốc, Đài Loan để trưng bày, giao dịch hàng nông sản. b/Tổ chức mạng lưới kinh doanh hàng hoá nông sản và vật tư nông nghiệp: Các hộ nông dân sản xuất hàng hoá theo dõi sát thông tin thị trường để quyết định phương án sản xuất phù hợp với yêu cầu thị trường. Phát triển hợp tác xã tiêu thụ dưới nhiều hình thức. Các doanh nghiệp phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu, phát triển thị trường, xác định sản phẩm, tổ chức sản xuất, chế biến, kinh doanh nông lâm thuỷ sản theo yêu cầu thị trường. Tổ chức hệ thống phân phối đến tận địa phương để tiêu thụ sản phẩm, cung ứng vật tư. c/ Đào tạo nhân lực: Đưa các kiến thức về kinh tế thị trường vào các chương trình giảng dạy ở các trường trung học, công nhân kỹ thuật, các lớp tập huấn ngắn ngày về khuyến nông Đề nghị Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo nhân lực: khấu trừ vào phần nghĩa vụ ngân sách đối với khoản chi đào tạo nguồn nhân lực. d/ Xây dựng và phát triển nhanh hệ thống thông tin thị trường: Đối với thị trường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, việc tăng cường xuất khẩu nông sản là động lực chính để phát triển, nên các giải pháp về thị trường phải lấy xuất khẩu là trọng tâm chính, gồm những biện pháp sau: Tổ chức nghiên cứu, dự báo thị trường trong nước và thị trường nội địa Trung Quốc đối với từng mặt hàng nông sản cụ thể. Nghiên cứu thị hiếu, giá cả, chính sách thuế, phi thuế, các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng của khách hàng để hướng dẫn người sản xuất làm ra các sản phẩm hàng hoá phù hợp. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị, hướng dẫn tiêu dùng, tham gia hội chợ triển lãm Trung Quốc để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh. Chú trọng các đoạn thị trường có sức mua lớn như Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Kinh, Vân Nam đi đôi với khảo sát, thăm dò mở thêm thị trường mới, chủ động phòng ngừa những đột biến thị trường Tại thị trường Trung Quốc đề nghị có tham tán nông nghiệp để theo dõi thông tin và thực hiện hoạt động giao dịch thương mại hàng nông sản. Thành lập văn phòng đại diện thương mại nông sản Việt Nam tại Trung Quốc. Thành lập quỹ phát triển Thị trường nông sản trên cơ sở hỗ trợ ban đầu của Nhà nước và nguồn thu chủ yếu từ các doanh nghiệp có xuất khẩu nông sản, dựa vào số lượng hoặc trị giá xuất khẩu từng loại sản phẩm để chủ động thực hiện công tác xúc tiến thương mại, xử lý tranh chấp thương mại khi xảy ra. 3.4.3.2. Đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu Công tác cải cách hành chính trong thời gian qua đạt những kết quả tích cực trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của Bộ, trong việc tham gia xử lý điều hành vĩ mô, ban hành các chính sách nhằm khai thông ách tắc trong sản xuất và xuất khẩu nông sản. Công tác cải cách hành chính của Bộ được triển khai đồng bộ và đạt kết quả bước đầu ở cả 4 lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và cải cách tài chính công. Một số nội dung cải cách hành chính Bộ đã triển khai như: Mô hình “một cửa”, ứng dụng công tác ISO trong công tác hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý điều hành của Bộ được triển khai thực hiện 3.4.3.3. Củng cố công ty, từng bước thành lập tập đoàn kinh tế Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, việc củng cố, kiện toàn các Tổng công ty Nhà nước nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. Đảng và Nhà nước ta định hướng tổ chức quản lý kinh doanh xuất khẩu hàng hoá dựa trên mô hình tập đoàn kinh tế theo hai hướng sau: Thành lập tập đoàn kinh doanh xuất khẩu từ các Tổng công ty mạnh. Ví dụ như Thành lập Tập đoàn kinh doanh xuất khẩu rau quả trên cơ sở lấy Tổng công ty rau quả và các công ty, nhà máy chế biến rau quả xuất khẩu làm nòng cốt. Thành lập tập đoàn kinh doanh mà thành viên của nó là các đơn vị độc lập tự nguyện liên kết với nhau, hoặc mua lại, sát nhập, thôn tính các doanh nghiệp yếu kém. Như vậy, Tập đoàn được thành lập hoạt động theo nguyên tắc Công ty cổ phần. Ví dụ: Tập đoàn kinh doanh xuất khẩu của một số Hiệp hội kinh tế như: Hiệp hội Cao su, Hiệp hội Cà phê ca cao, Hiệp hội mía đường, Hiệp hội chè, Hiệp hội xuất khẩu gạo 3.4.4. Nhóm giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường sang Trung Quốc 3.4.4.1. Về phía Nhà nước, Bộ, Ngành Một nền kinh tế năng động, hoạt động theo một guồng máy chỉnh thể không thể thiếu vai trò của quản lý của Nhà nước. Nhà nước, chủ thể đóng vai trò điều tiết, định hướng về mọi mặt cho các chủ thể khác tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu các sản phẩm nông sản có hiệu quả, cần phát huy chức năng về: - Tăng cường quản lý Nhà nước về công tác thị trường: Thực hiện phân cấp chịu trách nhiệm lo thị trường tiêu thụ nông sản. - Tăng cường quản lý Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hoá: Nghiên cứu xây dựng mới, soát xét lại (khoảng 250) tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy trình, quy phạm phù hợp với yêu cầu người tiêu dùng thị trường Trung Quốc. Kiện toàn hệ thống kiểm dịch động thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi từ Trung ương đến địa phương để quản lý, kiểm tra và ngăn chặn hàng kém chất lượng, hàng không đủ tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ Về phía Bộ NN & PTNT cũng nên phân bổ một phần ngân sách nghiên cứu khoa học cho các đề tài nghiên cứu thị trường nông sản. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn thiếu vắng các đề tài nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này, đây là thiếu sót mà chúng ta cần nhanh chóng điều chỉnh. Gần đây, Chính phủ đã ban hành quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Thông qua đó, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người sản xuất nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển sản xuất ổn định và bền vững hơn. Nhà nước cần định hướng, đề ra kế hoạch cụ thể thực hiện tốt phong trào “ba giảm”, “ba tăng”: giảm diện tích – giảm hoá chất thuốc trừ sâu, phân bón – giảm giống; tăng năng suất – chất lượng – hiệu quả. Thị trường Trung Quốc trước mắt là một thị trường dễ tính, yêu cầu về chất lượng sản phẩm chưa cao, hệ thống kiểm dịch an toàn thực phẩm trước mắt là chưa chặt chẽ, nhưng muốn tồn tại lâu dài và cạnh tranh với các đối thủ khác thì Nhà nước cần hướng dẫn người sản xuất chú trọng đến giảm việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu khi trồng các sản phẩm nông sản. Nhà nước cũng phải đầu tư nghiên cứu các loại giống cây trồng mới sao cho giảm số lượng giống cây trồng đưa vào sản xuất, tăng chất lượng các loại giống cho năng suất, chất lượng cao. Một vấn đề đáng chú ý hiện nay là: Chính sách thương mại cần hướng vào thúc đẩy mô hình “bốn nhà”, “năm nhà” trong đó mối liên kết giữa các nhà khoa học – nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà nước – nhà ngân hàng để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt mặt hàng và đồng thời xây dựng thương hiệu cho mỗi loại sản phẩm. Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa Nhà khoa học – Nông dân – Người thu mua và bảo quản – chế biến - đến doanh nghiệp xuất khẩu theo một dây chuyền khép kín, tạo thành một liên kết tổng thể từ sản xuất đến khâu tiêu thụ cuối cùng. Mặt khác, cần tăng cường vai trò của Ngân hàng để phục vụ hoạt động xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc, đưa thanh toán qua Ngân hàng vào nề nếp theo thông lệ quốc tế. Hiện nay, một trong những vướng mắc mà doanh nghiệp hai bên gặp phải là phương thức thanh toán tiền hàng trong buôn bán biên mậu vì việc thanh toán phổ biến bằng tiền mặt thường xẩy ra rủi ro cao. Do đó, Ngân hàng hai bên cần gặp nhau để định ra cấc phương thức thanh toán thích hợp, phù hợp với điều kiện buôn bán biên giới, đảm bảo lợi ích hai bên. Trong điều kiện hiện nay điều này muốn thực hiện thành công cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, trong đó, quy định pháp luật để phân chia lợi ích giữa các chủ thể tham gia là rất cần thiết. 3.4.4.2. Về phía hiệp hội ngành hàng Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng sản xuất kinh doanh, thống nhất hành động, hợp tác quốc tế cho các doanh nghiệp thành viên. Nội dung hoạt động chính của các Hiệp hội gồm các công việc sau: Xây dựng cơ chế quản lý, điều hành Hiệp hội như: Quy định hội viên Hiệp hội, tổ chức bộ máy Hiệp hội, tài chính, chức năng quản lý, đàm phán, kiểm tra giám sát các hội viên. Trao đổi thông tin về sản xuất kinh doanh, về khoa học công nghệ, về thị hiếu giá cả thị trường trong và ngoài nước. Xây dựng quy cách, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Phối hợp hành động xúc tiến thương mại như: Tổ chức hội nghị khách hàng, hội chợ, hội thảo, triển lãm quốc tế và trong nước, tổ chức thăm quan, khảo sát, tìm hiểu thị trường. Đào tạo nguồn nhân lực nắm vững về chuyên môn kỹ thuật cũng như về quản lý kinh doanh. Tham gia thẩm định chính sách Nhà nước để có kiến nghị sát đúng xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh của cơ sở vì lợi ích toàn cục. Trong thời gian tới, cần nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội trong lĩnh vực Hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong Hiệp hội nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách hiệu quả nhất. Đối với ngành nông sản, cần sớm thành lập Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng và giao cho các Hiệp hội quản lý. 3.4.4.2. Về phía doanh nghiệp xuất khẩu và nhà sản xuất Đối với các chủ trang trại, hộ sản xuất nhỏ: (1) Chủ động nắm bắt thông tin phía đối tác và tìm kiếm các cơ hội giới thiệu sản phẩm do mình làm ra sang thị trường thế giới cũng như thị trường Trung Quốc; (2) Dựa vào các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp lớn để cùng tham gia thị trường rộng lớn Trung Quốc. Trong điều kiện các doanh nghiệp làm ăn với Trung Quốc phần lớn là các hộ gia đình nông dân, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì việc đáp ứng những yêu cầu về kiểm dịch, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm, thậm chí chỉ là tiếp cận những thông tin, chính sách mới xem ra là rất khó khăn. Do vậy, mối liên kết, hợp tác dài hạn giữa nông dân với các hiệp hội, sự phối hợp của chính quyền địa phương và sự tham gia sâu hơn của các doanh nghiệp lớn là cực kì quan trọng. Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động phối hợp với cơ quan Nhà nước để kịp thời phản ánh những khúc mắc trong cơ chế nhập khẩu của phía họ để tìm cách thương thảo, cùng tháo gỡ, tạo thuận lợi cho nông sản của nước ta. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước cần nghiên cứu đẩy nhanh hơn nữa quá trình sắp xếp theo hướng cổ phần hoá. Phải kiên quyết và mạnh dạn hơn nữa trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước nhằm xác định rõ trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh bằng chính năng lực của mình, tự phấn đấu vươn lên, tránh ỷ lại, dựa dẫm. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu nông sản cần chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh của mình bằng việc đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị, đào tạo đội ngũ lao động giỏi nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm và chủ động thích nghi với cạnh tranh trong hội nhập. Đồng thời, các doanh nghiệp của ta cần chủ động đổi mới bắt đầu nhận thức từ cung cách kinh doanh từ khâu sản xuất theo định hướng thị trường, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ để đáp ứng những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, về tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm. Một yêu cầu không thể thiếu đối với các doanh nghiệp là phải làm quen với cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ACFTA để đủ tiêu chuẩn hưởng ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do này Vấn đề phát huy tốt mô hình “bốn nhà”, “năm nhà” không chỉ đòi hỏi nỗ lực từ phía Nhà nước, mà còn từ phía doanh nghiệp, nhà sản xuất. - Nhà khoa học: Nước ta có điều kiện đất đai và khí hậu đặc thù đã tạo nên những sản phẩm nông nghiệp có chất lượng khác biệt so với nhiều nước. Mặt khác, hiện nay lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chúng ta đã nghiên cứu thành công rất nhiều loại giống mới. Trong buôn bán quốc tế những sản phẩm này được bảo hộ bằng quyền sở hữu trí tuệ. Đây là lợi thế rất lớn mà nhiều doanh nghiệp, các nhà khoa học và nông dân của Việt Nam không dành quan tâm để khai thác. Tuy nhiên, để được hưởng quyền lợi đó, sản phẩm cần phải đăng ký nhãn hiệu hàng hoá với các quy định chi tiết từ nguồn gốc sản xuất. Vì vậy, việc làm thiết thực nhất lúc này là cần được hỗ trợ, đầu tư đẩy mạnh nghiên cứu lai tạo, chọn lọc, đưa nhanh các giồng cho năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, gắn với quy trình trồng mang tính sinh thái để tạo ra sản phẩm an toàn, tăng thêm tính cạnh tranh trong xu thế hội nhập; nghiên cứu chế tạo, áp dụng thành công những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đưa máy móc, công nghệ hiện đại vào trong sản xuất; hỗ trợ cho nhà sản xuất tạo ra nông sản phẩm chấ lượng cao. - Nhà nông: thực hiện nghiêm chỉnh mô hình “ba giảm”, “ba tăng”, muốn cho nông sản phẩm sản xuất ra đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, có chỗ đứng trên thị trường trong & ngoài nước, đặc biệt là thị trường Trung Quốc cần giảm dư lượng thuốc trừ sâu, phân bón hoá học trong các loại cây trồng; tăng năng suất, thâm canh gối vụ, trồng xen kẽ hoa màutạo hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu ngày càng nhiều của thị trường đông dân Trung Quốc này. - Nhà xuất khẩu: Hình thức xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc qua việc ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người sản xuất nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển sản xuất ổn định và bền vững hơn đang là một lĩnh vực đem lại hiệu quả cao. Thông qua hình thức hợp đồng, các doanh nghiệp chế biến – tiêu thụ sẽ hỗ trợ người sản xuất về giống, vật tư nông nghiệp, kỹ thuật canh tác. Nhờ vậy, người sản xuất mới tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy trình canh tác và phương pháp sử dụng hoá chất trong nông sản. Sản phẩm nông sản không những có chất lượng được nâng cao mà còn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy, hình thức hợp đồng có ưu thế cơ bản quyết định khả năng cạnh tranh những sản phẩm nông sản vốn đã có lợi thế như của nước ta. Kết luận Việt Nam là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, nhưng còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hợp lý, nhất là đất đai, lao động, điều kiện thời tiết, tài nguyên thiên nhiên. Để thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, thì phát triển ngành nông nghiệp đất nước hướng về xuất khẩu, phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học công nghệ với bên ngoài, tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu là tất yếu khách quan, và yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Sau gần 20 năm đổi mới, hoạt động xuất khẩu noi chung và xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc nói riêng đã thu được những thành tựu đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản ngày một tăng năm sau cao hơn năm trước. Chủng loại hàng hoá, chất lượng, mẫu mã hàng nông sản ngày càng được đổi mới và cải thiện, các mặt hàng chủ lực dần khẳng định vị trí, trong đó có những mặt hàng đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu Tỷ trọng hàng nông sản chế biến trong cơ cấu xuất khẩu tăng nhanh, thị trường Trung Quốc đang dần được chú trọng là một trong những thị trường truyền thống, tiềm năng của ta. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì xuất khẩu nông sản của ta sang thị trường Trung Quốc vẫn còn yếu thế, chưa cạnh tranh cao ngoài một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cao su, hạt điều, rau quả Do vậy, ngoài việc phát huy các mặt hàng chủ lực, Việt Nam nên tập trung vào một số mặt hàng mới có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao: như thịt lợn, lâm sản... Để giữ vững tốc độ tăng trưởng ổn định trong thời gian dài, bên cạnh những biện pháp khơi dậy tiềm năng bên trong phát triển sản xuất, tăng khối lượng nông sản hàng hoá với chất lượng cao hơn, tăng tính cạnh tranh thì phải có sự kết hợp giữa Nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp mà chuyên đề đã đề xuất trong phần quan điểm, mục tiêu và 4 nhóm giải pháp đẩy mạnh hàng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. (1) Nhóm giải pháp về chiến lược sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu. (2) Nhóm giải pháp về tài chính tín dụng nhằm cải thiện nguồn vốn đầu tư nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. (3) Nhóm giải pháp về tổ chức và quản lý xuất khẩu hàng nông sản dần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác xuất khẩu nông sản. (4) Nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Đức Bình – Lê Hữu Nghĩa – Trần Xuân Sầm (2001), Toàn cầu hoá - Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 2. Bộ NN & PTNT, (5/2000), Nông nghiệp nông thôn năm 2004 và chỉ tiêu kế hoạch 2005. 3. Bộ NN & PTNT, Dự báo thị trường thế giới đầu thế kỷ XXI của một số nông lâm sản, Báo chuyên đề. 4. Bộ NN & PTNT, triển vọng thị trường thế giới trung và dài hạn của một số nông sản, Báo chuyên đề. 5. Bộ NN & PTNT, Tóm tắt dự thảo chiến lược hội nhập Kinh tế quốc tế cho một số mặt hàng nông lâm sản chính. 6. Bộ NN & PTNT, Báo cáo tóm tắt chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, hướng mạnh xuất khẩu. 7. Bộ NN & PTNT, Hợp tác Thương mại - đầu tư nông nghiệp giữa Việt Nam – Trung Quốc. 8. Bộ Tài chính (1998), Lịch trình giảm thuế của Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA, NXB Tài chính Hà Nội. 9. Bộ Tài chính (3/2001), Giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu, Bác cáo hội thảo khoa học. 10. Bộ Thương mại, Phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010, Hà Nội. 11. Bộ Thương mại, Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010. 12. Bộ Thương mại, Giải pháp mở rộng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. 13. Bộ Thương mại, Định hướng xuất khẩu một số nông sản phẩm chính của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 14. Nguyễn Duy Bột, Giáo trình Thương mại quốc tế, NXB Thống kê, HN 15. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Tô Đức Hạnh, Trần Mai Phương, 10 năm xuất khẩu hàng hoá nông sản ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân. 17. Vũ Trọng Khải (2001), các lợi thế so sánh và bất lợi của nông sản Việt Nam trong bối cảnh tự do hoá thương mại, Nội san thông tin khoa học. 18. Tổng cục Hải quan TàI liệu Tiếng anh 19. EIU, Country Forecast, The Economics Intelligence Unit, UK. 20. FAO, 2003, Commodity Review and Outlook, Rome. 21. FAO, 2001, Commodity Market Review. 22. FAO, 2001, Year book Forest Product. 23. FAO, 2001, Medium term prospect for Agricultural commodities, Agricutural commodities Projections to 2005, Rome. 24. FAO, Year book Statistic 1995, 1998, 2000, 2004. 25. USDA, 2000, World Market and Trade, 2000. 26. WB, Global Economic Prospects and the Developing Countries. 27. WTO, Annual Report. 28. www.apec.org/apec/member-economies/economy-report/vn/ 29. www.faostat.fao.org/faostat/collections?subset/ 30. www.adb.org/documents/books/ado/2002/vie.asp/ 31. www.adb.org/documents/report/annual-report/2002/vie.asp/ Mục lục Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ơ ADB AFTA ACFTA APEC ASEAN CEPT EIU EU FAO FDI GATT GDP HACCP IMF NAFTA ODA UN USD USDA WTO Asian Development Bank – Ngân hàng phát triển Châu á Asian Free Trade Area – Khu vực mậu dịch tự do Asean Asian – China Free Trade Area – Khu vực mậu dịch tự do Asean – Trung Quốc Asia – Pacific Economic Cooperation – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương Association of South East Asian Nation – Hiệp hội các nước Đông Nam á Common Effective Preferential Tariff – ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung Economic Intelligence Unit – Cơ quan tình báo kinh tế European Union – Liên minh Châu Âu Food and Agricultural Organization – Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài General Agreement on Tariff and Trade – Hiệp định ưu đãi thuế quan và mậu dịch chung Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội Hazzard Analysis Critical Control Point – Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế North American Free Trade Area – Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ Offficial Development Assisstance – Hỗ trợ phát triển chính thức Union Nation – Liên Hợp Quốc United State Dollar United State Department of Agriculture – Bộ Nông nghiệp Mỹ World Trade Organization – Tổ chức Thương mại thế giới CNH ĐBSCL ĐBSH ĐVT HĐH NN & PTNT SL SP TMQT Tr. XHCN Công nghiệp hoá Đồng Bằng sông Cửu Long Đồng Bằng sông Hồng Đơn vị tính Hiện đại hoá Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sản lượng Sản phẩm Thương mại quốc tế Triệu Xã hội chủ nghĩa Danh mục các bảng biểu, biểu đồ, đổ thị 1. Bảng 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam (% so với năm trước). 2. Bảng 1.2: Dự kiến cơ cấu xuất khẩu một số nông sản chính thời kỳ 2005 – 2010 3. Bảng 2.1. Dự báo xuất nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển 4. Bảng 2.2: Xuất khẩu cà phê thế giới 5. Bảng 2.3: Nhu cầu cà phê thế giới 6. Bảng 2.4: Dự báo xuất khẩu nhân điều thế giới 7. Bảng 2.5: Dự báo nhập khẩu nhân điều thế giới 8. Bảng 2.6: Tỷ lệ đóng góp của xuất khẩu nông nghiệp, chỉ số cạnh tranh của Việt Nam và các nước Đông Nam á khác 9. Bảng 2.7: GDP cả nước và tình hình xuất khẩu của Việt Nam 10. Bảng 2.8: Khối lượng nông sản xuát khẩu của Việt Nam 11. Bảng 2.9: Dự báo khu vực thị trường xuất khẩu chè Việt Nam năm 2010 12. Bảng 2.10: Cơ cấu mặt hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 13. Bảng 3.1: Định hướng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc thời kỳ 2005 – 2010 14. Biểu đồ 1: Dự báo thị trường nhập khẩu chè thế giới năm 2005 15. Đồ thị 1: Sản lượng cao su tự nhiên một số nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9704.doc
Tài liệu liên quan