Recognising the limitations encountered during the operation of the national
database of resources, environment of seas and islands, the article proposed to adjust the data
structure of this database aiming at easily updating, managing and distributing the existing data as
well as new data, improving the quality and reliability of the data but not disturbing the status quo.
This adjustment has not only been established in accordance with other maritime countries and
international institutions of marine data, but also taken into account the characteristics of the data
and the current management model of Vietnam. This proposal aimed at completing national
database of resources, environment of seas and islands, making it more dynamic, easily updated
and manageable with important, diversified and abundant data sources, in natural resources,
marine and island environment of Vietnam, being worthy of a national database. The proposal is
the result of the Cooperation Protocol with the United States “Researches on building database,
standards, and documentation in the sea of Vietnam” of Vietnam Ocean Data and Information
Center (VODIC).
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất điều chỉnh cấu trúc dữ liệu của cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
392
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 4; 2015: 392-398
DOI: 10.15625/1859-3097/15/4/6458
ĐỀ XUẤT ĐIỀU CHỈNH CẤU TRÚC DỮ LIỆU CỦA CƠ SỞ DỮ LIỆU
TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ HẢI ĐẢO QUỐC GIA
Võ Xuân Hùng*, Nguyễn Văn Hạnh
1Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo-Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
*E-mail: vohung@vodic.vn
Ngày nhận bài: 22-6-2015
TÓM TẮT: Nhìn nhận những hạn chế đang gặp phải trong quá trình vận hành khai thác cơ sở
dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia, bài viết đề xuất điều chỉnh cấu trúc dữ liệu
cho cơ sở dữ liệu này với mục tiêu dễ dàng cập nhật, quản lý và phân phối các dữ liệu đã có và
nhiều dữ liệu mới, nâng cao chất lượng, độ tin cậy của số liệu nhưng không làm xáo trộn hiện
trạng. Điều chỉnh này cũng phù hợp với cách làm hiện tại của nhiều quốc gia biển và các tổ chức
dữ liệu biển quốc tế, và có tính đến sự đặc thù về dữ liệu và mô hình quản lý hiện tại của Việt Nam.
Đề xuất này nhằm hoàn thiện cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia có tính
năng động hơn, dễ dàng cập nhật quản lý được nhiều nguồn số liệu quan trọng, đa dạng và phong
phú về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo Việt Nam, xứng tầm của một cơ sở dữ liệu quốc gia.
Đề xuất là kết quả nghiên cứu của nhiệm vụ hợp tác theo nghị định thư với Hoa Kỳ, “Nghiên cứu
xây dựng cơ sở dữ liệu, chuẩn dữ liệu và tài liệu các vùng biển Việt Nam” của Trung tâm Thông tin,
dữ liệu biển và hải đảo.
Từ khóa: Cơ sở dữ liệu biển, Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường
biển và hải đảo Quốc gia bắt đầu được triển
khai xây dựng năm 2008 [1] trong đề án 47, đề
án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài
nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm
nhìn đến năm 2020. Kết thúc giai đoạn 2009 -
2012, cơ sở dữ liệu đã thực hiện việc hệ thống
lại những dữ liệu về biển từ trước đến thời
điểm triển khai dự án, thuộc nhiều đơn vị, Bộ
ngành trong nước có hoạt động liên quan đến
biển. Sau khi hệ thống lại, đã tổ chức dữ liệu
thành 17 nhóm dữ liệu với mô hình dữ liệu bán
tập trung tại cơ sở dữ liệu trung tâm và tại các
đơn vị tham gia dự án (Bộ Ngoại giao, Bộ
Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí ) như sau:
Địa hình đáy biển.
Ranh giới biển.
Khí tượng thủy văn biển.
Địa chất khoáng sản biển.
Dầu khí.
Môi trường biển.
Tài nguyên đất ven biển và hải đảo Việt
Nam.
Tài nguyên nước vùng ven biển và đảo
Việt Nam.
Ảnh vệ tinh phục vụ quan trắc và giám sát
tài nguyên môi trường biển.
Các điều kiện tự nhiên, tài nguyên vị thế,
kỳ quan sinh thái biển.
Đề xuất điều chỉnh cấu trúc dữ liệu
393
Đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy, hải
sản vùng biển Việt Nam.
Số liệu phục vụ các nhiệm vụ kinh tế kỹ
thuật và quốc phòng an ninh trên biển và thềm
lục địa Việt Nam.
Hệ thống các cửa sông và hệ thống đê biển.
Thiên tai biển.
Giao thông vận tải biển.
Kinh tế xã hội các tỉnh ven biển.
Các đề tài nghiên cứu biển.
Cơ sở dữ liệu này trong quá trình xây dựng
đã có kế thừa và phát triển những đề tài, dự án
xây dựng cơ sở dữ liệu biển trước đó, tiêu biểu
là đề tài KC.09-01 “Xây dựng cơ sở dữ liệu
biển quốc gia” [2]; Trung tâm Thông tin, dữ
liệu biển và hải đảo - Tổng cục Biển và Hải đảo
Việt Nam là đơn vị chủ trì xây dựng, quản lý
cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên - môi
trường biển, hải đảo này. Tuy vậy, sau khi hoàn
thành và đưa vào sử dụng cơ sở dữ liệu này, có
nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết và
những vấn đề lớn nhất là:
Trên 95% tài liệu phục vụ xây dựng cơ sở
dữ liệu đã được biên tập theo một mục tiêu nào
đó bởi đơn vị làm ra số liệu, cơ sở dữ liệu
không có tài liệu, số liệu gốc ban đầu. Các tài
liệu sau khi đưa về tiếp tục được biên tập lại
cho theo cấu trúc cơ sở dữ liệu của dự án, việc
này đã dẫn đến giá trị của dữ liệu bị giảm đi rất
nhiều, giảm sự tin cậy của số liệu, cơ sở dữ liệu
không phục vụ được nhiều các đối tượng sử
dụng, đặc biệt với đối tượng là các nhà khoa
học với mục đích nghiên cứu biển và hải đảo.
Việc phân chia 17 nhóm dữ liệu chưa hợp
lý dẫn đến việc chồng chéo lưu trữ nhưng cũng
không phân loại được hết các dữ liệu biển, việc
này dẫn đến những vướng mắc trong việc tiếp
tục cập nhật các dữ liệu mới về biển, đặc biệt là
các nhóm dữ liệu mới hoàn toàn như dữ liệu của
hệ thống rada biển, dữ liệu của hệ thống giám
sát biển bằng các thiết bị mới, tự động ... Ở đây
nảy sinh vấn đề sẽ cần thêm phân loại nhóm dữ
liệu hay sẽ tổ chức lại với cấu trúc mới.
Mô hình dữ liệu bán tập trung tại Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam và các đơn vị
tham gia không phù hợp, kết thúc dự án đã
không còn sự cập nhật dữ liệu nào đối với các
nhóm dữ liệu từ các đơn vị tham gia dự án.
Chưa có phương án cho việc tích hợp với
các cơ sở dữ liệu về biển của các đơn vị, Bộ
ngành đã và đang được xây dựng sau dự án
này; việc tiếp nhận các nguồn dữ liệu trực
tuyến; việc kết hợp cơ sở dữ liệu với các mô
hình biển, công cụ hỗ trợ ra quyết định.
Các cơ sở dữ liệu biển trong nước trước và
sau dự án này được một số đơn vị xây dựng
theo để tài, dự án của đơn vị mình hoặc xây
dựng cho địa phương ven biển hầu như vẫn
theo mô hình trên nền GIS (Geograpgic
Information System - Hệ thống thông tin địa lý)
và tra cứu thông tin thuộc tính đối tượng, hầu
như không có cơ sở dữ liệu nào thực hiện việc
chia sẻ trực tiếp định dạng số liệu gốc; Tuy
vậy, trong phạm vi của những đề tài, dự án này,
đây là lựa chọn phù hợp.
Xuất phát từ thực tế trên, cùng với quá trình
xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia,
Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo đã
có nhiều hợp tác với các đơn vị quản lý dữ liệu
biển trong nước và quốc tế để tìm ra một cấu
trúc cơ sở dữ liệu phù hợp hơn, với mục tiêu
hoàn chỉnh cơ sở dữ liệu biển và hải đảo quốc
gia đảm bảo tính đầy đủ, tin cậy, phục vụ nhiều
đối tượng và tham gia vào hệ thống các tổ chức
hải dương quốc tế.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO THIẾT KẾ
CẤU TRÚC CƠ SỞ DỮ LIỆU
Trên thế giới
Trong những năm qua, Trung tâm Thông
tin, dữ liệu biển và hải đảo đã và đang có trao
đổi hợp tác quốc tế về dữ liệu biển với nhiều
đơn vị, tiêu biểu như:
Trung tâm dữ liệu biển Nhật Bản JODC
[8], Malaysia [9], Pháp [10].
Viện hải dương Scrips (Scripps Institute
of Oceanography - SIO, University of
California, San Diego) [3-6].
Trung tâm dữ liệu biển quốc gia Mỹ
NODC [7].
Một số đơn vị, tổ chức nghiên cứu biển
của Pháp, các tổ chức dữ liệu biển quốc tế
[11, 12].
Võ Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hạnh
394
Trong quá trình trao đổi, hợp tác, chúng tôi
nhận thấy những khác biệt quan trọng trong tổ
chức lưu trữ, quản lý dữ liệu biển của các nước
và tổ chức kể trên so với chúng ta là:
Hầu như toàn bộ các dữ liệu biển được tổ
chức lưu trữ và phân phối trong cơ sở dữ liệu
đều là các dữ liệu gốc ban đầu và các dữ liệu
này được phân phối bản gốc theo phân quyền
đến người dùng cuối.
Các dữ liệu được tổ chức với nhiều khóa
tìm kiếm dữ liệu, các khóa phổ biến được dùng
là: Năm phát sinh dữ liệu, thuộc vùng nào
(thông tin GIS của dữ liệu), thuộc tàu nghiên
cứu biển nào, thuộc tổ chức nào, thuộc tác giả
nào và thuộc kiểu dữ liệu nào (data type).
Nhiều dịch vụ dữ liệu riêng, phục vụ các
nhiệm vụ hay nhóm đối tượng, mục đích sử
dụng dữ liệu biển cụ thể.
Với cách tổ chức này có nhiều ưu điểm:
Đảm bảo sự tin cậy của số liệu cho người
dùng cuối, đặc biệt có ý nghĩa sử dụng cho các
nghiên cứu khoa học.
Đối tượng sử dụng rộng, từ các nhà khoa
học quan tâm đến các số liệu quan trắc, khảo
sát, các nhà quản lý, các bộ ngành, các địa
phương ven biển, đến người dân. Việc trao đổi
dữ liệu là 2 chiều và rất thuận tiện.
Không gặp khó khăn khi có các nguồn,
loại số liệu mới.
Dễ dàng trong tìm kiếm, không bị chồng
chéo dẫn đến mất mát hay dư thừa số liệu.
Dễ dàng tích hợp, chia sẻ với các cơ sở dữ
liệu biển khác cùng được tổ chức theo cấu trúc
này, đặc biệt là việc trao đổi dữ liệu quốc tế.
Có thể linh hoạt sử dụng mô hình hệ thống
theo hướng phân tán hay tập trung hoặc kết hợp
cả hai.
Dễ dàng cho việc xây dựng các quy chuẩn
dữ liệu biển và giảm thiểu công biên tập, chuẩn
hóa dữ liệu.
Áp dụng trong điều kiện Việt Nam
Với cơ sở dữ liệu đã xây dựng trong giai
đoạn 2009 - 2012, các nguồn dữ liệu gồm:
Dữ liệu điều tra cơ bản: Chủ yếu là các dữ
liệu từ trước năm 2008, từ các Bộ, ngành, cơ
quan, tổ chức có các hoạt động liên quan đến
biển, có 23 đơn vị đầu mối [1], trong các dữ
liệu này có rất ít các dữ liệu gốc.
Dữ liệu quan trắc: khí tượng thủy văn,
môi trường biển, địa hình đáy biển, địa chất
khoáng sản biển, ảnh vệ tinh: cũng là các dữ
liệu từ 2008 về trước, đã được biên tập, tích
hợp trong các cơ sở dữ liệu khác nhau; có rất ít
dữ liệu gốc ban đầu.
Dữ liệu khác: Ranh giới trên biển; An
ninh quốc phòng trên biển; Kinh tế xã hội ven
biển; Giao thông vận tải biển; Khoa học công
nghệ biển; Dữ liệu biển quốc tế. Đây là các dữ
liệu đã được biên tập và trong các cơ sở dữ liệu
khác nhau, không có dữ liệu gốc.
Trong thực tế hiện nay, các nguồn dữ liệu
đang có gồm:
Dữ liệu điều tra cơ bản: Tiếp tục cập nhật
các dữ liệu mới thực hiện từ 2009 - nay, bao
gồm cả số liệu gốc và số liệu được tích hợp, từ
các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức.
Dữ liệu quan trắc: Các dữ liệu gốc, dữ liệu
thời gian thực, gần thực từ các nguồn: radar
biển, phao biển, vệ tinh, các dữ liệu từ các
chuyến khảo sát của các tàu nghiên cứu biển từ
nhiều đơn vị, Bộ, ngành và các dữ liệu thứ cấp.
Dữ liệu cho các dịch vụ dữ liệu: Dữ liệu
được tích hợp, chuẩn hóa theo yêu cầu của dịch
vụ, bao gồm 17 nhóm dữ liệu hiện tại và sẽ
được mở rộng theo nhiều nhiệm vụ cụ thể mới
như các mô hình dự báo, các hệ thống hỗ trợ ra
quyết định.
Dữ liệu khác: bao gồm cả dữ liệu gốc và
dữ liệu được chuẩn hóa biên tập từ các địa
phương, bộ ngành, dữ liệu thông qua trao đổi
dữ liệu biển quốc tế, dữ liệu từ người dân, dữ
liệu từ cộng đồng nghiên cứu biển, các kết quả
thực hiện đề tài, dự án nghiên cứu biển
Với mức độ phát triển ngày càng tăng về
khối lượng và đa dạng về kiểu của dữ liệu, trên
cơ sở: (1) Cần kế thừa được toàn bộ những gì
đã được thực hiện trong cơ sở dữ liệu hiện tại,
điều chỉnh và làm mới những điểm cần thiết;
(2) Phân tích, tổng hợp các số liệu đã có trong
Đề xuất điều chỉnh cấu trúc dữ liệu
395
các cơ sở dữ liệu và dữ liệu tiếp tục được cập
nhật về Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và
hải đảo cũng như dự báo các nguồn số liệu mới
như trên; (3) Yêu cầu cơ sở dữ liệu quốc gia
phải được xây dựng với kiến trúc tổng thể khoa
học và hiện đại, kế thừa các kinh nghiệm của
quốc tế cũng như thể hiện được tính đặc thù
của Việt Nam, đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc
gia về tài nguyên môi trường; (4) Với sự giúp
đỡ của các chuyên gia tham gia đề tài;
Nhóm đề tài đề xuất phân nhóm các tài liệu
đầu vào của dữ liệu tài nguyên và môi trường
biển và hải đảo thành 3 nhóm để xây dựng cấu
trúc dữ liệu phù hợp cho việc quản lý số liệu:
Các tài liệu, số liệu gốc có được trong các
chuyến đo đạc, khảo sát thực địa: nhóm này sẽ
được tổ chức theo cấu trúc dữ liệu mới giống
như các nước khác đang làm, các dữ liệu hiện
có nếu đã ở dạng này sẽ được chuyển sang đây,
các dữ liệu gốc được cập nhật sau này cũng
được quản lý ở đây.
Các loại bản đồ tổng hợp, các bản đồ
chuyên đề, các báo cáo, tính toán là sản
phẩm của các nhiệm vụ trực tiếp liên quan tới
các số liệu gốc: Về cơ bản đây chính là cơ sở
dữ liệu đã triển khai, nhóm này sẽ sử dụng cấu
trúc dữ liệu hiện tại, có thể xây dựng thêm các
cơ sở dữ liệu chuyên đề, phục vụ các nhiệm vụ
và đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, đối với các số
liệu mới về sau, sẽ xây dựng cấu trúc dữ liệu
mới để quản lý theo hướng như các nước khác
đang làm.
Các loại dữ liệu khác là sản phẩm của các
hoạt động liên quan đến biển nhưng không trực
tiếp liên quan đến số liệu gốc hoặc không còn số
liệu gốc: Dữ liệu này hầu như chưa được đưa
vào quản lý, sẽ xây dựng cấu trúc dữ liệu quản
lý mới theo hướng như các nước đang làm.
Ở đây là phương án đề xuất cho lưu trữ số
liệu đầu vào hay nguồn số liệu, không đề cập ở
đây các cơ sở dữ liệu chuyên đề được xây dựng
trong cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển
và hải đảo quốc gia.
Một số các mục tiêu cần đạt trong thiết kế
mới:
Ưu tiên cho quản lý lưu trữ và phân phối
trực tiếp tệp gốc số liệu: Các số liệu gốc chưa
số hóa sẽ được số với yêu cầu đảm bảo sự tin
cậy của số liệu.
Dữ liệu có thể được phân phối theo gói với
tất cả các tệp có liên quan hoặc phân phối theo
từng tệp con tùy theo lựa chọn của người dùng.
Đối với mỗi tệp dữ liệu rời hoặc gói dữ
liệu sẽ kèm theo một tệp (.txt, .pdf hoặc .doc)
mô tả chi tiết về gói dữ liệu, dạng metadata (dữ
liệu mô tả dữ liệu), nhưng chi tiết và nhiều
thông tin hơn, có thể bao gồm cả hướng dẫn sử
dụng dữ liệu và đánh giá chất lượng dữ liệu, tệp
này sẽ được cung cấp bởi người cấp số liệu
hoặc người đưa dữ liệu lên cơ sở dữ liệu.
Tất cả các gói dữ liệu đều được cập nhật
vùng bao địa lý của dữ liệu, các thông tin
metadata theo chuẩn quốc tế, đảm bảo cho việc
tìm kiếm nhanh chóng và trực quan các dữ liệu
này, cập nhật các phương án phân loại, tìm
kiếm dữ liệu như các nước, tổ chức quốc tế
đang thực hiện.
Tiếp tục duy trì và mở rộng, nâng cao
chất lượng các dịch vụ dữ liệu với các cơ sở
dữ liệu chuyên đề được chiết xuất từ các
nguồn dữ liệu vào.
Đề xuất cấu trúc dữ liệu
Ở đây xin trình bày các bảng thiết kế
chính cho việc quản lý ba nhóm dữ liệu đầu
vào nêu trên.
Các tài liệu, số liệu gốc có được trong các
chuyến đo đạc, khảo sát thực địa (bảng 1).
Các loại bản đồ tổng hợp, các bản đồ
chuyên đề, các báo cáo, tính toán là sản
phẩm của các nhiệm vụ trực tiếp liên quan tới
các số liệu gốc (bảng 2).
Các loại dữ liệu khác là sản phẩm của các
hoạt động liên quan đến biển nhưng không trực
tiếp liên quan đến số liệu gốc hoặc không còn
số liệu gốc (bảng 3).
Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải
đảo và nhóm thực hiện đề tài đã xây dựng và
bắt đầu cho chạy thử hệ thống tại địa chỉ
cho phép người dùng
tìm kiếm và tải về các tệp số liệu gốc mà Trung
tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo đang
quản lý, tuy nhiên việc tải dữ liệu sẽ cần được
đăng ký với Trung tâm để được cấp tài khoản.
Võ Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hạnh
396
Bảng 1. Các tài liệu, số liệu gốc có được trong các chuyến đo đạc, khảo sát thực địa
STT Trường quản lý Chú thích
1 Mã quản lý dữ liệu Bộ mã thống nhất, có thể thống nhất mã quản lý toàn quốc như NODC làm với mã Expocode [13]
2 ID bộ dữ liệu Quản lý trong từng cơ sở dữ liệu cụ thể
3 Tên dữ liệu Mô tả chi tiết tên bộ dữ liệu
4 Nhóm dữ liệu (ID) Liên kết với domain loại nhóm số liệu
5 Mã Nguồn dữ liệu (ID) Bộ mã thống nhất liên kết domain quản lý thông tin chi tiết nguồn cấp.
6 Tên nguồn Mô tả ngắn gọn nguồn dữ liệu
7 Quốc gia (ID) Quốc gia nơi quan trắc dữ liệu
8 Vùng biển (ID) Vùng biển nơi quan trắc dữ liệu
9 Ngày Ngày thực hiện số liệu
10 Thông tin GIS Thông tin địa lý của dữ liệu, liên kết đến các domain quản lý tìm kiếm địa lý.
11 Tên bộ dữ liệu theo chuẩn cung cấp 1 Liên kết tới bộ dữ liệu được nén theo định dạng cung cấp 1 là các định dạng gốc
12 Tên bộ dữ liệu theo chuẩn cung cấp 2
Liên kết tới bộ dữ liệu được nén theo định dạng cung cấp 2, có
thể là định dạng gốc đã chuyển sang các định dạng (type) phổ
biến hơn
13 Tên file dữ liệu (File name) Liên kết tới danh sách từng file dữ liệu riêng, thể hiện cả phần mở rộng, người dùng được phép chọn từng file muốn tải về
14 Định dạng file (File type) Mô tả kiểu định dạng từng file, liên kết tới domain quản lý định dạng.
15 Tài liệu đi kèm dạng text Liên kết bộ tài liệu hướng dẫn dữ liệu, đánh giá chất lượng dữu liệu và các tài liệu khác nếu có, người dùng được phép tải về.
16 Ngày nhập Ngày dữ liệu được nhập vào cơ sở dữ liệu, thông tin của đơn vị quản lý dữ liệu.
17 Mã người nhập (ID) Định danh liên kết quản lý người nhập, thông tin của đơn vị quản lý dữ liệu.
Bảng 2. Các loại bản đồ tổng hợp, các bản đồ chuyên đề, các báo cáo, tính toán
STT Trường quản lý Chú thích
1 Mã quản lý dữ liệu Bộ mã thống nhất
2 ID dữ liệu Quản lý trong lập trình
3 Mã Nguồn dữ liệu (ID) Bộ mã thống nhất liên kết quản lý thông tin chi tiết nguồn cấp.
4 Tên dữ liệu Mô tả chi tiết tên bộ dữ liệu
5 Tên nguồn Mô tả ngắn gọn nguồn dữ liệu
6 Ngày Ngày thực hiện số liệu
7 Vùng bao địa lý (Geographic boundaries) Thông tin vùng bao địa lý của dữ liệu, quản lý 4 tọa độ min X, max X, min Y, max Y
8 Tên file dữ liệu (File name) Liên kết tới từng file dữ liệu riêng, thể hiện cả phần mở rộng
9 Định dạng file (File type) Mô tả kiểu định dạng từng file
10 Tài liệu đi kèm dạng text Liên kết tài liệu hướng dẫn dữ liệu
11 Ngày nhập Ngày dữ liệu được nhập vào cơ sở dữ liệu
12 Mã người nhập (ID) Định danh liên kết quản lý người nhập
Đề xuất điều chỉnh cấu trúc dữ liệu
397
Bảng 3. Các loại dữ liệu khác là sản phẩm của các hoạt động liên quan đến biển
nhưng không trực tiếp liên quan đến số liệu gốc hoặc không còn số liệu gốc
STT Trường quản lý Chú thích
1 Mã quản lý dữ liệu Bộ mã thống nhất
2 ID dữ liệu Quản lý trong lập trình
3 Tên dữ liệu Mô tả chi tiết tên bộ dữ liệu
4 Tác giả (ID) Tên tác giả, quản lý thông tin về tác giả
5 Ngày Ngày thực hiện số liệu
6 Vùng bao địa lý (Geographic boundaries) Thông tin vùng bao địa lý của dữ liệu, quản lý 4 tọa độ min X, max X, min Y, max Y
7 Tên file dữ liệu (File name) Liên kết tới từng file dữ liệu riêng, thể hiện cả phần mở rộng
8 Định dạng file (File type) Mô tả kiểu định dạng từng file
9 Tài liệu đi kèm dạng text Liên kết tài liệu hướng dẫn dữ liệu
10 Ngày nhập Ngày dữ liệu được nhập vào cơ sở dữ liệu
11 Mã người nhập (ID) Định danh liên kết quản lý người nhập
KẾT LUẬN
Việc cơ sở dữ liệu biển quốc gia đã, đang
được xây dựng và tiếp tục hoàn thiện, việc cần
có những sự điều chỉnh cho phù hợp với xu thế
phát triển chung là việc cần phải làm, trước tiên
là đáp ứng yêu cầu cập nhật rất nhiều các dữ
liệu mới và rất đa dạng đang được xây dựng để
đưa ra phục vụ rộng rãi người dùng và trao đổi
dữ liệu biển quốc tế.
Với đề xuất này, các thiết kế cấu trúc dữ
liệu đã làm vẫn tiếp tục vận hành là một phần
của cơ sở dữ liệu quốc gia và sẽ tiếp tục được
phát triển sâu hơn. Những cấu trúc mới sẽ bổ
sung để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu mở rộng lưu
trữ, quản lý, và cung cấp dữ liệu.
Trên đây mới là những kết quả bước đầu
nghiên cứu kiến nghị cấu trúc dữ liệu theo
hướng mới, đảm bảo cho cơ sở dữ liệu tài
nguyên và môi trường biển và hải đảo Quốc gia
có tính năng động, khả năng mở rộng lớn, quản
lý được nhiều nguồn số liệu quan trọng, đa
dạng và phong phú về tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo Việt Nam.
Trong những nghiên cứu tiếp theo cần có
những triển khai đi sâu, để tiếp tục hoàn thiện
cấu trúc, các chuẩn dữ liệu, cách thức phân loại
dữ liệu, lựa chọn kiểu dữ liệu lưu trữ và cung
cấp trong cơ sở dữ liệu, chuẩn hóa cấu trúc các
tài liệu đi kèm gói dữ liệu, tài liệu, chuẩn hóa
phương pháp đánh giá chất lượng dữ liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, 2008. Thuyết minh dự án xây
dựng, hệ thống hóa cơ sở dữ liệu biển quốc
gia về các kết quả điều tra cơ bản điều kiện
tự nhiên, tài nguyên và môi trường các
vùng biển Việt Nam.
2. Chương trình điều tra cơ bản và nghiên
cứu ứng dụng công nghệ biển KC-09, 2004.
Xây dựng cơ sở dữ liệu biển quốc gia. Báo
cáo tổng kết đề tài KC.09.01.
3. The SIOExplorer, Scripps Institution of
Oceanography,
4. World Ocean Circulation Experiment
(WOCE), National Oceanographic Data
Center (NODC),
5. Clivar & Carbon Hydrographic Data
Office,
6. Geological Data Center,
7. National Oceanographic Data Center
(NODC), https://www.nodc.noaa.gov/
8. Japan Oceanographic Data Center (JODC)
(
9. MyNODC (Malaysia Oceanorgraphy Data
Centre),
10. ISMER-IFREMER (French
Oceanoghraphic Data Center),
11. International Oceanographic Data and
Information Exchange Program,
Võ Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hạnh
398
12. SeaDataNet, 13. Expocode, https://en.wikipedia.org/wiki-
/Expocode/
PROPOSAL TO ADJUST THE DATA STRUCTURE OF
NATIONAL DATABASE OF RESOURCES, ENVIRONMENT
OF SEAS AND ISLANDS
Vo Xuan Hung*, Nguyen Van Hanh
Vietnam Ocean Data and Information Center-Vietnam Administration of Seas and Islands
ABSTRACT: Recognising the limitations encountered during the operation of the national
database of resources, environment of seas and islands, the article proposed to adjust the data
structure of this database aiming at easily updating, managing and distributing the existing data as
well as new data, improving the quality and reliability of the data but not disturbing the status quo.
This adjustment has not only been established in accordance with other maritime countries and
international institutions of marine data, but also taken into account the characteristics of the data
and the current management model of Vietnam. This proposal aimed at completing national
database of resources, environment of seas and islands, making it more dynamic, easily updated
and manageable with important, diversified and abundant data sources, in natural resources,
marine and island environment of Vietnam, being worthy of a national database. The proposal is
the result of the Cooperation Protocol with the United States “Researches on building database,
standards, and documentation in the sea of Vietnam” of Vietnam Ocean Data and Information
Center (VODIC).
Key words: Database of seas and islands, Vietnam Ocean Data and Information Center.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6458_27368_1_pb_6301_2079675.pdf