Phép xuất khẩu không có điều kiện đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu, phải uỷ thác cho đơn vị khác có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành xuất khẩu hộ. Và đơn vị giao uỷ thác phải trả một khoảng hoa hồng cho đơn vị nhận uỷ thác theo một tỷ lệ nhất định đã được thoả thuận trong một hợp đồng gọi là phí uỷ thác. Doanh thu của đơn vị nhận uỷ thác trong trường hợp này là số hoa hồng được hưởng.
Hình thức xuất khẩu này đem lại cho công ty những lợi ích đó là:
Không cần đầu tư về nguồn lực lớn, rủi ro thấp tốc độ chu chuyển vốn nhanh. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế nhất định là: Doanh nghiệp giao uỷ thác sẽ không kiểm soát được sản phẩm, phân phối, giá cả ở thị trường nước ngoài. Do doanh nghiệp không duy trì mối quan hệ với thị trường nước ngoài cho nên không nắm bắt được sự thay đổi nhu cầu thị hiếu các yếu tố môi trường, thị trường nước ngoài nhằm làm thích ứng các hoạt động marketing đặc biệt là làm thích ứng các sản phẩm với nhu cầu thị trường. Do phải trả chi phí uỷ thác nên hiệu quả xuất khẩu cũng không cao bằng so với xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả với những công ty hạn chế về nguồn lực, quy mô xuất khẩu nhỏ.
86 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu phần mềm ở Công ty cổ phần phần mềm FPT Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n mềm Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là phát triển công nghiệp nội dung số thành một số ngành kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân tiếp cận các sản phẩm nội dung thông tin số, thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
8 chính sách và giải pháp phát triển Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số gồm: Hoàn thiện môi trường pháp lý cho lĩnh vực công nghiệp nội dung số; Chính sách và giải pháp phát triển thị trường (kích cầu, phát triển thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu); Phát triển sản phẩm và dịch vụ; Huy động nguồn lực và thu hút đầu tư cho công nghiệp nội dung số; Phát triển hạ tầng truyền thông-Internet; Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển; Tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh và sở hữu trí tuệ. Theo Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ngành công nghiệp phần mềm sẽ có tốc độ tăng trưởng 40%/năm và đạt tổng doanh thu 1,2 tỷ USD vào năm 2010.
Theo các chuyên gia, để đạt được doanh thu 1,2 tỷ USD vào năm 2010, cần phát triển được nguồn nhân lực phần mềm đông đảo và chuyên nghiệp. Nhà nước nên cùng với doanh nghiệp thành lập quỹ hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phần mềm để tổ chức các khóa đào tạo về các kỹ năng nâng cao, chuyên sâu cho ngành CNPM.
Mức độ cạnh tranh của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam
Sự cạnh tranh nội bộ giữa các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam
Với dân số hơn 80 triêu dân và nhu cầu sử dụng phần mềm của người dân là rất cao, có thể nói thị trường phần mềm trong nước đầy cơ hội và tiềm năng phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau gay gắt về chất lượng, giá cả, hình thức để có thể thu hút nhiều khách hàng, ký kết nhiều hợp đồng. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước còn chưa lành mạnh. Các doanh nghiệp luôn che giấu thông tin, việc sao chép bản quyền không hợp pháp
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam với các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài
Ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong thời gian gần đây chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam với các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài. Mới đây, vào tháng 7/2007, cơ quan thông tin kinh tế Economist Intelligence Unit (EIU) thuộc tập đoàn báo chí Economist đã công bố báo cáo “Các biện pháp cạnh tranh - Đánh giá khả năng cạnh tranh của công nghiệp công nghệ thông tin”, trong đó, khả năng cạnh tranh ngành công nghệ thông tin của Việt Nam đứng thứ 61/64 quốc gia - nền kinh tế được xếp hạng, khi điểm số của Việt Nam cho các nhóm chỉ tiêu đều đứng ở khu vực gần cuối.
Giá nhân công rẻ là một trong những nhân tố cạnh tranh cao nhất của ngành công nghiệp Việt Nam. Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề cao, khả năng làm việc tốt, làm việc với cường độ cao. Tuy nhiên, điểm yếu nhất của lao động Việt Nam với lao động nước ngoài là khả năng ngoại ngữ. So với ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ thì lao động Việt Nam còn kém xa về trình độ tiếng Anh.
Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm phần mềm của mình ra nước ngoài chủ yếu dưới hình thức gia công phần mềm. Đối tác chính của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là Nhật Bản. Trong lĩnh vực gia công phần mềm, Doanh nghiệp Việt Nam vấp phải nhiều sự cạnh tranh gay gắt từ các nước như Ấn Độ và Trung Quốc. Ấn Độ là cường quốc hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực gia công phần mềm với doanh số lên tới hàng chục tỷ USD mỗi năm. Công nghiệp phần mềm Trung Quốc đang phát triển với tốc độ vũ bão. Vũ khí cạnh tranh của Trung Quốc là mô hình giá thấp và họ đã rất thành công với mô hình này.
Áp lực từ các nhà cung cấp
Nguồn cung cấp cho các doanh nghiệp phần mềm chính là nguồn nhân lực. Nhân lực là yếu tố then chốt đóng vai trò quan trọng nhất trong ngành công nghiệp phần mềm. Nhân lực có giỏi thì ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam mới có thể phát triển được. Chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CNTT mấy năm qua đã bắt đầu phát huy tác dụng. CNTT là một trong số các ngành được mở ở nhiều trường đại học nhất hiện nay. Tuy nhiên để đào tạo ra nguồn nhân lực phần mềm vừa có trình độ cao vừa thành thạo tiếng Anh và am hiểu sâu về tình hình thực tế để viết phần mềm một cách hiệu quả hơn là một vấn đề đầy thách thức đối với nước ta. Mỗi năm Việt Nam cho "ra lò" được khoảng 130.000 sinh viên, học viên chuyên ngành CNTT. Do đó, nếu chỉ tính đến số lượng thì nguồn nhân lực cung ứng cho ngành không thiếu. Thế nhưng, phần
lớn các "sản phẩm" sau khi xuất lò đó chỉ ở mức thấp về chất lượng. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm là chính sách phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao được Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện tối đa để phát triển trong thời đại hiện nay.
Áp lực từ khách hàng
Doanh nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là doanh nghiệp nhỏ, với năng lực cạnh tranh còn hạn chế, quy trình sản xuất và quản lý chất lượng chưa cao, đội ngũ chuyên gia bậc cao còn ít, chưa có kinh nghiệm marketing. Vì vậy, hợp đồng của doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài chủ yếu vẫn là gia công phần mềm, chưa được giao thiết kế một sản phẩm hoàn chỉnh. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có các hợp đồng nhỏ với giá trị chưa cao. Đối tác chủ yếu của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay là Nhật Bản.
Để mở rộng thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài khác. Sản phầm phần mềm Doang nghiệp làm ra không chỉ có chất lượng tốt mà giá cả cũng phải cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam phải có chiến lược kinh doanh tốt, phân đoạn khách hàng phù hợp từ đó làm cho tình hình kinh doanh được hiệu quả.
Vị thế Công ty trong ngành
Ngành gia công phần mềm ở Việt Nam trong 5 năm gần đây 2001 – 2005 có tốc độ tăng trưởng rất cao với tỷ lệ tăng trưởng 40% và phấn đấu sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng này đến năm 2010 với doanh thu lên tới 1 tỷ USD. Quy mô kinh doanh của ngành ngày càng được mở rộng. Hiện có khoảng 750 hãng phần mềm với 35.000 nhân công, trong đó có 150 công ty làm trong lĩnh vực gia công phần mềm với quy mô 100 -150 nhân viên. Với tốc độ tăng trưởng doanh thu rất cao là 100% trong 3 năm liên tiếp từ năm 2004 đến năm 2006 và với thị phần 30% trên thị trường, FSOFT xứng đáng là danh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực xuất khẩu và gia công phần mềm.
Năm 2008, FSOFT kết thúc chiếc lược phát triển 5 năm 2004-2008 và xây dựng chiến lược cho 5 năm tới (2008-2012). Với sự cố gắng không ngừng của toàn công ty: ban lãnh đạo cũng như các kỹ sư, các nhân viên trong công ty, mục tiêu trở thành công ty toàn cầu trong lĩnh vực dịch vụ phần mềm có doanh số đạt 250 triệu đô la với 15.000 – 18.000 người.
Cùng ngành phải kể đến hai doanh nghiệp có thị phần lớn là TMA và Global Cybersoft, tập trung chủ yếu xuất khẩu vào thị trường Mỹ, trong khi FSoft đang tập trung vào thị trường Nhật Bản. Trong tương lai, Fsoft sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp mới đến từ Trung Quốc và Ấn Độ. Việc giành thị phần không chỉ diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam mà còn diễn ra trên thị trường các nước như Mỹ, Nhật Bản khi các doanh nghiệp này họ đủ mạnh để đáp ứng mọi thị trường.
Thực trạng hoạt động Xuất khẩu phần mềm của Công ty CP phần mềm FPT
Qui trình Xuất khẩu
Bước 1: Bên đặt gia công hỗ trợ tài chính và các tài liệu liên quan cho bên nhận gia công.
Bước 2: Bên nhận gia công:
Thu thập và phân tích yêu cầu về phần mềm, các chức năng kỹ thuật, mỹ thuật chính
Thiết kế giải pháp tổng thể
Viết chương trình, chạy thử, sửa chữa
Kiểm tra lần cuối
Bước 3: Giao hàng, có thể gửi qua Internet hoặc qua 1 đĩa CD chuyển phát nhanh.
Bước 4: Khách hàng thanh toán tiền.
Kết quả hoạt động Xuất khẩu phần mềm của Công ty CP phần mềm FPT
Kim ngạch Xuất khẩu
Năm 2008 là năm tăng trưởng nhảy vọt của kim ngạch xuất khẩu phần mềm VN. Năm qua, sản xuất và gia công phần mềm của VN đã có bước tăng trưởng kỷ lục, trong đó FPT Software đạt doanh thu của phần mềm và dịch vụ hơn 1.800 tỉ đồng, tương đương với mức tăng trưởng tới 39,28% so với năm 2006, lợi nhuận vượt 10 triệu USD, tăng hơn gấp hai lần so với năm 2006. VN đã ghi tên vào bản đồ các quốc gia sản xuất, gia công phần mềm trên thế giới, với nguồn nhân lực đang được bồi đắp từng ngày, đội ngũ kỹ sư trình độ cao và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều năm. Hiện tại, các doanh nghiệp phần mềm VN đã là đối tác lớn của những tập đoàn công nghệ thông tin, công nghiệp, tài chính ngân hàng hàng đầu thế giới tại Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Ấn Độ, Singapore...
Đối với FPT Software, hợp đồng đã được ký kín gần hết năm 2008. Mới đây, FPT Software đã khai trương Công ty TNHH Phần mềm FPT châu Á – Thái Bình Dương tại Singapore. Đây là công ty phần mềm VN đầu tiên mở chi nhánh tại Singapore. Trước đó, FPT Software đã thành lập pháp nhân tại Nhật Bản. Sau 2 năm hoạt động, doanh thu của FPT Software Nhật Bản đạt 16 triệu USD, tăng tưởng 90% so với năm 2006.
Tốc độ tăng trưởng Doanh thu từ 2005 đến 2008 và kế hoạch tăng trưởng từ 2009 đến 2011
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008
Loại hình phần mềm xuất khẩu
Lọai hình xuất khẩu phần mềm chủ yếu ở Việt Nam cũng như công ty CP phần mềm FPT chính là “phần mềm gia công”.
Thị trương xuất khẩu
Thị trường Mỹ
Mỹ là nơi bắt đầu cuộc cách mạng CNTT của thế giới, hiện nay Mỹ có một ngành công nghiệp phần mềm hùng mạnh nhất thế giới, tổng doanh thu các sản phẩm và dịch vụ phần mềm của các hãng Mỹ năm 2004 đạt 518 tỷ USD, chiếm gần 50% thị trường phần mềm thế giới.
Đến hết năm 2004, tại Mỹ có hàng chục ngàn công ty phần mềm đang hoạt động với tổng số lao động trực tiếp đạt 650.000 người. Nếu kể các lực lượng lao động ở các khu vực liên quan thì tổng số lao động ở Mỹ hoạt động trong lĩnh vực phần mềm lên đến trên 2,3 triệu người, chiếm gần 1,8% tổng số lao động của cả nước Mỹ.
Với tỷ lệ chi cho R & D hàng năm lên đến 10% doanh thu, đội ngũ chuyên gia trình độ cao thường xuyên được bổ sung từ các nước khác, sự mạnh dạn đầu tư của giới tài chính, cộng với môi trường cạnh tranh khốc liệt đã tạo cho thị truờng Mỹ hình ảnh như một miền đất của các phát minh sáng tạo và cơ hội mạo hiểm, đặc biệt trong lĩnh vực phần mềm. Hàng loạt các phát minh của Mỹ đã và đang định đoạt tương lai của cuộc cách mạng CNTT.
Các công ty phần mềm Mỹ tập trung chủ yếu ở Silicon Valley, đây là công viên phần mềm nổi tiếng của Mỹ, nó là công viên phần mềm đầu tiên và cũng là khu công nghệ cao đầu tiên của thế giới. Bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX với sự có mặt của một số hãng và chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực bán dẫn, đến nay, sau nửa thế kỷ hoạt động, Silicon Valley đã chứng minh cho thế giới những hiệu quả đặc biệt của mình. Năm 2004 tại đây có 3 triệu người với 1.400.000 lao động. Tổng thu nhập GDP đạt 75 tỷ USD, doanh số đạt 250 tỷ USD. Có tới trên 6000 công ty phần mềm ở Silicon.
Thị trường Nhật Bản
Trong cuộc chạy đua công nghệ với Mỹ, từ những năm 80, Nhật Bản đã bắt đầu triển khai một chương trình cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu hình thành và phát triển một hệ thống mạng lưới các tâm điểm kinh tế với trọng tâm là các khu công nghệ cao và các ngành công nghiệp trí tuệ (brain industries). CNTT, mà đặc biệt là công nghiệp phần mềm được coi như một trong các mũi nhọn của nền kinh tế.
Công nghiệp phần mềm Nhật Bản hiện nay đứng vị trí thứ hai trên thế giới với tổng doanh thu năm 2004 (không kể dịch vụ phần mềm) lên đến 115 tỷ USD, chiếm 18% tỷ trọng ngành công nghiệp phần mềm thế giới. Phần mềm Nhật Bản phục vụ chủ yếu cho thị trường nội địa và các hãng Nhật Bản (gần 90%).
Bên cạnh các lĩnh vực công nghiệp phần cứng truyền thống, công nghiệp phần mềm được chú trọng phát triển. Nhiều khu công viên phần mềm đã được thành lập ở Nhật Bản với mục tiêu tập hợp lực lượng phần mềm trong một môi trường thuận lợi cho các hoạt động R&D công nghệ và sản xuất sản phẩm. Các công viên phần mềm rất thành công như Sapporo, Kyoto, Osaka, ...
Đến hết năm 2004 tại Nhật Bản có gần 4.200 công ty hoạt động phát triển phần mềm với hơn 350.000 nhân viên. Hình thức triển khai các dự án và sản phẩm phần mềm may đo giữ vị trí áp đảo trong công nghiệp phần mềm Nhật Bản, chiếm đến 94% số công ty hoạt động và 72% tổng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp. Cùng với sự phát triển của Internet và nhu cầu các phần mềm chuẩn trong lĩnh vực mạng cộng tác, hiện nay các hãng phần mềm Nhật Bản đang từng bước chuyển hướng sang sản xuất các phần mềm đóng gói. Khác với Mỹ là nước có ngành công nghiệp phần mềm mạnh về hệ thống và ứng dụng rộng rãi, phần mềm Nhật Bản đi sâu vào những lĩnh vực ứng dụng đặc thù gắn liền với thiết bị và hệ thống điện tử chuyên dụng. Phần mềm trò chơi và giải trí điện tử của Nhật bản hiện nay chiếm vị trí thống lĩnh trên thị trường thế giới.
Cùng với việc triển khai đưa các hoạt động sản xuất công nghiệp phần cứng ra nước ngoài, trong chiến lược kinh tế toàn cầu Nhật Bản cũng tiến hành các hoạt động hợp tác phát triển phần mềm ở ngoài nước. Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước được giới doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm nhất trong việc hợp tác phát triển phần mềm. Các công ty Nhật Bản thường nhập khẩu phần mềm từ thị trường Ấn Độ và Trung Quốc. Phần mềm có tiếng Nhật thì giành cho thị trường Trung Quốc, còn lại thì làm với Ấn Độ. Hiện nay giá phần mềm từ hai thị trường này tăng lên đáng kể, cho nên các công ty của Nhật có xu hướng tìm sang các thị trường khác rẻ hơn và thị trường Việt nam là một thị trường được Nhật bản coi là tiềm năng để phát triển gia công các sản phẩm phần mềm của mình tại đây.
Hoạt động xuất khẩu phần mềm mới bắt đầu nhen nhóm ở nước ta trong vài năm gần đây nên dù cho xuất khẩu phần mềm dưới dạng sản phẩm hay dịch vụ thì cũng chưa có một quy trình nghiệp vụ chuẩn tắc. Mặc dù trên thế giới có rất nhiều loại hình sản phẩm phần mềm được xuất khẩu nhưng nói chung các nhà sản xuất phần mềm chia phần mềm xuât khẩu thành 2 loại dựa trên sự khác nhau trong quy trình sản xuất xuất khẩu. Đó là phần mềm gia công và phần mềm đóng gói
Thị trường Châu Âu
Châu Á Thái Bình Dương
Tốc độ tăng trưởng trong năm 2008 qua từng thị trường
Nguồn: Báo cào thường niên 2008
Qua biểu đồ ta thấy 2 thị trường chính là Mỹ và Nhật Bản vẫn chiếm phần lớn trong doanh số của Công ty. Tuy nhiên với tình hình kinh tế khó khăn như hiên tại thì thì công việc tìm kiếm những thị trường mới và tiềm năng vẫn là cần thiết.
Đánh giá hoạt động Xuất khẩu phần mềm của công ty CP phần mềm FPT trong thời gian qua
Thành tựu
Tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh
Trong năm 2008, Tổng Giám đốc với tinh thần trách nhiệm và nỗ lực đã điều hành tốt công ty phản ứng kịp thời với các biến động trong môi trường khủng hoảng kinh tế thế giới.
Trong năm 2008, các cán bộ quản lý đã thể hiện trách nhiệm và nỗ lực mang lại kết quả kinh doanh tăng trưởng ở mọi thị trường. Doanh thu từ thị trường Nhật vẫn tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao nhất - 53%. Tăng trưởng cao (44%) của thị trường trong nước cho thấy tiềm năng và cơ hội phát triển lớn của thị trường này đối với FPT Software, nhất là từ khối khách hàng là các Công ty con, chi nhánh của các Tập đoàn đa quốc gia có mặt tại Việt Nam. Tăng trưởng của thị trường châu Âu và châu Á Thái Bình Dương trong năm qua chưa thực sự tốt do chưa khai thác, tận dụng được hết các cơ hội mới, có sự suy giảm về quy mô dự án với một vài khách hàng lớn.
Nhìn chung, FPT Software đã có sự tăng trưởng khả quan về doanh số trên tất cả các khu vực địa lý-thị trường với tốc độ tăng trưởng trung bình trên tất cả thị trường là 42%.
Tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh
Năm 2008, tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty CP phần mềm FPT đều nằm trong phạm vi được cho phép theo giấy đăng ký kinh doanh, cũng như theo các quy định và luật pháp hiện hành. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nghiệp vụ hàng ngày đều được tuân thủ theo quy trình quản lý chất lượng ISO 9001:2000, chuẩn bảo mật thông tin ISO 27001:2005 và quy trình quản lý CMMi bậc 5 – tiêu chuẩn thế giới về mức độ trưởng thành năng lực sản xuất phần mềm.
Nguồn nhân lực liên tục được tái đào tạo nâng cấp để đáp ứng chất lượng công việc, duy trì khách hàng trong giai đoạn khó khăn toàn cầu. Tính tới ngày 31/12/2008 tổng số nhân viên của công ty là 2,617 người, tăng 14.9% so với năm 2007. Nhân viên luôn được quan tâm chăm sóc đầy đủ từ sức khoẻ, vật chất cho tới đời sống tinh thần. Năm 2008, Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc đã phê duyệt và tiếp tục triển khai chính sách đãi ngộ mới mang thêm quyền lợi cho Cán bộ nhân viên. Trong năm 2008, công ty có những thay đổi về cơ cấu như chuẩn bị cho việc thay đổi Tổng Giám đốc FPT Software và FPT Japan vào đầu năm 2009; củng cố hoạt động của Head Office và thành lập Ban Phát triển Kế hoạch và Chiến lược kinh doanh CPD để kiện toàn hiệu quả quản lý của tổ chức khi bước vào giai đoạn phát triển bền vững. Công ty cũng thành lập thêm các công ty chi nhánh nước ngoài FPT Software Châu Âu, FPT Software Malaysia, FPT Mỹ, FPT Châu Đại Dương làm cơ sở
Nhân sự là yếu tố cốt lõi, là nhân tố quyết định cho sự phát triển của Công ty. Chúng tôi hiểu rằng tập thể lãnh đạo, sự gắn kết, những đổi mới và lòng trung thành đóng vai trò quyết định cho sự thành công của Công ty. Chình vì vậy, Fsoft đã và đang xây dựng một tập thể cán bộ công nhân viên gồm những người trẻ, đầy tài năng, chuyên gia IT, những người có luôn mong muốn chinh phục công nghệ mới và truyển tải đến người khác, đến khách hàng một cách nhanh nhất.
Tốc độ tăng trưởng nhân sự từ 2004 đến 2008
Nguồn:Báo cáo thường niên 2008
Trình độ ngoại ngữ của nhân viên
Nguồn:Báo cáo thường niên 2008
Kết quả hoạt động kinh doanh 2008
Nguồn:Báo cáo thường niên 2008
Tình hình tài chính
Nguồn:Báo cáo thường niên 2008
Khả năng thanh toán nợ của Công ty là rất cao và an toàn
Về cơ cấu vốn, hệ số nợ/ tổng tài sản của Công ty là rất thấp. Năm 2007 là 28,34%, giảm xuống còn 22,88% trong 2008. Đây chính là điểm cho thấy sự tự chủ về tài chính của Công ty. Fsoft không bị phụ thuộc tài chính vào các khoản nợ.
Fsoft là một doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm, vì vậy bị ảnh hưởng trực tiếp từ sự khủng hoảng kinh tế thế giới. Do đó hệ số lợi nhuận sau thuế/ Doanh thu thuần trong năm 2008 giảm so với 2007. Hệ số lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu trong 2008 cũng giảm so với 2007, tuy nhiên vẫn ở mức cao (trên 50%), hệ số ROE này vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Hạn chế
Những điểm hạn chế chung của các công ty phần mềm tại Việt Nam
Trình độ lực lượng lao động phần mềm hiện nay còn thấp
Môi trường phát triển doanh nghiệp: một trong những hạn chế lớn của Việt Nam là vấn đề bản quyền phần mềm. Việt Nam được xếp đứng đầu danh sách trong các nước vi phạm bản quyền (BSA, 2002). Vị trí này tạo ra một hình ảnh rất không tốt cho
công nghiệp phần mềm Việt Nam trong con mắt của các nhà đầu
tư nước ngoài. Hệ thống luật về các nguyên tắc, thực thi hợp
đồng của Việt Nam chưa chặt chẽ và tường minh
Khả năng quảng cáo, tiếp thị, phát triển thị trường còn chưa thực sự hiệu quả.
• Đội ngũ chuyên gia giỏi về quản trị dự án, thiết kế giải pháp, tiếp thị, đảm bảo chất lượng sản phẩm còn thiếu.
Hạn chế của công ty CP phần mềm FPT
Với rất nhiều những thành công, nhưng bên cạnh đó cũng không thể thiếu những mặt hạn chế. Và trên tất cả điểm yếu nhất của Công ty phần mềm FPT chính là con người.
Có lẽ vấn đề về nhân sự chính là vấn đề nhức nhôi nhất của các công ty phần mềm bây giờ. Hiện tại 1 bài toán nan giải được đưa ra, đó là làm thế nào để có thể nâng cao năng lực của nhân viên và giữ chân được những người giỏi làm trụ cột cho công ty. Vì với ngành phần mềm thì ngồn lực quan trọng nhất chính là con người
Hiện tại đất nước đã vào WTO, các công ty 100% vốn nước ngoài sẽ đổ bộ vào Việt Nam. Và họ sẵn sàng bỏ ra 1 số tiền lớn để thu hút nhân tài về phia họ. Vì vậy nếu công ty không có những chính sách thích hợp đẻ đào tạo và giữ chân những người đã có kinh nghiệm, thì hậu quả về sau sẽ vô cùng nghiêm trọng.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨUU PHẦN MỀM TẠI CÔNG TY CP PHẦN MỀM FPT
TRIỂN VỌNG PHẦN MỀM CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI TRONG CÁC NĂM TỚI
Tiềm năng của thị trường
Dự báo về các xu hướng phát triển
Toàn cầu hoá trong CNTT
Việc gia công phần mềm chắc chắn sẽ trở nên hiệu quả hơn do mức tăng trưởng của phần mềm trên toàn cầu, do hệ thống xử lý dữ liệu toàn cầu và các công cụ phần mềm chung được tiếp cận giữa các nhóm lập trình toàn cầu với nhau.
Tiếp tục xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trong thị trường gia công
Do ngày nay, cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc ngày một hoàn thiện hơn nên việc truyền dữ liệu và liên lạc thông qua teleconference và videoconference trở nên rất thuận lợi. Hệ thống thông tin liên lạc tốt sẽ làm mất dần khoảng cách giữa các công ty nhận gia công với các công ty khách hàng của họ, đồng thời cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc ở các nước đang phát triển được cải tiến mạnh cùng với các hệ thống truy cập được nâng cấp sẽ làm cho việc gia công phần mềm thành sự lựa chọn có hiệu quả kinh tế hơn, chính vì thế, trong tương lai gần sẽ xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Chi tiêu cho gia công của Mỹ và Châu Âu sẽ tiếp tục tăng
Nhu cầu dài hạn cho phần mềm và dịch vụ IT sẽ tiếp tục tăng ở các nước công nghiệp phát triển (Mỹ-Châu Âu- Nhật Bản), bởi vậy nhu cầu về lao động IT sẽ tiếp tục tăng. Mặc dù Mỹ, Đức đang cố gắng để làm tăng mức dân nhập cư có kỹ thuật về IT, nhưng họ không thể đáp ứng nhu cầu lao động IT thông qua việc nhập cư. Bởi vậy, các nhà phân tích dự báo rằng mức chi tiêu cho gia công phần mềm ở Mỹ và Châu âu sẽ tiếp tục tăng.
Theo cơ sở này, thị trường phần mềm nói chung được chia làm 3 loại chính: phần mềm đóng gói (package software), phần mềm dịch vụ (software service) và phần mềm tích hợp với phần cứng (embedded software).
Sự khác nhau cơ bản của phần mềm dịch vụ với hai loại còn lại là chúng ta sẽ không trực tiếp đầu tư vào sản phẩm cuối cùng mà chỉ thực hiện theo đơn hàng của một công ty khác. Bản chất của đơn hàng vẫn có thể là phần mềm tích hợp và phần mềm đóng gói.
Các công ty hoạt động trong lĩnh vực phần mềm dịch vụ thường được chia làm 2 loại chính: công ty xuất khẩu lao động (body-shopping) và công ty gia công xuất khẩu (off-shore outsourcing).
Cơ hội của các công ty phần mềm Việt Nam
Các thuận lợi và khó khăn của công ty Việt nam nói chung và công ty CP phần mềm FPT nói riêng trong việc gia nhập các thị trường phần mềm theo phân loại nêu trên trong lựa chọn thị trường mục tiêu cho phần mềm xuất khẩu có thể thấy trong bảng sau :
Phần mềm đóng gói
Phần mềm dịch vụ
Phần mềm tích hợp
Thuận lợi
- Khả năng thu được lợi nhuận cao do chi phí phát hành phần mềm là tương đối thấp so với chi phí sản xuất.
- Có khả năng đáp ứng cả thị trường trong nước và nước ngoài.
- Sử dụng được nhân lực lớn và không đòi hỏi kỹ năng cao cũng như các know-how về kỹ thuật.
- Không đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn.
- Giúp xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu cho nền công nghiệp phần mềm Việt nam.
- Khả năng ứng dụng lớn và hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp điện tử.
- Có khả năng đáp ứng cả thị trường trong nước và nước ngoài.
Khó khăn
- Đòi hỏi hiểu rõ nhu cầu của người dùng cuối trên thế giới.
- Đòi hỏi sự đầu tư lớn về nghiên cứu phát triển.
- Đòi hỏi kinh nghiệm cao trong lĩnh vực kỹ thuật lập trình cũng như chuyên ngành.
- Giá trị gia tăng không thật lớn.
- Không sử dụng lại được các bí quyết kỹ thuật cho các ứng dụng trong nước (copyright).
- Đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn về đào tạo cũng như hạ tầng kỹ thuật.
- Phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp liên quan tại Việt Nam như điện tử, chế tạo máy...
Từ những phân tích trên, ta thấy với cơ sở hạ tầng cũng như trình độ chuyên môn hiện nay của nền công nghiệp phần mềm non trẻ Việt nam, bước đi khả thi nhất là tham gia vào thị trường phần mềm dịch vụ để phát triển nguồn lực và tích luỹ kinh nghiệm. Sau đó chúng ta có thể chuyển dịch đến các thị trường có lợi nhuận cao hơn như thị trường phần mềm đóng gói hoặc phần mềm tích hợp. Bước đi này đã được áp dụng thành công tại Ấn Độ và hiện đang được các nước như Trung Quốc, Philippines, Indonesia áp dụng.
Các thuận lợi và khó khăn chính của Việt Nam trong việc tham gia các lĩnh vực khác nhau trong thị trường phần mềm dịch vụ thế giới được phân tích trong bảng sau:
Xuất khẩu lao động
Gia công xuất khẩu
Thuận lợi
- Khả năng thu được lợi nhuận nhanh và ít rủi ro do không phải chịu trách nhiệm đến sản phẩm cuối cùng.
- Mô hình kinh doanh tương đối đơn giản.
- Không đòi hỏi đầu tư vào hạ tầng cơ sở (mạng viễn thông, nhà cửa).
- Giúp xây dựng cơ sở hạ tầng tại chỗ cũng như nguồn nhân lực ban đầu cho nền công nghiệp phần mềm Việt nam.
- Không đòi hòi khả năng ngoại ngữ cao của mọi nhân viên.
- Giúp phát triển kinh nghiệp về quản trị các dự án lớn.
Khó khăn
- Đòi hỏi khả năng ngoại ngữ cao của các nhân viên.
- Đòi hỏi kinh nghiệm chuyên ngành nhất định.
- Sự tương đồng về văn hoá.
- Phụ thuộc nhiều vào hạ tầng viễn thông.
- Khó thuyết phục các công ty thế giới thuê gia công phần mềm tại Việt nam.
Các nước như Ấn độ, Philippines đã rất thành công với việc xây dựng nền công nghiệp phần mềm bắt đầu từ mô hình xuất khẩu lao động và hiện giờ đã chuyển dịch khoảng 50% doanh thu sang mô hình gia công xuất khẩu. Điểm mạnh chính được hai nước trên khai thác chính là trình độ giao tiếp bằng tiếng Anh rất cao của các nguồn nhân lực của mình.
Các chính sách định hướng của chính phủ
Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách
Nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta tiến hành trong những điều kiện mới, với những con đường mới, công nghệ mới, những công cụ kỹ thuật mới mà trước đây khi các nước phát triển khởi đầu công nghiệp hóa chưa có. Sự nghiệp này đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực của ngành CNTT đặc biệt là phần mềm, lấy CNTT làm động lực để đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế, đạt tới nền kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể không sử dụng và phát triển công nghiệp phần mềm.
Phát triển Công nghiệp phần mềm thành ngành kinh tế quan trọng
Trong những năm gần đây, dưới tác động tích cực của chính sách đổi mới nền kinh tế cùng với việc xây dựng kết cấu hạ tầng ban đầu về CNTT, công nghiệp phần mềm đã có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Công nghiệp phần mềm và đặc biệt là xuất khẩu phần mềm đưa lại lợi nhuận cao và sẽ chiếm một tỷ lệ đáng kể trong GDP của đất nước.
Nhu cầu hội nhập của các ngành kinh tế xã hội với khu vực và quốc tế
Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đòi hỏi phải phát triển CNTT để tạo những điều kiện cần thiết trao đổi, chia xẻ thông tin giữa các tổ chức và cá nhân. CNTT giúp ta chủ động hội nhập và tham gia toàn cầu hóa theo cách có lợi nhất cho đất nước, cho dân tộc. Phát triển Công nghệ phần mềm sẽ giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách để tiến tới hội nhập với khu vực và thế giới, chuẩn bị điều kiện bước vào xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức của thế kỷ 21.
Nhu cầu phục vụ an ninh quốc gia và quốc phòng
Phát triển CNTT và phần mềm ứng dụng trong các ngành an ninh và quốc phòng là một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, đảm bảo cho an ninh quốc gia. Đặc biệt trong chiến tranh hiện đại, an toàn và an ninh thông tin gắn liền với an ninh quốc gia và quốc phòng.
Ngoài đề xuất về kinh phí đầu tư, từ ý kiến đóng góp của giới công nghệ thông tin đã được tổng hợp trong thời gian qua, đề án còn kiến nghị với chính phủ miễn thuế trong 4 năm đầu và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo cho các doanh nghiệp làm phần mềm. Đặc biệt, để thu hút các doanh nghiệp phần mềm đầu tư vào các khu công nghiệp phần mềm, đề án kiến nghị chính phủ miễn thuế 8 năm cho các doanh nghiệp trong khu vực này.
PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CP PHẦN MỀM FPT
Mở rộng thị trường kinh doanh
Kế hoạch có mặt tại tất cả các thị trường dự kiến của FPT Software đã hoàn thành. Dự kiến trong năm 2009, FPT Software sẽ tiếp tục tận dụng các cơ sở bản địa này để tiếp cận khách hàng hiện tại và thâm nhập sâu hơn vào các thị trường để nắm bắt cơ hội nhanh chóng và kịp thời nhất, nhất là trong điều kiện khó khăn của môi trường kinh doanh.
Kế hoạch dự kiến trong tương lai
Kế hoạch tăng trưởng 2009
Thị trường năm 2009 được nhận định là sẽ khó khăn hơn do sự lan rộng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Căn cứ vào tình hình kinh doanh hiện tại và dự kiến tình hình thị trường năm 2009, Hội đồng Quản trị trình Đại hội cổ đông thông qua kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2009 theo 3 kịch bản A, B, C (với kịch bản B là kịch bản chủ đạo) như sau:
Phương án A: Doanh thu: 50 triệu USD, lợi nhuận 15 triệu
USD
Phương án B: Doanh thu: 47 triệu USD, lợi nhuận 13.2
triệu USD
Phương án C: Doanh thu: 42 triệu USD, lợi nhuận 10 triệu
USD
Ban điều hành cần theo dõi sát sao các diễn biến của thị
trường, các nhu cầu của khách hàng để kịp thời điều chỉnh
hoạt động sản xuất kinh doanh, kịp thời đưa ra các biện pháp
phòng/chống khủng hoảng hiệu quả để có thể vừa tối đa hóa
lợi nhuận vừa đảm bảo vững chắc đội ngũ sẵn sàng đón nhận
các cơ hội vươn lên trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn
cầu.
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU PHẦN MỀM CỦA CÔNG TY CP PHẦN MỀM FPT
Giải pháp trước mắt
Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng trong quá trình sản xuất phần mềm
Tuy lựa chọn con đường phù hợp là gia công xuất khẩu phần mềm, các công ty Việt Nam sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản xuất phần mềm. Một khó khăn lớn chung cho phần mềm Việt Nam không phụ thuộc vào sự lựa chọn thị trường là việc tạo ra một sự khác biệt về sản phẩm / dịch vụ để dựa vào đó giữ được thế mạnh cạnh tranh trong một thời gian dài. Theo truyền thống, các thế mạnh cạnh tranh có thể được tạm chia thành 3 loại:
Sự quen biết, thân thiết với khách hàng
Sở hữu bí quyết công nghệ (know-how)
Điều hành sản xuất tốt
Nâng cao kỹ năng quản lý cho cán bộ cấp cao
Nếu công ty CP phần mềm FPT có được cả ba thế mạnh trên thì sức cạnh tranh trên thị trường sẽ rất cao và đảm bảo được một lợi nhuận lớn. Tuy nhiên do chậm tiếp cận với thị trường thế giới, nhìn chung, công ty CP phần mềm FPT khó có thể dựa trên sự quen biết với khách hàng để xây dựng chiến lược tiếp thị (các công ty Ấn Độ đang rất mạnh trong lĩnh vực này). Việc phổ biến Internet tương đối chậm cùng các cơ sở nghiên cứu còn khá khiêm tốn tại Việt Nam cũng không cho phép công ty CP phần mềm FPT đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao. Hiện nay Việt Nam chưa phải là điểm đến của các đối tác tìm mua bí quyết công nghệ (các nước Đông Âu, Nga, Israel, Ailen... đang sử dụng rất tốt thế mạnh này). Như vậy cơ hội còn lại duy nhất của một công ty phần mềm Việt Nam là dựa trên việc xây dựng năng lực quản lý sản xuất và giá rẻ, cạnh tranh trực tiếp với Ấn độ, Trung quốc, Philippines. Lương lập trình viên của Việt Nam dao động trong khoảng 200-500 USD so với khoảng lương trung bình 1500 USD của một lập trình viên Ấn độ, nước đang có thị phần lớn tại thị trường này. Trong bối cảnh đó, việc đầu tư nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng thế giới về phần mềm như ISO 9001, CMM, TQM... là điều kiện sống còn. Sau khi đạt được tiêu chuẩn phần mềm cao cấp CMM cấp độ 5 vào tháng 3 năm 2004, Đây sẽ là giấy thông hành hạng nhất để công ty CP phần mềm FPT thực sự bước vào thị trường lớn của xuất khẩu phần mềm trên thế giới.
Thay đổi phương thức tiếp thị truyền thống để khuyếch trương năng lực sản xuất và sản phẩm của doanh nghiệp
Trên thực tế, công ty CP phần mềm FPT khi bắt đầu chuẩn bị cho việc xuất khẩu phần mềm đã tiến hành hai cách tiếp thị khác với các cách tiếp thị truyền thống. Hai phương pháp này hiện đang thực hiện đạt hiệu quả khả quan và có nhiều triển vọng:
Kết hợp với các nguồn lực chuyên nghiệp bên ngoài.
Theo kinh nghiệm của Công ty CP phần mềm FPT sau những năm đã mở văn phòng tại Ấn Độ, Nhật bản, Malaysia, Singapore và Mỹ thì kết quả tiếp thị thu được chưa được nhiều. Vì thế, công ty CP phần mềm FPT đã thay đổi cách tiếp thị trong xuất khẩu phần mềm. Không phải là vấn đề chúng ta có mặt ở nhiều nơi trên thế giới mà muốn thành công, chúng ta phải biết kết hợp với các nguồn lực chuyên nghiệp bên ngoài. Và thực tế, Công ty CP phần mềm FPT cũng đã đạt được những thành tích khả quan trong cách tiếp thị mới này bằng cách thuê chuyên gia tiếp thị nước ngoài (Mỹ) bán hàng bằng các kênh bán hàng được thiết lập tại Mỹ. So với các phương thức tiếp thị trước đây thì phương thức này này hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn. Từ bài học thành công này, công ty CP phần mềm FPT nên áp dụng đối với các thị trường khác như Tây Âu, Nhật bản...
Chiến lược hợp tác kinh doanh hai bên cùng có lợi.
Một phương pháp nhằm tiếp cận thị trường thế giới có thể được thực hiện là thông qua dịch vụ môi giới của các công ty phần mềm tại thị trường mục tiêu. Phương pháp này cho phép công ty CP phần mềm FPT lợi dụng được các thế mạnh cạnh tranh của đối tác như sự quen biết khách hàng cũng như các bí quyết công nghệ. Việc hợp tác cũng giúp cho các công ty đối tác giảm giá thành sản phẩm đầu ra, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm/dịch vụ của họ trên thị trường. Như vậy mô hình này có lợi cho cả hai bên và có thể duy trì được. Về lâu, về dài, thông qua mô hình hợp tác này công ty CP phần mềm FPT có thể xây dựng được thêm các thế mạnh cạnh tranh khác cho sản phẩm phần mềm của mình giúp công ty có thể tiếp cận những mảng thị trường có lợi nhuận cao hơn trong tương lai.
Đầu tư và hỗ trợ kinh phí đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho nhân viên
Đào tạo nâng cao kiến thức công nghệ
Công nghiệp phần mềm là ngành kinh tế phát triển với tốc độ chóng mặt cả về tốc độ tăng trưởng lẫn công nghệ. Các chuyên gia về công nghệ thông tin đánh giá rằng 3 năm phát triển của công nghệ thông tin có thể đạt được những thành quả bằng 10 năm phát triển của các nghành công nghiệp thông thường. Vì vậy mà nhân lực tham gia trong ngành này cần phải được đào tạo thường xuyên và cung cấp các thông tin, các kiến thức thường xuyên để theo kịp tốc độ phát triển của ngành, tránh tụt hậu về công nghệ trong cuộc cạnh tranh khắc nghiệt hiện nay.
Đào tạo nâng cao trình độ Anh ngữ của nhân viên
Với việc Hoa Kỳ là một khách hàng lớn và tiếng Anh là một ngôn ngữ phổ biến tại nhiều quốc gia, khả năng và thế mạnh Anh ngữ tốt của các nhân viên công ty nhận gia công phần mềm là tối cần thiết. Khả năng giao tiếp thông thạo bằng Anh ngữ rất quan trọng cho việc trao đổi thông tin qua nói và viết, giảm những hiểu nhầm liên quan đến hợp đồng và tiêu chuẩn của dự án, đồng thời cung cấp mã và tài liệu cho người dùng.
Một trong những hạn chế của kỹ sư phần mềm Việt Nam nói chung và của công ty CP phần mềm FPT nói riêng là khả năng Anh ngữ chưa thành thạo. Trong khi chúng ta đang chờ Chính phủ có một sự cải tiến về chương trình đào tạo ngoại ngữ ở các trường phổ thông và đại học thì các doanh nghiệp vẫn cần phải đầu tư cải thiện trình độ tiếng Anh cho nhân viên của mình để đáp ứng nhu cầu phát triển công việc. Công ty CP phần mềm FPT cần coi chương trình đào tạo ngoại ngữ như một yêu cầu bắt buộc đối với mỗi nhân viên của mình, hàng tháng hoặc quý co các kỳ thi kiểm tra, kết quả được tính như một nhân tố trong việc xét thành tích của công việc để tính lương, tiền thưởng. Nếu cần, công ty CP phần mềm FPT nên hỗ trợ một phần chi phí cho các nhân viên học các ngoại ngữ không phải tiếng Anh như tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Pháp...
Đào tạo về văn hoá đất nước khách hàng
Ở các bước khởi đầu của một mối quan hệ giữa công ty Việt Nam và khách hàng hoặc bước khởi đầu của một dự án có thể sẽ có sự mâu thuẫn do không tương đồng về văn hoá, nên nhận thức về vấn đề này và có chương trình bồi dưỡng kiến thức cho các nhà quản lý và nhân viên tham gia dự án cũng rất cần thiết đối với một tổ chức GCXK phần mềm. Kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy các công ty Ấn Độ nổi tiếng trong việc tổ chức các chương trình đào tạo về văn hoá cho các nhà quản lý dự án của họ nên các nhà quản lý trong các công ty gia công phần mềm của Ấn Độ rất thành công trong việc làm cho khách hàng cảm thấy thoải trong quan hệ và công việc cho dù có sự rất khác nhau giữa văn hoá Ấn Độ với văn hoá các nước Phương Tây và Mỹ. Công ty CP phần mềm FPT cũng cần có các chương trình đào tạo về văn hoá Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản và Ấn Độ cho các nhân viên của mình trong các dự án hợp tác với các nước này nhằm nâng cao hơn nữa sự hiểu biết giữa hai bên để công việc đạt hiệu quả cao.
Đẩy mạnh chiến lược tiếp thị qua Internet
Internet được coi là một mạng thương mại và thông tin toàn cầu nên việc tham gia quảng cáo các thông tin về doanh nghiệp mình trên Internet sẽ hết sức hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm.
Công ty CP phần mềm FPT từ lâu đã tiến hành việc quảng cáo tên doanh nghiệp và các sản phẩm phần mềm trên Internet nhưng thực tế, các trang web của công ty vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu thiết kế để có thể đạt được hiệu quả cao. Cụ thể là:
Các trang web cần có mặt trên các thị trường lớn ví dụ như đặt trang chủ tại Mỹ hay Châu Âu để có thể tiếp cận tới cộng đồng khách hàng nói tiếng Anh cũng như tiếng Pháp.
Trang web chủ phải tạo được dòng khách truy cập vào địa chỉ công ty, muốn vậy, công ty CP phần mềm FPT cần phải đăng ký vào các danh bạ điện tử đồng thời tạo liên kết với các trang chủ liên quan đến phần mềm nhằm mục đích trao đổi khách đến thăm để tăng lượng truy cập. Việc đăng ký vào các danh bạ điện tử có uy tín cũng là một biện pháp quảng cáo hữu hiệu cho công ty.
Nội dung các trang web phải có chiều sâu, không rườm rà thể hiện được trình độ chuyên môn cũng như sự hiểu biết về các lĩnh vực công nghệ cao. Bên cạnh những thông tin về sản phẩm, dịch vụ nên có những mục phụ mang những thông tin có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của công ty nhất là những thông tin mang tính thời sự. Những thông tin này cần được liên hệ với những trang web khác sẽ nâng cao được tính hấp dẫn cũng như uy tín của công ty.
Giải pháp lâu dài
Chuẩn bị nguồn nhân lực
Việc tốc độ tăng trưởng của ngành của ngành phần mềm Việt Nam năm 2008 chỉ là 20% với Doanh số 600 triệu USD với việc các năm trước luôn đạt 30% , các chuyên gia tin học ước tính Việt Nam cần có khoảng 25.000 lập trình viên. Trong khi đó, số lượng các lập trình viên thực tế ở Việt Nam hiện nay mới chỉ được con số vài nghìn. Đây sẽ là vấn đề khó khăn nhất trong chiến lược xuất khẩu phần mềm mà các công ty phần mềm Việt Nam phải đối mặt nếu muốn phát triển sản xuất, tăng doanh số xuất khẩu đi tới thành công. Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, các công ty phần mềm thường gặp khó khăn trong việc tuyển các lập trình viên vào làm việc. Trong kế hoạch thường đặt mục tiêu tuyển vài chục người nhưng kết quả cuối cùng lại chỉ được có vẻn vẹn vài người. Nguyên nhân đơn giản là do đội ngũ lập trình viên Việt Nam vốn đã thiếu lại yếu, chưa thể đáp ứng ngay được nhu cầu của các công ty chuyên về phần mềm. Tình trạng này đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ khi mà các trung tâm sản xuất phần mềm của Việt Nam hầu hết đều đã và đang chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến về phần mềm.
Trong khi nhu cầu về lập trình viên đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam thì theo đánh giá của các chuyên gia trong nghành đào tạo công nghệ thông tin việc đào tạo lập trình viên lại có quá nhiều bất cập. Điều này do công nghệ thông tin có tốc độ phát triển quá nhanh nên các chương trình giáo dục truyền thống chưa đáp ứng được. Nhiều giáo viên còn chưa có kinh nghiệm thực tế làm phần mềm. Chính vì vậy, sinh viên đào tạo hoàn toàn rất bài bản nhưng lại không đạt được các yêu cầu của thị trường do họ thiếu hẳn các kỹ năng. Chất lượng đào tạo thấp do dạy chủ yếu là lý thuyết, thiếu thực hành và truy cập Internet còn nhiều hạn chế. Theo giáo sư Quách Tuấn Ngọc, Việt Nam đang thừa thầy nhưng thiếu thợ trong tin học.
Trước tình hình đó, công ty CP phần mềm FPT cần đi trước một bước trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho mình trong tương lai khi muốn phát triển hơn việc xuất khẩu phần mềm. Như lấy nguồn lực từ trung tâm FPT-APTECH hay trường đại học FPT trong cả nước. Chương trình giảng dạy ở APTECH được thiết kế bám sát nhu cầu thực tế của thị trường, với các công nghệ đào tạo đa kỹ năng hiện đại nên sinh viên ra trường là có thể làm việc ngay. Thực tế đã chứng minh các sinh viên APTECH ra trường đều xin được việc làm ở các công ty tin học chuyên nghiệp, trong đó có một số làm việc ở nước ngoài. Công ty cần chuẩn bị việc dạy ngoại ngữ song song với dạy lập trình trong các trung tâm APTECH trong thời gian tới. Và đến ngày 8/9/2006 thì trường đại hoc FPT chính thức được thành lập, và đây là bước ngoặt mang tính đột phá của FPT trong mục tiêu đảm bảo nguồn lực trong tương lai
Tập trung đầu tư sản xuất tại các khu công nghiệp phần mềm
Nhà nước đã xây dựng khu công viên phần mềm Quang Trung (tại TP Hồ Chí Minh) là khu công nghiệp phần mềm lớn nhất nước ta hiện nay. Tại Hà nội cũng đã có quyết định xây dựng công viên phần mềm tại 22-24 Hàng Bài và 25-27 Hai Bà Trưng (với diện tích 15.000 m2 và chi phí khoảng 70 tỷ đồng). Ngoài ra Nhà nước đang tiếp tục hoàn thành bước một khu Công nghệ cao quốc gia tại Hoà Lạc. Một số khu công nghiệp phần mềm tại các tỉnh thành khác cũng đang được nghiên cứu xây dựng. Triển khai hoạt động trong các khu công nghiệp phần mềm với các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu phần mềm có nhiều thuận lợi:
Khu công nghiệp phần mềm tập trung có lợi thế đặc biệt về không gian, địa điểm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc nắm bắt tình hình phát triển của cả ngành công nghiệp, dễ dàng tiếp cận với các tiến bộ khoa học công nghệ mới.
Hệ thống hạ tầng viễn thông ưu việt, tốc độ đường truyền cao nhằm giảm thiểu thời gian truyền dữ liệu qua đó giảm bớt chi phí cho người sản xuất đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ mà người sản xuất cung cấp cho khách hàng nước ngoài.
Các thành viên tham gia Khu công nghiệp phần mềm được hưởng hệ thống dịch vụ phong phú với chất lượng cao và chi phí thấp, mức giá thuê đất, thuê trụ sở rẻ hơn và giá cước truy cậ Internet ưu đãi.
Khu công nghiệp phần mềm tập trung là tính khép kín của một hệ thống với các chức năng đồng bộ bao gồm từ sản xuất, thương mại đến xuất nhập khẩu, đào tạo và nghiên cứu, triển lãm, tiếp thị, tổ chức hội thảo, hội nghị, giải trí, dịch vụ y tế, ăn uống, mua sắm ... cho đến các chức năng quản lý bao gồm cả việc phối hợp chặt chẽ với các nhà khoa học và kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin của các thành phố lớn, của cả nước và cả các khu công nghệ trên thế giới.
Một điểm đáng nói là tất cả các ưu đãi trên không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp trong nước mà cho cả các doanh nghiệp nước ngoài khi sử dụng dịch vụ tại đây nên khả năng hợp tác quốc tế của các công ty Việt Nam tại Khu công nghiệp phần mềm sẽ cao hơn. Chính vì vậy tập trung sản xuất phần mềm trong các khu công nghiệp phần mềm sẽ thuận lợi hơn và khả năng xuất khẩu được phần mềm ra thị trường thế giới chắc chắn sẽ cao hơn. Trong tương lai, công ty CP phần mềm FPT nên chuyển các bộ phận liên quan đến sản xuất phần mềm xuất khẩu vào các công viên phần mềm này để tận dụng các lợi thế trên, tránh đầu tư cơ bản ban đầu quá lớn.
Phát triển công nghệ sản xuất phần mềm
Để xác định rõ chính xác công nghệ sản xuất phần mềm cần phân biệt rõ giữa công nghệ sản xuất và công nghệ gia công. Các thành phần cấu thành nên một phần mềm bao gồm ba thành phần có doanh thu và chi phí tương đương nhau :
Môi trường hệ thống
Các công cụ phát triển
Các giải pháp ứng dụng
Các doanh nghiệp sản xuất phần mềm Việt Nam hiện nay bao gồm cả công ty CP phần mềm FPT thông thường đi theo hướng sử dụng môi trường hệ thống và các công cụ phát triển sẵn có trên thị trường. Những công việc như vậy có thể gọi là đi theo hướng gia công và mọi sản phẩm phần mềm đều là gia công lại. Đối với người sử dụng thì điều đó không quan trọng lắm nhưng trong thời gian tới, khi luật bản quyền đi vào nề nếp thì các công ty phân mềm Việt Nam sẽ phải trả một khoản không nhỏ cho các môi trường đi kèm. Đối với các dự án gia công phân mềm, một công ty phân mềm chỉ cần khả năng dùng các công cụ phát triển nổi tiếng trên thế giới là được. Tuy nhiên giá thành cho những sản phẩm như vậy sẽ tăng lên đáng kể và hơn 2/3 giá trị trong đó thuộc về bản quyền của nước ngoài. Và điều quan trọng hơn là sau này mỗi khi cần nâng cấp hay phát triển đều phải phụ thuộc vào chính giải pháp đó.
Đa dạng hoá kiểu phần mềm
Trong giải pháp ứng dụng thì các phần mềm lại được chia thành 3 nhóm nhỏ là phần mềm giải trí, phần mềm giáo dục , phần mềm ứng dụng và phần mềm kinh doanh ( xem chương 1). Theo cách chia này thì các công ty phần mềm Việt Nam chủ yếu mới xuất khẩu phần mềm kinh doanh mà chủ yếu lại phục vụ cho các khách hàng cụ thể theo kiểu đơn đặt hàng. Công ty CP phần mềm FPT trong tương lai cần tập trung vào sản xuất các phần mềm trọn gói vì kiểu phần mềm này cho phép bán sản phẩm với giá hạ hơn rất nhiều so với khi bán phần mềm đơn lẻ do chi phí được san sẻ cho nhiều khách hàng. Hơn nữa sự đa dạng người dùng sẽ giúp cho việc hoàn thiện sản phẩm được tốt hơn. Tuy nhiên khi áp dụng cần phải tính toán kỹ lưỡng vì phần mềm trọn gói phải có tính năng rộng và tính hoàn chỉnh cao, đặc biệt là chi phí bán hàng trực tiếp và tiếp thị thường chiếm tới 50% tổng chi phí bán hàng là gánh nặng và tăng mức độ rủi ro cho công ty với số vốn còn hạn chế. Ngoài ra việc đầu tư sản xuất các sản phẩm phần mềm thuộc các lĩnh vực giải trí , giáo dục... trong thời gian tới cũng rất quan trọng nếu công ty CP phần mềm FPT muốn đa dạng hoá sản phẩm nhằm tăng sản lượng phần mềm xuất khẩu của mình.
Trên đây là một số kiến nghị để công ty CP phần mềm FPT có thể thúc đẩy xuất khẩu phần mềm cả về chất và lượng trước mắt cũng như lâu dài. Hy vọng các giải pháp này sẽ đóng góp được một phần nhỏ cho sự phát triển của công ty CP phần mềm FPT trong lĩnh vực phần mềm, góp phần vào sự phát triển nghành công nghiệp phần mềm chung của cả nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước thành công.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ(VỚI NHÀ NƯỚC VÀ CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG VỀ XK PHẦN MỀM)
Hiện tại chính phủ đã ra rất nhiều chính sách nhằm khuyến khích đẩy mạnh việc gia công xuất khảu phần mềm. Nhưng trong tương lai các doanh nghiệp với nguồn lực manh từ nước ngoài đổ vào sẽ khiến các Doanh nghiệp trong nước gặp nhìu khó khăn. Do đó mong nhà nước sẽ có những chính sách phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đến gần hơn với các đối tác nước ngoài. Và 1 số chính sách khác như : Giảm thuế thu nhập DN, giảm thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên làm phần mềm
KẾT LUẬN
Trong 1000 năm của thiên niên kỷ thứ hai đã xảy ra ba làn sóng rất đặc biệt : ba làn sóng quốc tế hoá. Lần thứ nhất liên quan đến sự phát triển của công nghệ hàng hải và Christophe Colombus đã tìm ra Châu Mỹ. Những dân tộc chinh phục được đại dương đã trở thành cường quốc và những người da đỏ Châu Mỹ đã bị loại khỏi cuộc chơi cho đến tận ngày hôm nay. Lần thứ hai liên quan đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất – những dân tộc làm chủ được công nghệ mới đã bành trướng ra khắp thế giới mà chúng ta là nạn nhân. Làn sóng quốc tế thứ ba là chiến tranh thế giới lần thứ hai và thế giới chia thành hai phe : chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong thời điểm lịch sử, Bác Hồ đã lợi dụng được làn sóng quốc tế này và giành được độc lập dân tộc.
"Thế giới đang cưỡi trên Làn sóng Công nghệ để bước sang thế kỷ 21. CNTTvà Phần mềm chứng tỏ khả năng tạo ra sự thịnh vượng toàn cầu ở một mức độ mới, giúp tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, việc tích cực hành động hoặc khoanh tay ngồi yên của Chính phủ các nước và các doanh nghiệp sẽ mang lại các kết quả và hậu quả khác nhau. Một số quốc gia sử dụng CNTT và Phần mềm trong đó như động lực của một nền kinh tế mới, chuyển từ nền kinh tế đang dựa trên nông nghiệp hoặc công nghiệp sang thẳng nền kinh tế tri thức. Các nước khác không thành công trong các bước đi cần thiết ban đầu sẽ tụt lại sau trên con đường tiến vào thị trường thế giới dựa trên tri thức
Việt nam đang sẵn sàng bước vào nền kinh tế tri thức mà một trong các lĩnh vực mũi nhọn đưa đất nước tiến nhanh vào nền kinh tế mới này chính là phát triển CNTT trong đó sản xuất và xuất khẩu phần mềm là then chốt. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm một bước đi phù hợp để đưa Phần mềm Việt nam tham gia vào thị trường thế giới là hết sức cần thiết. Trong hoàn cảnh hiện nay các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu phần mềm còn đang lúng túng trong các bước đi của mình và còn thử nghiệm nhiều cách để đưa phần mềm ra thị trường thế giới, hy vọng rằng những nghiên cứu trong luận văn này sẽ đóng góp một phần thiết thực vào chiến lược xuất khẩu phần mềm của công ty CP phần mềm FPT cũng như của các doanh nghiệp khác.
Mặc dù tiềm năng của thị trường phần mềm thế giới là vô cùng to lớn nhưng các thách thức cũng không nhỏ. Thành công của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm hỗ trợ của Đảng và Nhà nước và phụ thuộc vào việc tìm kiếm và ứng dụng các giải pháp phát triển của doanh nghiệp. Những kỳ tích mà MICROSOFT, IBM, ORACLE, ADOBE, YAHOO và nhiều công ty nổi tiếng khác đã làm nên chỉ trong 5 đến 10 năm qua cùng với hàng trăm triệu phú mới nổi lên nhờ làm phần mềm mà phần lớn trong số họ mới ngày hôm qua còn là các kỹ sư nghèo của các nước Ấn Độ, Philippines, Malaysia,... và những nước đang phát triển như Việt nam. Bằng những nỗ lực và quyết tâm của mình trên con đường tìm chỗ đứng cho Phần mềm Việt nam, chúng ta có quyền hy vọng rằng một ngày không xa, thế giới sẽ biết đến Việt nam là một Cường quốc Phần mềm của Khu vực.
BẢN CAM KẾT
Tôi xin cam đoan tất cả những số liệu tôi đưa ra để phân tích ở bên trên đều được lấy từ những báo cáo đang tin cậy được công ty CP phần mềm FPT đưa ra. Nếu có bất cứ sai sót nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
_ Bản báo cáo bạch 2008 của công ty CP phần mềm FPT được công ty Chứng khoán FPTS tổng hợp
_ Báo cáo thường niên năm 2008 của công ty CP phần mềm FPT
_ Báo cáo kiểm toán năm 2006, 2007, báo cáo tài chính quý I 2008
_ Trang cổng thông tin điện tử http//:www.ezsearch.fpts.com.vn
_ Trang chủ của công ty CP chứng khoán FPTS
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2270.doc