Bốn là, nâng cao nhận thức của cộng đồng
địa phương về du lịch, thái độ giao tiếp, bảo vệ
môi trường tại điểm di tích, lễ hội, làng nghề.
Điều này cần được tiến hành ngay đối với một
số làng nghề hai bên sông (Châm Khê, Đại Lâm,
Vạn Vân, Thổ Hà.). Xây dựng kế hoạch tuyên
truyền cho cộng đồng địa phương về kinh
tế du lịch để người dân không chỉ là những
người tham gia vào các lễ hội mà còn là những
người biết làm/biết khai thác dịch vụ du lịch.
Bên cạnh đó cũng cần nâng cao nhận thức của
người dân về vai trò của di sản văn hóa trong
phát triển du lịch, giúp họ có ý thức hơn trong
việc trân trọng và giữ gìn các di sản văn hóa.
Cần làm cho cộng đồng hiểu rõ phương châm
lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại
phát triển du lịch là để bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa, qua đó, gia tăng sự ủng hộ của
cộng đồng đối với bảo tồn di sản.
Năm là, bổ sung, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ du lịch. Để có hiệu
quả trong khai thác giá trị các di tích phục vụ
khách du lịch, tỉnh Bắc Ninh cần chú ý tới việc
tuyển dụng, bổ sung đội ngũ tham gia vào
hoạt động du lịch. Hiện nay, lực lượng tham
gia vào hoạt động này còn tương đối mỏng,
chưa chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới việc
phải đào tạo, đào tạo lại về chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, kiến thức về lịch sử văn hóa,
trình độ ngoại ngữ. Từ đó mới có thể đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của hoạt
động du lịch.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di sản văn hóa vùng ven sông Cầu với phát triển du lịch Bắc Ninh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
DI SẢN VĂN HÓA VÙNG VEN SÔNG CẦU
VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH BẮC NINH HIỆN NAY
TRẦN ĐỨC NGUYÊN
Tóm tắt
Di sản văn hóa nằm ven sông Cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh rất đa dạng, phong phú, bao gồm cả
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Các di sản văn hóa này mang những đặc điểm riêng của vùng
văn hóa Kinh Bắc, được bảo tồn và trao truyền qua nhiều đời nay, là nguồn tài nguyên nhân văn có thể
khai thác trong phát triển du lịch, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của địa
phương. Những năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã có sự quan tâm đầu tư cho việc bảo tồn, phát huy giá trị các
di sản, gắn với phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác giá trị các di sản văn hóa này còn chưa phù
hợp với tiềm năng, cần phải có những định hướng, giải pháp cụ thể, hoàn thiện hơn.
Từ khóa: Bắc Ninh, di sản văn hóa, phát triển du lịch, sông Cầu
Abstract
Cultural heritage along Cau riverside in Bac Ninh province is very diverse and rich, including
tangible and intangible cultural heritages. These cultural heritages have unique characteristics of
Kinh Bac cultural area, preserved and transmitted over through many generations. They are human
resources that can be exploited in tourism development, and contribute significantly into the general
socio-economic development of the province. In recent years, Bac Ninh province has paid attention
to investment in conserving, promoting the value of heritage, associated with tourism development.
However, the exploitation of the value of these cultural heritages has not been consistent with the
potential and it is neccessary to have more specific and complete orientations and solutions.
Keywords: Bac Ninh, cultural heritage, tourism development, Cau river
Bắc Ninh - Kinh Bắc là một vùng quê thanh bình với dòng sông Cầu thơ mộng “Con sông của người Quan họ/
Suốt đời nước chảy lơ thơ”, đôi bờ là những xóm
làng trù phú. Hình ảnh con sông Cầu đã gắn
bó, song hành cùng vùng Bắc Ninh, cho dù
từ nơi khởi nguồn cho đến khi hòa cùng các
dòng sông khác ở vùng hạ lưu, nó đã chảy qua
ít nhất là 4 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Với sự
gắn bó như vậy nên sông Cầu như một biểu
tượng sinh thái văn hóa của Bắc Ninh.
Xứ Bắc xưa có đôi dòng sông với tên gọi
Nguyệt Đức giang hợp cùng dòng Nhật Đức
giang (sông Thương) như một biểu tượng văn
hóa âm - dương hòa quyện, tạo sự ấm no, sung
túc cho vùng đất này. Dòng Nguyệt Đức (hay
còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Cầu, sông
Thị Cầu) được nhắc đến trong nhiều cuốn địa
chí dưới các triều đại phong kiến. Vị thế của
nó được người xưa rất coi trọng, sách Đại Nam
nhất thống chí dưới triều Nguyễn còn ghi rằng:
[sông Nguyệt Đức] năm Tự Đức thứ 3, liệt vào
hàng sông lớn, [được] chép vào điển thờ [4,
tr.94].
Về nguồn gốc, sông Cầu bắt nguồn từ phía
nam đỉnh Phia Boóc của dãy núi Văn Ôn trong
địa phận xã Phương Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn, chảy ngoằn ngoèo giữa hai dãy núi
Ngân Sơn và Sông Gâm theo hướng tây bắc
- đông nam, qua một số huyện của tỉnh Bắc
Kạn và Thái Nguyên rồi đi vào tỉnh Bắc Ninh
tại địa phận huyện Yên Phong, nơi giáp ranh
với huyện Việt Yên (Bắc Giang). Chạy hết địa
phận Bắc Ninh, sông Cầu hội với các con sông
Thương, Lục Nam, Đuống, Kinh Thầy, Thái Bình
Số 28 - Tháng 6 - 201970
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tại địa điểm Lục Đầu Giang, hòa thành dòng
Thái Bình rồi chảy tiếp ra biển Đông. Sông Cầu
đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài gần 70 km,
ngày nay được lấy làm ranh giới tự nhiên phân
cách hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Với nhận
định phần nhiều mang tính chủ quan, chúng
tôi cho rằng vùng hạ lưu sông này là khu vực
trù phú bậc nhất trong toàn bộ dọc dài của
con sông, sự giàu có đó hàm nghĩa cả về kinh
tế cũng như bề dày lịch sử văn hóa.
1. Di sản văn hóa vùng ven sông Cầu và vai
trò trong phát triển du lịch
Trải dài theo lịch sử, dòng Nguyệt Đức mang
phù sa màu mỡ bồi đắp cho đôi bờ, là điều kiện
lý tưởng để cư dân quần tụ, lập xóm làng, tăng
gia sản xuất, sinh sôi phát triển. Dọc theo bờ
sông đó, cùng với sự tụ cư của con người, trong
cuộc sống, lao động và trong sáng tạo tinh thần
đã sản sinh ra những sản phẩm văn hóa trải
suốt các thời kỳ khác nhau, đó là những di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể mang những nét
đặc trưng của vùng Kinh Bắc.
1.1. Theo các nghiên cứu lịch sử, văn hóa,
đặc biệt là khảo cổ học, địa bàn ven sông Cầu,
sông Ngũ Huyện Khê từ hàng ngàn năm trước
đã là nơi cư trú của người Việt cổ và “là cái nôi
sinh thành người Việt” như nhận định của cố
GS. Trần Quốc Vượng [7]. Dọc theo hữu ngạn,
đoạn từ ngã ba Xà trở xuống, các nhà khảo
cổ học đã phát hiện nhiều di tích chứa những
dấu tích của người Việt cổ. Tại di chỉ Nội Gầm
(xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong) đã phát hiện
nhiều hiện vật của một xưởng chế tác đá tại
chỗ. Căn cứ vào kỹ thuật chế tác và loại hình
hiện vật thì di chỉ này thuộc giai đoạn văn hóa
Đồng Đậu - nền văn hóa tiền Đông Sơn, đặc
biệt là sự phát hiện quả cân - một minh chứng
cho sự trao đổi về kinh tế và giao lưu hàng hóa
ở vùng ven sông Cầu trong thời đại đồng thau
[2]. Lớp trên của di chỉ Nội Gầm là những mảnh
gốm ở các thời kỳ tiếp theo, nhiều gốm men
ngọc thời Lý, Trần, Lê... Ngay gần đó, trên sườn
núi Quả Cảm (phường Hòa Long) đã phát hiện
một di chỉ có các hiện vật khá phong phú với
những kỹ thuật chế tác tinh xảo. Các di vật thu
được ở hai di chỉ trên cho thấy, đời sống kinh
tế, văn hóa của người Việt cổ ven sông Cầu có
sự phát triển không ngừng theo thời gian.
Quá trình tụ cư, lao động sản xuất của
người dân bám theo triền sông màu mỡ, đời
sống ngày càng thịnh vượng. Ven sông hình
thành các làng xóm trù phú kéo theo đời sống
tinh thần cũng ngày càng được nâng lên.
Mang những đặc điểm của cư dân trồng lúa
nước luôn cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa
màng bội thu nên làng nào cũng xây dựng các
công trình tín ngưỡng như đình, chùa, đền,
miếu, tạo thành một hệ thống các điểm
di tích với mật độ dày đặc còn hiện diện đến
ngày nay. Nhiều di tích còn tương đối nguyên
vẹn, nhiều di tích chỉ còn những dấu vết của
lịch sử, nhiều di tích có niên đại ngót vài trăm
năm tuổi.
Chùa Vọng Nguyệt (Khai Nghiêm tự) được
ghi trong sách Đại Nam nhất thống chí: “Chùa
Khai Nghiêm ở xã Vọng Nguyệt, huyện Yên
Phong do Nguyệt Sinh công chúa nhà Lý
dựng. Năm Khai Hựu thứ 5 đời Trần Hiến Tông
(1333) người xã ấy cho sửa sang lại. Đời Dụ
Tông (1341 - 1369) Hàn lâm học sỹ Trương Hán
Siêu soạn bài bia, đến nay vẫn còn” [4, tr.132].
Chùa hiện còn lưu giữ được nhiều di vật, trong
đó có tấm bia trùng khắc năm Cảnh Thịnh thứ
5 (1797) chép lại nội dung văn bia do Trương
Hán Siêu soạn trước đây, nội dung có đoạn
nói đến việc đả phá đạo Phật: “Đạo Phật là
một chuyện hoang đường mà nhiều người
có quyền thế, ngoại đạo a dua theo... các bậc
thánh hiền ngày càng xa cách, chính đạo ngày
càng lu mờ...”.
Chùa Như Nguyệt được xây dựng sau chiến
thắng quân Tống (1077), được trùng tu lớn vào
năm Chính Hoà thứ 7 (1686). Hiện chùa còn
2 chân tảng đá chạm đài sen mãn khai, gồm
16 cánh, ở mỗi cánh chạm nổi đôi rồng ở thể
đăng đối. Đây là nghệ thuật đặc trưng của thời
Lý, đồng dạng với các chân tảng đá được tìm
thấy ở chùa Phật Tích, chùa Dạm
71Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Dọc theo sông Cầu, từ “thượng Đu Đuổm,
hạ Lục Đầu Giang” có tục thờ Thánh Tam Giang
(Trương Hống, Trương Hát) - hai vị tướng đã đi
vào lịch sử từ thế kỷ thứ VI. Các di tích thờ đức
Thánh là các ngôi đình, đền nằm ở các làng
hai bên tả hữu ngạn sông Cầu, theo thống kê
của các nhà quản lý di tích, số lượng lên tới
mấy chục di tích, tiêu biểu như đền Xà, đình
Diềm (đình Viêm Xá), đình Đáp Cầu, đền Vân
Mẫu (thờ thân mẫu của đức Tam Giang, có pho
tượng bằng đá niên đại thời Nguyễn)
Khi nhắc đến những ngôi đình ở xứ Bắc,
dân gian có câu ca rằng: “Thứ nhất là đình Đông
Khang/Thứ nhì Đình Báng, vẻ vang đình Diềm”.
Đây là ba ngôi đình nổi tiếng, niềm tự hào của
người dân xứ Bắc. Trong đó, đình Diềm là ngôi
đình của làng Viêm Xá (làng Diềm). Đình được
xây dựng vào những năm cuối thế kỷ XVII, đến
nay các cấu kiện kiến trúc vẫn còn giữ lại tương
đối nguyên vẹn. Điều tạo nên sự độc đáo hấp
dẫn của ngôi đình là nghệ thuật chạm khắc
trang trí trên các cấu kiện kiến trúc, đặc biệt là
ở bộ cửa võng của đình làng. Các nghệ nhân
dân gian đã thổi hồn vào từng nét chạm tạo
nên một bức tranh hoàn hảo, thực sự không
còn là một cấu kiện kiến trúc bình thường mà
đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn
mỹ, độc nhất vô nhị ở xứ Kinh Bắc xưa. Điều
khá lý thú là ở phần bờ bắc, gần như đối diện
với Viêm Xá, làng gốm cổ Thổ Hà cũng có ngôi
đình nổi tiếng được xây dựng cùng thời với
đình Diềm. Đình Thổ Hà thờ thành hoàng là
Lão Tử - một trường hợp khá độc đáo của tín
ngưỡng thờ thành hoàng của người Việt. Đình
được xây dựng vào năm 1692 thời vua Lê Hy
Tông. Các mảng chạm khắc thể hiện trên các
cấu kiện kiến trúc phong cách thời Lê chủ yếu
là “tứ linh”, “tứ quý”, hoa lá cách điệu, chim thú
và con người. Tại đình Thổ Hà cũng có bộ cửa
võng rất đẹp, được sơn son thếp vàng, chạm
khắc công phu. Bộ cửa võng này có quy mô,
kích thước không đồ sộ như của đình Diềm,
nhưng về phong cách, kỹ thuật chạm khắc thì
rất tương đồng, có lẽ đều là sản phẩm nghệ
thuật của một nhóm thợ tài hoa ngày đó.
Trong văn chương, dòng Như Nguyệt được
gọi là dòng sông thơ ca, dòng sông của sự
lãng mạn, nhưng, về phương diện địa - lịch sử
thì dòng sông này lại là vị trí chiến lược quan
trọng: là phòng tuyến tự nhiên để bảo vệ từ xa
cho kinh thành Thăng Long. Vị thế đó đã nhiều
lần che chắn, cản bước quân thù khi tiến đánh
Thăng Long, mà tiêu biểu nhất là cuộc quyết
chiến chống quân xâm lược Tống của quân và
dân ta năm 1077 dưới sự lãnh đạo của vị anh
hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Trong cuộc chiến
ấy, vào những giờ phút cam go, căng thẳng
nhất của cuộc chiến, bên bờ Như Nguyệt đã
vang lên bài thơ thần Nam quốc sơn hà, được
coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
dân tộc. Chiến thắng sông Như Nguyệt đã để
lại cho ngày nay một số lượng lớn các di tích
nằm cả đôi bờ bắc nam, tiêu biểu như đền Xà,
đền Núi, bến sông Như Nguyệt, chùa Bồ Vàng,
bờ Xác, đền Vọng Nguyệt, đền Phấn Động, trại
Ngựa Những di tích này vừa gắn với sự kiện
lịch sử chống Tống lại vừa mang những màu
sắc tín ngưỡng dân gian của cư dân nơi đây.
Các di tích, di vật ở các làng xã ven sông
Cầu là những dấu ấn văn hoá vật thể minh
chứng cho sự tồn tại, phát triển không ngừng
của cư dân ở đây. Đó là những tác phẩm nghệ
thuật độc đáo, thể hiện tài nghệ của các thế hệ
con người nối tiếp nhau trong suốt chiều dài
lịch sử dân tộc hàng nghìn năm, tạo nên một
dòng văn hóa phong phú, đặc sắc của vùng
quê ven sông Cầu.
1.2. Kéo dài từ vùng trên ngã ba Xà đến
Lục Đầu Giang, đôi bờ sông còn những làng
cổ với nghề thủ công có tuổi đời hàng trăm
năm: Bên bờ nam là Vọng Nguyệt, Tam Giang,
Đương Xá, Quả Cảm, Phù Lãng Bên bờ bắc
là Vạn Vân, Thổ Hà một thời lừng danh với
những sản phẩm của nghề chăn tằm, dệt vải,
nấu rượu “Vân hương mỹ tửu lừng biển bắc”, và
hơn cả là những sản phẩm của nghề làm gốm.
Xưa, vùng đồng bằng Bắc Bộ có vài trung tâm
làm gốm lớn thì ở ven sông Cầu đã có hai trung
tâm, là gốm Phù Lãng và gốm Thổ Hà. Đã có
Số 28 - Tháng 6 - 201972
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thời kỳ, dòng sông nhộn nhịp thuyền buôn
vào ra tấp nập, đưa những sản phẩm gốm của
hai làng tỏa đi khắp muôn nơi. Nay, nghề gốm
bị mai một nhưng ở những ngôi làng này còn
lưu đầy những dấu tích thịnh vượng của nghề
xưa. Xuôi xuống một chút vùng Đáp Cầu - Quế
Võ còn có ngôi làng nổi tiếng với truyền thống
học hành, khoa cử, đó là làng Kim Đôi. Lịch sử
đã ghi nhận đây là một trong những làng có
nhiều người đỗ đạt khoa bảng nhất với 25 vị đỗ
tiến sĩ, trong đó dòng họ Nguyễn có tới 18 vị.
Vua Lê Thánh Tông đã từng ban khen cho làng
8 chữ vàng “Kim Đôi gia thế chu tử mãn triều”
(người Kim Đôi áo đỏ, áo tía đầy trong triều).
Và hơn cả, dọc theo đôi bờ sông ấy là các
làng quan họ cổ: Đông Mai, Cổ Mễ, Thị Cầu, Đẩu
Hàn, Thượng Đồng, Khúc Toại, Trà Xuyên Ở
những làng thôn đó, những làn điệu dân ca
quan họ mượt mà, những canh quan họ thâu
đêm được các liền anh liền chị tình tứ cất lên
trong những dịp hội hè lễ tết: “Về Kinh Bắc tìm
câu quan họ/Người qua cầu gửi gió áo bay/Long
lanh ánh mắt nheo mày/Liền anh liền chị mê
say đối lời”. Làng Viêm Xá - nơi duy nhất thờ bà
Thủy tổ Quan họ, nay vẫn còn giữ được “nhà
chứa” với tuổi đời ngót trên thế kỷ, là nơi diễn
ra các sinh hoạt văn hóa của “bọn” quan họ.
Vào độ đầu tháng Hai, làng mở hội, dân khắp
các vùng xung quanh về tụ họp để tưởng
nhớ công đức của Vua Bà - người sáng tạo và
truyền dạy các làn điệu dân ca Quan họ Bắc
Ninh. Các nghi lễ diễn ra trong lễ hội thể hiện
lòng thành kính, cầu mong Vua Bà che chở cho
dân làng làm ăn thuận lợi, mùa màng tươi tốt,
dân an vật thịnh. Đặc sắc nhất là các hình thức
sinh hoạt quan họ như hát cửa đình, cửa đền,
trong “nhà chứa” của các ông trùm, bà trùm với
nghi thức trang trọng vừa cổ xưa, độc đáo, vừa
phong phú, thể hiện phong cách và tài năng
ca hát của các nghệ nhân, liền anh liền chị ở
làng Thủy tổ Quan họ.
Các làng xã vùng ven sông Cầu còn có
nhiều loại hình lễ hội dân gian, diễn xướng dân
gian, phong tục tập quán, các món ẩm thực,
vô cùng độc đáo có khả năng thu hút được du
khách bốn phương. Lễ hội Kéo co thôn Hữu
Chấp - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia - là
một trong những lễ hội truyền thống lâu đời
đã tồn tại hàng trăm năm và đã trở thành nét
đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần. Lễ hội
được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng Giêng
với ước vọng chinh phục thiên nhiên, cầu
mong mưa thuận gió hòa, người dân có cuộc
sống ấm no, hưng thịnh Lễ hội đền Bà Chúa
Kho, hội đền Cùng giếng Ngọc vào mỗi dịp
đầu xuân thu hút hàng vạn lượt người khắp
các nơi nô nức tham gia
1.3. Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở
vùng ven sông Cầu mang những đặc điểm văn
hóa riêng, tiêu biểu của địa phương. Những
năm qua, các di sản văn hóa này có vai trò tích
cực trong việc giáo dục lòng tự hào về truyền
thống của quê hương, đất nước, tinh thần hiếu
học, đoàn kết, nhân ái... Bảo tồn các di sản
văn hóa này góp phần thiết thực vào việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung, vùng
Kinh Bắc nói riêng. Trong xu thế mở cửa, hội
nhập và phát triển hiện nay, các di sản văn hóa
vùng ven sông Cầu còn có vai trò quan trọng
về mặt kinh tế, là nguồn tài nguyên nhân văn
quý giá có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực
thu hút khách tham quan trong nước và khách
du lịch quốc tế đến địa phương, thúc đẩy phát
triển du lịch của tỉnh Bắc Ninh. Nếu các giá trị
văn hóa ấy có sự kết hợp một cách hợp lý với
phát triển du lịch sẽ đưa lại nguồn thu lớn cho
ngân sách, góp phần vào sự phát triển chung
về kinh tế - xã hội của địa phương. Ngày nay,
du lịch di sản đã và đang là một trong những
xu hướng phát triển của ngành du lịch, thu
hút du khách tìm đến những giá trị về nguồn,
tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu
những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc
của các dân tộc, các tộc người. Đồng thời
thông qua hoạt động du lịch, các di sản văn
hóa sẽ được giới thiệu, quảng bá, phát huy, trở
thành một loại hình sản phẩm du lịch đặc sắc
để du khách có thể tiếp cận. Do đó, với những
73Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tiềm năng về di sản vùng ven sông Cầu, cần có
những tiếp cận, hướng phát triển du lịch nhằm
khai thác có hiệu quả giá trị của những di sản
văn hóa tiêu biểu này trong phát triển du lịch
vùng Kinh Bắc hiện nay.
2. Thực trạng phát huy di sản văn hóa trong
phát triển du lịch
Những di sản văn hóa phong phú, đa dạng,
mang đậm bản sắc văn hóa của vùng Kinh Bắc
là điều kiện thuận lợi để lựa chọn, khai thác,
đưa những di sản văn hóa ấy trở thành những
sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ cho du
khách trong và ngoài nước, có khả năng mang
lại nguồn lợi về kinh tế và đồng thời quảng bá
văn hóa, hình ảnh cho địa phương.
Những năm qua, việc phối hợp giữa công
tác quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch
ở Bắc Ninh đã bước đầu được chú trọng. Với lợi
thế về vị trí địa lý và tiềm năng du lịch, Bắc Ninh
có nhiều điều kiện để phát triển du lịch, đặc
biệt là các loại hình như du lịch văn hóa tâm
linh, du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm... Đây
là địa phương không có các tài nguyên thiên
nhiên đặc hữu, như không có rừng, không có
biển, không có cảnh quan thiên nhiên đặc
sắc, lại cũng không phải là điểm đến để mua
sắm, nghỉ dưỡng, nên có thể khẳng định rằng,
số lượng khách chủ yếu được thu hút bởi hệ
thống di sản văn hóa, trong đó nổi bật là các
di tích, lễ hội. Theo một số nghiên cứu đánh
giá, số lượng khách du lịch đến Bắc Ninh đông
nhất là vào những thời điểm đầu năm và mục
đích chủ yếu của các du khách tới đây là du lịch
tín ngưỡng tâm linh. Qua nghiên cứu thực tế
tại điểm đền Phấn Động và đền Bà Chúa Kho
cho thấy 80% du khách đến đây vì nhu cầu tín
ngưỡng, khoảng 20% còn lại là tham quan,
vãng cảnh di tích. Các điểm di tích tại khu vực
ven sông Cầu hàng năm thu hút một lượng
khách lớn đến đây thực hành tín ngưỡng, nổi
bật là di tích đền Bà Chúa Kho với hàng trăm
ngàn lượt du khách một năm. Tiếp đến là các
điểm như đền Phấn Động, đền Cùng, đền Vua
Bà,... cũng là điểm có số lượng du khách đến
rất đông vào các dịp lễ hội.
Nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh về
di sản văn hóa để phục vụ phát triển du lịch
địa phương, năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm
2030, trong đó nhấn mạnh việc phát triển các
sản phẩm du lịch đặc thù gắn với các điểm di
sản văn hóa tại vùng ven sông Cầu như: Xây
dựng khu du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng miền
Quan họ tại phường Hòa Long; trải nghiệm và
khám phá các giá trị văn hóa làng quê vùng
Kinh Bắc; du ngoạn sông Cầu; bảo tồn các giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc; hình thành
khu du lịch văn hóa - lễ hội đền Bà Chúa Kho
đạt tầm vóc là khu lễ hội tín ngưỡng cấp quốc
gia; khu du lịch lịch sử chiến tuyến Như Nguyệt
với loại hình du lịch trải nghiệm chiến trường
lịch sử chống quân xâm lược Đến nay, các
dự án trong quy hoạch đang được triển khai
tại các điểm khác nhau.
Được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại, dân ca quan
họ thực sự là nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn
du khách trong và ngoài nước. Tỉnh Bắc Ninh
coi đây là một sản phẩm đặc thù để phục vụ
du khách, nên đã quy hoạch các điểm tham
quan đều có hát quan họ, đồng thời, khuyến
khích các nghệ nhân, các câu lạc bộ quan họ
trình diễn trong các lễ hội, các điểm di sản văn
hóa tiêu biểu. Điều đó bước đầu đã đáp ứng
được nhu cầu thưởng thức và tìm hiểu về di
sản văn hóa đặc sắc này.
Trong những năm gần đây, nhằm “kích cầu”,
tăng số lượng khách tham quan các di sản
văn hóa, nhất là các dịp lễ hội đầu năm, bên
cạnh việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý,
hướng dẫn hoạt động kinh doanh du lịch, việc
tuyên truyền, quảng bá được thực hiện dưới
nhiều hình thức, nhất là trên các phương tiện
thông tin đại chúng như báo, đài, internet và
các hội chợ, triển lãm ở nhiều nơi khác nhau.
Tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng các tour du lịch
miễn phí bằng xe buýt có hướng dẫn viên để
phục vụ người dân thăm nhiều điểm di sản văn
Số 28 - Tháng 6 - 201974
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hóa trên địa bàn tỉnh. Đầu năm 2019, UBND
tỉnh Bắc Ninh ban hành quyết định công nhận
11 điểm du lịch, trong đó khu vực ven sông
Cầu có các điểm như Văn miếu Bắc Ninh, làng
Viêm Xá, đền Bà Chúa Kho Điều này tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp lữ hành có thể chủ
động trong việc lên kế hoạch xây dựng, thiết
kế thông tin sản phẩm du lịch, quảng bá, đón
du khách các nơi đến với Bắc Ninh.
Cùng với việc đa dạng hóa các hình thức du
lịch, những năm qua, Bắc Ninh cũng quan tâm
đầu tư và thu hút đầu tư để xây dựng các cơ
sở lưu trú cho du khách. Các điểm lưu trú tập
trung tại khu vực thành phố Bắc Ninh, từ đây
có thể dễ dàng đi tới các điểm di sản. Đến nay,
Bắc Ninh có 604 cơ sở lưu trú, trong đó có các
khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao. Các cơ
sở lưu trú đã đáp ứng được nhu cầu của khách
du lịch, nhất là nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi của
các chuyên gia nước ngoài đang sinh sống và
làm việc tại Bắc Ninh, góp phần tăng tỷ trọng
ngành du lịch, đồng thời nâng cao năng lực tổ
chức các sự kiện lớn trên địa bàn.
Với sự quan tâm, đầu tư về nhiều mặt, trong
những năm qua, du lịch Bắc Ninh đã đạt những
hiệu quả đáng kể. Theo số liệu thống kê, số
lượng khách đến địa phương tăng theo từng
năm: năm 2015 đạt 576.000 lượt khách, năm
2016 là 874.000 lượt, năm 2017 là 1.100.000
lượt và năm 2018 tăng lên gần 1,4 triệu lượt.
Số lượng khách tăng lên theo từng năm đồng
nghĩa với việc doanh thu từ du lịch cũng tăng
đáng kể: năm 2015 thu được 382 tỷ đồng, năm
2016 là 589 tỷ đồng, năm 2017 là 710 tỷ đồng
và năm 2018 doanh thu đạt 855 tỷ đồng, tăng
hơn 20% so với năm 20171. Nguồn thu này đã
góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh
tế chung của toàn tỉnh. Mặc dù chưa có con số
thống kê cụ thể lượng khách cũng như doanh
thu tại các điểm di tích, di sản ở khu vực ven
sông Cầu, nhưng có thể khẳng định, các di sản
văn hóa ở đây là một trong những địa điểm có
sức cuốn hút đối với du khách.
Tuy nhiên, trong những năm qua, hoạt
động khai thác giá trị di sản văn hóa gắn với
phát triển du lịch vẫn còn những hạn chế, khó
khăn nhất định. Mặc dù có tiềm năng, vốn
di sản văn hóa phong phú, song du lịch Bắc
Ninh còn thua kém so với nhiều địa phương
khác. Thực tế cho thấy, số lượng du khách đến
địa phương trong những năm qua là khá lớn
nhưng chủ yếu tập trung ở một số điểm di tích
tôn giáo tín ngưỡng, phục vụ nhu cầu tâm linh
là chính. Lượng du khách này hầu như không/
chưa tiếp cận với các loại hình di sản văn hóa
khác.
Các dự án phát triển du lịch trong khu vực
đã được tiến hành, nhưng qua nhiều năm chưa
thực hiện xong, các điểm quy hoạch phát triển
du lịch đầu tư chưa đồng bộ, các loại hình dịch
vụ du lịch như hàng lưu niệm, hướng dẫn viên,
vui chơi giải trí, dịch vụ tư vấn thông tin chưa
phát triển. Các sản phẩm du lịch còn thiếu tính
đặc sắc, đơn điệu, chưa đáp ứng được mức độ
trải nghiệm du lịch. Nhìn chung mới phát huy
được một số yếu tố lợi thế có sẵn, chưa đầu tư
có chiều sâu, thiếu tính sáng tạo Hoạt động
tuyên truyền, quảng bá cho các di sản văn hóa,
tạo hình ảnh điểm đến trong hoạt động du
lịch còn khá nghèo nàn, chưa hấp dẫn, thu hút
được cộng đồng.
3. Giải pháp phát huy giá trị di sản văn hóa
phục vụ phát triển du lịch
Với những tiềm năng về nguồn di sản văn
hóa đang hiện hữu bên đôi bờ sông Cầu cũng
như thực trạng phát huy giá trị của các di sản
văn hóa phục vụ cho việc phát triển du lịch,
thiết nghĩ có một số công việc cần tiến hành
trong thời gian tới. Khai thác các tiềm năng
này là một phần thực hiện quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch của địa phương được thành
công, thúc đẩy du lịch thực sự trở thành một
“ngành kinh tế mũi nhọn” của địa phương, góp
phần vào sự phát triển chung của cả nước.
Một là, tăng đầu tư kinh phí cho các hoạt
động bảo tồn, trùng tu tôn tạo các điểm di tích,
75Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nghiên cứu phục dựng một số lễ hội truyền
thống, phục hồi các trò chơi dân gian, tổ chức
các sự kiện văn hóa gắn với các di tích, di sản
mang tính chất vùng, liên vùng. Ví dụ: tổ chức
Lễ hội chiến thắng sông Như Nguyệt (định kỳ
3 - 5 năm một lần). Lễ hội có sự tham gia của
nhiều làng, thôn nằm cả hai bên bờ sông Cầu
với những kịch bản nhằm tái hiện chiến thắng
lừng lẫy năm xưa. Cùng với đó, có thể tổ chức
các cuộc thi bơi thuyền, bơi vượt sông, giữa
các địa phương với nhau.
Cùng với việc đầu tư cho các điểm di tích,
cần xây dựng mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, cơ sở lưu trú, biển báo chỉ
dẫn, các cơ sở dịch vụ, thông tin liên lạc,
phục vụ cho du khách đến du lịch tại đây. Tại
các địa điểm như làng quan họ cổ Viêm Xá, Thị
Cầu, cần đầu tư hoặc hướng dẫn cho người
dân xây dựng các điểm lưu trú theo dạng
homestay dành cho du khách lưu trú qua đêm
thưởng thức các canh quan họ cổ cũng như
trải nghiệm cuộc sống làng quê xứ Kinh Bắc.
Hai là, hình thành các tour/tuyến du lịch di
sản văn hóa cụ thể, độc đáo hấp dẫn du khách.
Cần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, không chỉ
kết nối các điểm du lịch di tích, lễ hội mà còn
phải kết hợp với những thế mạnh du lịch làng
nghề, du lịch sinh thái (du thuyền trên sông
Cầu) thưởng thức những làn điệu quan họ, du
lịch trải nghiệm (trải nghiệm làm các sản phẩm
thủ công, làm ruộng, chăn nuôi).
Đặc biệt, cần một giải pháp phối kết hợp
giữa hai địa phương bằng sự thỏa thuận giữa
chính quyền Bắc Ninh và Bắc Giang trong việc
đầu tư và phát triển du lịch tả, hữu ngạn sông
Cầu. Nhiều bài báo, tạp chí hay công trình
nghiên cứu đã đề xuất giải pháp nhằm phối
hợp phát huy giá trị di sản văn hóa Quan họ
ở đôi bờ sông Cầu, nhưng đến nay mới chỉ có
những động thái riêng của từng bên đối với
việc khai thác các di sản của bên mình mà chưa
có sự bàn thảo song phương. Di sản văn hóa ở
đôi bờ đều phong phú, đa dạng, mang những
đặc trưng riêng, vì vậy nếu có sự kết hợp để
cùng phát triển thì ắt hẳn sẽ tạo một điểm du
lịch văn hóa có sức hút lớn đối với du khách.
Để cho những dự án phát triển du lịch giữa hai
bên được nảy nở, tiến đến thành công thì hai
địa phương cần thống nhất bảo vệ môi trường.
Dòng sông Cầu đang ngày một ô nhiễm nặng
bởi sự thiếu ý thức của con người, sự xả thải
trực tiếp xuống dòng sông mà không qua xử
lý, làm cho con sông bị bức tử dần dần, ngày
càng xa với những mỹ từ đã từng dành cho nó
như sông trăng, sông lụa... Thứ nữa là cần giải
quyết dứt điểm nạn cát tặc hoành hành trên
sông Cầu bấy lâu nay. Việc khai thác, buôn
bán cát vật liệu xây dựng không những làm ô
nhiễm môi trường nước của sông Cầu mà còn
ảnh hưởng trực tiếp đến cảnh quan, tuổi thọ
của nhiều điểm di tích ven sông như sạt lở nền
móng di tích. Chính quyền địa phương nhiều
lần ra quân chấn chỉnh, cưỡng chế thì các tàu
cát lại nhanh chóng chạy dạt sang bờ kia. Nếu
tình trạng này còn tiếp diễn thì việc tổ chức
những tour/tuyến du thuyền xuôi dòng khó có
thể thực hiện thành công.
Ba là, tăng cường quảng bá cho các di sản
văn hóa. Từ thực tế là du khách mới biết đến
một số điểm di tích, lễ hội, làng nghề tiêu biểu
như đền Bà Chúa Kho, đình làng Diềm, còn
lại những di sản khác thì thiếu thông tin, hoặc
thoáng qua từ một nguồn nào đó. Do vậy cần
có các chương trình, kế hoạch cụ thể về quảng
bá, xây dựng hình ảnh điểm đến cho các di sản
văn hóa vùng ven sông Cầu.
Việc quảng bá cho các di sản văn hóa, điểm
đến của du khách cần tăng tần xuất trên các
phương tiện thông tin đại chúng, các cổng
thông tin điện tử; đa dạng hóa các hình thức
quảng bá trên báo, đài phát thanh và truyền
hình tỉnh. Đặc biệt coi trọng công tác quảng
bá hình ảnh di sản bằng công nghệ điện tử,
mạng internet Có thể tổ chức các cuộc thi
clip hoặc phóng sự giới thiệu về các di sản; thi
ảnh đẹp du lịch di sản...
Số 28 - Tháng 6 - 201976
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Bốn là, nâng cao nhận thức của cộng đồng
địa phương về du lịch, thái độ giao tiếp, bảo vệ
môi trường tại điểm di tích, lễ hội, làng nghề...
Điều này cần được tiến hành ngay đối với một
số làng nghề hai bên sông (Châm Khê, Đại Lâm,
Vạn Vân, Thổ Hà...). Xây dựng kế hoạch tuyên
truyền cho cộng đồng địa phương về kinh
tế du lịch để người dân không chỉ là những
người tham gia vào các lễ hội mà còn là những
người biết làm/biết khai thác dịch vụ du lịch.
Bên cạnh đó cũng cần nâng cao nhận thức của
người dân về vai trò của di sản văn hóa trong
phát triển du lịch, giúp họ có ý thức hơn trong
việc trân trọng và giữ gìn các di sản văn hóa.
Cần làm cho cộng đồng hiểu rõ phương châm
lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại
phát triển du lịch là để bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa, qua đó, gia tăng sự ủng hộ của
cộng đồng đối với bảo tồn di sản.
Năm là, bổ sung, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ du lịch. Để có hiệu
quả trong khai thác giá trị các di tích phục vụ
khách du lịch, tỉnh Bắc Ninh cần chú ý tới việc
tuyển dụng, bổ sung đội ngũ tham gia vào
hoạt động du lịch. Hiện nay, lực lượng tham
gia vào hoạt động này còn tương đối mỏng,
chưa chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới việc
phải đào tạo, đào tạo lại về chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, kiến thức về lịch sử văn hóa,
trình độ ngoại ngữ... Từ đó mới có thể đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của hoạt
động du lịch.
Thay lời kết
Với những đề xuất giải pháp mang tính
bước đầu như trên, cùng với đó là các chủ
trương, chính sách cụ thể của địa phương,
mong rằng, trong tương lai gần, Bắc Ninh sẽ
trở thành một trong những trung tâm du lịch
văn hóa lớn của vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng và của cả nước, tương xứng với
tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Bảo tồn, khai
thác và phát huy các tiềm năng di sản văn
hóa để phát triển du lịch là hết sức cần thiết,
góp phần vào tăng trưởng kinh tế - xã hội và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
dần tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ trong cơ
cấu GDP, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động và cộng đồng dân cư, tăng
nguồn thu ngân sách; hỗ trợ các ngành kinh tế
khác phát triển.
T.Đ.N
(TS., Phó Trưởng khoa Di sản văn hóa,
Trường ĐHVHHN)
Chú thích
1 Số liệu do Phòng Quản lý Du lịch, Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cung cấp,
năm 2018.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2017), Di
sản văn hóa với chiến lược phát triển bền vững, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học.
2. Lê Viết Nga (chủ biên) (2013), Di tích lịch sử -
văn hóa tỉnh Bắc Ninh, Bảo tàng Bắc Ninh.
3. Trần Đức Nguyên (2011), “Bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích thuộc phòng tuyến sông
Như Nguyệt”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 6.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại
Nam nhất thống chí, tập 4, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
5. UBND tỉnh Bắc Ninh (2011), Quyết định số
151/2011/QĐ-UBND ngày 12/12/2011 về việc phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến
năm 2030.
6. Trần Quốc Vượng (1971), “Đôi bờ Ngũ
Huyện khê” (Hà Bắc), Tạp chí Khảo cổ học, số 16.
7. Trần Quốc Vượng (1998), “Hà Bắc trong sự
hình thành văn minh Việt cổ”, in trong Việt Nam cái
nhìn địa - văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 20 - 3 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 6 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 23 - 6 - 2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- di_san_van_hoa_vung_ven_song_cau_voi_phat_trien_du_lich_bac.pdf