Những di sản văn hóa thế giới của
nước ta vừa kể trên là xứng tầm hạng nhất
của nhân loại. Quan điểm về lợi thế, về tài
nguyên du lịch của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cần
phải thay đổi căn bản về nhận thức, quản lý
di sản và phải coi đây là tài sản của nhân
loại, không phải của riêng Việt Nam
(nhưng do Việt Nam bảo tồn, phát huy và
khai thác). Nhân loại có quyền được tiếp
cận, tận hưởng tài nguyên đó và có trách
nhiệm với chúng. Bằng cách nào đó, chúng
ta phải góp sức biến những tiềm năng đó
thành lợi ích hiện thực của nhân dân Việt
Nam và nhân loại, ở cấp độ xứng với tầm
“hạng nhất thế giới”. Bài viết này góp thêm
tiếng nói để một ngày sắp tới, ngành Du
lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn.
14 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam với phát triển du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
65
DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI Ở VIỆT NAM
VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
WORLD CULTURAL HERITAGE IN VIETNAM WITH TOURISM DEVELOPMENT
PHAN HUY XU
và VÕ VĂN THÀNH
PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, xuphanhuy@gmail.com, Mã số: TCKH09-02-2018
ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, vonhanchi@gmail.com
TÓM TẮT: Việt Nam có 27 di sản thiên nhiên và văn hóa được UNESCO công nhận dưới
nhiều danh hiệu khác nhau. Ngoài ba di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long, Vườn
quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Cao nguyên đá Đồng Văn, chúng ta có đến 24 di sản
văn hóa được UNESCO vinh danh. Những di sản văn hóa thế giới đó là tiềm năng to lớn
để phát triển du lịch di sản ở Việt Nam. Du khách bị hấp dẫn bởi các điểm đến có sự bổ
sung giữa cảnh đẹp tự nhiên và nền văn hóa truyền thống, gây ấn tượng mạnh và độc đáo,
đặc biệt là các di sản văn hóa đã được UNESCO vinh danh. Bài viết này, chúng tôi đề cập
đến Di sản Văn hóa Thế giới ở Việt Nam trong phát triển du lịch cùng những vấn đề có
liên quan như một số khái niệm về di sản văn hóa thế giới của UNESCO với những tiêu chí
công nhận, di sản văn hóa phi vật thể thế giới cũng như tiềm năng, thực trạng bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam trong du lịch.
Từ khóa: Di sản Văn hóa Thế giới, di sản văn hóa phi vật thể, du lịch di sản, phát huy giá
trị di sản, quản lý di sản,...
ABSTRACTS: There are 27 natural and cultural heritages of Vietnam recognized by
UNESCO under various titles. In addition to the three world natural heritages, Ha Long
Bay, Phong Nha-Ke Bang National Park and Dong Van Karst Plateau, there are other 24
cultural heritages that recognized. World cultural heritages are great potential for the
development of heritage tourism in Vietnam. Visitors are fascinated by the places that
include between natural beauty and traditional culture, which are impressive and unique,
especially the cultural heritage was honored by UNESCO. In this article, we refer to the
World Cultural Heritage in Vietnam in tourism development and related issues and some
definitions of UNESCO's World Cultural Heritage with the criteria for accreditation. Also,
we mention to the potential and current status of preserving and promoting the value of
world cultural heritages in Vietnam to develop tourism.
Key words: World Cultural Heritage, intangible cultural heritage, heritage tourism,
promotion of heritage values, heritage management, etc.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
66
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia có nhiều di
sản được UNESCO công nhận. Đến hết
năm 2017, Việt Nam có tất cả 27 Di sản
Thế giới, trong đó có 3 Di sản Thiên nhiên
Thế giới và 24 Di sản Văn hóa Thế giới
dưới nhiều danh hiệu. Như vậy, tiềm năng
di sản của nước ta rất to lớn. Nhưng về mặt
bảo tồn, phát huy và khai thác giá trị di sản
văn hóa thế giới chưa tương xứng với tiềm
năng. Bài viết này bước đầu tìm hiểu một
số khái niệm và tiêu chí về di sản văn hóa
thế giới, phân tích tiềm năng, thực trạng
bảo tồn và khai thác các di sản văn hóa thế
giới ở nước ta, đặc biệt, đối với sự phát
triển của du lịch. Đồng thời, bài viết cũng
nêu một số giải pháp về khai thác di sản
văn hóa thế giới trong du lịch thời kỳ hội
nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
2. NỘI DUNG
Chúng tôi trích dẫn một số khái niệm
về di sản văn hóa, di sản văn hóa phi vật
thể của UNESCO làm cơ sở khoa học
nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa di sản văn
hóa thế giới và phát triển du lịch, vốn được
xem là một ngành kinh tế mũi nhọn theo
Nghị quyết số 08 - NQ/TW đã đề ra.
2.1. Khái niệm và tiêu chí về Di sản Văn
hóa của UNESCO
Theo Công ước về Bảo vệ Di sản Văn
hóa và Thiên nhiên Thế giới (Convention
Concerning the Protection of the World
Cultural and Natural heritage) của
UNESCO, họp tại Paris từ 17/10 đến
21/11/1972, kỳ họp lần thứ 17, tại Khoản 1,
Điều 1 có quy định Di sản văn hóa là:
“Các công trình kiến trúc, tác phẩm
điêu khắc và hội họa hoành tráng, các yếu
tố hay cấu trúc có tính chất khảo cổ học,
bia ký, hang cư trú và các đặc trưng kết
hợp, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo
quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học;
Quần thể các công trình xây dựng:
Quần thể các công trình xây dựng tách biệt
hay liên kết lại với nhau, do kiến trúc và
tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong
cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo
quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học;
Các di chỉ: các công trình do con
người tạo nên hoặc có sự kết hợp giữa
thiên nhiên và nhân tạo, và các khu vực
trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi
bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử,
thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng
học” [1, tr.17].
Di sản thế giới đã được UNESCO công
nhận từ nhiều năm trước, tuy nhiên, cho
đến cuối năm 2004, Ủy ban Di sản Thế giới
mới đưa ra 6 tiêu chí cho di sản văn hóa và
4 tiêu chí cho di sản thiên nhiên. Các tiêu
chí công nhận Di sản Văn hóa Thế giới:
“(i) Là một kiệt tác cho thấy thiên tài sáng
tạo của con người; (ii) Biểu hiện sự giao
lưu các giá trị của con người, trong một
thời gian dài hoặc trong một khu vực văn
hóa của thế giới, về những bước phát triển
trong kiến trúc, nghệ thuật tượng đài hoặc
quy hoạch thành phố và thiết kế cảnh quan;
(iii) Là minh chứng độc đáo hoặc chí ít
cũng là hiếm có cho truyền thống văn hóa
hoặc cho một nền văn minh còn đang tồn
tại hoặc đã mất; (iv) Là một mẫu hình nổi
bật của một loại công trình xây dựng hoặc
quần thể kiến trúc hay cảnh quan minh họa
cho một (các) giai đoạn trong lịch sử nhân
loại; (v) Là một mẫu hình nổi bật về nơi
sinh sống truyền thống hoặc sử dụng đất
đai của con người đại diện cho một (hoặc
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
67
nhiều) nền văn hóa, đặc biệt khi nó trở nên
dễ bị tổn thương do tác động của những
biến đổi không cưỡng lại được; (vi) Liên
quan trực tiếp hoặc đích thực tới các sự
kiện hay truyền thống đang còn tồn tại, với
những ý tưởng hoặc niềm tin, với các tác
phẩm nghệ thuật hoặc văn học có ý nghĩa
toàn cầu nổi bật (tiêu chuẩn này chỉ được
xem xét trong những hoàn cảnh đặc biệt
hoặc liên quan đến các tiêu chí văn hóa
hoặc thiên nhiên khác khi Ủy ban xem xét
có đưa vào danh sách Di sản Thế giới hay
không)” [11; 3, tr.5].
Mỗi di sản văn hóa có những nét đặc
trưng và đặc thù vốn có mà UNESO dựa
vào những tiêu chí cụ thể để quyết định
công nhận nó là Di sản Văn hóa Thế giới
hay là không.
Về Di sản Văn hóa phi vật thể Thế
giới, tại Khoản 1, Điều 2, Mục 1 của Công
ước bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể
(Convention for the Safeguarding of the
Intangible Cultural heritage) của UNESCO
năm 2003 ghi nhận: “Di sản văn hóa phi
vật thể được hiểu là các tập quán, các hình
thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và
kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ
tạo tác và các không gian văn hóa có liên
quan mà các cộng đồng, các nhóm người và
trong một số trường hợp là các cá nhân,
công nhận là một phần di sản văn hóa của
họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được
các cộng đồng, các nhóm người không
ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường
và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với
tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình
thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế
tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối
với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của
con người. Vì những mục đích của Công
ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa
phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc
tế hiện hành về quyền con người, cũng như
những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau
giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá
nhân và về phát triển bền vững” [10, tr.3;
3, tr.5]. Đây là cách hiểu chính thức của
UNESCO về Di sản văn hóa phi vật thể các
nước thành viên chấp thuận và vận dụng
toàn cầu.
Như vậy, theo UNESCO, Di sản văn
hóa phi vật thể được biểu đạt dưới các hình
thức: “(a) Các truyền thống và biểu đạt
truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương
tiện của di sản văn hóa phi vật thể; (b)
Nghệ thuật trình diễn; (c) Tập quán xã hội,
tín ngưỡng và các lễ hội; (d) Tri thức và
tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ;
(e) Nghề thủ công truyền thống” [10, tr.4].
Theo UNESCO & ICH (2004), Di sản Văn
hóa phi vật thể còn là truyền thống, đương
đại và sống cùng một lúc (Traditional,
contemporary and living at the same time).
Nghĩa là, di sản văn hóa phi vật thể không
chỉ là những truyền thống được truyền tải
lại từ quá khứ mà còn bao gồm các tập
quán đương đại của nhiều nhóm văn hóa
khác nhau ở vùng nông thôn và thành thị.
Ngoài ra, di sản văn hóa phi vật thể còn thể
hiện ở Tính tổng quát (Inclusive), Tính đại
diện (Representative) và Tính dựa vào cộng
đồng (Community-based) [12].
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
68
2.2. Tiềm năng, thực trạng và giải pháp
khai thác các Di sản Văn hóa Thế giới
trong phát triển du lịch
2.2.1. Tiềm năng du lịch của các Di sản
Văn hóa Thế giới ở Việt Nam
Đến hết năm 2017, Việt Nam có đến
27 Di sản Thế giới được UNESCO công
nhận thuộc các lĩnh vực như: Di sản thiên
nhiên, di sản địa chất toàn cầu, di sản văn
hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể, di
sản tư liệu, di sản hỗn hợp và di sản đa
quốc gia. Ngoài ba di sản thiên nhiên thế
giới là vịnh Hạ Long (1994 và 2000), Vườn
Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (2003 và
2015) và Cao nguyên đá Đồng Văn (2010),
chúng ta có đến 24 Di sản Văn hóa Thế
giới dưới nhiều danh hiệu đã được
UNESCO vinh danh (theo trình tự thời
gian): Quần thể di tích cố đô Huế đã trùng
tu, bảo tồn và được UNESCO công nhận là
Di sản Văn hóa Thế giới (1993). Khu đền
tháp Mỹ Sơn (1999), một tuyệt tác văn
minh đỉnh cao của dân tộc Chăm và một số
tộc người khác cư trú dọc theo dải đất miền
Trung dài và hẹp. Đô thị Hội An (1999)
từng là nơi giao thương và giao thoa của
nhiều nền văn hóa ở khu vực và thế giới từ
thế kỷ XVII có sức sống đến mãi hôm nay.
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng
Long - Hà Nội được UNESCO công nhận
là Di sản Văn hóa Thế giới (2010) với sức
hấp dẫn đặc biệt là di sản văn hóa của Thủ
đô ngàn năm văn hiến, trái tim của Việt
Nam hay “Thành phố vì hòa bình”, nơi lưu
giữ nền văn hóa của người Việt trong nhiều
thế kỷ. Thành nhà Hồ (2011) ở Thanh Hóa,
di sản của một triều đại có nhiều khao khát
canh tân trong lịch sử phong kiến Việt
Nam. Vừa qua, UNESCO công nhận Cao
Bằng là công viên địa chất toàn cầu. Đây là
công viên địa chất thứ hai ở Việt Nam.
Về sức sống của những di sản văn hóa
phi vật thể tại các cộng đồng tộc người ở
Việt Nam càng đa dạng và phong phú. Nhã
nhạc cung đình Việt Nam - âm nhạc tinh
hoa của các triều đại phong kiến Việt Nam
kết tinh ở triều đại nhà Nguyễn - được
UNESCO sớm công nhận là Di sản văn
hóa phi vật thể của nhân loại (2003).
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên (2005) của các tộc người cư trú
trên địa bàn Tây Nguyên, một di sản văn
hóa độc đáo và đặc sắc của các tộc người ở
vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên.
Dân ca Quan họ được UNESCO công nhận
là Di sản văn hóa phi vật thể Thế giới
(2009), đây là loại hình nghệ thuật âm nhạc
thuộc cái nôi văn hóa lâu đời của người
Việt. Nghệ thuật Ca trù được UNESCO
công nhận là Di sản Văn hóa truyền miệng
và phi vật thể của nhân loại vào năm 2009,
đây là âm hưởng của nghệ thuật âm nhạc
phong lưu thời phong kiến ở Việt Nam. Hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc được
UNESCO công nhận Di sản Văn hoá phi
vật thể đại diện của nhân loại (2010). Hát
xoan được UNESCO công nhận là Di sản
Văn hóa phi vật thể của nhân loại cần phải
bảo vệ khẩn cấp (2011) và chính thức được
công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại (12/2017). Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được
UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi
vật thể Thế giới (2012), tri ân các bậc anh
hùng dựng nước, có thể xem là tín ngưỡng
Quốc tổ của người Việt. Nghệ thuật Đờn ca
Tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận
là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
69
(2013), âm vang đầy chất tài tử và hào khí
người Nam Bộ. Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh
được UNESCO công nhận là Di sản Văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
(2014). Lần đầu tiên, chúng ta có một Di
sản đa quốc gia đó là Nghi lễ và trò chơi
Kéo co, được UNESCO công nhận là Di
sản Văn hóa phi vật thể đa quốc gia (gồm
Việt Nam, Campuchia, Philippines và Hàn
Quốc) (2015), đây là trò chơi thú vị của các
dân tộc có những nét tương đồng về văn
hóa ở châu Á. Thực hành tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ của người Việt - Di sản Văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được
UNESCO công nhận (12/2016) với những
nét độc đáo của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ ở người Việt, tín ngưỡng này thể hiện
những giá trị văn hóa truyền thống trong
tâm thức của người Việt. Ngoài ra, nó còn
được xem như một “bảo tàng sống” lưu giữ
lịch sử, di sản và bản sắc văn của người
Việt. Thông qua việc kết hợp một cách
nghệ thuật các yếu tố văn dân gian như
trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa,
diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ
hội. Nghệ thuật Bài Chòi miền Trung được
UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi
vật thể của nhân loại (12/2017) đóng góp
thêm cho Việt Nam một Di sản Văn hóa
phi vật thể mang tầm cỡ nhân loại với
những nét độc đáo về hình thức trình diễn,
thể hiện tính nguyên hợp của diễn xướng
dân gian,
Mặt khác, Việt Nam còn có một loạt
các di sản tư liệu đã được UNESCO công
nhận có thể kể đến như: Mộc bản triều
Nguyễn được UNESCO công nhận từ năm
2009 với ý nghĩa đặc biệt là bằng chứng
của một nền văn hóa chữ viết của một dân
tộc mà cụ thể là người Việt. Bia đá các
khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc được
UNESCO công nhận từ năm 2010 với sức
hấp dẫn là nơi rạng danh các bậc hiền tài,
kẻ sĩ trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Mộc bản kinh Phật thiền phái Trúc Lâm
chùa Vĩnh Nghiêm là di sản thuộc chương
trình Ký ức Nhân loại được UNESCO công
nhận (2012) với nét văn hóa độc đáo là nơi
lưu giữ những tinh hoa của Thiền phái Trúc
Lâm ở Việt Nam. Châu bản triều Nguyễn
là di sản thuộc chương trình Ký ức nhân
loại được UNESCO công nhận (2014) với
những nét riêng có là những châu phê, điệp
sớ, công văn còn lưu lại của các vị vua triều
đại nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Thơ văn trên
kiến trúc cung đình Huế là di sản thuộc
chương trình Ký ức Nhân loại được
UNESCO công nhận (2016) với những nét
đặc sắc là những sáng tác văn thơ tuyệt tác
của các bậc minh quân triều Nguyễn trên
các kiến trúc kinh thành Huế. Cùng thời
điểm đó, Việt Nam có thêm Mộc bản
trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) được
vinh danh là di sản thuộc chương trình Ký
ức Nhân loại với nét độc đáo là nơi lưu giữ
nếp gia phong, giáo dục của dòng họ
Nguyễn Huy ở Hà Tĩnh. Hơn thế nữa, Việt
Nam còn có một di sản hỗn hợp rất đặc biệt
đã được UNESCO công nhận là Quần thể
danh thắng Tràng An (2014), một sự kết
hợp độc đáo giữa tạo hóa thiên nhiên và
sức sáng tạo của con người.
Điểm danh các Di sản Văn hóa Thế
giới ở Việt Nam, chúng ta lấy làm tự hào
về sức sáng tạo của các tộc người cư trú
trên lãnh thổ mang hình dáng chữ S và việc
phát huy các giá trị di sản này trong du lịch
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
70
là tất yếu trong phát triển du lịch của nước
nhà vốn đã được định hướng là ngành mũi
nhọn trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Trong nhiều chuyến du lịch của du khách,
văn hóa là một trong những mục đích
chính, là đối tượng mà du khách muốn tìm
hiểu, trải nghiệm, thẩm nhận, tận hưởng sự
khác biệt với văn hóa mà họ đang có. Theo
số liệu điều tra của Tổ chức du lịch Thế
giới (UNWTO) “Có đến hơn 80% số khách
đi du lịch nhằm vào mục đích hưởng thụ
các giá trị văn hóa độc đáo và khác biệt với
nền văn hóa của dân tộc họ. Họ bị hấp dẫn
bởi các điểm đến có sự bổ sung giữa cảnh
đẹp tự nhiên và nền văn hóa truyền thống,
gây ấn tượng mạnh và độc đáo. Du khách
muốn được xem và hưởng thụ những giá trị
văn hóa đích thực, sống động trong cuộc
sống hằng ngày của người dân bản địa.
Điều này hấp dẫn hơn rất nhiều so với
những gì được tái tạo lại trong một viện
bảo tàng, một cuộc triển lãm hoặc trình
diễn,...” [5, tr.183-184].
2.2.2. Thực trạng khai thác các Di sản
Thế giới ở Việt Nam trong du lịch
Các di sản thế giới có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển du lịch bền
vững. Chúng ta cần dựa vào Công ước về
Bảo vệ Di sản Thiên nhiên và Văn hóa của
UNESCO (1972), Công ước về Bảo vệ Di
sản Văn hóa phi vật thể Thế giới (2003)
cũng như các bộ luật của Việt Nam như
Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch, Luật
bảo vệ rừng, Luật Đa dạng sinh học,
Vấn đề đầu tiên là nhận thức thực hiện
của các bên liên quan, bao gồm cơ quan
quản lý nhà nước, chính quyền địa phương,
nhà đầu tư, doanh nghiệp du lịch, du khách.
Một số địa phương đã ban hành quy chế
quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch
sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh và
Quy tắc ứng xử nơi công cộng. Nhưng có
một số điểm đến việc tổ chức chưa khoa
học, nên khó kiểm soát và điều chỉnh hành
vi liên quan, làm cho di sản có nguy cơ bị ô
nhiễm do quá tải về “sức chứa” du khách.
Một số nơi đặt doanh thu lợi nhuận lên trên
việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa di
sản. Vì vậy, phải có thái độ ứng xử có trách
nhiệm giữa các bên liên quan trong hoạt
động khai thác các giá trị di sản văn hóa thế
giới nói trên. Với những di sản mang tầm
cỡ thế giới, đẳng cấp cao nhất của nhân loại
đa dạng và phong phú nêu trên là lợi thế
của Việt Nam mà không nhiều quốc gia có
được sẽ giúp cho ngành Du lịch Việt Nam
phát triển đột phá và trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn như được kỳ vọng. Theo
bà Trần Mai Anh, Trưởng ban biên tập Tạp
chí Heritage: “hơn 70% số lượng khách
quốc tế đến Việt Nam với lý do khám phá
những nét độc đáo của bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam thông qua những chuyến
tham quan thực tế tại các di sản, nhất là
các di sản thế giới. Điều đó đã khẳng định
vai trò của các di sản đối với sự phát triển
của ngành du lịch” [6].
Bảo tồn và phát huy là hai mặt của một
thể thống nhất, tác động tương hỗ để thúc
đẩy sự phát triển văn hóa, kinh tế và xã hội.
Chúng tôi dùng thuật ngữ phát huy chứ
không phải là khai thác để tránh sự nhận
thức phiến diện và triển khai thành hành
động thực tiễn cực đoan đã và đang diễn ra
tại nhiều quốc gia trên thế giới (trong đó có
Việt Nam) với nhiều di sản tự nhiên và văn
hóa bị khai thác bừa bãi, không có chính
sách bảo tồn tốt làm xuống cấp di sản văn
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
71
hóa, thậm chí là xóa sổ chúng. Do đó, giữa
bảo tồn và phát huy giá trị di sản có mối
quan hệ biện chứng. Du lịch dựa vào bảo
tồn di sản để phát huy nhưng đồng thời du
lịch lại cung cấp kinh phí đầu tư, tái tạo cho
bảo tồn di sản. Theo dự án Chương trình
Phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm
với môi trường và xã hội (Environmentally
and Socially Responsible Tourism Capacity
Development Programme, viết tắt là ESRT,
gọi tắt là Dự án EU): 37% du khách “có tác
động có văn hóa”. Du khách di sản văn hóa
thường đi thăm từ 2 đến 2,5 lần và chi tiêu
nhiều hơn. Bà Dương Bích Hạnh, Trưởng
ban Văn hóa, Văn phòng UNESCO tại Việt
Nam cho rằng: “Di sản văn hóa là yếu tố
quan trọng để thúc đẩy du lịch, ngược lại,
du lịch góp phần phục hưng, bảo tồn di
sản, đem lại lợi ích kinh tế và tăng cường
đối thoại giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên,
nếu không phát triển đúng hướng du lịch
cũng góp phần gây tác hại cho di sản” [8].
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm
2016 có 40% khách du lịch nước ngoài đến
Việt Nam tham quan các địa danh có di sản
nổi tiếng [13]. Năm 2017, Du lịch di sản
văn hóa thế giới ở Việt Nam tăng mạnh.
Danh thắng Tràng An đón gần 6,126 triệu
lượt khách (trong đó gần 711 nghìn lượt
khách quốc tế), doanh thu từ phí danh lam
và phí chở đò đạt khoảng 652,2 tỷ đồng.
Quần thể di tích Cố đô Huế đón khoảng 3
triệu lượt khách (trong đó hơn 1,8 triệu lượt
khách quốc tế), thu từ vé hơn 320 tỷ đồng
(tăng gấp bốn lần so với năm 2011), Đô
thị Hội An đón 1,96 triệu lượt khách (trong
đó hơn 1,5 triệu lượt khách quốc tế), thu từ
vé khoảng 219 tỷ đồng. Thánh địa Mỹ Sơn
đón hơn 350 nghìn lượt khách (trong đó
hơn 300 nghìn lượt khách quốc tế), thu từ
vé hơn 50 tỷ đồng [7].
Tuy nhiên, xét về tổng thể, du lịch Việt
Nam chưa thật sự khai thác tốt 27 Di sản
Thế giới và chưa đóng góp tốt để phát huy
giá trị di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam
(vì nhiều lý do như di sản xuống cấp, tổ
chức giới thiệu và quảng bá yếu, điểm đến
còn nhiều vấn đề,). Ví dụ, các nhà cung
ứng dịch vụ du lịch cần hiểu rằng, bảo vệ
Di sản Thiên nhiên Thế giới vịnh Hạ Long
tránh để di sản bị xuống cấp, suy thoái, ô
nhiễm là trách nhiệm chung. Vịnh Hạ Long
không ít lần bị UNESCO “huýt còi” bởi bất
cập trong quản lý, bảo vệ di sản, xả chất
thải, tràn dầu, san lấp lấn biển,... Đô thị Hội
An đối mặt với “sức chứa” du khách quá
lớn. Nếu vi phạm, UNESCO sẽ rút lại danh
hiệu di sản thế giới. Gần đây, Di sản thế
giới Tràng An bị xâm hại ngang nhiên,
đoàn Thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch sau khi kiểm tra đã có kết luận bước
đầu, việc xây dựng trên núi Huyền Vũ (Cái
Hạ) là hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật
Di sản văn hóa và vi phạm Nghị định số
109/2017/NĐ – CP ngày 21/9/2017 của
Chính phủ Quy định về bảo vệ và quản lý
di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở
Việt Nam, xâm hại nghiêm trọng đến Di
sản văn hóa và thiên nhiên thế giới duy
nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á [14].
Mặc dù, hiện nay Công ty cổ phần du lịch
Tràng An đã xin tự nguyện tháo dỡ công
trình xâm hại vùng lõi của di sản nhưng
đây là một bài học đắt giá về ý thức và
quản lý của chúng ta.
Trong những năm gần đây, Việt Nam
phát triển du lịch di sản, nhưng cũng đang
đặt ra những nỗi lo: làm sao cân bằng được
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
72
việc phát triển du lịch và bảo tồn di sản.
Bảo tồn và phát huy, có chăng sự tồn tại
song hành? Phát triển mà xem nhẹ bảo tồn
thì không thể phát triển bền vững được và
ngược lại chỉ bảo tồn mà không phát huy
thì chỉ duy trì được giá trị tự thân của sự
vật/di sản. Muốn phát huy di sản thì phải
dựa vào du lịch, đó là điều mà nhiều người
có thể nhìn thấy được và thực tế nhiều nước
đã áp dụng thành công. Do đó, chúng ta
phải nỗ lực đạt được sự cân bằng trong phát
triển du lịch với việc giữ gìn, phát huy giá
trị di sản mang đẳng cấp cao nhất của nhân
loại đã được UNESCO công nhận. Di sản
thế giới là tài sản vô giá, đẳng cấp cao nhất
của nhân loại, do đó, chúng ta phải bảo tồn
và phát huy có hiệu quả trong du lịch. Điều
này cần phải được nhà nước, doanh nghiệp
và cộng đồng thấm nhuần và kiên quyết
thực hiện.
Di sản văn hóa, đặc biệt là các di sản
văn hóa được UNESCO công nhận là đối
tượng và nội dung chủ yếu của du lịch như
chúng tôi đã phân tích, là nơi hoạt động của
chuỗi giá trị du lịch và làm tăng giá trị của
du lịch và du lịch văn hóa nói chung, du
lịch di sản nói riêng là xu hướng của du
lịch thời kỳ hội nhập quốc tế.
2.2.3. Giải pháp đối với các Di sản Văn
hóa Thế giới trong du lịch
Du lịch Việt Nam với nhiều lợi thế về
tài nguyên tự nhiên cũng như văn hóa mà
đặc biệt là các di sản văn hóa được
UNESCO công nhận là nguyên liệu đầu
vào giúp tạo ra các sản phẩm du lịch khác
biệt và đẳng cấp thế giới mà chúng ta cần
phát huy giá trị của chúng. Trong các cuộc
hội thảo khoa học về du lịch, các công trình
nghiên cứu được công bố gần đây đề cập
đến mối liên hệ giữa di sản văn hóa và phát
triển du lịch cũng như mối liên hệ biện
chứng giữa bảo tồn và phát huy giá trị của
chúng trong du lịch (Có thể kể đến Hội
thảo Phát triển du lịch Việt Nam trong thời
kỳ mới do Ban Kinh tế Trung ương, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch & Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại
Hà Nội, tháng 7/2015; Hội nghị toàn quốc
về phát triển du lịch được tổ chức tại Khu
nghỉ dưỡng Palm Garden, thành phố Hội
An, ngày 9/8/2016; Hội Thảo Quốc tế Các
loại hình du lịch hiện đại được tổ chức tại
Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và
Du lịch Sài Gòn, ngày 20 & 21/10/2016;
Nghị quyết số 08 - NQ/TW Về phát triển du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
Bộ Chính trị (ngày 16/01/2017),... Di sản
văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử
(Phan Huy Lê, 2015), Du lịch Việt Nam
thời kỳ hội nhập (Trần Thị Minh Hòa (Chủ
biên, 2015), Tiếp biến và hội nhập văn hóa
ở Việt Nam (Nguyễn Văn Kim (Chủ biên,
2016)). Di sản văn hóa là linh hồn của các
điểm du lịch, làm tăng lên nhiều lần giá trị
của điểm đến. Ngược lại, nếu không có du
lịch phát huy các giá trị, giới thiệu, biến
thành những sản phẩm du lịch để du khách
tiếp cận thì di sản văn hóa sẽ thiếu đi sức
sống, không có cơ hội để phát lộ các giá trị
và thậm chí trở thành gánh nặng chí phí
trong việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn
hóa. Nói rõ hơn, sự phát triển của du lịch
không thể tách rời di sản văn hóa và du lịch
văn hóa chính là cầu nối để di sản đến với
du khách trong và ngoài nước [4, tr.327].
Vấn đề quan trọng hiện nay là làm sao
chúng ta “Biến di sản thành tài sản, biến
văn hóa thành hàng hóa, biến tài nguyên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
73
thành tài chính, biến nguồn lực thành động
lực, biến môi trường thành thị trường, biến
giá trị thành giá cả” như quan điểm phát
triển du lịch của TS. Đặng Thị Bích Liên,
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã phát biểu để tăng cường quảng bá
văn hóa Việt Nam ra thế giới. Chúng tôi
nêu một số giải pháp thiết thực trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
thế giới ở Việt Nam trong du lịch như sau:
Nâng cao nhận thức tầm quan trọng
của các di sản được UNESCO vinh danh là
tài sản của nhân loại. Cần biến tài sản
chung của nhân loại do ta quản lý, khai
thác trở thành nguồn lực phát triển du lịch.
Một khi nhận thức của cộng đồng địa
phương nơi có các di sản thế giới tồn tại
được nâng cao, hiểu biết giá trị đích thực
của chúng thì họ mới trân trọng viên ngọc
quý của mình và góp phần bảo vệ chúng tốt
hơn. Doanh nghiệp khai thác các di sản
đẳng cấp nhân loại cũng cần được nâng cao
nhận thức kể cả nhận thức về việc đóng
góp lợi nhuận của mình khi khai thác các di
sản là điều hiển nhiên, không có gì phải
bàn cãi, và cần có chế tài đối với các doanh
nghiệp lẫn tránh trách nhiệm đối với di sản
mà họ khai thác.
Học tập kinh nghiệm của các quốc gia
có nhiều di sản thế giới: Phát huy giá trị di
sản văn hóa thế giới trong du lịch có lẽ
không thiếu bài học đối với Việt Nam. Bài
học khá đơn giản cho các nhà quản lý các
di sản thế giới ở nước ta là các cơ quan
quản lý nên cử người đi sang các nước có
nhiều di sản thế giới như Ý, Trung Quốc,
Tây Ban Nha, Pháp, Đức, học tập các mô
hình quản lý và khai thác di sản trong du
lịch, những quốc gia này đã khai thác du
lịch di sản từ lâu, do đó sẽ không thiếu bài
học quý báu cho chúng ta. Chúng ta học
hỏi cách quản lý, khai thác di sản thế giới
trong du lịch và có thể áp dụng một cách
linh hoạt ở nước ta.
Khai thác di sản văn hóa thế giới phải
song song với công tác bảo tồn giá trị
nguyên bản: Một hướng đi cần thiết nhất
mà chúng tôi thấy hiện nay trong quá trình
khai thác các giá trị di sản thế giới chính là
sự phát triển hài hòa giữa du lịch và các di
sản một cách bền vững. Hay nói cách khác,
khai thác và bảo tồn di sản là hai mặt của
một vấn đề mà chúng ta luôn phải thực hiên
để giữ gìn chúng cho các thế hệ tương lai
và đồng thời kiếm được lợi ích lâu dài
không chỉ về mặt kinh tế mà còn hiệu quả
của văn hóa và môi trường (phát triển bền
vững). Nếu không bảo tồn các di sản văn
hóa thế giới được tốt, trong vòng 5 - 10
năm sẽ bị khai thác kiệt quệ. Du lịch có
trách nhiệm sẽ nâng cao việc bảo tồn, tránh
thương mại hóa các di sản văn hóa, tránh
tình trạng khai thác các di sản văn hóa
trong hoạt động du lịch một cách méo mó,
dung tục dẫn đến việc đánh mất giá trị đích
thực, nguyên bản vốn có của chúng. Như
vậy, du lịch có trách nhiệm sẽ giúp cho các
di sản và chính ngành du lịch phát triển bền
vững được bền vững.
Phát huy vai trò của cộng đồng trong
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
thế giới: Một trong những định hướng quan
trọng của du lịch di sản là cần phải gắn chặt
nó với phát triển cộng đồng (cộng đồng là
tâm điểm, là linh hồn của di sản). Cộng
đồng phải được thụ hưởng lợi ích từ các di
sản. Vẻ đẹp của các công trình kiến trúc, di
sản văn hóa hàng trăm năm không thể nói
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
74
hết nếu con người ở đây không có văn hóa
và sự thân thiện, khiến du khách không
muốn quay lại. Phát huy vai trò cộng đồng
trong phát triển du lịch di sản văn hóa rất
quan trọng vì: “Trong xu thế hội nhập, toàn
cầu hóa, việc tạo được sự đồng thuận trong
cộng đồng để duy trì, gìn giữ và phát triển
di sản văn hóa lại càng cần thiết hơn bao
giờ hết. Bởi lẽ, chỉ có sự đồng thuận của
toàn xã hội mới có thể giúp chúng ta có thái
độ ứng xử đúng đắn với di sản và tìm ra
được biện pháp bảo vệ đúng đắn để di sản
luôn là một phần văn hóa sống của cộng
đồng” [9, tr.485]. Để phát huy tối ưu giá trị
di sản văn hóa để di sản không chỉ là di sản
mà nó còn được đặt trong không gian tồn
tại của nó là cộng đồng, chúng ta cần gắn
kết di sản với các hoạt động văn hóa khác
như đêm rằm phố cổ Hội An, Festival Huế,
làng nghề, đồ thủ công mỹ nghệ, Nhưng
trên thực tế, các đối tượng tham gia vào
hoạt động du lịch (du khách, nhà cung ứng
dịch vụ du lịch, cộng đồng địa phương,
quản lý nhà nước) chưa có nhận thức đúng
và chưa đủ khiến di sản sau khi được xếp
hạng tiếp tục bị tình trạng khai thác bừa
bãi, không chăm lo và thiếu biện pháp bảo
vệ hữu hiệu.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù từ
các di sản văn hóa thế giới: Khai thác có
hiệu quả các giá trị di sản văn hóa thế giới
để phát triển thành những sản phẩm du lịch
đặc thù có tính cạnh tranh cao nhằm thu hút
du khách. Phải luôn chú ý nâng cao chất
lượng sản phẩm du lịch di sản bằng đầu tư
khoa học, công nghệ, nhân lực chất lượng
cao để phát huy giá trị của chúng trong du
lịch. Có thể kể đến một số di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể đang được khai thác
khá hiệu quả như Đô thị Hội An, Quần thể
di tích cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, Danh
thắng Tràng An, Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, Nhã nhạc cung đình
Huế (tên được UNESCO công nhận là Nhã
nhạc cung đình Việt Nam), Nghệ thuật Đờn
ca Tài tử Nam Bộ,... Chúng tôi có hỏi thăm
một số du khách đến Việt Nam và được họ
cho biết, Việt Nam nổi tiếng với vịnh Hạ
Long và một số di sản văn hóa nói trên. Khi
chúng tôi giới thiệu ở Việt Nam có đến 27
di sản thế giới được UNESCO công nhận
thì du khách quốc tế lấy làm ngạc nhiên và
thích thú vì họ không biết Việt Nam có
nhiều di sản văn hóa được UNESCO công
nhận đến như vậy. Tình hình nêu trên phần
nào cho thấy ngành du lịch Việt Nam chưa
làm tốt công tác quảng bá các di sản thế
giới đến du khách quốc tế. Số liệu công
trình của Michael Hitchcock, Victor T.
King and Michael Parnwell xuất bản năm
2010, dẫn lại tư liệu của UNESCO World
Cultural and Natural Heritage sites in
Southeast Asia (2008) cho thấy, so với các
nước Đông Nam Á khác, Việt Nam có khá
nhiều di sản, xếp sau Indonesia và Thái
Lan, ngang bằng Philippines và xếp trên
Malaysia, Lào và Campuchia [3, tr.8-9].
Tình hình trên cho thấy, sản phẩm du lịch
di sản thế giới của Việt Nam cũng bị cạnh
tranh gay gắt với các nước trong khu vực.
Do đó, việc tạo ra các sản phẩm du lịch di sản
tốt có khả năng cạnh tranh với các nước khác
trong khu vực ASEAN là điều quan trọng.
Ứng dụng công nghệ mới vào quảng
bá và bảo vệ di sản: Di sản văn hóa cũng
cần đến việc bảo tồn tốt như công việc
trùng tu, tôn tạo cần phải giữ được nguyên
bản, tránh tình trạng sau khi trùng tu, tôn
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
75
tạo, di sản biến thành một công trình hoàn
toàn mới, mất đi toàn bộ giá trị lịch sử -
văn hóa kết tinh trong di sản. Song song
với công việc trên, trong thời đại công
nghiệp 4.0, chúng ta hoàn toàn có thể bảo
tồn di sản văn hóa bằng công nghệ cao như
ứng dụng công nghệ để số hóa các di sản,
số hóa các cổ vật bằng công nghệ 3D, 4D,
ứng dụng công nghệ thông tin vào bảo vệ
di sản (dự án số hóa) nhằm giữ lại và số
hóa hiện vật. Du khách có thể tham quan ảo
Nhà hát lớn (du khách thấy rất rõ, đẹp mà
miễn phí để quảng bá du lịch). Khu trưng
bày khảo cổ dưới lòng Tòa nhà Quốc hội
(thuộc Khu di tích trung tâm Hoàng thành
Thăng Long - Hà Nội) được xem là bảo
tàng khảo cổ học đầu tiên ở Việt Nam với
một không gian chứa đựng nhiều di chỉ, di
tích khảo cổ và ứng dụng công nghệ cao
làm cho người xem thấy ánh sáng, hình
ảnh, tiếng nhạc quyện vào nhau. Như vậy,
bảo tàng trong thời toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế vừa có chức năng khoa học và
vừa là nghệ thuật và quan trọng hơn nữa là
giá trị khảo cổ được đưa đến gần công
chúng hơn.
Quảng bá sản phẩm du lịch di sản văn
hóa thế giới cũng rất cần thiết để đưa thông
tin, sản phẩm đến với du khách tiềm năng.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, quảng bá sản phẩm là một khâu
quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ hàng hóa, đặc biệt, du lịch là một dạng
hàng hóa đặc biệt, vừa mang tính lợi nhuận
của kinh tế, vừa mang những giá trị văn
hóa đặc thù của quốc gia - dân tộc. Do đó,
mỗi quốc gia - dân tộc đều có thể quảng bá
sản phẩm du lịch của họ theo những cách
khác nhau, tùy theo đặc thù của quốc gia.
Trong thời gian qua, ngành Du lịch Việt
Nam chưa thực sự đầu tư nhiều cho công tác
quảng bá sản phẩm du lịch ở nước ngoài.
Tăng cường quản lý nhà nước các cấp
đối với di sản văn hóa thế giới cũng là giải
pháp quan trọng đối với việc bảo tồn, phát
huy giá trị của các di sản văn hóa thế giới
tại các điểm đến. Quản lý nhà nước cấp địa
phương sẽ giám sát quá trình khai thác các
di sản, kịp thời phát hiện những sự cố, bất
lợi đối với di sản để phối hợp với các cơ
quan chức năng, cấp quản lý cao hơn nhằm
bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản
trong du lịch. Phải có quy hoạch, kế hoạch,
quản lý hiệu quả, đầu tư thực hiện đúng
cam kết với thế giới. Giáo dục, răn đe và xử
lý nghiêm các hành vi xâm hại di sản, hạn
chế những tác động tiêu cực của con người
đến môi trường và cảnh quan xung quanh
di sản.
Tăng cường giáo dục ý thức bảo vệ di
sản văn hóa thế giới nhằm tránh tình trạng
“ăn xổi ở thì” trong cách làm du lịch ở một
số địa phương, sinh ra hiện tượng tiêu cực
tác động xấu đến di sản văn hóa. Phải bảo
tồn để di sản không bị kiệt quệ, tuyệt đối
không xâm hại di sản và góp phần nâng giá
trị di sản.
Du lịch chỉ có thể phát triển bền vững
trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên
du lịch là tài nguyên văn hóa, tạo ra nhiều
sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt, có khả
năng cạnh tranh trong các vùng miền và thế
giới. Du lịch còn có vai trò trong việc bảo
tồn, phát huy giá trị của di sản một cách có
hiệu quả. Du lịch làm cho du khách và thế
giới biết, trải nghiệm, cảm nhận về giá trị
của di sản văn hóa Việt Nam. Du lịch cung
cấp kinh phí để bảo tồn, phát huy di sản.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
76
Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du
lịch di sản văn hóa thế giới: Để di sản văn
hóa thế giới phát huy tối ưu giá trị, chúng ta
cũng cần đến một đội ngũ cán bộ làm công
tác du lịch di sản, đặc biệt là đội ngũ hướng
dẫn viên du lịch di sản từ kiến thức, kỹ
năng, thái độ và ngoại ngữ. Khi du khách
mua các chương trình tham quan các di sản
văn hóa, họ mong muốn các nhà cung cấp
dịch vụ du lịch cung cấp cho họ những
thông tin tốt nhất về các di sản văn hóa để
họ thấu hiểu các giá trị của di sản văn hóa.
Trong bài viết, chúng tôi cũng đề xuất
một số ý kiến nhằm khai thác các sản phẩm
du lịch độc đáo, đặc sắc từ chất liệu là các
di sản văn hóa sẵn có một cách tốt hơn,
hiệu quả hơn. Chúng ta bắt đầu bằng việc
nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của các
di sản văn hóa và việc khai thác chúng để
có những hành động thành công. Chúng tôi
luôn trăn trở làm sao đưa giá trị đích thực
của các di sản văn hóa đến với du khách để
họ thực sự cảm nhận, trải nghiệm đây là
những kiệt tác văn hóa của nhân loại hiện
hữu trên đất nước Việt Nam được sáng tạo
ra bởi các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam mang hình dáng chữ S. Điều này
rất phù hợp với Hiến chương Quốc tế về
Du lịch Văn hóa đã nêu ở nguyên tắc số 3:
“Các chương trình bảo tồn và du lịch cần
giới thiệu những thông tin chất lượng cao
để làm du khách hiểu tối đa những đặc
điểm quan trọng của di sản và sự cần thiết
phải bảo vệ chúng, để làm cho du khách
thích thú địa điểm một cách thích đáng” [1,
tr.129]. Như vậy, cần làm cho khách hiểu
tối đa những đặc điểm quan trọng của di
sản văn hóa và sự cần thiết bảo vệ chúng để
chính bản thân các di sản văn hóa có thể
được bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá
trị vốn có của nó mới là điều quan trọng
nhất. Để làm được điều này, chúng tôi thiết
nghĩ phải có sự hợp tác hài hòa về trách
nhiệm và lợi ích giữa các nhà quản lý di
sản (tài nguyên du lịch), các công ty lữ
hành (môi giới khai thác các di sản), nguồn
nhân lực du lịch chất lượng cao có năng lực
khai thác giá trị di sản văn hóa và khách du
lịch (đối với khách du lịch quốc tế).
3. KẾT LUẬN
Với 27 Di sản Thế giới được UNESCO
công nhận dưới nhiều danh hiệu, trong đó
có đến 24 Di sản Văn hóa Thế giới là một
con số đáng tự hào của Việt Nam. Đó thật
sự là tài sản đẳng cấp hạng nhất của nhân
loại và du lịch Việt Nam đang đứng trước
cơ hội tạo ra sản phẩm đặc thù và khác biệt
nhằm thu hút hơn nữa du khách quốc tế. Do
đó, có thể nói rằng du lịch di sản thế giới sẽ
là một trong những hướng phát triển chủ
yếu của Việt Nam, tuy nhiên hiện nay du
lịch di sản vẫn chưa được khai thác tốt và
chưa đóng góp xứng tầm trong cơ cấu sản
phẩm du lịch và vẫn chưa trở thành một sản
phẩm đặc thù của du lịch Việt Nam để mỗi
khi du khách nhắc đến Việt Nam là nhớ
đến các di sản thế giới và tên tuổi của Việt
Nam gắn liền với các di sản này. Đi liền
với thực trạng bảo tồn và khai thác các di
sản văn hóa thế giới trong du lịch là các
giải pháp thiết thực có liên quan như nhận
thức tầm quan trọng của các di sản, cử
người đi học tập kinh nghiệm quản lý và
khai thác của các nước có nhiều di sản thế
giới, ứng dụng công nghệ mới vào quản lý
và khai thác các di sản, đào tạo nguồn
nhân lực khai thác du lịch di sản, đặc
biệt là các đối tượng tham gia vào hoạt
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
77
động du lịch như du khách, nhà cung ứng
dịch vụ du lịch, cộng đồng địa phương,
quản lý nhà nước các cấp về di sản cũng
như những giải pháp về tăng cường quảng
bá sản phẩm du lịch di sản ra thế giới.
Di sản văn hóa thế giới thực sự là sức
mạnh mềm của một quốc gia - dân tộc. Hơn
thế nữa, chính hoạt động du lịch góp phần
bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn
hóa đang dần mai một hoặc bị phá hủy bởi
thời gian. Hơn thế nữa, du lịch di sản là
một trong những công cụ hữu hiệu để
quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam với
thế giới. Hoạt động du lịch sẽ góp phần
giới thiệu giá trị về nền văn hóa độc đáo
của Việt Nam qua mấy nghìn năm văn
hiến, thông qua xúc tiến du lịch, tổ chức tạo
ra sản phẩm phục vụ khách và tổ chức các
chương trình du lịch.
Những di sản văn hóa thế giới của
nước ta vừa kể trên là xứng tầm hạng nhất
của nhân loại. Quan điểm về lợi thế, về tài
nguyên du lịch của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cần
phải thay đổi căn bản về nhận thức, quản lý
di sản và phải coi đây là tài sản của nhân
loại, không phải của riêng Việt Nam
(nhưng do Việt Nam bảo tồn, phát huy và
khai thác). Nhân loại có quyền được tiếp
cận, tận hưởng tài nguyên đó và có trách
nhiệm với chúng. Bằng cách nào đó, chúng
ta phải góp sức biến những tiềm năng đó
thành lợi ích hiện thực của nhân dân Việt
Nam và nhân loại, ở cấp độ xứng với tầm
“hạng nhất thế giới”. Bài viết này góp thêm
tiếng nói để một ngày sắp tới, ngành Du
lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Arthur Pederson (2002), Tài liệu hướng dẫn về di sản Thế giới (bản dịch tiếng Việt của
Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam).
[2] Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08 - NQ/TW, về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
[3] Michael Hitchcock, Victor T. King and Michael Parnwell (eds, 2010), Heritage tourism
in Southeast Asia, Nias Press.
[4] Nguyễn Văn Kim (Chủ biên, 2016), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5] Phạm Trung Lương (Chủ biên, 2000), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
[6] Phong Chương (2014), Xây dựng chiến lược quảng bá di sản thế giới tại Việt Nam,
https://baomoi.com.
[7] Thảo Nguyên (2018), Phát triển bền vững giá trị di sản thế giới ở Việt Nam,
[8] Thủy Mai (2015), Phát triển hài hòa giữa du lịch và di sản văn hóa,
https://baotintuc.vn/du-lich.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018
78
[9] Trần Thị Lam Thủy (2017), Bàn về vấn đề di sản văn hóa và việc bảo tồn các di sản
văn hóa trong thời kỳ hội nhập (xét trường hợp văn hóa phi vật thể Ví, Giặm xứ Nghệ), in
trong Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
[10] UNESCO (2003), Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể (Bản dịch của Trần
Hải Vân; Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam hiệu đính).
[11] UNESCO (2004), The Criteria for Selection,
[12] UNESCO & ICH (2004), What is Intangible Cultural Heritage?, https://ich.unesco.org.
[13] Yên Nga (2017), Khai thác di sản văn hóa và thiên nhiên trong du lịch: Cần ứng xử
có trách nhiệm, Hà Nội Mới, truy cập 10-01-2018.
[14]
xam-hai-nghiem-trong-434050.html.
Ngày nhận bài: 26-02-2018. Ngày biên tập xong: 12-4-2018. Duyệt đăng: 19-5-2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- di_san_van_hoa_the_gioi_o_viet_nam_voi_phat_trien_du_lich.pdf