- Cần xác định được doanh nghiệp lãnh
đạo có tầm ảnh hưởng và có khả năng thúc
đẩy phát triển trong cluster. Định hướng phát
triển cluster cảng biển Hải Phòng nên đặt
trọng tâm vào cảng hoặc vận tải biển, những
lĩnh vực mà Hải Phòng đang có thể mạnh,
hướng tới phát triển cảng xanh, cảng thông
minh, nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp, các
ngành trong cluster cùng phát triển và cạnh
tranh với các cảng trong khu vực và châu Á;
- Tăng cường kết nối về cơ sở hạ tầng và
tương tác về các khía cạnh khác giữa các đơn
vị trong cluster với nhau và với các đơn vị
bên ngoài cluster;
- Cần tăng cường hoạt động nghiên cứu,
sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên biển
cũng như các nguồn tài nguyên của cluster
cảng Hải Phòng, giảm tác động đến môi
trường và giảm lượng khí thải cũng như rác
thải về mức không. Để làm được điều này,
cần quy hoạch các thành viên tham gia vào
cluster và thiết kế chuỗi cung ứng riêng cho
cluster cảng Hải Phòng để quay vòng luồng
lưu chuyển nguồn lực giữa các thành phần
trong chuỗi;
- Lãnh đạo thành phố Hải Phòng, quản lý
cluster cảng Hải Phòng cần xây dựng quy chế
hoạt động cụ thể, rõ ràng, có tính khuyến
khích nhưng cũng mang tính răn đe cao đối
với các thành viên của cluster trong việc đầu
tư, sử dụng nguồn năng lượng sạch, tài chế
nhiên liệu, tuân thủ các quy định liên quan
đến môi trường;
- Tổ chức các hoạt động đào tạo, phổ
biến kiến thức về nền kinh tế xanh tới mọi
nhân sự cấp cao, cấp quản lý trong cluster để
mọi thành viên đều hiểu rõ và xác định đường
lối phát triển hoạt động kinh doanh, phát triển
cluster cảng biển theo đúng định hướng
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất phát triển cluster cảng Hải Phòng theo mô hình nền kinh tế xanh lam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019
91
ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN CLUSTER CẢNG HẢI PHÒNG THEO
MÔ HÌNH NỀN KINH TẾ XANH LAM
SUGGESTIONS TO DEVELOP HAIPHONG PORT - CENTRIC CLUSTER
TOWARD BLUE ECONOMY
Bùi Thị Thùy Linh
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
Tóm tắt: Trong lĩnh vực hàng hải, cluster cảng biển hay cluster hàng hải đã hình thành, phát triển
và mang lại nhiều ưu điểm vượt trội, đặc biệt là về khả năng cạnh tranh của cluster so với các chủ thể
riêng rẽ. Những cái tên cluster cảng biển có thể kể tới như Singapore, Thượng Hải, Hồng Kông,
Rotterdam, London là những cảng đã tận dụng được lợi thế mà cluster mang lại và trở thành các
cảng hàng đầu trên thế giới. Bên cạnh đó, một xu hướng phát triển bền vững ứng dụng nền kinh tế tuần
hoàn với tên gọi nền kinh tế xanh lam (Blue Economy) rất được chú ý ở nhiều quốc gia phát triển trên
thế giới như Úc, Liên minh châu Âu, Mỹ hướng tới tăng trưởng kinh tế với tác động môi trường bằng
không. Bài báo này hướng tới việc nghiên cứu những yếu tố cần thiết cho cảng Hải Phòng áp dụng mô
hình nền kinh tế xanh lam để phát triển cluster cảng biển, hướng tới phát triển bền vững.
Từ khóa: Clustering; cluster cảng biển; nền kinh tế xanh lam; cảng Hải Phòng.
Chỉ số phân loại: 3.2
Abstract: In the maritime field, seaport clusters or maritime clusters have formed, developed and
brought many outstanding advantages, especially in terms of cluster competitiveness compared to
individual entities. Such port-centric clusters as Singapore, Shanghai, Hongkong, Rotterdam, London
have utilized the advantages which clustering provides and become attractively advanced seaports
worldwide. In addition, a trend of sustainable development applies a recurring economy with the name
Blue Economy (Blue Economy), which is highly regarded in many developed countries in the world such
as Australia and the European Union, America ... towards economic growth with zero environmental
impact. This paper aims to study the necessary factors for Hai Phong port to apply a green economy
model to develop seaport clusters, towards sustainable development.
Keywords: Clustering; port-centric cluster; blue economy; port of Hai Phong.
Classification number: 3.2
1. Giới thiệu
Cảng biển có vai trò quan trọng tới phát
triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia. Có rất
nhiều cluster cảng biển đã hình thành và phát
triển, tạo dựng được chỗ đứng trong khu vực
và trên thế giới như Thượng Hải, Singapore,
Busan Nền kinh tế xanh lam hiện là quan
điểm phát triển bền vững tân tiến nhất và đã
được minh chứng bởi nhiều thành tựu khác
nhau trong nhiều lĩnh vực. Trong kinh tế biển,
nền kinh tế xanh lam có mang lại nhiều ứng
dụng thực tiễn giúp giảm tác động môi trường
đồng thời khai thác hiệu quả các tài nguyên
từ biển. Bởi vậy, nghiên cứu này nhằm tìm
hiểu khả năng áp dụng lối tư duy mới này
trong phát triển cluster cảng biển.
Nền kinh tế xanh được hiểu là nền kinh
tế không chỉ mang lại hạnh phúc và công
bằng xã hội cho con người mà còn giảm đáng
kể rủi ro môi trường và khủng hoảng sinh
thái. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh
là một nền kinh tế có lượng khí thải carbon
thấp và cung cấp sự tăng trưởng sâu. Nó tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên và thân thiện với
môi trường. Nó đổi mới công nghệ, đảm bảo
sự tăng trưởng bền vững và tạo ra việc làm và
công bằng xã hội, nhằm cải thiện cuộc sống
của con người.
92
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019
2. Quy hoạch phát triển hệ thống cảng
biển phía Bắc
Tháng 6 năm 2014, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định 1037/QĐ-TTg
v/v Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển
hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030, nêu rõ quan điểm
phát triển cảng biển trên cả nước và đặc biệt
ở khu vực phía Bắc như sau: “a) Tận dụng tối
đa lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
để phát triển toàn diện hệ thống cảng biển,
thực hiện mục tiêu của Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020; từng bước đưa kinh tế
hàng hải trở thành mũi nhọn hàng đầu trong
các lĩnh vực kinh tế biển gắn với bảo đảm
quốc phòng, an ninh; b) Phát triển hợp lý giữa
các cảng tổng hợp quốc gia, cảng tổng hợp
địa phương, cảng chuyên dùng đảm bảo tính
thống nhất trong toàn hệ thống; c) Phát triển
đồng bộ giữa cảng biển với mạng lưới kết cấu
hạ tầng sau cảng, giữa kết cấu hạ tầng cảng
biển với kết cấu hạ tầng công cộng kết nối với
cảng biển; d) Phát triển hướng mạnh ra biển
để tiếp cận nhanh chóng với biển xa, giảm
thiểu khó khăn trở ngại về luồng tàu vào
cảng; kết hợp tạo động lực phát triển các khu
kinh tế, công nghiệp - đô thị ven biển; đ) Kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển cảng biển với
quản lý bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát
triển bền vững; gắn liền với yêu cầu bảo đảm
quốc phòng, an ninh.” Đặc biệt, đối với nhóm
cảng biển phía Bắc (Nhóm 1) cần “phát triển
một cách đồng bộ, hiệu quả; tập trung nguồn
lực phát triển cảng cửa ngõ quốc tế Hải
Phòng; phát triển và khai thác các cảng biển,
bến cảng gắn với khu kinh tế, khu công
nghiệp một cách bền vững, có chiều sâu và
hiệu quả; giảm ùn tắc hàng hóa; làm nền tảng
để tạo đà phát triển các đô thị cảng biển, các
khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, góp
phần thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế
toàn khu vực.”
Như vậy, có thể thấy rằng quy hoạch cảng
biển đang được chú trọng trên tổng thể và quy
mô, hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế biển
nhưng cũng không quên hướng tới những giá
trị bền vững, đặc biệt là tác động tới môi
trường.
3. Thực trạng phát triển cluster cảng
Hải Phòng theo nền kinh tế xanh lam
Hải Phòng là thành phố biển nơi tập
trung số lượng lớn cảng biển của cả nước,
phục vụ sản lượng hàng hóa có tốc độ tăng
trưởng nhanh trong những năm gần đây, đặc
biệt là hàng container. Cảng Hải Phòng là
một trong ba cảng thuộc nhóm IA theo phân
loại cảng biển của Cảng vụ Việt Nam và là
cảng lớn nhất ở miền Bắc, lớn thứ hai trong
cả nước đứng sau cảng Hồ Chí Minh. Với các
cảng container nằm sát nhau dọc trên bờ sông
Cấm cho tới khu vực Đình Vũ, Lạch Huyện,
sự cạnh tranh giữa các cảng là vô cùng gay
gắt. Hiện tại, cảng Hải Phòng có 17 cảng lớn
nhỏ gồm cảng container, cảng hàng rời và
cảng tổng hợp. Năm 2018, cảng Hải Phòng
đã khánh thành hai bến tại Lạch Huyện, luồng
tàu vào cảng sâu đến âm -14m, cơ hội đón
những con tàu lớn rất rõ ràng. Khi đó, Cảng
Hải Phòng sẽ bớt những khu chuyển tải,
nhanh chóng giải phóng hàng hóa, góp phần
giảm thiểu cước hàng hóa cho chủ hàng.
Đồng thời, đẩy nhanh quá trình hiện đại,
chuyên nghiệp, vuơn xa hội nhập với khu vực
và trên thế giới.
Cảng Hải Phòng đang có những đặc
điểm rất thuận lợi để phát triển cluster cảng
biển như khả năng kết nối các phương thức
vận tải: Hệ thống vận tải thủy nội địa từ sông
Cấm dẫn vào sâu trong nội địa, kết nối cảng
Hải Phòng với Hải Dương và giữa các huyện
trong thành phố với nhau – An Dương, Thủy
Nguyên, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Hải An; hệ
thống đường sắt kết nối giữa cảng và hệ thống
đường sắt quốc gia; cơ sở hạ tầng đường bộ
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019
93
đang được chú trọng phát triển – hệ thống
đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hải
Phòng – Quảng Ninh, cầu Tân Vũ – Lạch
Huyện; cảng hàng không quốc tế Cát Bi đã
có thêm nhiều đường bay thẳng ra quốc tế
Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển
cluster cảng biển còn chưa được chú trọng vì
chưa có đường lối chỉ đạo từ Chính phủ và
thành phố, chưa xác định phương hướng phát
triển cluster cho Hải Phòng khi các nước
xung quanh đang rất chú trọng về phát triển
và cạnh tranh theo mô hình cluster với nhiều
thành công vang dội.
Hình 1. Sơ đồ cảng Hải Phòng.
Nguồn.
Toàn cảng hiện có 19 cầu tàu với tổng
chiều dài là 3.567m, bảo đảm an toàn với độ
sâu trước bến thiết kế từ -7,5 m đến -9,4m.
(Đơn vị: nghìn tấn)
Hình 2. Lượng hàng hóa qua cảng Hải Phòng
giai đoạn 2010-2017
Nguồn. Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của
Hiệp hội Cảng biển Việt Nam
Tổng lượng hàng hóa qua cảng Hải
Phòng tăng bình quân 15,5%/năm. Nhưng dù
nhanh, tốc độ đó vẫn chưa thuyết phục. Bởi,
là cảng của cả vùng, song tốc độ tăng trưởng
hàng hóa qua cảng Hải Phòng chỉ tương
đương tốc độ tăng trưởng công nghiệp của
riêng Hải Phòng. Dường như cảng quốc gia
chưa được quan tâm (ưu tiên) phát triển đúng
tầm vùng – quốc gia.
Thuế xuất nhập khẩu hàng hóa qua cảng
Hải Phòng là một đóng góp lớn cho ngân sách
thành phố Hải Phòng nói riêng và nền kinh tế
quốc dân Việt Nam nói chung, từ 6.145 tỷ
đồng Việt Nam lên 47.775 tỷ đồng Việt Nam
từ năm 2005 đến 2016.
Hình 3. Số lượt tàu cập cảng Hải Phòng
từ 2010 đến 2017
Nguồn. Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của
Hiệp hội Cảng biển Việt Nam
Với số lượng tàu đến cảng Hải Phòng
theo xu hướng giảm, trong năm 2017 chỉ có
4902 tàu (hình 3) nhưng trọng tải của tàu lại
tăng lên. Do vậy, thành phố có thể thu ngày
càng nhiều phí hoặc lệ phí pháp lý đối với tàu
như phí hàng hải, phí hoa tiêu và các khoản
phí khác (hình 4).
(Đơn vị: tỷ đồng)
Hình 4. Các phí, lệ phí hàng hải đối với tàu
Nguồn. Cảng vụ Hải Phòng
Hải Phòng đã xây dựng Kế hoạch hành
động chiến lược tăng trưởng xanh của thành
94
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019
phố Hải Phòng (1463 / QĐ-PPC) (sau đây gọi
là HPGGSAP) vào tháng 7 năm 2014 dựa trên
các chiến lược và kế hoạch sau: Chiến lược
tăng trưởng xanh quốc gia (1393 / QĐ-TOT )
(sau đây gọi là GGS) được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt vào tháng 9 năm 2012, Kế
hoạch hành động tăng trưởng xanh (403 / QĐ-
TOT) (sau đây gọi là GGAP) được Thủ tướng
phê duyệt vào tháng 3 năm 2014 và Chiến
lược Thành phố cảng xanh (72-KL / TW) của
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản vì sự phát triển
và cải tiến của Hải Phòng trong thời kỳ công
nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia. Kế hoạch
hành động này, như được minh họa trong hình
5, đã được phát triển dựa trên các kế hoạch
tổng thể cho từng lĩnh vực và nội dung của các
kế hoạch lớn khác của Hải Phòng. Kế hoạch
thúc đẩy tăng trưởng xanh của thành phố Hải
Phòng được định vị hợp pháp trong mục 8 của
kế hoạch hành động này (1463/QĐ-Cảnh)
(Ban Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ giám sát
sau đây hợp tác với các sở và tổ chức địa
phương). Kế hoạch được xác định rõ ràng là
một phương pháp để đưa Chiến lược tăng
trưởng xanh có hiệu lực thông qua đề xuất kế
hoạch phát triển và mở rộng các chương trình
hợp tác và thực hiện các dự án cụ thể với Bộ
Môi trường Nhật Bản và thành phố
Kitakyushu, hợp tác với Sở Ngoại vụ và Sở
Kế hoạch và Đầu tư.
Hình 5. Định vị pháp lý của HPGGSAP và Kế hoạch
thúc đẩy tăng trưởng Xanh.
Nguồn. Kế hoạch Phát triển xanh của
thành phố Hải Phòng
4. Đánh giá tiềm năng phát triển
cluster cảng Hải Phòng theo mô hình nền
kinh tế xanh lam
4.1. Điểm mạnh
- Chính sách phát triển cluster cảng
Hải Phòng đã được phê duyệt và thực hiện
với mục tiêu dài hạn.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc vừa ký Quyết định số 821/QĐ-TTg,
ngày 06/7/2018 phê duyệt điều chỉnh, bổ
sung Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030. Trong đó, nhấn
mạnh mục tiêu xây dựng Hải Phòng thành
trung tâm kinh tế mạnh của vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ, xây dựng Hải Phòng
thành thành phố cảng xanh, văn minh, hiện
đại, thông minh, trung tâm kinh tế mạnh của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
- Cluster cảng Hải Phòng được chú
trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, đưa Hải Phòng
trở thành cảng đầu ngõ quốc tế đầu tiên ở
miền Bắc.
Cảng Hải Phòng cũng được chú trọng
đầu tư thêm cảng Lạch Huyên với vai trò là
cảng cửa ngõ quốc tế. Nối tiếp theo đó, Hải
Phòng sẽ có thêm nhiều dự án khác tiếp tục
phát triển bến và cầu cảng, thay đổi toàn bộ
quy hoạch và cảnh quan đô thị cũng như cảnh
quan công nghiệp của thành phố.
- Điều kiện tự nhiên và khí hậu ở vùng
biển Đông Bắc Bộ khá ổn định, ít mưa bão
cũng như tranh chấp.
So với các vùng miền khác trên quốc gia,
Hải Phòng có vị trí thuận lợi, tránh được
nhiều rủi ro hơn so với miền trung. Đây là
điều kiền thuận lợi để khai thác cũng như bảo
tồn tài nguyên biển.
4.2. Điểm yếu
- Tầm nhìn – định hướng phát triển Hải
Phòng chưa được nhận thức và xác định rõ
ràng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019
95
Mặc dù được xác định là nút hội nhập
quốc tế lớn nhất của quốc gia – vùng, nhưng
định hình các mục tiêu cụ thể chưa thật rõ,
chưa đúng tầm, chưa được thiết kế thành các
chiến lược – chương trình hành động cụ thể,
kịp thời. Đặc biệt, chức năng của Hải Phòng
trong phát triển mở cửa – hội nhập (chức
năng quốc tế, đẳng cấp cạnh tranh gắn với
chức năng quốc gia - vùng) chưa được hình
dung rõ.
- Chiến lược ưu tiên đầu tư và phát
triển thể chế cho Hải Phòng trên quan điểm
toàn cục chưa được thực hiện.
Cũng do chưa xác định được tầm nhìn và
định hướng phát triển nên Hải Phòng chưa có
cơ sở để xây dựng chiến lược đầu tư cũng như
xây dựng thể chế.
- Công tác liên kết với các cơ sở nghiên
cứu còn hạn chế.
Trên địa bàn thành phố có bốn trường
Đại học và 16 trường Cao đẳng dạy nghề.
Cluster cảng Hải Phòng cần tận dụng nguồn
chất xám từ các cơ sở giáo dục này để tiến
hành các nghiên cứu, tìm ra phương pháp
phát triển kinh tế xanh lam nhanh chóng, hiệu
quả, bền vững. Cụ thể, các chủ đề nghiên cứu
rất được quan tâm như nhiên liệu sạch, năng
lượng xanh, tái chế nguyên vật liệu, ứng dụng
công nghệ thông tin
- Chưa có mục tiêu và kế hoạch cụ thể
để phát triển cluster cảng Hải Phòng theo mô
hình nền kinh tế xanh lam.
Hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn quy
định cụ thể về phương hướng và cách thức
phát triển nền kinh tế xanh lam cho cluster
cảng biển. Do vậy, công tác quản lý, lên kế
hoạch và thực hiện kế hoạch cũng không thể
được thực hiện.
- Nhận thức và trách nhiệm của các
thành viên trong cluster cảng Hải Phòng về
phát triển nền kinh tế xanh còn yếu và chưa
được chú trọng.
Trên thực tế, không có buổi tọa đàm chia
sẻ thông tin, kiến thức về kinh tế xanh lam
trong phát triển cluster cảng biển được thực
hiện. Do vậy, nhận thức về chủ đề này còn rất
hạn chế.
4.3. Cơ hội
- Tăng trưởng xanh và nền kinh tế xanh
đang trở thành mối quan tâm toàn cầu, được
coi là động lực để phục hồi và thúc đẩy nền
kinh tế toàn cầu, là công cụ để phát triển bền
vững.
- Định hướng của Đảng và Nhà nước
Việt Nam rất nhạy bén, đúng đắn và theo kịp
xu hướng phát triển của thế giới.
Tại Việt Nam, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế gắn liền với đổi mới mô hình để tăng
trưởng theo hướng phát triển bền vững và
hiệu quả hơn là một trong những nhiệm vụ tối
quan trọng. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2012,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 393/QĐ-TOT phê chuẩn Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh, và sau đó, trong
Quyết định số 403/QĐ-TOT ngày 20 tháng 3
năm 2014, đã phê duyệt Kế hoạch hành động
quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn
2014 - 2020. Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh đã xác định: Tăng trưởng xanh
dựa trên đầu tư tăng cường bảo tồn, phát triển
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự nhiên để
giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện chất
lượng môi trường nhằm kích thích tăng
trưởng kinh tế.
Chiến lược khai thác và sử dụng bền vững
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
biển đến năm 2020, Tầm nhìn đến năm 2030
cũng được xây dựng trong Quyết định Số
1570/QĐ-TOT ngày 6 tháng 9 năm 2013, các
cam kết quốc tế đối với môi trường và phát
triển bền vững khác.
96
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019
- Các kế hoạch về tăng trưởng xanh
lam ở tầm quản lý Nhà nước đã và đang được
xây dựng và thực hiện.
Chính phủ đã ban hành các chính sách,
chiến lược và phê duyệt quy hoạch và kế
hoạch thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến
tăng trưởng xanh như Kế hoạch quốc gia về
tăng trưởng xanh cho giai đoạn 2014 - 2020,
Nghị định số 25/ND-CP của tháng 6 năm
2009 về quản lý chung tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bắt
đầu Dự án phát triển du lịch cho vùng biển,
hải đảo và vùng ven biển của Việt Nam đến
năm 2020, v.v
- Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
thuận lợi, cũng như tiềm năng và lợi thế để
phát triển kinh tế biển theo hướng tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững.
Với đường bờ biển dài, nền kinh tế gắn
liền với biển cũng như các hoạt động khai
thác tài nguyên biển đa dạng (vận tải biển,
đánh cá, du lịch, khai thác khoáng sản),
Việt Nam có mối gắn bó mật thiết với biển và
các nguồn tài nguyên từ biển. Do đó, phát
triển theo mô hình nền kinh tế xanh lam là
hoàn toàn phù hợp.
- Các nguồn lực hỗ trợ cho việc hình
thành nền kinh tế biển xanh ở Việt Nam rất
đa dạng
Với chiến lược phát triển kinh tế biển
tầm nhìn tới 2030, Chính phủ và Nhà nước đã
có nhiều quyết định chiến lược về thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
công nghệ, đầu tư vào giáo dục nguồn nhân
lực chất lượng cao. Đây là cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và các nguồn lực để phát triển kinh tế
biển, đồng thời cũng phục vụ công tác bảo vệ
môi trường và bảo tồn tài nguyên biển.
4.4. Thách thức
- Nhận thức về tăng trưởng xanh lam
và kinh tế xanh lam tới từng ngành, từng địa
phương ven biển và người dân vẫn chưa đầy
đủ, triệt để, thậm chí rất khác nhau.
- Vẫn còn thiếu dữ liệu khoa học và
thông tin về các quỹ tự nhiên của biển và hải
đảo.
Việc thiếu cơ sở dữ liệu về biển và đảo
và hệ sinh thái là do nhiều nguyên nhân, một
phần là công nghệ và trang thiết bị còn yếu
kém, chất lượng nhân lực chưa cao. Mặt
khác, do tình hình chính trị, quốc phòng an
ninh chưa ổn định, diễn biến xung đột trên
biển Đông và tranh chấp vùng biển, đảo giữa
Trung Quốc và các quốc gia quanh Biển
Đông cũng gây khó khăn cho việc theo dõi và
thu thập dữ liệu. Do đó, cơ sở cho các hành
động cụ thể liên quan đến sự phát triển của
nền kinh tế xanh lam trong nước đang bị hạn
chế.
- Việc khai thác, sử dụng tài nguyên
biển và đảo là không hiệu quả, không bền
vững.
Tài nguyên biển chủ yếu được khai thác
theo cách không thể tái tạo. Ít chú ý đến các
giá trị chức năng, phi vật chất và tái sản xuất
của các hệ thống tài nguyên biển, chẳng hạn
như các giá trị vị trí của không gian biển gần
biển và hải đảo; các giá trị dịch vụ của hệ sinh
thái; thậm chí các giá trị văn hóa của biển.
- Môi trường biển đang bị ô nhiễm và
hệ sinh thái biển bị suy thoái.
Gần đây có rất nhiều sự vụ liên quan đến
việc các doanh nghiệp thải chất thải không
được xử lý ra môi trường biển qua các lưu
vực sông, vùng ven biển, cũng như từ các hòn
đảo có người ở ngày càng nhiều. Điều này
dấy lên hồi chuông báo động về công tác
quản lý, giám sát của các Bộ ban ngành có
liên quan.
- Đa dạng sinh học biển và tài nguyên
của các sản phẩm biển đang bị suy giảm, và
các hệ sinh thái biển quan trọng xuống cấp.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019
97
Môi trường sống tự nhiên ven biển quan
trọng đã bị mất hoặc bị thu hẹp trong khu vực
(khoảng 60%). Các trường cá có xu hướng di
chuyển xa hơn do sự thay đổi cấu trúc của lưu
thông biển ven bờ liên quan đến biến đổi khí
hậu; xu hướng tương tác sông - cửa sông đã
thay đổi đáng kể.
- Hệ thống pháp luật quản lý biển, đảo
và các khu vực ven biển chưa được hoàn
thiện, còn tồn tại nhiều chồng chéo.
Hiện tại, biển, đảo và khu vực ven biển
của đất nước vẫn chủ yếu được quản lý bởi
các ngành (quản lý ngành) thông qua luật
pháp và chính sách cho các ngành. Việc thể
chế hóa chế độ chung, quản lý nhà nước
thống nhất liên quan đến biển và hải đảo đã
chậm. Điều này đã dẫn đến việc quản lý
chồng chéo trong các luật, chính sách của
ngành hiện hành và hiệu quả thực thi pháp
luật thấp. Quy hoạch không gian biển hay quy
hoạch sử dụng biển là những công cụ tiên tiến
của quản lý biển (theo không gian biển) trên
thế giới, nhưng cho đến nay Việt Nam vẫn
chưa áp dụng chúng.
- Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và
xung đột chính trị trên biển Đông.
Bên cạnh thảm họa hàng hải, Việt Nam
là một trong số ít các quốc gia chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và thay đổi
đại dương. Tác động của biến đổi khí hậu
(như nước biển dâng, nhiệt độ tăng và bão
thường xuyên và / hoặc dữ dội hơn) gây ra
các mối đe dọa nghiêm trọng đối với cơ sở hạ
tầng, dịch vụ và hoạt động giao thông quan
trọng. Những tác động này có thể thấy rõ nhất
ở các vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Ngoài ra, vấn đề tranh chấp chủ quyền
phức tạp, kéo dài trên biển và hải đảo ở Biển
Đông cũng tác động đáng kể đến sự phát triển
của nền kinh tế xanh ở Việt Nam.
- Hải Phòng chưa trở thành trung tâm
khoa học công nghệ của vùng như mục tiêu
Nghị Quyết 32 đề ra.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển chưa
mạnh; chính sách hỗ trợ cho công nghệ cao
còn yếu, chưa có khu công nghiệp – công
nghệ cao; chưa liên kết, hợp tác đào tạo –
nghiên cứu với các trường Đại học lớn của
thế giới và khu vực. Chất lượng nhân lực
khoa học công nghệ chưa cao, thiếu cán bộ
đầu đàn, chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực
công nghệ cao. Thị trường khoa học công
nghệ mới được hình thành, còn rất khiêm tốn
về số lượng và chất lượng các sản phẩm khoa
học công nghệ.
5. Một số đề xuất phát triển cluster
cảng Hải Phòng theo mô hình nền kinh tế
xanh lam
Qua các thông tin tổng hợp và so sánh ở
trên, có thể kết luận rằng, hiện nay cảng Hải
Phòng đã và đang có nhiều lợi thế rất phù hợp
để hình thành và phát triển cluster cảng biển
theo mô hình nền kinh tế xanh lam. Một số
bài học được rút ra từ nội dung nghiên cứu
gồm:
- Tiền đề tiên quyết và cần thiết để hình
thành và phát triển cluster cảng biển là sự hỗ
trợ của Chính phủ nhằm đưa ra đường lối, các
chính sách phù hợp với năng lực cạnh tranh
hiện nay giữa cảng Hải Phòng. Vậy, trước hết
lãnh đạo thành phố cần chú trọng tới việc
hình thành và phát triển cluster cảng Hải
Phòng, từ đó xây dựng nên lộ trình và đưa ra
các chính sách khuyến khích phù hợp;
- Cần có kế hoạch phát triển liên vùng và
kế hoạch tổng thể để quản lý nguồn tài
nguyên biển, đảo và các vùng nước nhằm
đảm bảo tăng trưởng kinh tế biển trong giai
đoạn đầu phát triển. Các thành phần kinh tế
biển tại khu vực cảng nên được cấu trúc theo
tầm nhìn phát triển vùng biển của Hải Phòng
98
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019
đó nhằm hỗ trợ hiệu quả nhất. Đồng thời khai
thác được nguồn tài nguyên hiệu quả và thực
hiện được các nhiệm vụ đảm bảo chủ quyền
vùng biển đảo.
- Cần xác định được doanh nghiệp lãnh
đạo có tầm ảnh hưởng và có khả năng thúc
đẩy phát triển trong cluster. Định hướng phát
triển cluster cảng biển Hải Phòng nên đặt
trọng tâm vào cảng hoặc vận tải biển, những
lĩnh vực mà Hải Phòng đang có thể mạnh,
hướng tới phát triển cảng xanh, cảng thông
minh, nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp, các
ngành trong cluster cùng phát triển và cạnh
tranh với các cảng trong khu vực và châu Á;
- Tăng cường kết nối về cơ sở hạ tầng và
tương tác về các khía cạnh khác giữa các đơn
vị trong cluster với nhau và với các đơn vị
bên ngoài cluster;
- Cần tăng cường hoạt động nghiên cứu,
sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên biển
cũng như các nguồn tài nguyên của cluster
cảng Hải Phòng, giảm tác động đến môi
trường và giảm lượng khí thải cũng như rác
thải về mức không. Để làm được điều này,
cần quy hoạch các thành viên tham gia vào
cluster và thiết kế chuỗi cung ứng riêng cho
cluster cảng Hải Phòng để quay vòng luồng
lưu chuyển nguồn lực giữa các thành phần
trong chuỗi;
- Lãnh đạo thành phố Hải Phòng, quản lý
cluster cảng Hải Phòng cần xây dựng quy chế
hoạt động cụ thể, rõ ràng, có tính khuyến
khích nhưng cũng mang tính răn đe cao đối
với các thành viên của cluster trong việc đầu
tư, sử dụng nguồn năng lượng sạch, tài chế
nhiên liệu, tuân thủ các quy định liên quan
đến môi trường;
- Tổ chức các hoạt động đào tạo, phổ
biến kiến thức về nền kinh tế xanh tới mọi
nhân sự cấp cao, cấp quản lý trong cluster để
mọi thành viên đều hiểu rõ và xác định đường
lối phát triển hoạt động kinh doanh, phát triển
cluster cảng biển theo đúng định hướng
Tài liệu tham khảo:
[1] Xiwen B., Jasmine S. L. L. (2015), “Dynamic
regional port cluster development: case of the
ports across Taiwan Strait”, GeoJournal, 2015,
Volume 80, Number 5, Page 619–636.
[2] UNCTAD (2018), “Review on Maritime
Transport 2018”, ISBN 978-92-1-112928-1.
[3] Lee PW., Lam J. (2015) Container Port
Competition and Competitiveness Analysis:
Asian Major Ports. In: Lee CY., Meng Q. (eds)
Handbook of Ocean Container Transport
Logistics. International Series in Operations
Research & Management Science, vol 220.
Springer, Cham.
[4] Association, V. S. (2015). “Vietnam Port System
To Serve The Vietnam Port System To Serve The
Blue Economy Blue Economy”, Da Nang, Da
Nang, Vietnam.
[5] Shin Otsubo (2015), “Maritime Cluster in Japan -
Shipbuilding and WP6”, MLIT.
[6] Dr. Eric R. H. et al (2018), “Ocean/Maritime
Clusters: Leadership and Collaboration for Ocean
Sustainable Development and Implementing the
Sustainable Development Goals’, World Ocean
Council White Paper.
[7] Group, W. B. (2017). The potential of the Blue
Economy-Increasing Long term Benefits of the
Sustainable Use of Marine Resources for Small
Island Developing States and Coastal Least
Developed Countries. Washington DC: United
Nations.
[8] Kitakyushu, C. o. (2015, May). Green Growth
Promotion Plan of the City of Haiphong.
[9] Michiel H. Nijdam, Peter W. de Langen,
“Leader Firms in the Dutch Maritime Cluster”, ERSA
2003 Congress.
[10] Hoang Thi Lich, Nguyen Quynh Nga,
Truong Thi Minh Hang, “Sustainable development of
port: The case of Haiphong port”, AMFUF 2017.
[11] Nguyen Chu Hoi, “Blue marine economy:
Problems and Approaches for Vietnam”, Political
Theory Journal, Issue 4-2019.
Ngày nhận bài: 10/4/2019
Ngày chuyển phản biện: 12/4/2019
Ngày hoàn thành sửa bài: 3/5/2019
Ngày chấp nhận đăng: 10/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_xuat_phat_trien_cluster_cang_hai_phong_theo_mo_hinh_nen_k.pdf