Từ năm 2000 tới nay xuất khẩu đã đạt được sự vượt trội trên những điểm sau.
- Quy mô xuất khẩu đạt ở mức cao nhất từ trước tới nay
- Nhờ quy mô khá nên tốc độ tăng cũng khá cao
- Xuất khẩu tăng ở cả hai khu vực; khu vực kinh tế trong nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
- Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng chủ lực
- Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu tăng không chỉ do lượng xuất khẩu tăng mà còn do giá xuất khẩu tăng
- Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường đặc biệt là thị trường Mỹ tiếp đến là EU, ASEAN, Nhật Bản, Australia
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng hàng xuất khẩu sang Châu Âu tới nay đã đạt 23% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với khu vực Bắc Mỹ mà chủ yếu là Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng có bước tăng trưởng khá, chiếm trên dưới 5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, mặc dù Việt Nam chưa được Mỹ cho hưởng quy chế thương mại bình thường với quốc gia này. Tuy vậy hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc ở thị trường này bằng chứng là kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ bằng 28% so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản và 20% sang EU. Hàng hoá xuất khẩu vào các khu vực thị trường khác như Liên Bang Nga, các nước khác trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và Đông Âu chiếm trên 3%, Australia chiếm trên 5%, Châu Phi và Nam Phi hơn 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam đã hình thành một số thị trường chủ lực xuất khẩu hàng hoá, hiện có 40 thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam có giá trị từ 8 triệu USD trở lên, trong đó 23 thị trường trên 100 triệu USD, đặc biệt là 8 thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam trên 500 triệu USD trong đó 3 nước đạt trên 1 tỷ USD là Nhật Bản, Trung Quốc và Australia. Với Trung Quốc đây là năm đầu tiên kim ngạch 2 chiều đạt gần 3 tỷ USD trong đó Việt Nam xuất khẩu là 1,6 tỷ USD , còn Nhật Bản vẫn đứng vị trí hàng đầu với việc nhập khẩu hàng Việt Nam trong năm 2000 đã lên tới 2,621 tỷ USD tăng 46,77% so với năm 1999.
Hoạt động thương mại năm 2000 đã góp phần nâng tầm Việt Nam trên thế giớI, đó là chúng ta đã ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ tháng 7/2000 mở ra thời kỳ mới trong quan hệ buôn bán với một cường quốc kinh tế mạnh. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 vì vậy quan hệ thương mại giữa Việt và Mỹ bắt đầu phát triển .
Năm 2002 nổi bật là xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng mạnh, cả năm ước đạt 2,42 tỷ USD, bằng hơn 2 lần so với năm 2001. Tỷ trọng của Hoa Kỳ trong tổng kim ngạch đã tăng từ 7,1% lên 14,5% và riêng phần đóng góp đối với tốc độ tăng trưởng chung năm 2002 là 9% .
Xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng nhanh nhưng xuất khẩu sang Nhật Bản và ASEAN lại giảm, xuất khẩu vào EU và Trung Quốc tăng chậm. Xuất khẩu vào Nhật Bản giảm 3%, chủ yếu do giảm kim ngạch dầu thô và hàng dệt may. Thị trường ASEAN vẫn trì trệ do giảm kim ngạch linh kiện vi tính và sự chuyển hướng xuất khẩu dầu thô sang khu vực khác. Xuất khẩu vào EU tăng 4,5 % nhưng trong đó xuất khẩu hàng dệt may giảm 9% do sức mua năm nay yếu, Trung Quốc lại được EU bãi bỏ hạn ngạch đối với một số Cat hàng dệt may mà ta có hạn ngạch nên cạnh tranh gay gắt hơn.
10 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng gấp đôi so với năm 2002, trong khi đó các thị trường khác cũng có chuyển biến tích cực. 20/40 thị trường xuất khẩu chủ lực có tăng trưởng cao, thị trường đang dẫn đầu tốc độ tăng trưởng là Bồ Đào Nha (105%), các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất là (43,5%), Myanma (78,7%), campuchia (52,8%), Thái Lan (41%).Tuy nhiên vẫn có 6/40 thị trường không có tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2002, một số thị trường giảm là Nga (25%), Ailen(20%), Đài Loan (13%), Lào (9%), Irăc (59%).
Trong khi tập trung xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh, thì ở các thị trường truyền thống khác lại sụt giảm như Hàn Quốc, Đài Loan …đặc biệt là thị trường EU giảm 31% so với cùng kỳ năm 2002, riêng mặt hàng dệt may 10 tháng đầu năm đạt khoảng 2 tỷ USD chủ yếu do tăng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU khoảng trên 200 triệu USD và Nhật Bản khoảng 270 triệu USD, từ nay đến cuối năm 2003 có thể khó thay đổi tình thế này.
Có thể nói yếu tố thị trường có nguyên nhân khách quan và chủ quan, một mặt nếu không có thị trường Mỹ với kim ngạch xuất khẩu tăng thêm con số hơn 1 tỷ USD so với năm 2002 thì cũng khó có tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao trong năm 2003; mặt khác nếu không có sự chuẩn bị tốt thực hiện hiệp định thương mại Việt –Mỹ sẽ bỏ qua thời cơ khách quan đem lại.
Về thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng có một số điểm lưu ý :
Châu Á - một châu lục duy nhất mà nước ta nhập siêu – thì tỷ trọng xuất khẩu vào châu lục này liên tục giảm xuống, trong đó giảm mạnh là Nhật Bản và Trung Quốc. Cần phải tận dụng cơ hội giảm thuế suất nhập khẩu vào ASEAN, tranh thủ thị trường gần là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc để cải thiện cán cân thương mại với nước này.
Đông Âu vốn là thị trường truyền thống, nhưng hiện tỷ trọng còn ở mức rất thấp và giảm trong 3 năm liền. Tới đây, 10 nước ở khu vực này gia nhập EU sẽ vừa tạo thuận lợI, đồng thời cũng xuất hiện những khó khăn nhất định, cần khai thác mặt thuận và hạn chế mặt nghịch .
Châu Phi là thị trường rộng lớn, nhất là đối với hàng nông sản và các loại hàng chưa đòi hỏi cao về chất lượng, nhưng quy mô xuất khẩu vào thị trường này còn nhỏ bé.
* Mặt hàng
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu (triệu USD)
Mặt hàng chủ yếu
2000
2001
2002
10 tháng đầu 2003
1.Dệt may
1.892
1.978
2.756
3.155
2.Dầu thô
3.496
3.140
3.274
3.110
3.Giầy dép
1.402
1.600
1.871
1.847
4.Thuỷ sản
1.473
1.827
2.021
1.808
5.Gạo
664
619
718
679
6.Điện tử,mt
780
709
484
550
7.SP gỗ
289
332
434
446
8. Cà phê
505
392
317
374
9.TC,MN
289
317
334
285
10.Cao su
158
166
267
273
11.Dây,CĐ
0 0
181
183
233
12.Hạt điều
173
151
217
221
13.SPnhựa
101
120
150
149
14.Than đá
86
120
150
147
15.Rau quả
216
347
200
127
16.XĐ $ PT
0
0
150
121
17.Hạt tiêu
144
90
100
89
(Nguồn: Bộ thương mại; Tính toán dựa trên số liệu trong thời báo kinh tế Việt Nam số 66 –thứ 6 - 17/10/2003 trang 6 tác giả Dương Ngọc )
Nhìn chung số loại mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu đã gia tăng qua các năm. Đến năm 2002 Việt Nam đã có 17 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD và 3 mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD ( dệt may, dầu thô, thuỷ sản) trong đó Dầu thô đạt trên 3 tỷ USD; Khả năng năm 2003 này sẽ có thêm mặt hàng nữa là giầy dép đạt trên 2 tỷ USD và 2 mặt hàng có khả năng vượt 3,5 tỷ USD Trong 4 mặt hàng trên cũng đang có sự rượt đuổi để thay đổi ngôi thứ, hàng dệt may đang vị trí thứ 2 đã vượt lên vị trí thứ nhất vào đầu năm 2003. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 170 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn sau.
1 . Mỹ
2,6
2,4
35,5
2 . EU
33
31
20
3 . Nhật Bản
32,4
29,9
17,84
4 . Đài Loan
13,8
13,3
8,5
5. Hàn Quốc
3,6
4,1
3,4
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào các thị trườngchính(%)
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-trang 6- Dương Ngọc)
Trong khi tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sút giảm mạnh ở các thị trường khác thì thị trường Mỹ lại tăng vọt qua các thị trường đứng trên để vươn lên đứng thứ nhất, vượt xa thị trường đứng thứ 2 và xu hướng này còn tiếp tục vào 10 tháng đầu năm 2003 này.
Dầu thô trong nhiều năm qua đứng vị trí số một về kim ngạch xuất khẩu, chỉ nhường vị trí này trong 10 tháng đầu năm 2003 cho đệt may. Trong 11 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu dầu thô của Việt Nam thì 5 thị trường sau đây là lớn nhất.
Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Việt Nam (%)
Các nước
2000
2001
2002
1. Au stralia
31,5
28,4
34,6
2 .Trung Quốc
22,2
17,9
21,0
3. singapore
15,4
23,0
19,8
4. Nhật Bản
15
12,3
7,6
5. Indonêsia
4,8
4,8
3,6
Cộng 5 thị trường
88,9
86,4
86,8
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-tác giả Dương Ngọc)
Giầy dép Việt Nam đã có mặt ở 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó lớn nhất là EU (70%), tiếp đến là Mỹ (11%) , Nhật Bản (3%) .
Hàng thuỷ sản đã có mặt ở 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó Mỹ là thị trường tăng nhanh nhất, hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất (tăng từ 26% năm 2001 lên 33% năm 2002 và 36% trong 6 tháng đầu năm 2003);tiếp đến là EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan .
Ngoài 17 mặt hàng vượt trội trên, còn có 13 mặt hàng khác, trong đó có 4 mặt hàng mới tham gia vào danh sách các mặt hàng chủ lực, đó là sản phẩm gỗ, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng xe đạp .
Diễn biến mặt hàng xuất khẩu qua các năm :
* Năm 2000: đi qua để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp về một nền kinh tế Việt Nam đã bước đầu khởi sắc, vượt qua cơn khốn khó từ sau cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ khu vực. Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,308 tỷ USD, tăng 52,8% so với năm 1998, 24% so với năm 1999 và vượt mức kế hoạch trên 1 tỷ USD. Với mức xuất khẩu như hiện nay, tính bình quân đầu người là 180 USD, Việt Nam đã vượt qua ngưỡng tối thiểu của một nước đang phát triển (quy định là 170 USD). Sở dĩ xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong năm qua nhờ vào việc gia tăng đáng kể kim ngạch xuất khẩu ở một số mặt hàng như dầu thô, thuỷ sản, rau quả …Hiện có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Trước hết nói về dầu thô, chủ yếu là do giá dầu thế giới tăng (tới 88%) chứ còn lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 1,4% so với năm 1999, nhờ đó giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã đạt tới 3,496 tỷ USD, tăng 71,5% so với năm 1999, điều này chưa thực đáng mừng vì rằng hoàn toàn do yếu tố khách quan mang lại.
Lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đạt ngoài dự kiến là 1,473 tỷ USD, tăng 51,9% so với năm 1999, vượt mức kế hoạch 34,1%, có được thành công là do thời gian qua ta đã chuẩn bị tốt được nguồn hàng xuất khẩu từ đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến bảo quản, hiện nay hải sản Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và lãnh thổ ,đặc biệt trong số đó sáu bạn hàng lớn nhất là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan, riêng thị trường khu vực này đã chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 1,892 tỷ USD nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức 3,9% so với năm 1999, chưa đạt được kế hoạch năm (1,95 tỷ USD ). Tình hình trên đây là do trong các hợp đồng của khách hàng xuất hiện nhiều chủng loại mới và khó may nên ta chưa chuẩn bị được đủ hàng để giao nhận mặc dù EU đã tăng thêm hạn ngạch cho Việt Nam. Do giá gia công quá thấp, nhiều doanh nghiệp có xu hướng chuyển dần hình thức tự doanh nên bước đầu còn đang gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Bên cạnh đó, hàng dệt may Việt Nam đã gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của một loạt các nước trong khu vực như Trung Quốc,Thái Lan…
Xuất khẩu giầy dép các loại của Việc Nam năm 2000 dường như dậm chân tại chỗ chỉ tăng có 0,7% so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu cả năm chỉ đạt 1,402 tỷ USD mặc dù kế hoạch đặt ra là 1,65tỷ USD. Nguyên nhân là do có một số lượng lớn hàng giầy dép đang bị tồn kho trên thế giới, do đó các bạn hàng ra sức ép giá đối với ta đồng thời giảm số lượng hợp đồng kí kết dẫn đến công nhân không đủ việc làm. Khó khăn lớn nhất của ngành giầy da là thiếu nguyên liệu, phụ kiện, mọi thứ từ da, đến phụ liệu trang trí và kiểu dáng đều phải nhập từ bên ngoài.
Hàng rau quả tuy chỉ mới đạt kim ngạch xuất khẩu là 216 triệu USD nhưng là ngành hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong năm qua (tới 95,5%). Các bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của hàng rau quả là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU.
Ngoài ra xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp khác như điều nhân, trà, cao su của Việt Nam cũng tăng hơn so với năm 1999. Tuy nhiên xuất khẩu hai sản phẩm nông nghiệp là cà phê và gạo lại bị giảm sút nghiêm trọng.
Hàng thủ công mỹ nghệ cũng có bước tăng trưởng khá, đạt 39,7% với kim ngạch xuất khẩu là 289 triệu USD.
Xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính cũng có bước tăng trưởng khá, tăng 35% so với năm 1999 và đạt ở 780 triệu USD, thị trường chủ yếu của các mặt hàng này là Philippin, Thái Lan, Nhật Bản…
Nhìn chung cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 được đánh giá là phong phú đa dạng hơn.Tuy nhiên đây chỉ là những bước đi ban đầu thử nghiệm, thăm dò thị trường, còn làm ăn lâu dài là phải có mặt hàng xuất khẩu quy mô lớn, ổn định, sản phẩm đồng nhất với chất lượng cao .
*Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2000 thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra, chủ yếu do tình hình kinh tế thương mại thế giới diễn biến không thuận lợi. Có 9 mặt hàng chủ lực là lạc nhân, cà phê, chè, gạo, hạt điều, hạt tiêu, dầu thô, thủ công mỹ nghệ và điện tử bị giảm kim ngạch, chủ yếu do giá giảm quá mạnh trên thị trường thế giới, đặc biệt là giá dầu thô. Tuy nhiên đa số các mặt hàng nông sản chủ lực đều được tổ chức tiêu thụ tốt, mức tăng về lượng rất khá, cao su tăng gần 14%, cà phê trên 25%, hạt điều 20%, hạt tiêu 5%…đã làm thị phần của ta trên thị trường thế giới được cải thiện. Kim ngạch của nhóm hàng khác ngoài 17 nhóm chủ lực đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay là 28,2% làm tỷ trọng của nhóm này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 26%. Điều này thể hiện tác dụng của việc mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của mọi thương nhân, khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế trong việc tạo ra các mặt hàng xuất khẩu mới.
* Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001, trong đó một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá là dệt may (+39,3%), giầy dép (+19,7%), hàng TCMN (+40,7%), sản phẩm gỗ (+30%), cao su (+61,4%), hạt điều(+38%). Khác với đồ thị giảm dần của năm 2001, tốc độ tăng trưởng luỹ kế trong năm 2002 có diễn biến tăng dần (sau 3 tháng –12%, 6 tháng –4,9%, 9 tháng +3,2%, 12 tháng +11,2%). Xuất khẩu các sản phẩm phi dầu thô tăng 12,9%, cao hơn mức tăng 8,7% của năm 2001. Cơ cấu xuất khẩu có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ lực (dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, hàng TCMN, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, thực phẩm chế biến, cơ khí điện, đồ chơi ) đạt 39% ( năm2001 là 36,3%), trong đó mặt hàng có tốc độ tăng khá là dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa và hàng TCMN. Riêng phần đóng góp của 2 nhóm hàng dệt may và giầy dép đối với tăng trưởng chung là 7,2% (dệt may 5,2%, giầy dép 2%). Về xuất khẩu nông sản mặc dù giá vẫn thấp nhưng có tới 5 mặt hàng có lượng tăng là lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Điều này cho thấy thị trường tiêu thụ vẫn được bảo đảm, thị phần của ta đối với một số mặt hàng tiếp tục tăng. Hai mặt hàng gạo và cà phê lượng xuất khẩu giảm nhưng nguyên nhân chính là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của hạn hán chứ không phải do thiếu thị trường .
* 10 tháng đầu năm 2003, trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thì hàng dệt may và dầu thô đã xuất khẩu được 3,1 tỷ USD mỗi loạI, còn nếu tính thêm hai mặt hàng thuỷ sản và giầy dép thì kim ngạch của 4 mặt hàng trên chiếm đến 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta .
Tuy nhiên, về mặt hàng xuất khẩu cũng còn một số điểm bất cập: Mặc dù tỷ trọng kim ngạch hàng thô hay mới sơ chế đã giảm nhưng vẫn còn cao, tỷ trọng kim ngạch hàng chế biến hay tinh chế đã tăng lên, nhưng vẫn còn thấp. Trong các loại hàng chế biến thì tỷ trọng hàng gia công còn lớn, kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng phần thực thu ngoại tệ lại thấp. Tỷ trọng hàng gia công trong nhóm hàng dệt may lên tới 90-95%, nguyên liệu giầy dép có tới 60% phải nhập khẩu. Hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, khâu thương hiệu còn hạn chế nên phải bán qua trung gian.
Thành phần kinh tế
Đơn vị triệu USD
Thành phần kinh tế
2000
2001
2002
10t đn 2003
Các DN 100% vốn trong nước
7.641
8.352
8.937
8.284
Các DN có vốn ĐTNN
6.809
6.748
7.769
8.266
(Nguồn: Ngoại thương 21-31 /1/2002 trang 9, 10; Thời báo kinh tế Sài Gòn 30/10/2003 trang 8; Tính toán dựa trên số liệu trong thương mại số 7/2003- trang 2)
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2000 khu vực kinh tế trong nước chiếm tỷ trọng trên 50%, đạt 7641 triệu USD tăng 8% so với năm 1999; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt khoảng 6809 triệu USD tăng 47,4%.
Sở dĩ tốc độ tăng của khu vực kinh tế trong nước chưa cao vì những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản, rau quả, lâm, hải sản, thủ công mĩ nghệ, có giá trị thấp. Hơn nữa năm 2000 lại là năm đặc biệt khó khăn với gạo và cà phê (gạo: phẩm chất chưa cao, giá cả khong ổn định; Cà phê: giá xuống thấp liên tục qua các tháng).
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, sở dĩ xuất khẩu có mức tăng nhanh là nhờ vào mặt hàng dầu thô. Năm 2000 khối lượng dầu thô ước tính đạt khoảng 15,5 triệu USD. Tuy lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 4,2% nhưng do giá dầu tăng cao nên trị giá xuất khẩu tăng tới hơn 71,2% .Tuy nhiên một số nhóm hàng như: Dệt may, giầy dép vốn là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao những năm trước đây thì năm 2000 bị giảm sút mạnh. Cụ thể năm 1999 kim ngạch hàng dệt may tăng 20,5%, giầy dép tăng 34,9% thì năm 2000 chỉ số tương ứng đã giảm xuống chỉ còn tăng 3,9% và 0,7% .
Năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 15100 triệu USD, bằng 90,1% kế hoạch, tăng 4,5% so với năm 2000. Bao gồm, xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8352 triệu USD, bằng 89,2% kế hoạch năm, tăng 9,3%; của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6748 triệu USD bằng 91,2% kế hoạch, giảm 0,9%.
Năm 2002 các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8937 triệu USD, tăng 7% so với năm 2001; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7769 triệu USD, tăng 15,1%.
10 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8284 triệu USD tăng 14,6%, kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8266 triệu USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái
Như vậy nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của cả khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài từ năm 200 tới nay đều tăng lên, trong đó tốc độ tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn là tốc độ tăng của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
1.2. Nhập khẩu
* Kim ngạch nhập khẩu
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 đạt 15,2 tỷ USD tăng khoảng 30,8% so với năm 1999 (vượt 15,2% kế hoạch năm ). Cân đối giữa xuất và nhập thì nhập siêu năm 2000 vào khoảng 750 triệu USD. Tuy gấp 11 lần mức nhập siêu năm 1999 nhưng so với năm 1998 chỉ bằng 42% và so với năm 1997 chỉ bằng 37,2%. Nhập siêu tăng do một trong những nguyên nhân là sự tăng giá của các mặt hàng nhập khẩu và giảm giá đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu khác của nước ta. Hơn nữa cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất như phân bón, xăng dầu, máy móc …
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2001 đạt 16 tỷ USD, bằng 89,9% kế hoạch năm, tăng 5,3% so với năm 2000.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2002 đạt 19,3 tỷ USD, tăng 20,6% so vói năm 2000, vượt 1,4% so với kế hoạch năm, nhập siêu là 2,594 tỷ USD. Như vậy nhập siêu năm 2002 đã tăng lên gấp 3 lần so với năm 2000 và năm 2001 .
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 10 tháng đầu năm 2003 là 20,316 tỷ USD, gần bằng kế hoạch cả năm và tăng 29,9% so với cùng kỳ năm 2002.
Như vậy kim ngạch nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng với tốc độ cao. Hai yếu tố giá cả và khối lượng hàng nhập khẩu đều góp phần làm kim ngạch chung tăng lên, nó được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau.
Đơn vị tỷ USD & %
2000
2001
2002
10 tháng đầu năm 2003
Xuất khẩu
14,45
15,1
16,706
16,55
Nhập khẩu
15,2
16
19,3
20,316
Nhập siêu
0.75
0,9
2,594
3,766
Tốc độ tăng trưởng NK
30,8
5,3
20,6
29,9
* Mặt hàng chủ yếu
Đơn vị triệu USD
Mặt hàng chủ yếu
Năm 2000
Năm2001
Năm2002
10 tháng đầu năm 2003
1, ô tô NC
134
197
250
218
2, Ôtô dạng linh kiện
97
225
335
432
3, Thép TP
577
627
880
960
4, Phôi thép
234
309
450
427
5, Phân bón
508
409
453
434
Phân ure
261
212
208
223
6, Xăng dầu
2058
1871
2022
1984
7, Xe gắn máy (linh kiện LR)
787
576
360
211
8,Giấy cácloại
142
153
193
185
9, Chất dẻo Nliệu
480
489
617
627
10, Sợi các loại
231
248
312
248
11, Bông
101
133
94
83
12, Hoá chất Nliệu
307
343
404
421
13, Máy móc, thiết bị khác
2571
2706
3700
4475
14, Tân dược
308
287
312
294
15, Linh kiện điện tử
748
668
650
756
16, Nguyên phụ liệu dệt may
1422
1606
1781
1619
Hànghoá khác
4934
5153
6487
(Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn 30/10/2003-trang 8; Ngoại thương
21-31/1/2002-trang 10, 21-31/1/2003-trang 3)
Có 16 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong đó hàng tiêu dùng có xu hướng giảm, các sản phẩm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, dầu thô, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất như: hoá chất ,nguyên vật liệu, ling kiện điện tử. Trong điều kiện một nước đang phát triển, chưa ổn định và cần tăng cường mạnh đầu tư nước ngoài, trong nước, đôi khi sự gia tăng về nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu sản xuất trong nước lại là hết sức cần thiết .
Năm 2000 tốc độ tăng nhập khẩu cao, phải kể đến yếu tố tăng giá trên thị trường thế giới ở một số mặt hàng như: sắt thép, sợi dệt, chất dẻo, xăng dầu .
Năm 2001 kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tăng cao so với năm 2000: ôtô dạng linh kiện tăng 131,5%, ôtô nguyên chiếc tăng 47%, phôi thép tăng 32%, bông tăng 31,7%…Các mặt hàng thiết yếu đối với nền kinh tế như xăng dầu, sắt thép, hoá chất , bông, sợi …có mức tăng khá về lượng. Một số mặt hàng chủ yếu giảm về giá trị: xe gắn máy (dạng ling kiện lắp ráp) giảm 26,8%, phân bón các loại giảm 19,4%, ling kiện điện tử giảm 10,7%, xăng dầu giảm 9,1%, tân dược giảm 6,8%…
Năm 2002 các mặt hàng chủ yếu, quan trọng đối với sản xuất trong nước được nhập khẩu với khối lượng khá và đều tăng mạnh nhất là thép, giấy, máy móc, bộ linh kiện ô tô, hoá chất và sợi. Bộ linh kiện ô tô tăng 48,9%, máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 36,7%, sợi tăng 25,8%, giấy tăng 26,1%, thép thành phẩm tăng 40,3%, chất dẻo nguyên liệu tăng 26,2%, phân bón tăng 10,8%, xăng dầu tăng 8,1% so với năm 2001, kể cả những mặt hàng không nằm trong diện được chính phủ khuyến khích nhập khẩu cũng tăng như tân dược, vải…Các mặt hàng giảm là xe gắn máy (37,5%), bông (giảm 29,32%), ling kiện điện tử giảm 2,8% so với năm 2001 .
10 tháng đầu năm 2003 hầu hết các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng lên với tốc độ tăng trưởng nhanh về kim ngạch, chỉ có 2 mặt hàng giảm là sợi các loại và bông với tốc độ giảm tương ưng là 4,2% và 3,5%.
Nhập siêu tăng mạnh qua các năm một phần là do giá nguyên liệu đầu vào trên thế giới tăng cao, một phần hàng hoá nhập khẩu trong thời gian qua là máy móc thiết bị để đảm bảo tiến độ cho những dự án sủ dụng vốn ODA được triển khai, nếu không kịp thời tìm ra các giải pháp để hạn chế nhập siêu thì mức thâm hụt thương mại sẽ không ngừng ở mức hiện tại. Dù có nhập thiết bị máy móc dụng cụ phụ tùng, nhưng vấn đề là đầu tư sẽ đưa lại hiệu quả ra sao trong giai đoạn tới. Hơn nữa đây còn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, khi mà tính gia công của sản xuất, xuất khẩu và tính đại lý trong thương mại không giảm, mà ở một số địa phương còn gia tăng …nhất là sau khi cắt giảm thế suất thế xuất khẩu, hàng nhập khẩu sẽ gia tăng. Vậy để kiềm chế nhập khẩu cần có những biện pháp sau:
Loại giải pháp liên quan đến xuất khẩu, theo đó xuất khẩu ngoài việc tận dụng các lợi thế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh (sức cạnh tranh không chỉ nằm ở giá thành, chất lượng mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thị và tiến độ cung cấp), cần hết sức tận dụng thời cơ được giảm thuế để xuất khẩu vào các thị trường lớn như EU, Mỹ. Xây dựng thị trường nội địa thế nào để tạo dựng nguồn nguyên vật liệu trong nước cho hàng hoá xuất khẩu, tăng tỉ lệ thưc thu thuộc về trong nước trong kim ngạch xuất khẩu .
* Thị trường
Nhìn chung từ năm 2000 tới nay thị trường nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng dần cả về chiều rộng lẫn chất lượng hàng nhập khẩu. Có 5 thị trường lớn đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore .
Năm 2000 chưa xuất hiện thị trường mới, trong số thị trường cũ thì thị trường Châu Á vẫn là khu vực có nhiều bạn hàng lớn của nước ta như Nhật Bản (kim ngạch nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD ), Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Inđonexia, …kim ngạch 2 chiều với nhiều nước gia tăng nhanh chóng như: Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, Itali, Urraina…
Năm 2001 đã xuất hiện thêm nhiều thị trường nhập khẩu mới là Achentina, Bồ Đào Nha, Mianma, Cata, Ailen. Trong khi các thị trường khác vẫn tiếp tục duy trì và có tốc độ nhập khẩu tăng dần .
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ có hiệu lực 10/12/2001, từ đó quan hệ thương mại giữa 2 nước phát triển mạnh mẽ: xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng đáng kể thì nhập khẩu từ Mỹ cũng nhiều hơn và như vậy Việt Nam sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các công nghệ lạc hậu qua các nguồn trung gian .
Đối với Trung Quốc giao dịch ngoại thương gia tăng mạnh từ năm 1991, sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hoá quan hệ ngoại giao, trao đổi hợp tác và phát triển. Xu hướng gia tăng này nhìn chung là vững chắc. Điều này thấy vai trò và tiềm năng to lớn của Trung Quốc trong chiến lược mở cửa của Việt Nam. Tuy nhiên giao dịch với Trung Quốc đã bộc lộ những nhân tố đáng lưu ý: nhiều doanh nghiệp Trung Quốc coi thị trường Việt Nam là nơi tiêu thụ hàng hoá chậm luân chuyển của họ nên đã khuyến khích việc buôn bán tiểu ngạch qua biên giới, gây rối loạn thị trường nhập khẩu và gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2000 số hàng chậm luân chuyển của Trung Quốc lên tới 350 triệu USD. Các thị trường nhập khẩu hàng cao cấp như Nhật, Ý, Mỹ …đến những thị trường nhập khẩu hàng bình dân như của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, …với giá tương đối thấp đã làm cho các ngành sản xuất trong nước lâm cào tình trạng trì trệ vì không tiêu thụ được sản phẩm .
* Thành phần kinh tế
So với năm 1999, Năm 2000 về kim ngạch nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng 31,7%, đầu tư nước ngoài tăng khoảng 28,4% .
Năm 2001 nhập khẩu của các doang nghiệp 100% vốn trong nước đạt 11,241tỷ USD, bằng 88,5% kế hoạch, giảm 0,4% so với năm 2000; nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,759 tỷ, bằng 93,3% kế hoạch và tăng 9,4% so với năm 2000.
Năm 2002 các doanh nghiệp trong nước đạt 12,696 tỷ USD tăng 12,96% so với năm 2001; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,604 tỷ USD tăng 38,7% .
6 tháng đầu năm 2003 nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 7,983tỷ USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm ngoái; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,215 tỷ USD tăng gần 43%.
Doanh nghiệp FDI nhập khẩu tốc độ tăng cao hơn doanh nghiệp trong nước, số ngoại tệ nhập khẩu của FDI là do chính họ bỏ ra để thanh toán chứ không phải nhà nước. Cái mà ta cần xem xét là ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu từ nguồn ngân sách nhà nước do các doanh nghiệp quốc doanh quản lý và thực hiện có lớn và lãng phí, kém hiệu quả hơn, còn ngoài ra các doanh nghiệp khác tự lo có ngoại tệ để nhập khẩu, tất nhiên nhà nước cũng phải xem xét quản lý khi cần thiết .
Như vậy từ năm 2000 tới nay về giá trị tuyệt đối kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng về tốc độ tăng trưởng thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước. Điều đó chứng tỏ hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra mạnh mẽ, tốc độ cao hơn các doanh nghiệp trong nước, không khí đầu tư sôi động hơn khu vực trong nước.
1. 3 Đánh giá chung về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 tới nay
*Thành công của xuất nhập khẩu .
Qui mô xuất khẩu đạt ở mức cao, nhờ qui mô khá nên tốc độ tăng cũng đạt khá cao so với năm trước. Xuất khẩu tăng ở cả hai khu vực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những sản xuất tăng trưởng cao hơn mà còn tận dụng được cơ hội tốt hơn khi nước ta thực hiện cam kết mở cửa hội nhập với Mỹ, với khu vực cũng như khi Việt Nam gia nhập WTO .
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng chủ lực, kim ngạch một số mặt hàng tăng không chỉ do lượng xuất khẩu tăng mà còn do giá xuất khẩu tăng. Lượng xuất khẩu tăng như gạo,hạt điều, than đá ,dầu thô…Giá xuất khẩu tăng như cà phê, dầu thô, cao su.
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường , Mỹ trở thành nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nhờ tốc độ tăng cao. Tiếp đến là các nước khu vực EU, ASEAN, Nhât Bản, Australia… Thị trường châu phi cũng tăng khá và trở thành một trong những thị trường đầy hứa hẹn, nhất là đối với những mặt hàng như lương thực, hàng nông sản…
Các doanh nghiêp tăng cường đầu tư, tiếp nhận công nghệ mới, hơp lý hoá tổ chức sản xuất kinh doanh cải tiến mẫu mã, tăng sản lượng, nâng cao chất lượng, giá cả cạnh tranh, năng động tiếp cận thị trường…nên có bạn hàng mới, vươn tới thị trường xa, thoả mãn nhu cầu lớn, hợp đồng dài hạn và cả đơn hàng nhỏ lẻ, đột xuất. Qua mỗi năm số lượt đơn vị được thưởng xuất khẩu đều tăng và sau mỗi kỳ đó không ít doanh nghiệp được đối tác gia hạn hợp đồng, thêm cam kết mới.
Sự vượt trội của xuất khẩu càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện xẩy ra cuộc chiến tranh Irăc – một thị trường quan trọng về gạo, chè, các sản phẩm từ sữa…trong điều kiện dịch Sars đã xẩy ra ở nước ta và ở một số nước trong vùng; trong điều kiện kinh tế thế giới chưa hồi phục nhanh như dự báo của các chuyên gia quốc tế.
Nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất tăng lên, nhập khẩu mặt hàng phục vụ tiêu dùng giảm xuống.
* Tồn tại .
Tuy đạt được sự vuợt trội, nhưng trên lĩnh vực xuất khẩu vẫn chưa thể chủ quan thoả mãn, xuất khẩu đang đối mặt với những thách thức và nhập siêu đã gia tăng mạnh cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỉ lệ. Phát triển xuất khẩu chưa thật vững chắc. Gạo, ca phê, hạt tiêu đã đạt tới đỉnh cao, ít có khả năng đột phá, còn các ngành hàng khác vẫn còn tự phát, chưa tập trung cao, nhưng không thể có lượng hàng thật lớn và đồng đều chất lượng sẵn sàng cho xuất khẩu. Khả năng cạnh tranh của một số loại hàng và của không ít doanh nghiệp hạn chế, bị động ứng phó khi các thị trường nhập hàng đặt ra các rào cản. Cơ sở vật chất kỹ thuật quảng bá xuất khẩu chưa được cải thiện nhiều. Tranh chấp thương mại vẫn phức tạp. Các dịch vụ giao nhận, vận tải quốc tế, bưu chính viễn thông, bảo hiểm … chưa hấp dẫn về thể thức, chất lượng, giá cả. Thiếu thông tin qua xử lý, dự báo. Thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà, tốn chi phí ảnh hưởng tới sức cạnh tranh.
Số đông doanh nghiệp nhỏ dễ len lỏi vào thị trường, song năng lực tài chính và việc tiếp cận khoản tín dụng ưu đãi, các dự án đầu tư, phát triển … không dễ dàng .
Về nhập khẩu thì nhập siêu ngày càng gia tăng, sẽ làm thâm hụt cán cân vãng lai, đe doạ tới cán cân tổng thể, tăng vay nợ nước ngoài …,dù có nhập thiết bị máy móc dụng cụ phụ tùng, nhưng vấn đề là đầu tư sẽ đưa lại hiệu quả ra sao trong giai đoạn tới. Hơn nữa, đây còn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, khi mà tính gia công của sản xuất, xuất khẩu và tính đại lý trong thương mại không giảm, mà ở một số địa phương còn gia tăng . Nhất là sau khi cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu .
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu của Viêt Nam .
2.1 Yếu tố quốc tế .
* Lịch trình cắt giảm thuế quan để thực hiện AFTA của Việt Nam .
-Thuận lợi.
Việc tham gia AFTA sẽ giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN được hưởng thuế suất ưu đãi CEPT thấp của các nước ASEAN, hạ giá thành các sản phẩm xuất khẩu tăng cường khả năng cạnh tranh về giá cả của các hàng hoá này, tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi thế từ việc nhập khẩu nguyên liệu, vật tư từ các nước ASEAN với mức thuế nhập khẩu thấp, góp phần làm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tham gia AFTA, Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài không chỉ từ các nước ASEAN mà còn từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt với sự phối hợp với các chương trình hợp tác khác trong ASEAN, các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ sản xuất mới tiên tiến, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới .
Việt Nam tham gia AFTA là bước tập dượt để chuẩn bị cho việc hội nhập sâu, rộng hơn vào thị trường quốc tế, đó là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO .
- Khó khăn:
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn yếu (về giá cả, chất lượng, mẫu mã), do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động thấp, công tác quản lý kém hiệu quả …
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam là các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và hàng công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn. Đây cũng là những mặt hàng có ưu thế của các nước ASEAN, vì vậy nếu Việt Nam không có biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm của mình thì sẽ không đủ sức để cạnh tranh với các hàng hoá của các nước ASEAN tại các thị trường EU, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á.
Khả năng tự lập của các doanh nghiệp còn yếu do vẫn còn bị ảnh hưởng của sự bao cấp. Nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh ổn định, lâu dài vì vậy việc đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như tìm kiếm thị trường cho đầu ra của sản phẩm còn hạn chế.
* Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
-Những cơ hội :
Hiệp định thương mại có hiệu lực vào ngày 10-12-2001, Việt Nam đã được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường.
Như chúng ta đã biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt-Mỹ chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt Nam và hàng hoá của Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ, đặc biệt là hàng hoá của Việt Nam phải chịu mức thuế rất cao .
Khi hiệp định được thực thi, các trở ngại trên bị dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ bởi lẽ Việt Nam có được đối xử tối huệ quốc từ phía Mỹ trong đó quan trọng là hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể. Theo số liệu của Bộ Thương Mại, tổng mức thuế đành vào hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ (42 mặt hàng ) khi được hưởng MFN sẽ giảm từ 35% xuống còn 4,9%, cũng theo thông tin của Bộ Thương Mại, kim ngạch xuất khẩu dự kiến sẽ tăng 30-35%/năm vào đầu năm 2005, và đạt khoảng 2,8-3 tỷ USD .
Tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm .
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ sẽ làm cho các nhà đầu tư Mỹ yên tâm rằng ở Việt Nam có hệ thống pháp luật, chính sách về thương mại và đầu tư đúng luật chơi, đảm bảo và bảo vệ tốt lợi ích đối với các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
Tạo tiền đề cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC và đặc biệt là hiệp định thương mại Việt Mỹ có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn; tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng, khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế .
Thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt là đổi mới kinh tế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt Nam theo Hiệp định sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như nguyên tắc, quy định của WTO.
-Thách thức :
Khi Việt Nam và Mỹ cùng thực hiện việc cắt giảm thuế quan và giảm thiểu các biện pháp phi thuế quan thì Việt Nam phải đối mặt với một vấn đề là chính hàng hoá của Mỹ và các nước khác với chất lượng cao, giá hạ hơn và mẫu mốt đẹp hơn sẽ đạt được ưu thế cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của Việt Nam ngay tại thị trường Việt Nam .
Mặc dù khi Hiệp định thương mại được thực thi, hàng hoá của Việt Nam được hưởng ưu đãi quốc gia NTR, nhưng vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá của Trung Quốc, của các nước ASEAN và nhiều nước khác đang được hưởng NTR trên thị trường Mỹ. Trong cuộc cạnh tranh này, chất lượng giá cả, mẫu mốt có tính quyết định. Trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên ba mặt này hầu như còn rất yếu.
Khi thực hiện NTR, các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt Nam, được hưởng những ưu đãi về nhập khẩu những nguyên vật liệu để sản xuất, gia công, chế biến hàng xuất khẩu. Những vấn đề này sẽ tác động không nhỏ đến việc tổ chức nguồn hàng cho việc sản xuất , chế biến và xuất khẩu những mặt hàng truyền thống của ta .
Những quy định khó tính của Mỹ về hàng nhập khẩu, đó là những trở ngại phi thuế quan, mặt khác để doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam được vào thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam phải làm quyen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững chính sách ngoại thương của Mỹ. Đây là quốc gia có hệ thống pháp luật, chính sách về thương mại khá rắc rốI và phức tạp .
* Một số hiệp định khác:
Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với cộng đồng Châu Âu (EU) vào ngày 22/10/1990, ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với liên minh Châu Âu (EU) vào 15/12/1992 và ký hiệp định hợp tác với EU vào 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng này chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam –EU phát triển mạnh trên cả 3 lĩnh vực (thương mại , đầu tư , viện trợ ), đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Hiệp định buôn bán hàng dệt may có giá trị hiệu lực từ năm 1993 vì vậy kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam từ năm 1993 tăng liên tục .
2.2.Nhân tố trong nước
-Thuận lợi
Chính sách thương mại phù hợp với cơ chế thị trường .Điều này có thể thấy qua khía cạnh sau :
Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 30/7/1998 của chính phủ được ghi nhận là một bước tiến mới trong quá trình đó. Theo quy định của Nghị định, mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh mà không cần bất kỳ loại giấy phép xuất nhập khẩu nào. Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp chỉ phải đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Quyết định số 908/QĐ-Ttg ngày 26/7/2001của thủ tướng chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp vệ tinh (sản xuất bán thành phẩm để giao lại cho một doanh nghiệp khác sản xuất hàng xuất khẩu ) . Đây là quyết định hết sức quan trọng, góp phần thúc đẩy sự hình thành các chuỗi doanh nghiệp gắn kết với nhau, cùng hướng về xuất khẩu và cùng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn. Quyết định đã được bộ tài chính hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ. Cụ thể là chỉ có doanh nghiệp nào đã có hợp đồng xuất khẩu bán thành phẩm nhưng không giao bán thành phẩm ra nước ngoài mà giao thẳng cho doanh nghiệp Việt Nam khác để sản xuất hàng xuất khẩu thì mới được hưởng ưu đãi. Việc hướng dẫn đầy đủ các ưu đãi này đã được thủ tướng chính phủ tiếp tục chỉ đạo tại văn bản số 78/CP-KTTH của chính phủ ngày 20/1/2002, sẽ góp phần cân bằng chính sách ưu đãi giữa nguyên liệu nội và nguyên liệu ngoại, thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều hơn đầu vào sản xuất trong nước .
Thuế xuất nhập khẩu có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn. Thuế suất của thuế xuất khẩu và nhập khẩu được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàmg xuất khẩu có thuế suất 0% trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số quặng và song mây. Thuế suất nhập khẩu có 3 loạI: thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Số lượng mức thuế nhập khẩu có xu hướng giảm. Biểu thuế nhập khẩu hiện hành có 18 mức thuế suất khác nhau, dài trải từ 0% đến 100%. Các mức thuế cao nhất (100%; 60%) áp dụng chủ yếu cho rượi bia, quần áo cũ, ôtô, xe máy…; mức thấp nhất 0% áp dụng cho những nhóm hàng thuộc hoá chất cơ bản, máy móc thiết bị, cây giống, con giống…
Về quản lý giá hàng nhập khẩu: số lượng các mặt hàng thuộc diện nhà nước quản lý giá ngày càng giảm. Hiện nay chỉ còn 15 mặt hàng, ngoài ra nhà nước quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI. Nhà nước tiến hành nới lỏng kiểm soát hành chính đối với hoạt động xuất nhập khẩu và các biện pháp hạn chế số lượng. Nhà nước đã bãi bỏ việc cấp giấy phép chuyển đổi đối với mọi hàng hoá không thuộc diện quản lý của các bộ chuyên ngành, bên cạnh danh mục hàng hóa được quản lý bằng hạn ngạch giảm. Hiện nay, danh mục hàng hoá thuộc quyền quản lý của nhà nước bao gồm: hàng hoá cấm xuất khẩu (gồm 6 nhóm hàng ); cấm nhập khẩu (gồm 10 nhóm hàng); hàng hoá xuất khẩu theo hạn ngạch (2 nhóm mặt hàng ); hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch (9 nhóm mặt hàng ).
Có thể nói rằng trong thời gian qua, chính sách thương mại được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn, thông thoáng hơn đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất, làm cho xuất khẩu tăng nhanh, nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng qua các năm .
-Tồn tại :
Trên thực tế chính sách và hoạt động thương mại nước ta trong thời gian qua cho thấy chiến lược thay thế nhập khẩu vẫn được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Chính sách bảo hộ có khi được áp dụng một cách tràn lan, làm cho người tiêu dùng có khi phải trả giá đắt khi mua hàng hoá, tình trạng buôn lậu gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém. Một số nội dung trong chính sách thương mại cũng có phần chưa thực rõ ràng, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế .
Về thuế quan nhìn chung thuế suất còn cao và còn quá nhiều mức. Điều này tuy cũng có ưu điểm là bảo hộ đến từng doanh nghiệp và từng nhóm doanh nghiệp sản xuất, nhưng lại làm cho biểu thuế phức tạp, gây khó khăn trong quản lý.Về hàng rào phi thuế quan, chúng ta áp dụng các biện pháp như cấm nhập khẩu, hạn chế số lượng, cấp giấy phép …Việc áp dụng các biện pháp này tỏ ra không hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh tế thương mại khu vực như khu vực ASEAN, APEC mà Việt Nam là thành viên chính thức .
3. Một số đề xuất và kiến nghị
3.1 Đối với nhà nước
Cần bảo đảm thực hiện các cam kết với các nước trong AFTA. Trước hết chúng ta cần thực hiện cắt giảm thuế quan ở mức 0-5% theo lịch trình cắt giảm thuế quan sao cho việc này được hoàn tất vào năm 2006 theo cam kết cuả AFTA. Đồng thời cần chuẩn bị phương án để loại bỏ hàng rào phi thuế quan theo cam kết với các nước .
Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền xuất khẩu hàng hoá như thương nhân Việt Nam .
Tập trung nguồn lực để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa: đề nghị có một cơ chế tập trung nguồn lực để thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại trung ương. Quỹ này sẽ có đại lý là chi nhánh các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng được thành lập ở địa phương. Khi có nhu cầu mọi đại lý đều có thể tiếp cận được với nguồn lực tập trung, hiệu quả thực tiễn vì vậy sẽ cao hơn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tất cả các tỉnh cũng ở vào thế bình đẳng hơn. Do nguồn lực có hạn, ta nên tập trung hơn một số lĩnh vực ưu tiên như doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa có tham gia xuất khẩu hoặc đối với một số mặt hàng cần khuyến khích sản xuất, xuất khẩu.
Giảm dần, tiến tới xoá bỏ trợ cấp và trợ giá trong xuất khẩu: hoặc không áp dụng biện pháp thưởng kim ngạch xuất khẩu hoặc nếu áp dụng thì nên thay đổi cách tiếp cận theo hướng thưởng để khuyến khích chứ không bù lỗ như thưởng mặt hàng mới vào thị trường mới hoặc thưởng nếu kết quả xuất khẩu năm sau là cao hơn năm trước. Cụ thể, chỉ những doanh nghiệp nào có mức tăng trưởng kim ngạch đối với mặt hàng được thưởng cao hơn mức tăng bình quân mà bộ Thương Mại công bố mới được xét thưởng. Trên cơ sở đánh giá tiềm năng xuất khẩu của cả năm, bộ Thương Mại sẽ công bố mục tiêu tăng trưởng đối với từng mặt hàng trong cả năm để doanh nghiệp có mục tiêu phấn đấu. Nếu do khó khăn về thị trường, nguồn hàng hay giá cả mà kim ngạch của cả ngành hàng tăng trưởng âm, thì những doanh nghiệp nào đạt tăng trưởng dương đều được thưởng trên phần kim ngạch vượt trợi .Đối với doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn được thưởng thì doanh nghiệp nào có tốc độ tăng trưởng cao hơn sẽ được mức thưởng cao hơn. Các mặt hàng gặp khó khăn về thị trường, các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao sẽ có mức thưởng cao hơn .
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực hơn: bãi bỏ thủ tục phê duyệt nhập khẩu máy móc, thiết bị trị giá lớn. Các ưu đãi dành cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu phải được minh bạch hoá một cách tối đa, áp dụng bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư và phổ biến rộng rãi tới mọi chủ thể tiềm năng, vì vậy đề nghị UBND các tỉnh và thành phố hàng năm dành ra một khoản kinh phí để in và phát hành các tờ rơi tuyên truyền về chính sách ưu đãi mà nhà nước dành cho các nhà đầu tư. Nhanh chóng có biện pháp thoả đáng để tháo gỡ khó khăn về mặt bằng cho các nhà đầu tư, xử lý thật nghiêm các trường hợp chây lỳ không chịu bàn giao mặt bằng cho cơ quan có thẩm quyền hoặc không chịu di dời vòi vĩnh thêm từ các nhà đầu tư, thậm chí cần có khung hình phạt thích đáng. Xác định lại một số mặt hàng trọng điểm trong cơ cấu xuất khẩu để tập trung khuyến khích đầu tư, tuy cơ cấu xuất khẩu của ta đang ngày càng trở nên đa dạng hơn, nhưng những mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD chỉ có 4 mặt hàng, chỉ cần thay đổi nhỏ một trong 4 mặt hàng trên là kim ngạch xuất khẩu lập tức bị ảnh hưởng, vì vậy song song với việc đa dạng hoá cơ cấu xuất khẩu, ta cũng nên chọn một số mặt hàng tiềm năng để tập trung khuyến khích đầu tư, phấn đấu tăng thêm một số mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD. Điều chỉnh lại chính sách thuế để thúc đẩy nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm.
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện môi trường thể chế để thúc đẩy xuất khẩu: củng cố và tăng cường chức năng cho tổ chức cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, phát triển thể chế tham vấn nhà nước-doanh nghiệp, phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm chi phí cho xuất khẩu và kiện toàn công tác xúc tiến: xây dựng các trương trình xúc tiến xuất khẩu trọng điểm, xây dựng các trường trình trọng điểm trong nước nhằm phát triển thí điểm các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển các làng nghề TCMN truyền thống .
Nhà nước cần tăng cường củng cố, xây dựng cơ sở hạ tầng không những ở thành thị mà còn ở cả nông thôn, vùng sâu xa để thúc đẩy sản xuất phát triển đồng đều hơn.
3.2 Đối với doanh nghiệp
Thực hiện chương trình cắt giảm chi phí đầu vào đối với các sản phẩm hàng hoá, nhất là hàng xuất khẩu, đồng thời tăng cường đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ thị 08 của Thủ tướng chính phủ ngày 4/4/2003 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng Việt Nam .
Công ty đã xuất khẩu thì đừng bao giờ coi thị trường xuất khẩu như những bãi rác thuận tiện cho sự sản xuất dư thừa của mình, các doanh nghiệp phải coi xuất khẩu là việc nghiêm túc, sử dụng những người quản lý xuất khẩu chuyên nghiệp.
Không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, tiếp tục đầu tư sản xuất xuất khẩu những mặt hàng vốn được coi là ưu thế như hàng may mặc, hàng nông sản, giầy dép, cao su, thuỷ sản …
Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý nhập khẩu máy móc, thiết bị tiên tiến và những nguyên vật liệu để phát triển sản xuất trong nước.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và nắm vững các quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập khẩu cũng như tập quán tác phong của nước ngoài cũng như quy định tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, luật về trách nhiệm sản phẩm.
KẾT LUẬN
Như vậy qua những phần nghiên cứu ở trên cho chúng ta thấy xuất nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu là lối ra của nền kinh tế, bởi xuất khẩu chẳng những là một kênh tiêu thụ lớn mà còn là tiền đề để nhập khẩu thiết bị kỹ thuật –công nghệ, nhập nguyên vật liệu, cải thiện cán cân thanh toán, bình ổn tỷ giá góp phần tăng trưởng kinh tế chung.
Kim ngạch xuất nhập khẩu phụ thuộc vào thị trường, mặt hàng, giá cả xuất nhập khẩu. Điểm lại diễn biến và tác động của những yếu tố này cũng như cảnh báo về chúng là hết sức cần thiết, không chỉ đối với các nhà sản xuất, xuất nhập khẩu, mà cả đối với các nhà hoạch định chính sách vĩ mô.
Từ năm 2000 tới nay xuất khẩu đã đạt được sự vượt trội trên những điểm sau.
Quy mô xuất khẩu đạt ở mức cao nhất từ trước tới nay
Nhờ quy mô khá nên tốc độ tăng cũng khá cao
Xuất khẩu tăng ở cả hai khu vực; khu vực kinh tế trong nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng chủ lực
Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu tăng không chỉ do lượng xuất khẩu tăng mà còn do giá xuất khẩu tăng
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường đặc biệt là thị trường Mỹ tiếp đến là EU, ASEAN, Nhật Bản, Australia
Tuy đạt được nhiều sự vượt trội trên lĩnh vực xuất khẩu nhưng vẫn chưa thể chủ quan, thoả mãn, bởi xuất khẩu đang đối mặt với những thách thức và nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu .
Trên cơ sở đó chúng ta cần phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu mà xuất nhập khẩu của Việt Nam gặp phải qua các năm qua bằng cách đề ra phương hướng, biện pháp, chính sách của nhà nước cho những năm tiếp theo cũng như đối với doanh nghiệp.
Vậy bài nghiên cứu đã khép lại với những nội dung tóm lược ở trên và em hi vọng rằng nó sẽ hữu ích, hiệu quả đối với bạn đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 .Thương mại : số 1/2001- trang 3 – tác giả Nghĩa Nam
số 3+4/2002 – trang 7 – tác giả Hà Thanh
số 7 / 2003 – trang 2 đến trang 12
2 . Thời báo kimh tế Sài Gòn: 30/10/2003-trang 5-Phạm Đăng Thịnh
3 . Ngoại thương: 21-31/1/2002- trang 9, 10
21-31/12003 – trang 3
4 . Thời báo kinh tế Việt Nam: số 166 - thứ 6 – 17/10/2003- trang 6-tác giả
Dương Ngọc
5 . Kinh tế phát triển: số 53/2001 – trang 21, 22 – TS Đỗ Đức Bình
số 124 /2001- trang 19 – PGS-TS Hoàng Thị
Chỉnh
6 . Thông tin tài chính: số 9/ 2001- trang 8 - Nguyễn mai Phương
7 . Tạp chí cộng sản: số 13/2000 – trang 13- Nguyễn thị thanh Hoài
8 . Chứng khoán Việt Nam: số 5/2001 – trang 23 - Nguyễn anh Tuấn
9 . Con số và sự kiện: số 1+2/2002 - Nguyễn thị Liên
10 . Đầu tư: số 64/2003 – trang 11 – Vĩnh Sơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34178.doc