KẾT LUẬN
Các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối tại xã Thụy Hải, Thái Thụy, Thái Bình
là những điểm đến mới lạ, ở đó chứa đựng
các giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh, tín
ngưỡng, gắn liền với bao thăng trầm lịch sử
của người dân địa phương. Tuy nhiên, Thái
Thụy nói riêng và Thái Bình nói chung đang
trên đà phát triển nên còn nhiều khó khăn,
thiếu thốn về nhiều mặt. Do đó để khai thác
tốt các di tích phục vụ cho việc phát triển
du lịch thì các cấp chính quyền địa phương
cần có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa và có
những biện pháp bảo tồn, tu bổ, khôi phục
các di tích, để trong tương lai gần nhất, các
di tích này sẽ trở thành điểm đến, điểm kết
nối trong các chương trình du lịch và xa hơn
là phát triển thành một điểm du lịch độc lập,
đón khách đến thăm và tham gia vào một
loại hình du lịch mới, du lịch cộng đồng.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất xây dựng mô hình du lịch cộng đồng gắn với nghề muối và các di tích thờ bà chúa Muối ở Thái Thụy (Thái Vình), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG GẮN VỚI
NGHỀ MUỐI VÀ CÁC DI TÍCH THỜ BÀ CHÚA MUỐI
Ở THÁI THỤY (THÁI BÌNH)
Bùi Thúy Hằng
Khoa Du lịch
Email: hangbt@dhhp.edu.vn
Nguyễn Thị Thúy Anh
Khoa Du lịch
Email: anhntt@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 02/01/2019
Ngày PB đánh giá: 29/01/2019
Ngày duyệt đăng: 10/02/2019
TÓM TẮT
Tục thờ Bà Chúa Muối là một tục thờ dân gian không chỉ gắn liền với đời sống của
những người dân làm muối mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt
tín ngưỡng của người dân Thái Thụy nói riêng và người dân Thái Bình nói chung. Việc
bảo tồn và phát huy tục thờ Bà Chúa Muối trong suốt hơn 700 năm qua đã góp phần làm
phong phú đời sống sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nơi đây. Trên cơ sở làm
rõ về nguồn gốc, quá trình phát triển và giá trị của các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối, bài viết sẽ tập trung vào việc tìm ra một hướng đi mới - Xây dựng mô hình du
lịch cộng đồng gắn với nghề muối và các di tích thờ Bà Chúa Muối ở Thái Thụy (Thái
Bình) để góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị của tục thờ Bà Chúa Muối và nghề
muối truyền thống.
Từ khóa: du lịch cộng đồng, nghề muối, tục thờ Bà Chúa Muối
PROPOSED BUILDING A MODEL OF COMMUNITY TOURISM
ASSOCIATED WITH SALT INDUSTRY AND THE RELICS WORSHIP OF BA
CHUA MUOI IN THAI THUY (THAI BINH)
ABSTRACT
The worship of Ba Chua Muoi (the goddess of salt) is a tradition not only associated
with the life of the salt-making people but also an integral part of the religious life
of Thai Thuy in particular and the Thai Binh people in general. Over the past 700
years, the preservation and promotion of the worship of Ba Chua Muoi (the goddess
of salt) has contributed to the enrichment of the religious life of the residents in this
province. On the basis of clarification of the origin, development and value of relics
50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
associated with the worship of Ba Chua Muoi, the article will focus on finding a new
direction – Building a model of community tourism Associated with salt production
and worship relics of Ba Chua Muoi in Thai Thuy (Thai Binh) to contribute to
the preservation and promotion of the values of the worship of Ba Chua Muoi and
traditional salt production.
Keywords: community tourism, salt production, worship of Ba Chua Muoi (the goddess of salt).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thái Thụy là một trong 8 đơn vị hành
chính cấp huyện của Thái Bình. Thái Thụy
có 47 xã và 1 thị trấn, trong đó Thụy Hải hiện
nay là xã duy nhất của huyện Thái Thụy nói
riêng và tỉnh Thái Bình nói chung còn duy
trì nghề làm muối truyền thống. Thụy Hải
là một làng biển thuần chất, người dân nơi
đây chủ yếu sống bằng nghề làm muối và
đánh bắt thủy hải sản.
Nếu có cuộc bình chọn về nghề vất
vả nhất trong các nghề của người dân Việt
Nam, chắc hẳn không ít người sẽ bỏ phiếu
bình chọn cho nghề muối của những người
diêm dân. Nghề muối - nghề của những
nhọc nhằn, khổ cực, của những giọt mồ hôi
kết đọng trên vai áo cùng với những hạt
muối được kết tinh trên ruộng đồng. Khi
cái nắng chói chang nhất, cũng là lúc mà
người diêm dân ra đồng làm việc mà trong
lòng không nguôi lo lắng về thời tiết. Trời
đang nắng hảnh mà bỗng dưng mưa rào là
bao công sức của người dân cùng chung số
phận với những hạt muối trắng tinh bị mưa
trời cuốn đi.
Về với cánh đồng muối ở Thụy Hải
(Thái Bình), chúng ta sẽ thấy những cánh
đồng muối bị bỏ hoang cho cỏ mọc một
cách rất hoang phí do những nhọc nhằn
vất vả của nghề vẫn không thể nuôi sống
được người dân. Nghề muối đang đứng
trước sự bấp bênh với nhiều khó khăn và
có nguy cơ bị mai một nếu không có sự
tham gia vào cuộc của các cấp, các ngành
tìm ra một hướng đi mới, để hy vọng giữ
được sự tồn tại của nghề mà cha ông để
lại. Một trong những hướng đi mới chính
là đưa du lịch đến gần với người dân hơn,
để người dân tham gia trực tiếp vào hoạt
động du lịch mà cụ thể đó chính là loại
hình du lịch cộng đồng.
Hiện nay, trên địa bàn của huyện Thái
Thụy, mà cụ thể là ở xã Thụy Hải, có di tích
gắn với tục thờ Bà Chúa Muối đang ngày
càng nhận được sự quan tâm, chú ý, thu hút
khách thập phương đến thăm. Bởi lẽ, đây
không chỉ là những công trình kiến trúc
độc đáo, khác biệt mà còn ẩn chứa trong
đó là bao giá trị lịch sử, giá trị tâm linh.
Mặt khác, những di tích này còn có giá trị
khai thác để phục vụ cho hoạt động du lịch
trong tương lai, nếu có những định hướng,
đầu tư và quan tâm đúng mức của các cấp
chính quyền địa phương. Tuy nhiên hiện
nay, các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối chưa được quan tâm đúng mức và
vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả
nhằm phát huy những giá trị vốn có của di
tích. Từ thực tế trên cho thấy, việc nghiên
cứu vấn đề “Đề xuất xây dựng mô hình du
lịch cộng đồng gắn với nghề muối và các di
tích thờ Bà Chúa Muối ở Thái Thụy (Thái
Bình)” có thể được xem là hướng đi mới
góp phần gìn giữ nghề muối truyền thống
và thúc đẩy phát triển du lịch, thay đổi diện
51 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
mạo của Thái Thụy nói riêng và của toàn
tỉnh Thái Bình nói chung.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái quát về nghề làm muối ở
Thái Thụy (Thái Bình)
Làm muối là nghề truyền thống của
địa phương được duy trì hàng trăm năm
nay. Trước kia, cả xã Thụy Hải cùng làm
muối. Lao động sản xuất muối ở đây chủ
yếu là người già, phụ nữ và trẻ em từ 11-
16 tuổi. Sản xuất muối cực nhọc, vất vả,
nhưng thu nhập thấp và không ổn định.
Công nghệ sản xuất trước kia lạc hậu,
hầu hết các công đoạn làm muối duy trì
theo phương pháp thủ công, truyền thống
“phương pháp phơi cát”.
Quy trình sản xuất muối phơi cát:
Nước biển được đưa vào sân phơi qua hệ
thống cống mương bằng thủy triều. Trên
bề mặt sân phơi đã rải một lớp cát mỏng
làm trung gian để nhận nhiệt bức xạ mặt
trời và muối từ nước biển. Nước biển ngấm
từ dưới lên vào trong lớp cát sẽ được bay
hơi tạo ra cát mặn. Cát mặn được thu lại,
dùng nước chạt (một loại nước muối gần
kết tinh, có nhiệt độ khoảng 40 – 500C, rất
giàu chất khoáng, nếu tắm rất có lợi cho
sức khỏe) có nồng độ thấp hoặc nước biển
hòa tan muối để lấy được nước chạt có
nồng độ cao hơn trong một thiết bị gọi là
chạt lọc. Nước chạt thu được chảy vào chỗ
chứa gọi là thống con, thống cái. Sau đó
nước chạt nồng độ cao được múc lên ô kết
tinh để phơi tạo thành muối. Muối được
cào, gom và thu lại chuyển vào kho chứa
bằng xe cút kít hoặc bằng thúng gánh [11].
Phương pháp làm muối truyền thống
của diêm dân Thụy Hải có nhiều hạn chế,
sản lượng và năng suất thấp. Muối do diêm
dân sản xuất đều là muối có nhiều tạp chất,
hàm lượng natri clorua không đạt tiêu
chuẩn dùng trong công nghiệp.
Từ năm 2011- 2013, xã Thụy Hải
được tiếp nhận Dự án “Xây dựng mô hình
Tổ hợp tác và áp dụng tiến bộ kỹ thuật
trong sản xuất muối sạch” tại Hợp tác xã
Đại Đồng do Trung tâm Khuyến nông Thái
Bình triển khai. Tham gia thực hiện dự án,
diêm dân đã xây dựng được Tổ hợp tác
để hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, đồng thời áp dụng công nghệ
mới, thay đổi vị trí chạt lọc truyền thống
từ sát ô kết tinh ra giữa ruộng phơi cát để
giảm nhẹ sức lao động, và phơi nước muối
đã cô đặc trên nền bạt HDPE. Những công
đoạn này đã giảm được sức lao động vì
không phải dùng xe cút kít để vận chuyển
cát và cải thiện chất lượng sản phẩm vì
muối phơi trên nền bạt HDPE sẽ trắng và ít
tạp chất hơn [11].
Công nghệ sản xuất muối được cải
tiến giúp năng suất và chất lượng muối
nâng lên đáng kể, đời sống diêm dân phần
nào được cải thiện... Tuy nhiên, diêm dân
ngày càng phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức. Tác động của biến đổi
khí hậu, thời tiết không theo quy luật mùa.
Năm 2014, các tháng 4,5,6,7,8 là mùa sản
xuất muối chính song chỉ có từ 02 đến 08
ngày sản xuất được muối trong một tháng,
nắng thì gián đoạn xen kẽ, nhiệt độ lại cao
oi bức nên rất khó khăn cho người sản xuất
muối. Mặt khác, nghề sản xuất muối phụ
thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên và độ mặn
nước biển, do lượng mưa hàng năm tăng
cao cùng hệ thống kênh mương thuỷ lợi và
tiêu nước thải dân sinh, công nghiệp nên
lượng nước thải theo các cửa sông đổ ra
biển rất lớn đã đẩy tầng nước mặn ra xa,
dẫn đến khó đưa nước mặn vào đồng muối
để sản xuất. Trong nội đồng, kênh tiêu
52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Hình 1. Sơ đồ quy trình sản xuất muối phơi cát
(Nguồn: Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối)
Nước biển
Hệ điều tiết
Hệ thống thủy lợi
Mao dẫn(thấm)
Sân cát (phơi cát)
Kết tinh
Nước chạt
(nồng độ cao)
Bể chạt lọc
Thu cát
Kho chứa
Thu muối
(muối ướt)
Nước ót
Cát
Nước chế
chạt nồng độ
thấp
Nước
biển
Muối thành phẩm
lại phải tiêu chung nước thải dân sinh của
khu dân cư, nguồn nước bị phân huỷ giảm
độ mặn nên đã giảm năng suất muối đáng
kể. Ngoài ra, những năm qua, một lượng
lớn muối từ nơi khác được chuyển về địa
phương bán với giá rẻ cạnh tranh với muối
sản xuất tại địa phương, do vậy muối của
hợp tác xã sản xuất ra rất khó tiêu thụ và thu
nhập ngày công của xã viên rất thấp. Thu
nhập bình quân 01 lao động chỉ từ 250.000
- 500.000 đồng/tháng, trong khi nghề sản
xuất muối đòi hỏi lực lượng lao động khỏe
mạnh vì phải thực hiện xong các khâu sản
xuất và thu hoạch trong một ngày (làm ngày
53 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
nào thu xong ngày đó không thể để lưu
sang ngày hôm sau) và phải lao động trong
môi trường nắng nóng khắc nghiệt. Thực
tế những năm vừa qua, nguồn nhân lực của
hợp tác xã hết sức khó khăn, số lao động
còn đang làm muối có tuổi đời cao từ 50
tuổi trở lên, nhiều hộ không có lao động để
tiếp tục làm muối nên đã bỏ sản xuất. Tính
đến thời điểm này, hợp tác xã Đại Đồng sử
dụng 39,7 ha sân cát sản xuất muối và 7,7 ha
thiết bị và ô phơi muối (chưa tính diện tích
giao thông, thuỷ lợi) và 10 ha đầm nuôi thuỷ
sản nội đồng). Qua thống kê của Trung tâm
khuyến nông Thái Bình, đến nay đã có 48
hộ, tương đương 6,5 ha không còn sản xuất
muối, để cỏ mọc gây lãng phí quỹ đất. Nghề
muối tỉnh Thái Bình đang đứng trước nhiều
khó khăn và có nguy cơ mai một nếu không
có sự vào cuộc của các cấp, các ngành.
2. Khái quát về tục thờ Bà Chúa
Muối ở Thái Thụy (Thái Bình)
2.1. Nguồn gốc của tục thờ Bà Chúa
Muối ở Thái Thụy (Thái Bình).
Tục thờ Bà Chúa Muối đã có cách
ngày nay mấy trăm năm. Bà Chúa Muối
tức Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh là vợ
ba của vua Trần Anh Tông, sinh năm 1280
tại Trang Quang Lang nay là thôn Quang
Lang Đoài, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình trong một gia đình làm nghề
muối. Từ nhỏ bà là người có tài mạo khác
thường, học rộng, biết nhiều, nhan sắc hơn
người. Thấy việc đồng áng vất vả, muốn
giúp bố mẹ nhưng mỗi lần bà ra ruộng mây
đen kéo đến che rợp cả một vùng vì thế dân
làng đã bàn kế đóng cho bà chiếc thuyền
mang muối đi buôn ở các vùng xa. Trong
một lần thuyền của bà đỗ tại bến Long Biên,
quan quân của Vua Trần Anh Tông đã phát
hiện ra bà tuyệt sắc giai nhân. Bà đã được
vua Trần đưa về cung làm vợ và phong làm
Đệ Tam Cung Phi. Bà được Vua Trần Anh
Tông rất sủng ái, sau đó có thai nhưng thai
nhi đã qua 9 tháng 10 ngày mà vẫn không
sinh đẻ được. Vua Trần cho rước bà về quê
ngoại ở Quang Lang, hy vọng chút khí biển
mát lành may ra cứu vớt được thai nhi và
bà. Thấy bà chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ
nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục
đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây
quanh nhẩy múa để bà bớt nỗi buồn. Nhìn
lũ trẻ nhẩy múa rất vui, bà mỉm cười rồi qua
đời vào ngày 14 tháng tư năm Mậu Tuất. Để
tưởng nhớ bà, vua Trần Anh Tông đã cho
lập đền thờ và tổ chức lễ hội vào ngày 14
tháng 4 âm lịch hàng năm [5; 17-36].
Cuộc đời của Bà Chúa Muối, từ lúc
sinh thời đến khi bà qua đời đều gắn bó với
cánh đồng muối mặn mòi của thôn Quang
Lang. Mặc dù lúc sinh thời, bà không trực
tiếp tham gia vào việc sản xuất ra những hạt
muối biển nhưng bà đã có công lớn trong
việc đưa hạt muối quê hương đến các địa
phương khác nhau. Chính vì công lao to
lớn ấy của bà, nên khi bà thoát tục, dân làng
đã suy tôn lên làm Thành Hoàng làng và
thường gọi bà dưới cái tên đầy sự tôn kính
“Bà Chúa Muối”.
Là người con của đất Quang Lang
nhưng vì thương bố mẹ tảo tần sớm hôm
với nghề muối, Bà Chúa Muối (Nguyễn Thị
Nguyệt Ảnh) đã cùng gia đình xuống mảnh
đất Tam Đồng để lập nghiệp. Tam Đồng
giống như quê hương thứ hai của bà. Do
vậy, khi bà qua đời (ngày 14 tháng 4 năm
Mậu Tuất), dân làng của cả hai nơi đều lập
đền và phủ thờ để tưởng nhớ bà.
2.2. Việc thờ cúng Bà Chúa Muối
Thái Bình là nơi duy nhất trên dải đất
chữ “S” Việt Nam có phủ và đền thờ Bà
Chúa Muối. Tại các di tích này đều có đặt
54 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
tượng Bà Chúa Muối, tuy nhiên quy mô di
tích còn tương đối nhỏ không được nguy
nga, tráng lệ như các di tích khác trong tín
ngưỡng thờ Mẫu, hay gần hơn là so với các
di tích thờ Nữ thần nói chung.
* Đền thờ Bà Chúa Muối trong khuôn
viên chùa Hưng Quốc
- Vị trí tọa lạc: Đền thờ Bà Chúa Muối
là một công trình kiến trúc đặc biệt
kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh
đất Trang Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
- Lịch sử xây dựng: Sau khi Tam Phi
Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh mất, vua Trần Anh
Tông ra chiếu cho xây dựng đền thờ bà tại
thôn Quang Lang. Do bị xuống cấp, năm
1963 đền thờ Bà Chúa Muối bị tháo bỏ, đến
năm 1998 người dân đã xây tạm căn nhà
nhỏ thờ Chúa trong khuôn viên chùa Hưng
Quốc. Năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch đã quyết định khôi phục lại đền
thờ Bà Chúa Muối. Nhân dịp đại lễ tưởng
niệm 705 năm Thái Thượng Hoàng Trần
Nhân Tông nhập Niết Bàn trở thành Thủy
Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử (năm 1308).
Ngài là phụ vương của vua Trần Anh Tông,
bố chồng của Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt
Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đảng ủy và chính
quyền xã Thụy Hải long trọng tổ chức lễ
khánh thành Đền thờ Bà Chúa Muối, rước
bà về thờ tại chính nơi xa xưa nhân dân đã
phụng thờ bà [9].
- Bố cục di tích:
Đây là một di tích rất đặc biệt có sự kết
hợp của cả đền và chùa. Chùa quay hướng
Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mầu Ni.
Đền quay hướng Nam là nơi thờ thánh Mẫu
Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà
Chúa Muối).
Hình 2. Sơ đồ bố cục mặt bằng chùa Thái Bình Hưng Quốc
(Nguồn: Điều tra thực tế của tác giả năm 2018)
55 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
Đền thờ Bà Chúa Muối nằm trong
khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng của chùa
Thái Bình Hưng Quốc.
Đền thờ Bà Chùa Muối: Nằm ở phía
trước chùa Thái Bình Hưng Quốc. Ngôi đền
có kết cấu chữ đinh 2 tòa 7 gian. Bái đường
gồm 5 gian hai chái và hai hậu cung. Mái
của ngôi đền được lợp bằng ngói vảy rồng.
Bài trí trong đền thờ khá đơn giản.
Chính giữa là ban thờ Bà Chúa Muối với
tượng Bà Chúa Muối được đặt trong khám
thờ trang nghiêm. Bên trái của ban thờ Bà
Chúa Muối là ban thờ vua Trần Anh Tông.
Bên phải thờ thân phụ, thân mẫu của Bà.
Hai bên ban thờ Bà Chúa Muối có
đường đi vào thông với chùa Thái Bình
Hưng Quốc.
* Phủ thờ Bà Chúa Muối ở thôn Tam
Đồng
- Vị trí tọa lạc: Phủ thờ Bà Chúa Muối
tọa lạc tại thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải,
huyện Thái Thụy, Thái Bình. Theo lời kể
của những người dân nơi đây, thế hệ cha
ông ngày trước xây dựng phủ thờ bà tại Tam
Đồng với hướng quay ra cánh đồng muối
như để Chúa được ngày ngày ngắm nhìn
cánh đồng muối quê hương. Nơi đây, cũng
chính là nơi bà đã cùng cha mẹ làm ăn, sinh
sống, gắn bó với nghề muối bao năm.
- Lịch sử xây dựng: Sau khi tam phi
Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh mất, người dân
tại thôn Tam Đồng đã cho xây dựng phủ
để làm nơi thờ bà. Hơn 700 năm tồn tại,
trải qua bao thăng trầm của lịch sử và biến
cố của thời gian, ngày 15/5/2006, UBND
tỉnh Thái Bình đã ra quyết định số 721 –
QĐUB cho phép trùng tu xây dựng lại ngôi
phủ. Việc tổ chức xây dựng có các tiểu ban,
huy động vốn, giải phóng mặt bằng và xây
dựng. Lễ khởi công xây dựng vào ngày
24/3/2007 và chính thức khánh thành vào
14/10/2007 [10].
Hình 3. Sơ đồ bố cục mặt bằng Phủ thờ Bà Chúa Muối
(Nguồn: Tác giả, năm 2018)
Bố cục di tích: Phủ thờ Bà Chúa Muối
tọa lạc trong một khuôn viên nhỏ hẹp hơn
so với đền thờ Bà Chúa Muối. Có 2 cổng để
đi vào di tích. Cổng chính được xây dựng
trên đường trục chính thẳng với chính điện.
Cổng phụ dành cho khách thập phương có
thể đi vào để gửi xe. Bước qua cổng chính
là lư hương được đặt tại chính giữa sân.
Phủ thờ Bà Chúa Muối tuy có quy mô nhỏ
nhưng được bài trí rất trang nghiêm với ban
56 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
thờ Bà Chúa Muối ở chính giữa, hai bên là
ban thờ thân phụ, thân mẫu của bà.
Phủ có kiến trúc gỗ, uy linh với những
nét chạm bong kênh tinh tế trên các cấu kiện
vì kèo, bẩy hiên, đầu dư, kẻ góc. Mái của
phủ được lợp ngói mũi hài, ngói lót. Dù quy
mô của di tích còn tương đối nhỏ, tuy nhiên
nơi đây đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử
gắn với Thụy Hải nói riêng và Thái Thụy
nói chung trong suốt tiến trình lịch sử mà
tiêu biểu là trong thời kỳ cách mạng, đấu
tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Với
những giá trị căn bản của di tích, phủ thờ Bà
Chúa Muối được công nhận là Di tích lịch
sử cấp tỉnh. Hàng năm, vào ngày 14 tháng
4 âm lịch, nhân dân địa phương vẫn thường
mở hội rất đông vui để tưởng nhớ đến bà.
* Đặc điểm chung của nơi thờ cúng Bà
Chúa Muối
Từ điều tra và điền dã thực tế, tác giả
đã rút ra một vài nhận xét về các di tích thờ
Bà Chúa Muối như sau:
Cảnh quan: Nơi thờ tự Bà Chúa Muối
là những nơi có không gian thoáng đãng.
Di tích thường có hướng quay ra cánh đồng
muối hoặc ra biển. Ví như di tích Phủ Bà
Chúa Muối có hướng của chính điện quay
ra cánh đồng muối của thôn Quang Lang,
còn di tích đền thờ Bà Chúa Muối nằm trong
khuôn viên chùa Thái Bình Hưng Quốc có
hướng quay ra biển (hướng Nam, và tựa
lưng vào chùa). Điều này có lẽ là do Bà là
người con của nơi đồng chua nước mặn, có
tình yêu tha thiết với hạt muối quê hương,
mà nơi bắt nguồn của những hạt muối mặn
nồng ấy chính là từ biển cả bao la. Có lẽ
vì thế mà ngày trước, thế hệ cha ông đã có
dụng ý xây dựng như thế để ngày ngày Chúa
được ngắm nhìn cảnh quan quê hương.
Bài trí nơi thờ cúng: Do điều kiện quy
mô của di tích còn hạn chế, nên ở các di tích
gắn với tục thờ Bà Chúa Muối đều không
trang trí ban thờ hoành tráng giống như
những nơi thờ Mẫu hay thờ Nữ thần khác.
Các di tích này đều có chung đặc điểm là
ban thờ của Bà Chúa Muối thường được
đặt ở chính giữa gian chính điện. Đây cũng
chính là nơi đặt tượng thờ của Chúa. Bên
trái của ban thờ Chúa là nơi thờ thân phụ, và
bên phải là nơi đặt ban thờ thân Mẫu của bà.
Hạ ban, tức ban thờ phía dưới được phối thờ
với Quan Ngũ Hổ. Ở phía trên của gian thờ
chính có hình ảnh của Thanh xà và Bạch xà
đang uốn lượn làm tăng thêm tính uy linh,
tính thiêng cho di tích.
Về việc trang trí nơi thờ Bà Chúa Muối,
cũng giống như những nơi thờ tự khác, các
di tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối cũng
có những đồ thờ tương tự như bát nhang,
chén nước, lọ hoa, đèn cầy, mâm lễ. Trong
những ngày diễn ra lễ hội hoặc vào “sinh
nhật” của Bà, theo lời Chúa dặn, người dân
dâng lên bà một đĩa muối và một bát nước
biển. Đĩa muối tượng trưng cho tình cảm
mặn nồng giữa Chúa và Đức vua Trần Anh
Tông, còn bát nước biển như minh chứng
nghĩa tình của Chúa dành cho nhà vua tựa
như biển trời bao la.
Giá trị của di tích: Có thể khẳng định
rằng các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối có giá trị về mặt lịch sử, tâm linh và
kiến trúc nghệ thuật khá cao. Thời gian qua
đi, có những thứ đã không còn tồn tại, nhưng
giá trị của nó thì vẫn còn đó, trường tồn
cùng với thời gian. Những di tích gắn với
tục thờ Bà Chúa Muối đến nay vẫn còn tồn
tại như một minh chứng lịch sử về những
tháng ngày đã qua, minh chứng về một câu
chuyện có thật, một nhân vật lịch sử có thật.
Các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối đều là những di tích mang phong cách
nghệ thuật của kiến trúc đình, chùa, miếu
57 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
Việt Nam từ xa xưa và ẩn chứa trong đó là
bao giá trị, rất xứng đáng để du khách tham
quan và tìm hiểu về di tích cũng như đối
tượng thờ.
2.3. Lễ hội Bà Chúa Muối
Từ bao đời nay, người dân Thụy Hải
cứ vào ngày 14 tháng 4 âm lịch hàng năm tổ
chức lễ hội Bà Chúa Muối diễn ra trong ba
ngày với nhiều hoạt động, nghi lễ đa dạng
và phong phú như: dâng hương, diễu hành
rước Chúa, ăn cơm chay, văn nghệ, các trò
chơi dân gian và không thể thiếu được lễ
rước ông Đùng và phá Đùng.
Trước ngày hội làng, người dân Quang
Lang chuẩn bị cho tục múa ông Đùng bà Đà
khá công phu. Họ lấy nia vẽ mặt ông Đùng
bà Đà, rồi làm thân ông Bà bằng những rọ
tre đan sơ sài theo kiểu mắt cáo, thân hình
cao từ 1,2 đến 1,5m, đường kính phía dưới
rộng đủ cho một người chui vào. Ngoài ra
còn có một số hình nộm trẻ con, có trai có
gái tượng trưng cho con cái của ông Đùng,
bà Đà. Không khí chuẩn bị cho lễ hội vô
cùng náo nhiệt. Ngoài những hình nộm như
tôm, cua, cá được người dân làng vẽ lên để
đem nghênh rước như hình ảnh đặc trưng
của vùng ven biển xã Thụy Hải, còn không
thể thiếu những chiếc cà kheo truyền thống,
một dụng cụ mưu sinh gắn liền với cư dân
miền biển.
Sáng sớm ngày 14/4, các thôn trong
làng mang hình nộm ông Đùng bà Đà vào
đền thờ Bà Chúa Muối để tiến hành các nghi
lễ dâng hương nghiêm trang, thành kính, sau
đó diễu hành rước Chúa. Cả đoàn rước gồm
hàng nghìn người ăn mặc chỉnh tề, mang
theo cờ Tổ quốc, tượng Bác Hồ, kiệu Thánh,
kiệu Mẫu, có cả các đội múa Lân, múa Rồng,
đội mõ, trống phách theo sau uốn lượn nối
đuôi nhau đủ màu sắc, kéo dài lên đến hơn
một cây số mà dường như vẫn chưa dứt hẳn.
Tại tất cả đầu ngõ, người dân đều bày lễ trên
bàn cao để cúng vọng cầu Chúa phù hộ một
năm làm ăn may mắn. Tối cùng ngày, nghi
thức được cho là mong chờ nhất cũng diễn
ra, đó là nghi thức rước Đùng và phá Đùng.
Vào chập tối, người dân đã quây kín trước
cửa đền để xem múa Đùng. Màn biểu diễn
múa Đùng bao gồm hình nộm ông Đùng,
một bà Đà, tượng trưng cho hai bố mẹ và
hai hình nộm con tượng trưng cho con cháu.
Khi múa, các hình nộm lúc thì nghiêng ngả,
hết quay sang phải rồi lại quay sang trái, lúc
lại va vào nhau cho ông Bà có cơ hội bày
tỏ tình cảm với nhau. Các vai ông Đùng bà
Đà phải phối hợp sao cho thật nhuần nhuyễn
có những lần giáp mặt, thân chập vào nhau.
Người làng Quang Lang giải thích: đó là lúc
ông Bà “ăn nằm” với nhau tượng trưng cho
ước vọng sinh sôi, nảy nở, mong nhiều hoa
trái của dân làng. Đùng bố, mẹ đi trước, các
Đùng con quấn quýt theo sau.
Trong lúc múa, người ta xướng vang
những câu ca tụng công đức của Bà Chúa
Muối như: “Lạy chúa! Muối của Chúa năm
nay được mùa lắm! lạy Chúa, lạy Chúa!”.
Sau đó, đoàn múa rời sân đền đi một vòng
quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung
quanh bố mẹ. Hết một vòng quanh làng, trở
lại trước cửa đền, ai nấy lại náo nức tham
gia tục phá Đùng. Vừa nhanh, vừa mạnh,
mọi người tiến về phía những ông Đùng,
ai cũng mong giành được về cho gia đình,
người thân ít nhất một nan tre, hay may mắn
hơn là cái mặt nộm Đùng. Bởi người dân
Quang Lang tin rằng, nếu ai may mắn lấy
được nan tre đem về gối đầu giường thì các
cháu nhỏ ngủ khỏi giật mình, không bị bệnh
tật, cắm vào ruộng, vườn thì cho cây sai quả,
mang lên trên thuyền đi ra khơi thì sẽ đánh
bắt được nhiều tôm cá. Cho dù ở trong
nhà, dưới thuyền hay bất cứ đâu có cắm nan
58 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
tre ông Đùng sẽ mang lại cho họ cuộc sống
sung túc, no đủ, mùa lúa, mùa cá, mùa muối
bội thu, gia đình hạnh phúc và gặp nhiều
may mắn hơn [10].
Trải qua hàng trăm năm, lễ hội Bà
Chúa Muối và tục rước Đùng kỳ lạ vẫn giữ
nguyên được bản sắc văn hóa vốn có của
nó. Đến ngày lễ hội, những người làm muối
trên khắp cả nước cũng tìm về đây cùng
dâng hương tỏ lòng thành kính đối với Bà
Chúa Muối và hoà mình trong lễ hội của
quê hương. Lễ hội này đồng thời là nơi gửi
gắm bao ước vọng của dân làng muối về sự
sinh sôi, nảy nở, nó đã được lựa chọn, giới
thiệu trong cuốn “Những nền văn minh thế
giới” do Bộ Văn hoá Thông tin xuất bản
năm 1996.
3. Xây dựng mô hình du lịch cộng
đồng gắn với nghề muối và các di tích thờ
Bà Chúa Muối
3.1. Tiềm năng khai thác du lịch cộng
đồng ở Thái Thụy (Thái Bình)
3.1.1. Thuận lợi
- Tục thờ và các di tích gắn với tục thờ
Bà Chúa Muối mang trong mình nhiều giá
trị có thể khai thác để thu hút khách du lịch.
Từ những tìm hiểu trên đã cho thấy
rằng, các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối đều được hình thành từ rất sớm cách
đây khoảng 700 năm. Đây đều là những
công trình mang nét đặc trưng riêng của
vùng miền, nó gắn liền với một làng nghề
truyền thống đã có từ mấy trăm năm nay.
Chính điều này đã trở thành một lợi thế, là
điểm mạnh của các di tích trong công tác
tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa
của địa phương nói riêng và của nước nhà
nói chung, vì đây là những di tích gắn với
một nhân vật lịch sử có thật, một giai đoạn
lịch sử có thật của dân tộc Việt Nam.
Các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối nằm ở địa bàn huyện Thái Thụy, nơi
có 22 di tích được cấp chứng nhận di tích
quốc gia và 46 di tích cấp tỉnh như đình An
Cố, Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức
Cảnh, đền Hét, đền Cả cùng với đó, trên
địa bàn của huyện có khu du lịch sinh thái
Cồn Đen, được mệnh danh là một trong
những khu dự trữ sinh quyển đẹp nhất miền
Bắc, là bãi biển tình yêu, là Đà Lạt của miền
Bắc. Điều này đã tạo nên sự thuận lợi trong
việc thiết kế, gắn kết các điểm di tích lại
thành một chương trình du lịch tâm linh đan
xen với loại hình du lịch nghỉ dưỡng, khám
phá tạo sự hấp dẫn, độc đáo, tránh cảm giác
nhàm chán cho du khách.
- Về công tác quản lý đối với các di
tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối đã có sự
phân cấp rõ ràng, giao trực tiếp cho UBND
xã Thụy Hải quản lý, điều này đã tạo nên sự
chuyên môn hóa trong việc quản lý các di
tích. Cùng với cơ cấu của ban quản lý gọn
nhẹ, không chồng chéo trong công việc và
có sự kết hợp ăn khớp, nhịp nhàng giữa các
tổ chuyên môn đã tạo nên một hiệu ứng làm
việc hiệu quả, tích cực trong công tác quản
lý.
- Công tác tuyên truyền quảng bá: Một
trong những thuận lợi của việc khai thác các
di tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối phục
vụ hoạt động du lịch đó chính là công tác
tuyên truyền, quảng bá đang được thực hiện
và phát triển theo chiều hướng tích cực. Việc
tuyên truyền, quảng bá cho các di tích gắn
với tục thờ Bà Chúa Muối không chỉ dừng
lại ở việc quảng bá rộng rãi ngoài thực tế như
treo các băng - zôn quảng cáo, giới thiệu về
di tích, thông qua đài phát thanh, các kênh
truyền hình hay gần gũi hơn là thông qua
các tác phẩm truyện thơ, các vở chèo, tuồng
về Bà Chúa Muối để đem các di tích gắn với
tục thờ Bà Chúa Muối đến gần với du khách
59 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
hơn, thu hút sự quan tâm của du khách mà
bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, quảng
bá còn được thực hiện trên các trang mạng
xã hội thông qua mạng internet để thu hút sự
quan tâm của du khách gần xa. Đây chính
là một trong những thuận lợi, một bàn đạp
vững chắc để có thể khai thác các di tích gắn
với tục thờ Bà Chúa Muối nhằm phát triển
du lịch tỉnh Thái Bình.
- Cộng đồng cư dân địa phương: Muốn
phát triển được du lịch thì trước hết phải có
sự tham gia, hỗ trợ của cộng đồng cư dân địa
phương. Các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối có được sự “hậu thuẫn” vững chắc từ
phía cư dân địa phương. Bởi lẽ, người dân
nơi đây luôn mong muốn những điều tốt đẹp
nhất đến với Bà Chúa Muối và các di tích
thờ tự bà. Người dân của mảnh đất Thụy
Hải nói riêng và Thái Thụy nói chung luôn
có ý thức bảo tồn tục thờ và các di tích gắn
với tục thờ Bà Chúa Muối. Đồng thời những
người dân nơi đây cũng luôn mong các di
tích thờ tự Bà Chúa Muối - một người con
gái nơi đồng chua đất mặn đầy tài hoa và
đức hạnh với một sự hi sinh cao cả, một biểu
tượng của người phụ nữ Việt Nam sẽ được
nhiều người quan tâm, biết đến. Sự đồng
lòng của các cơ quan quản lý và cộng đồng
cư dân địa phương sẽ tạo điều kiện thuận
lợi để trong tương lai có thể hình thành và
phát triển được mô hình du lịch cộng đồng
tại Thái Thụy.
- Nhu cầu của khách du lịch: Hiện nay,
nhu cầu đi du lịch của con người không chỉ
dừng lại ở việc muốn tận hưởng cuộc sống,
được nghỉ ngơi, thư giãn mà cao hơn nữa
là nhu cầu muốn được trải nghiệm những
điều thú vị, hấp dẫn trong cuộc sống, muốn
được tìm hiểu, thẩm nhận những giá trị cả
về vật chất và tinh thần của nơi mà du khách
đến thăm. Và các di tích gắn với tục thờ Bà
Chúa Muối có được ưu thế hơn so với các
điểm tham quan du lịch khác đó là đáp ứng
được các yêu cầu trên của du khách trong
thời kỳ hiện đại ngày nay. Đó là vừa có giá
trị để du khách tham quan, tìm hiểu và thẩm
nhận về di tích, vừa có được không gian và
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc kết hợp
với các loại hình du lịch khác nhau tiến tới
phát triển du lịch gắn với các di tích.
3.1.2 Khó khăn
Điều kiện mạng lưới giao thông vận tải
dẫn vào điểm di tích còn hạn chế. Đường
vào các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối có diện tích lòng đường khá nhỏ hẹp,
vì các di tích nằm ở vị trí trung tâm của
thôn, điều này gây nên trở ngại tương đối
lớn đối với việc đi lại của du khách. Khi các
di tích này trở thành một điểm du lịch thật
sự, nếu không có các biện pháp để mở rộng
mặt đường thì những xe khách đoàn lớn sẽ
phải dừng, đỗ cách điểm đến một khoảng
cách khá xa, bất tiện cho du khách.
Các điểm di tích này là những điểm di
tích có giá trị lịch sử sâu sắc, tuy nhiên quá
trình trùng tu, tôn tạo đã làm giảm đi giá trị
đó. Nếu không có đội ngũ thuyết minh viên
để giới thiệu về những giá trị đó thì du khách
khó có thể tự nhận ra những giá trị, những
vẻ đẹp vốn có của di tích. Do vậy, cần đào
tạo một đội ngũ thuyết minh viên chuyên
nghiệp, có trình độ, chuyên môn đảm bảo
để có thể giới thiệu, lột tả và truyền tải hết
những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa tốt đẹp
ẩn chứa trong di tích đến du khách.
Bên cạnh những khó khăn nêu trên, để
phát triển di tích trở thành một điểm du lịch
và níu chân du khách ở lại lâu hơn, kích cầu,
làm tăng khả năng sử dụng dịch vụ của du
khách từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế liên
quan phát triển theo, thì việc đầu tiên là phải
đảm bảo có đủ dịch vụ để đáp ứng nhu cầu
60 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
của du khách mà trước hết là dịch vụ lưu trú
và ăn uống. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn
của Thái Thụy nói chung và xã Thụy Hải
nói riêng, số lượng nhà nghỉ và nhà hàng để
phục vụ nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ của du
khách còn rất hạn chế với mật độ phân bố
không đồng đều. Cùng với đó là các dịch vụ
bổ sung chưa xuất hiện nhiều, hạn chế trong
việc phục vụ nhu cầu của du khách. Xung
quanh khu vực có các di tích gắn với tục thờ
Bà Chúa Muối thì mới chỉ dừng lại ở việc
bán hương, oản, đồ lễ cúng để vào trong di
tích, chưa xuất hiện các dịch vụ bổ sung để
phục vụ nhu cầu của khách du lịch.
Từ những khó khăn trên cho thấy,
trong thời gian tới cần có những biện pháp
và phương hướng cụ thể để khắc phục, tạo
một bước tiến vững chắc cho các điểm di
tích trở thành một điểm du lịch thật sự trong
tương lai gần.
3.2. Đề xuất ý tưởng mô hình du lịch
cộng đồng ở Thái Thụy
Du lịch cộng đồng chính là một hình
thức du lịch trong đó cộng đồng sẽ trực tiếp
tham gia vào các hoạt động du lịch như khai
thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên du lịch
thông qua sự giúp đỡ của các cơ quan tài trợ,
các tổ chức phi chính phủ. Lợi ích thu được
từ du lịch sẽ đóng góp nhiều cho kinh tế địa
phương - giảm tỉ lệ đói nghèo, cải thiện thu
nhập, nâng cao chất lượng đời sống. Khách
du lịch được nâng cao nhận thức, học hỏi về
cộng đồng, về cuộc sống đời thường, văn
hóa truyền thống của người dân bản địa.
Đồng thời, du lịch cộng đồng góp phần gìn
giữ, bảo tồn các di sản về văn hóa, di sản
thiên nhiên ở địa phương và hướng tới sự
phát triển du lịch bền vững [14]. Một câu
hỏi được đặt ra là có thể thực hiện được loại
hình du lịch cộng đồng ở Thụy Hải được
không? và nghề muối nói riêng và Thụy Hải
nói chung có thể phát triển được loại hình
du lịch cộng đồng hay không? Để trả lời cho
các câu hỏi này, trước tiên ta cần tìm hiểu về
tiềm năng phát triển du lịch của nghề muối.
Có thể khẳng định rằng, nghề muối
không phải không có tiềm năng để phát triển
du lịch. Nếu biết cách vận dụng và khai thác
một cách linh hoạt sẽ sản xuất ra nhiều loại
sản phẩm khác nhau. Theo bà Tô Trịnh Bích
Diệp, Cục Chế biến Thương mại Nông Lâm
Thủy sản và Nghề muối (Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn), nghề muối tạo ra
nhiều sản phẩm ngoài muối như: nước chạt
(dùng tắm rất có lợi cho sức khỏe). Bên cạnh
đó, nước khoáng làm từ muối biển, là loại
nước uống hảo hạng còn tuyệt vời hơn cả
nước khoáng thông thường. Hiện tại, Nhật
Bản đang sản xuất loại nước khoáng độc
đáo này thông qua công nghệ thẩm tích trao
đổi i-on, tạo ra loại nước uống rất đặc biệt,
gọi là Nigari rất có lợi cho sức khỏe, làn da,
đặc biệt đối với người béo phì, ăn kiêng.
Với khả năng có thể khai thác được
nhiều sản phẩm từ nghề muối đã cho thấy
việc xây dựng mô hình du lịch cộng đồng
tại Thái Thụy (Thái Bình) là có tính khả
thi. Đến với loại hình du lịch cộng đồng, du
khách sẽ được tham quan, tìm hiểu về các
di tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối. Sau
đó được trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất muối của người dân theo phương thức
truyền thống, trực tiếp sản xuất ra những hạt
muối trắng ngần để hiểu hơn về sự gian khổ,
khó khăn, cũng như có những trải nghiệm
thú vị cùng với diêm dân từ giai đoạn phơi
cát cho đến thu hoạch muối. Và lúc này,
chính những diêm dân sẽ là người hướng
dẫn viên nhiệt tính giới thiệu, hướng dẫn cho
du khách thực hiện từng bước của giai đoạn
sản xuất muối. Những trải nghiệm thực tế
đó sẽ khơi gợi thêm cho du khách niềm yêu
61 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
thích tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc, lịch sử
phát triển cũng như những giá trị của các di
tích gắn liền với một tục thờ, với vị Thành
Hoàng của làng nghề muối - Bà Chúa Muối
đã tồn tại trên mảnh đất muối biển mặn mòi
này suốt 700 năm qua. Sau khi tham gia làm
muối, kết thúc một ngày trải nghiệm thực
tế đã thấm mệt, du khách sẽ được ngâm
mình trong làn nước muối chạt, loại nước
do chính tay du khách làm ra. Với nhiệt độ
ấm nóng, ngoài cảm giác được tận hưởng sự
khoan khoái, dễ chịu sau chuyến hành trình
dài, nước chạt còn rất tốt cho sức khỏe, có
tác dụng chữa bệnh và làm đẹp.
Du lịch cộng đồng không chỉ dừng lại ở
việc tham gia trải nghiệm thực tế trên ruộng
đồng, mà còn là sự trải nghiệm về sinh hoạt
đời thường của người dân. Đến với loại hình
du lịch cộng đồng được xây dựng tại Thụy
Hải trong tương lai, du khách sẽ còn được
ở tại gia đình của người dân, được trực tiếp
tham gia vào sinh hoạt đời thường, được
thưởng thức những món ăn đặc sản của vùng
miền do chính tay người diêm dân nấu, hoặc
do chính tay du khách nấu. Chắc chắn đó sẽ
là một trải nghiệm thú vị cho du khách. Hiện
nay, ở nhiều địa phương đang áp dụng loại
hình du lịch cộng đồng và được rất nhiều du
khách tiếp nhận, đây sẽ là cách giúp người
dân giảm bớt sự bấp bênh trong cuộc sống,
vậy tại sao ở Thụy Hải lại không áp dụng
loại hình này để nâng cao đời sống, mức thu
nhập cho người dân nơi đây.
3.3. Đề xuất hướng triển khai mô
hình du lịch cộng đồng ở Thái Thụy
Từ các tiềm năng có thể khai thác được
để phục vụ cho việc phát triển du lịch cộng
đồng, gắn với các di tích thờ Bà Chúa Muối,
tác giả xin mạnh dạn đề xuất hướng triển khai
mô hình du lịch cộng đồng ở Thụy Hải (Thái
Thụy, Thái Bình) theo các bước như sau:
- Kiểm tra các điều kiện phù hợp để
phát triển du lịch cộng đồng và học hỏi kinh
nghiệm từ các địa phương lân cận đã từng
triển khai mô hình du lịch cộng đồng, du
lịch trải nghiệm.
Không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra,
đánh giá điều kiện của địa phương mà cần
phải có một tầm nhìn chung cũng như xác
định mức độ và hình thức tham gia của cộng
đồng vào du lịch cộng đồng. Xác định các
bên liên quan của du lịch cộng đồng: Các
thành phần liên quan là những người tham
gia trực tiếp và gián tiếp hoặc bị ảnh hưởng
bởi các hoạt động du lịch cộng đồng.
- Lựa chọn vùng thực hiện phát triển
loại hình du lịch cộng đồng và thống nhất
sự tham gia vào cuộc của các ban ngành có
liên quan như như Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Giao
thông vận tải
- Điều tra cơ bản nhằm hiểu rõ hơn về
nhu cầu và nguyện vọng của người dân địa
phương.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu nguyện vọng
của người dân sẽ giúp ta hiểu hơn về dân,
hiểu được họ có mong muốn gì, mục tiêu
phát triển họ hướng tới là gì và những mong
muốn nào của họ có thể được chấp nhận và
không thể được chấp nhận bởi các bên liên
quan. Để từ đó có thể đề ra những biện pháp,
chính sách phù hợp, đảm bảo thỏa mãn nhu
cầu, nguyện vọng của các bên tham gia. Cần
có những chính sách và biện pháp sao cho
người dân địa phương cảm thấy rằng họ
được sở hữu, có vai trò nhất định đối với di
tích và được tham gia vào việc thúc đẩy quá
trình phát triển du lịch gắn với các di tích
trên địa bàn quê hương của họ.
- Đánh giá nhu cầu của thị trường và
phân loại đối tượng du khách phục vụ
Việc đánh giá, phân loại này nhằm
62 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
hướng tới mục đích là phục vụ du khách
một cách tốt nhất, đáp ứng đúng nhu cầu của
từng đối tượng du khách nhằm đem lại lợi
ích kinh tế cao nhất.
- Thành lập Ban quản lý du lịch dựa
vào cộng đồng và các nhóm chức năng
Mỗi ban quản lý du lịch cộng đồng
gồm 01 lãnh đạo xã, các trưởng thôn có
tham gia du lịch cộng đồng, 01 kế toán và
nhóm trưởng các nhóm chức năng (dịch vụ).
Các nhóm chức năng gồm 5 nhóm chính:
(1) Nhóm đón tiếp và hướng dẫn:
nhóm này không chỉ tiếp nhận và dẫn khách
đến các điểm tham quan mà còn giới thiệu,
thuyết minh những đặc điểm văn hóa truyền
thống, giá trị lịch sử, giá trị tâm linh của
các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối
và cuộc sống hàng ngày của người dân địa
phương cũng như cách thức làm muối của
người dân Thụy Hải.
(2) Nhóm ẩm thực: chuẩn bị ẩm thực
bảo đảm các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn
thực phẩm, giới thiệu được các món ăn đặc
sản của địa phương tới du khách.
(3) Nhóm văn nghệ: trao đổi văn hóa
với du khách; tổ chức biểu diễn các tiết mục
địa phương chẳng hạn như hát chèo, hát văn,
diễn lại các vở chèo về Bà Chúa Muối để du
khách hiểu hơn về đối tượng thờ tự tại các di
tích, đồng thời cũng là vị Thành Hoàng làng
của người dân địa phương.
(4) Nhóm lưu trú: đối với dịch vụ lưu
trú phục vụ khách có thể triển khai theo hai
hướng. Một là lưu trú homestay (du khách
lưu trú và ăn uống tại nhà của người dân địa
phương). Hai là khách sẽ sử dụng dịch vụ
lưu trú tại khu du lịch Cồn Đen.
(5) Nhóm dịch vụ bổ sung: Nhóm này
sẽ làm nhiệm vụ giới thiệu, phục vụ nhu cầu
tham gia loại hình tắm nước chạt ấm nóng để
chữa bệnh và làm đẹp của du khách. Đồng
thời chế tác ra những món đồ lưu niệm từ
những sản phẩm của địa phương như sò,
hến, ốc làm vật lưu niệm cho du khách.
Những người tham gia vào Ban quản
lý phải là những người tâm huyết với di
tích cũng như với việc phát triển du lịch
cộng đồng, có uy tín với cộng đồng và có
thời gian để triển khai các hoạt động của
địa phương.
- Xây dựng nội quy, quy chế về du lịch
cộng đồng tại địa phương
Để du lịch cộng đồng gắn với các di
tích thờ Bà Chúa Muối được thực hiện một
cách hiệu quả, đạt kết quả cao nhằm tạo điều
kiện cho khách du lịch tìm hiểu đời sống,
văn hóa truyền thống của địa phương, tìm
hiểu về các giá trị của di tích, đồng thời góp
phần bảo tồn và phát huy giá trị của các
di tích và tạo thu nhập cho người dân địa
phương, ban quản lý du lịch cộng đồng cần
xây dựng bản nội quy về hoạt động du lịch
cộng đồng và đề nghị tất cả người dân địa
phương, khách du lịch và công ty lữ hành
thực hiện. Trước khi ban hành nội quy, ban
quản lý phải tổ chức các cuộc tham khảo
ý kiến, lấy thông tin của mọi người để xây
dựng các quy định phù hợp với cộng đồng,
khách du lịch. Nên gửi các bản nội quy này
đến các công ty lữ hành, hướng dẫn viên để
xin những nhận xét, đánh giá của họ để có
bản nội quy hợp lý. Nội quy cần được thông
báo tới tất cả cộng đồng dân cư và niêm yết
ở những nơi thích hợp để mọi người dễ dàng
nhận thấy.
- Giải pháp phân phối lợi ích kinh tế từ
du lịch cộng đồng
Tham gia du lịch cộng đồng sẽ tạo ra
thu nhập cho người dân và đóng góp vào
nền kinh tế của địa phương. Những lợi ích
kinh tế từ du lịch cần được phân chia rõ
63 TẠP CHÍ KHOA HỌC, SỐ 33, THÁNG 3/2019
ràng, cụ thể và hợp lý để đóng góp thiết thực
làm thay đổi chất lượng cuộc sống của cả
cộng đồng.
Hộ dân nào phục vụ khách sẽ được
hưởng nguồn thu nhập nhất định, tuy nhiên
giải pháp đề ra là cần trích một số phần
trăm từ nguồn thu đó, đóng góp về cho
một quỹ do ban quản lý du lịch cộng đồng
chịu trách nhiệm. Nguồn quỹ do các hộ dân
đóng góp sẽ được sử dụng để tái đầu tư tôn
tạo cơ sở vật chất du lịch và đóng góp cho
các hoạt động diễn ra tại di tích như lễ hội,
các ngày kỉ niệm ngày sinh, ngày mất của
Bà Chúa Muối hay các hoạt động chung
của địa phương.
Cũng phải chú ý xây dựng bảng giá
chung phù hợp áp dụng cho cộng đồng khi
làm du lịch, trách tình trạng áp đặt giá với
khách cũng như những tranh chấp về giá
giữa mỗi hộ gia đình để lôi kéo khách.
3. KẾT LUẬN
Các di tích gắn với tục thờ Bà Chúa
Muối tại xã Thụy Hải, Thái Thụy, Thái Bình
là những điểm đến mới lạ, ở đó chứa đựng
các giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh, tín
ngưỡng, gắn liền với bao thăng trầm lịch sử
của người dân địa phương. Tuy nhiên, Thái
Thụy nói riêng và Thái Bình nói chung đang
trên đà phát triển nên còn nhiều khó khăn,
thiếu thốn về nhiều mặt. Do đó để khai thác
tốt các di tích phục vụ cho việc phát triển
du lịch thì các cấp chính quyền địa phương
cần có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa và có
những biện pháp bảo tồn, tu bổ, khôi phục
các di tích, để trong tương lai gần nhất, các
di tích này sẽ trở thành điểm đến, điểm kết
nối trong các chương trình du lịch và xa hơn
là phát triển thành một điểm du lịch độc lập,
đón khách đến thăm và tham gia vào một
loại hình du lịch mới, du lịch cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Đức, Phạm Thị Nét, Phạm Thị Lan (1991), Hội lễ dân gian ở Thái Bình, Sở
Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Bình.
2. Vũ Tam Lang (2010), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
3. Bùi Linh Linh – Bùi Khôi Nguyên (2004), Nguồn gốc của các tổ nghề, Nxb Hà Nội.
4. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Minh (2013), Chuyện Bà Chúa Muối, Nxb Văn hóa Thông tin.
6. Bùi Xuân Nhàn (2009), Phát triển du lịch nông thôn ỏ nước ta hiện nay, tạp chí cộng
sản số 29.
7. Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Bình (1999), Hội Làng Quang Lang với tục múa ông
Đùng Bà Đà và tục rước nước reo ống trên biển.
8. Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Bình (2002), Ngàn năm đất và người Thái Bình.
9. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb Khoa học Xã hội.
10. Vũ Thị Xoan (2016), Khóa luận Khai thác một số di tích gắn với tục thờ Bà Chúa Muối
ở Thái Thụy nhằm phát triển du lịch tỉnh Thái Bình, Trường Đại học Hải Phòng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_xuat_xay_dung_mo_hinh_du_lich_cong_dong_gan_voi_nghe_muoi.pdf