Ba Vì là vùng đất có nhiều điều kiệnthuận
lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.
Đến nay, trên địa bàn huyện đã có 15 đơn vị
kinh doanh du lịch với các sản phẩm chủ yếu
như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn
hóa, du lịch cộng đồng, du lịch hội thảo, vui
chơi giải trí Trong đó hai loại hình du lịch là
du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng hoạt
động có hiệu quả nhất, thu hút nhiều du khách
tham gia. Tuy nhiên, từ tình hình thực tế hoạt
động du lịch những năm vừa qua cho thấy
hiệu quả khai thác các di tích và danh thắng
tại BaVì chưa tương xứng với tiềm năng. Chính
vì vậy, để đạt được mục tiêu đề ra nhiệm vụ và
giải pháp chủ yếulà:
- Tập trung hoàn thành công tác quy
hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết các vùng
du lịch gắn với quy hoạch chung của huyện và
thành phố.
- Cải thiện môi trường đầu tư, tích cực
quảng bá du lịch.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di tích và danh thắng huyện Ba Vì thành phố Hà Nội với phát triển du lịch hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B
DI TÍCH VÀ DANH THẮNG HUYỆN BA VÌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY
NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
Tóm tắt
Ba Vì - cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội là một huyện có nhiều di tích lịch sử và danh thắng.
Di tích ở Ba Vì không chỉ có số lượng nhiều, đa dạng về loại hình mà còn có giá trị văn hóa, thẩm mỹ
cao như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, quần thể di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh (đền Thượng, đền
Trung, đền Hạ), khu di tích lịch sử Đá Chông, Bên cạnh đó, đây còn là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp
với các loại hình phong phú như vườn quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, thác Đa,Tuy nhiên trên thực tế,
nguồn tài nguyên đó chưa được khai thác hiệu quả. Chính vì vậy, nếu công tác quản lý nhà nước được
tăng cường và ý thức cộng đồng được nâng cao, Ba Vì sẽ phát triển và trở thành điểm du lịch hấp dẫn
trên cơ sở nguồn tài nguyên du lịch vốn có.
Từ khóa: Di tích, danh thắng, phát triển du lịch, Ba Vì
Abstract
Ba Vi, the gateway to the North West area of Hanoi, is a district that has many historical relics
and beauty spots. The historic sites in Ba Vi are not only great in quantity, diversified in type but also
have highly cultural and aesthetic value, such as the Tay Dang and Chu Quyen Communal Houses,
temples that worship Tan Vien Son Thanh (Thuong, Trung, Ha Temples), Da Chong historic site, etc.,.
Ba Vi also has many beauty spots with diversified forms, such as Ba Vi National Park, Suoi Hai lake
and Da waterfall. However, in fact, these resources haven’t been exploited effectively. Therefore, if the
management of the State must be intensified and the community’s awareness must be increased Ba Vi
will develop and become an attractive destination based on the existing tourist resources.
Keywords: Relic, tourist attraction, tourist development, Ba vi
1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
nhân văn huyện Ba Vì
a Vì nằm ở phía Tây Bắc Thành phố Hà
Nội, bên hữu ngạn sông Đà và sông
Hồng. Phía Đông giáp thị xã Sơn Tây;
phía Nam giáp huyện Thạch Thất và tỉnh Hòa
Bình; phía Tây, bên kia sông Đà giáp các huyện:
Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thủy (tỉnh Phú
Thọ); phía Bắc, qua con sông Hồng giáp huyện
Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc) và thành phố Việt
Trì (tỉnh Phú Thọ). Huyện có diện tích tự nhiên
424km2, dân số 27 vạn người, trong đó dân tộc
Mường có 22.826 người, dân tộc Dao có 1.906
người, các dân tộc thiểu số khác có 241 người,
còn lại là người Kinh (tính đến năm 2012).
Ba Vì trong lịch sử có nhiều lần biến đổi cơ
cấu hành chính: khi thuộc tỉnh Sơn Tây, khi
thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, khi thuộc tỉnh Hà Tây.
Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH 12 ngày
29/5/2008 của quốc hội“Về việc điều chỉnh địa
giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số
tỉnh có liên quan”, ngày 01/8/2008, tỉnh Hà Tây
sáp nhập với Thành phố Hà Nội, Ba Vì thuộc
Thành phố Hà Nội. Năm 2012, huyện Ba Vì ổn
định địa giới hành chính với 30 xã, 01 thị trấn.
Huyện Ba Vì thuộc vùng bán sơn địa, có
địa hình thấp dần từ phía Tây Nam sang phía
Đông Bắc, chia thành ba tiểu vùng khác nhau:
vùng núi, vùng đồi gò, vùng đồng bằng. Vùng
núi chiếm 46,5% diện tích toàn huyện, gồm
toàn bộ vườn quốc gia Ba Vì và 7 xã miền núi.
Vùng đồi gò chiếm 34,7% diện tích toàn
huyện. Địa hình của vùng này thấp dần từ độ
cao 100m trở xuống khoảng 20m theo hướng
Tây bắc, chủ yếu là đồi gò xen lẫn ruộng cao.
Vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng,
chiếm 18,5% diện tích toàn huyện. Huyện Ba Vì
mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng
4 và kết thúc vào tháng 10 với nhiệt độ trung
bình 230C, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ cao
nhất là 28,60C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và
kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 200C,
tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,80C. Ba Vì có
hệ sinh thái và tài nguyên thủy văn phong phú.
Ba Vì có hệ thống đường thủy, đường bộ đa
dạng, thuận lợi, nối liền các tỉnh Tây Bắc, Việt
Bắc với toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có
Thủ đô Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội theo quốc
lộ 32 đi Sơn Tây lên Ba Vì có các tuyến giao
thông chính, trong khoảng thời gian hơn 1 giờ
đi xe ô tô có thể đến các điểm du lịch ở Ba Vì.
Từ Hà Đông đi Sơn Tây, theo tỉnh lộ 88 qua các
điểm du lịch: Suối Hai, vườn cò Ngọc Nhị, Đầm
Long về quê hương Tản Đà, sang đền Hùng. Từ
Hà Nội đi Trung Hà dọc theo quốc lộ 32 đi qua
các di tích lịch sử: chùa Mía, đình Quang Húc,
đình Chu Quyến, đình Tây Đằng Tuyến Hà Nội
đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc lên
Khoang Xanh, Suối Mơ, Hóc Cua, vườn quốc gia
Ba Vì. Ngoài ra, còn có các tuyến đường thủy:
sông Hồng, sông Đà, sông Tích thuận lợi cho
khách đến thăm quan các điểm du lịch.
Ba Vì có truyền thống văn hóa lâu đời độc
đáo mang đặc trưng các dân tộc Kinh, Mường,
Dao và một số dân tộc khác. Nét đẹp của mỗi
dân tộc thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau: trang phục, ẩm thực, phong tục tín
ngưỡng, các hình thức diễn xướng, các trò chơi
dân gian
Là vùng đất cổ nằm trong nôi văn minh
châu thổ sông Hồng thuộc đất Văn Lang của
các vua Hùng buổi đầu dựng nước, Ba Vì có
điều kiện tự nhiên và văn hóa đặc biệt vì vậy
đây là một trong những huyện có tiềm năng
du lịch rất phong phú của Hà Nội.
2. Di tích và danh thắng huyện Ba Vì
Ba Vì thuộc vùng xứ Đoài, một trong những
địa bàn sinh tụ của tổ tiên ta xưa, là quê hương
của truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, bản
hùng ca về cuộc đấu tranh chống lại thiên tai
của cha ông ta. Các di tích ở Ba Vì không chỉ
nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình mà còn
tiêu biểu cho các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học và thẩm mỹ.
Về số lượng, theo văn bản báo cáo kết quả
thực hiện công tác quản lý di tích trên địa bàn
huyện do Phòng VH&TT tổng hợp tháng
12/2016, huyện Ba Vì hiện có 450 di tích, gồm:
08 di tích lịch sử, văn hóa (05 di tích cách mạng,
03 di tích lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh), 442 di
tích kiến trúc- nghệ thuật. Trong đó có: 102
Đình, 48 Đền, 105 Chùa, 57 Miếu, 96 Nhà thờ
họ, 04 Điếm, 05 Quán, 07 Giếng cổ, 06 Khu di
tích lưu niệm + Nhà Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí
Minh, 01 cây lưu niệm, 04 lăng, 03 văn chỉ, 09
cổng làng, 02 từ chỉ từ đường, 01 mộ, 01 địa
điểm chiến thắng. Tổng số di tích đã được xếp
hạng là 91, trong đó 01 di tích xếp hạng cấp
quốc gia đặc biệt, 40 di tích xếp hạng cấp quốc
gia và 50 di tích xếp hạng cấp thành phố. Các
di tích ở Ba Vì đa dạng về loại hình trong đó có
loại hình di chỉ khảo cổ học, loại hình di tích lịch
sử, loại hình di tích kiến trúc - nghệ thuật, loại
hình danh lam thắng cảnh, trong từng loại hình
đều có các di tích nổi tiếng có giá trị tiêu biểu.
Các di chỉ khảo cổ học như địa điểm khảo
cổ học Đồng Chỗ (thôn Phong Châu - xã Phú
Phương) có vị trí trung gian giữa di chỉ Gò
Bông và di chỉ Phùng Nguyên, di chỉ khảo cổ
học Gò Hện (thôn Nhuận Tuấn - xã Vạn Thắng)
là di chỉ được xếp vào giai đoạn sơ kỳ thời đại
đồng thau.
Với bề dày lịch sử, văn hóa, Ba Vì là nơi có
nhiều di tích cách mạng, kháng chiến và di
tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị
đặc biệt như: làng kháng chiến Vật Lại, cây đa
Bác Hồ (đây là cây đa được Chủ tịch Hồ Chí
Minh trồng trên đồi Đồng Váng (xã Vật Lại) là
kỷ vật cuối cùng trên đất Hà Tây của Hồ Chủ
tịch trước lúc đi xa), Khu di tích lịch sử đồi Đá
Chông K9 (xã Minh Quang), nơi có địa hình
hiểm trở, phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ
đã từng được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm
khu căn cứ của Trung ương để đề phòng chiến
tranh có thể mở rộng toàn quốc. Trong những
năm có chiến tranh phá hoại của không quân
Mỹ, Hồ Chí Minh và các thành viên trong Bộ
chính trị đã lên làm việc và nghỉ ngơi và đây
cũng là nơi giữ gìn thi hài của Hồ Chủ tịch từ
năm 1969 đến 1975.
Ba Vì còn có nhiều di tích kiến trúc nghệ
thuật với kiến trúc độc đáo, có giá trị văn hóa,
thẩm mỹ cao như: đình Tây Đằng, đình Chu
Quyến, đình Thụy Phiêu,..; đền Thượng, đền
Trung, đền Hạ, đền thờ Bác Hồ,...; miếu Mèn,
chùa Tản Viên Sơn,...và nhiều đình, chùa, đền,
miếu, lăng mộ, điếm, quán, văn chỉ, cổng làng,
giếng cổ, nhà thờ dòng họ, cổng làng, từ
đường khác. Ba Vì là một vùng đất địa linh nhân
kiệt được thừa hưởng kho tàng di sản văn hóa
đình làng phong phú (102 ngôi). Hiện nay, cả
nước còn 06 ngôi đình làng thời Mạc
- được liệt vào hạng quý hiếm nhất Việt Nam
thì ở Ba Vì có 03 ngôi. Đó là đình Thụy Phiêu
(xã Thụy An), đình Tây Đằng (thị trấn Tây Đằng)
và đình Thanh Lũng (xã Tiên Phong), trong đó
có đình Tây Đằng được xếp hạng là di tích cấp
quốc gia đặc biệt. Đình thuộc thị trấn Tây Đằng,
huyện Ba Vì, còn có tên là đình Cả, thờ Tam vị
Đức Thánh Tản. Đây là một trong những ngôi
đình đẹp và cổ kính nhất Việt Nam còn tồn tại
đến ngày nay. Di tích này có giá trị cao về lịch
sử văn hóa và nghệ thuật tạo hình ở thời Mạc
(Thế kỷ XVI) và đã qua nhiều lần trùng tu, sữa
chữa. Đình Tây Đằng có 48 cột lớn nhỏ, đều làm
bằng gỗ mít, cột lớn nhất có đường kính 80cm.
Hiện nay, đình gồm các hạng mục chính: Đại
đình, nhà tả - hữu mạc, Nghi môn, hồ sen bán
nguyệt..., tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên
vẻ đẹp cho toàn bộ khu di tích. Đặc biệt là có
sự có mặt của các đề tài chạm khắc trên kiến
trúc về cảnh sinh hoạt của con người, thú vật,
cỏ cây, hoa lá. Tư liệu thống kê cho biết toàn bộ
1300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình không
trùng nhau một chi tiết nào và được bố trí hài
hòa. Trong đình còn có dải trang trí tượng 36
tiên nữ với các tư thế và hình dáng khác nhau.
Ngoài ra, ở đây còn có các di vật, đồ thờ có giá
trị như: nhang án chạm lộng theo đề tài tứ linh,
sơn son thếp vàng, một đôi hạc gỗ thế kỷ XVIII,
kiệu bát cống, long ngai, bài vị thờ Tam vị Đức
Thánh Tản, Với những giá trị văn hóa, khoa
học, lịch sử, ngày 13/1/1964, đình đã được Bộ
Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp
quốc gia.
Đền thờ Tản Viên Sơn Thánh ở Ba Vì bao
gồm ba cụm kiến trúc tọa lạc trên một vị thế đẹp
là đền Thượng, đền Trung và đền Hạ. Tuy có
niên đại khác nhau, đền Trung có quy mô lớn
tương truyền được xây dựng từ triều Lý; đền Hạ
có từ đầu thế kỷ XVIII với phong cách nghệ
thuật, điêu khắc đặc trưng cuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII; đền Thượng được hoàn thiện vào
tháng 12/1996 nhưng cả ba ngôi đền này tạo
thành một quần thể di tích - lịch sử có liên quan
đến Thánh Tản Viên, có vị thế rất đẹp ở núi Ba
Vì. Lễ hội tại cụm di tích này được tổ chức vào
rằm tháng Giêng hàng năm thu hút nhiều lượt
khách trong nước và quốc tế về tham quan,
hành lễ, nghiên cứu những giá trị văn hóa phi
vật thể về Đức Thánh Tản. Ngày 21/02/2008,
cụm di tích này được Bộ Văn hóa, Thể thao, Du
lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc
gia.
Ba Vì có 450 di tích được phân bố rộng rãi
trên địa bàn 1 thị trấn và 30 xã của huyện. Tuy
nhiên phân bố các di tích không đồng đều, có xã
có nhiều di tích như Tản Hồng (32 di tích), Phú
Châu (31 di tích), Chu Minh (27 di tích), Tây Đằng
(25 di tích), Cổ Đô (24 di tích); có xã ít như Thuần
Mỹ (03 di tích), Yên Bài (02 di tích), xã Ba Vì (02
di tích). Trong đó, xã có số lượng di tích lịch sử
văn hóa đậm đặc nhất là Tản Hồng với 32 di tích
và xã có số lượng di tích lịch sử văn hóa ít nhất
là Ba Trại với 01 di tích.
Như vậy, di tích lịch sử văn hóa ở Ba Vì rất
phong phú và đa dạng. Đây chính là một lợi
thế để phát triển du lịch.
Có thể khẳng định du lịch là thế mạnh để
Ba Vì phát triển bởi hiếm có nơi nào vừa có
nhiều di tích lịch sử văn hóa lại vừa được thiên
nhiên hào phóng ban tặng nhiều danh lam,
thắng cảnh phong phú, đa dạng như nơi đây.
Về tài nguyên thủy văn, ở Ba Vì có nhiều hồ,
sông suối và các thác nước đẹp như hồ Suối Hai,
Thác Đa, hồ Tiên Sa, suối Mơ, hồ Cẩm Quỳ, Hồ
Suối Hai với diện tích mặt nước trên 800ha,
trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ là nơi khai
thác và phát triển du lịch đầu tiên của Ba Vì. Mặt
hồ rộng mênh mông là nơi dừng chân của
những loài chim muông, két, vịt trời và các loại
sơn cầm quý hiếm. Du khách có thể thưởng
ngoạn nơi đây bằng thuyền nhỏ quanh hồ. Hồ
Chủ tịch khi về thăm nơi đây đã từng nói: “Hồ
Suối Hai đẹp như hồ Giơnevơ của Thụy Sỹ”. Cùng
với dịch vụ nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và nhiều
bãi tắm đẹp, hồ Suối Hai là một trong những
khu du lịch quốc gia có sức hấp dẫn lớn đối với
du khách. Bên cạnh Suối Hai, Thác Đa cũng là
một điểm du lịch hấp dẫn. Thác bắt nguồn từ
đỉnh núi Ba Vì chảy trên con đường dài hơn 6km
xuống chân núi, với những đoạn suối khi thì róc
rách êm đềm, lúc ào ào tung bọt trắng xóa. Với
phong cảnh sơn thủy hữu tình, thác còn giữ
nguyên vẻ hoang sơ của núi rừng. Thác Đa còn
có vườn chim với hàng trăm loài quý hiếm.
Một đặc trưng nữa của các danh thắng tại
Ba Vì là các khu du lịch với những cảnh quan
tươi đẹp, khí hậu trong lành, mát mẻ quanh
năm, thường được bao bọc bởi các cánh rừng
tự nhiên với nguồn tài nguyên sinh vật phong
phú. Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên nằm
giữa thung lũng của dãy núi Ba Vì thuộc xã Vân
Hòa, ở độ cao 400m so với mực nước biển. Cả
khu du lịch được bao bọc bởi núi rừng trùng
điệp, có dòng suối Tiên nằm ngay dưới chân
núi Tản. Khí hậu ở đây mát mẻ quanh năm. Khu
du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà nằm giữa thung
lũng trong khu rừng tự nhiên, khu du lịch này
có tổng diện tích 450ha. Nơi đây còn bảo tồn
được hệ động, thực vật phong phú, tập trung
nhiều loại thú hiếm như: chồn, sóc, nai, trăn,
khi, phượng hoàng,... Đến với khu du lịch này,
du khách được tận hưởng sinh khí trong lành
của trời đất, khám phá 3 tiểu khu: Hạ Sơn,
Trung Sơn và Ngoạn Sơn với thác nước Cổng
trời đẹp và hùng vĩ nhất của núi rừng Ba Vì.
Điển hình là vườn quốc gia Ba Vì được ví là “lá
phổi xanh của thủ đô” bởi nhiều cảnh quan đa
dạng, phong phú, khí hậu trong lành, mát mẻ.
Vườn quốc gia Ba Vì có các khối núi cao sừng
sững với 3 đỉnh: đỉnh Vua cao 1.296m, đỉnh
Tản Viên 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa 1.131m. Trên
núi có nhiều ghềnh, thác nước tạo nên những
điểm du lịch hấp dẫn như Khoang Xanh - Suối
Tiên, Ao Vua, Thiên Sơn - Suối Ngà, hồ Tiên Sa,
thác Đa... Theo đánh giá của các nhà khoa học,
vườn quốc gia Ba Vì có 1.201 loài thực vật bậc
cao trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi
trong sách đỏ Việt Nam như: Bách xanh, Sến
mật, Phỉ ba mũi, Dẻ tùng sọc trắng, Hoa tiên,
và hàng trăm loài cây dược liệu quý giá. Hệ
động vật có 63 loài thú, với nhiều loài quý hiếm
như: Cầy gấm, Culi lớn, Gà lôi trắng, Rồng đất,
Cà cuống, Tê tê vàng, Sóc bay, Vườn quốc
gia Ba Vì trở thành điểm đến lý tưởng cho loại
hình du lịch sinh thái, tham quan, nghỉ dưỡng
và nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi
đẹp nơi đây lại gắn liền với truyền thuyết tạo
nên miền huyền thoại đặc trưng cho các thắng
cảnh nổi tiếng như: núi Ba Vì là nơi ngự trị muôn
đời của Đức Thánh Tản Viên Sơn Tinh - vị Thánh
đứng đầu Tứ bất tử trong tâm linh của người
Việt xưa.
Ngoài ra Ba Vì còn có khu du lịch Đầm Long -
Bằng Tạ, Tản Đà Spa Resort, hồ Tiên Sa, vườn cò
Ngọc Nhị,.
Với hệ thống di tích lịch sử phong phú đa
dạng cùng với những danh thắng đẹp nổi tiếng
lại gần trung tâm Thủ đô Hà Nội, những năm
vừa qua lượng khách đến tham quan du lịch Ba
Vì ngày càng tăng. 5 năm qua, ngành Du lịch
huyện Ba Vì đạt mức tăng trưởng ổn định, tổng
doanh thu đạt 986 tỷ đồng, tốc độ tăng bình
quân là 14,2%/năm, tổng lượng khách đạt hơn
11 triệu lượt người, tốc độ tăng bình quân là
4,5%. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đón
3,5 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt 500
tỷ đồng. Nhờ phát triển kinh tế du lịch, kinh tế
xã hội huyện Ba Vì có nhiều chuyển biến tích
cực. Du lịch thúc đẩy các ngành kinh tế khác
phát triển theo hướng tăng tỷ trọng nhóm
ngành dịch vụ - du lịch, đạt 52% năm 2015.
Thông qua ngành du lịch,hàng hóa, nông sản có
giá trị của nhân dân trong vùng được tiêu thụ;
nhiều nghề thủ công mỹ nghệ, dân gian được
phục hồi và phát triển. Đời sống nhân dân vì vậy
được cải thiện, đặc biệt là khu vực miền núi.
Nếu năm 2008 là thu
nhập bình quân đầu người khu vực này đạt 7,3
triệu đồng/người/năm thì đến năm 2013 đạt 24
triệu đồng/người/năm.
Ngành du lịch Ba Vì đã có sự đóng góp
đáng kể vào ngân sách Nhà nước, trở ngành
kinh tế mũi nhọn của huyện. Đời sống của cán
bộ nhân viên các khu du lịch ngày càng được
nâng lên. Hoạt động của các đơn vị du lịch
không chỉ đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho
công ty mà còn đem lại hiệu quả to lớn đối với
phát triển kinh tế vùng, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của huyện, làm chuyển biến
nhận thức, nâng cao dân trí của một bộ phận
dân cư. Hoạt động du lịch hàng năm cũng thu
hút hàng nghìn lao động, giúp tiêu thụ nhiều
hàng hóa, nông sản, đồ thủ công mỹ nghệ,
thúc đẩy các nghề dân gian hồi phục, phát
triển, góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Các khu du lịch phát triển còn tạo sự ổn
định kinh tế vùng, tạo môi trường phát triển
những giá trị văn hóa bản địa của đồng bào
dân tộc Mường, Dao tại vùng núi Ba Vì.
- Chủ động xây các dự án phát triển du lịch
theo hướng vừa hiện đại, đặc sắc vừa phát huy
giá trị văn hóa của địa phương.
- Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm,
văn hóa trong vùng du lịch, gắn với đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp,
kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là với người nước
ngoài.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước
về du lịch, công tác kiểm tra hoạt động kinh
doanh của các đơn vị du lịch.
Để làm được điều này, chúng ta vừa phải
phát huy vai trò của chủ thể quản lý vừa có
những biện pháp tuyên truyền, giáo dục để
nâng cao ý thức của cộng đồng. Có như vậy mới
có thể phát huy mạnh mẽ giá trị của những di
tích và danh thắng để Ba Vì trở thành điểm đến
hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
N.T.Q.T
(ThS, Khoa Văn hóa học,
trường Đại học Văn hóa Hà Nội)
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển
du lịch dựa trên tiềm năng di tích và danh
thắng huyện Ba Vì
Ba Vì là vùng đất có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.
Đến nay, trên địa bàn huyện đã có 15 đơn vị
kinh doanh du lịch với các sản phẩm chủ yếu
như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn
hóa, du lịch cộng đồng, du lịch hội thảo, vui
chơi giải trí Trong đó hai loại hình du lịch là
du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng hoạt
động có hiệu quả nhất, thu hút nhiều du khách
tham gia. Tuy nhiên, từ tình hình thực tế hoạt
động du lịch những năm vừa qua cho thấy
hiệu quả khai thác các di tích và danh thắng
tại Ba Vì chưa tương xứng với tiềm năng. Chính
vì vậy, để đạt được mục tiêu đề ra nhiệm vụ và
giải pháp chủ yếu là:
- Tập trung hoàn thành công tác quy
hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết các vùng
du lịch gắn với quy hoạch chung của huyện và
thành phố.
- Cải thiện môi trường đầu tư, tích cực
quảng bá du lịch.
Tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Ba Vì (2013),
Ba Vì – 45 năm xây dựng và phát triển (1968-2013),
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Thúy Nga (2014), Quản lý di tích lịch
sử văn hóa trên địa bàn huyện Ba Vì thành phố Hà
Nội, Luận văn thạc sỹ
3. Đặng Văn Tu (chủ biên, 1999), Di tích Hà Tây,
Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây
4. Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí (đồng chủ
biên, 2008), Địa chí Hà Tây, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
5. Nhìn lại 5 năm phát triển du lịch trên địa bàn
huyện Ba Vì và định hướng 5 năm tới (đăng ngày
11/7/2016 website: bavi.hanoi.gov.vn)
Ngày nhận bài: 12 - 12 - 2016
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 3 - 2017
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- di_tich_va_danh_thang_huyen_ba_vi_thanh_pho_ha_noi_voi_phat.pdf