Di chứng sau tổn thương DVHMXS rất phức
tạp, có thể do bản thân dị vật làm tổn thương vỡ
nhãn cầu(9) nhưng trong nghiên cứu của chúng
tôi gặp 1 trường hợp. Dị vật xuyên lỗ ống thị
giác gây mờ mắt (3 trường hợp giảm thị lực một
mắt và mù cả 2 mắt là 2 trường hợp), liệt thần
kinh III (3 trường hợp) và khi dị vật xuyên đỉnh
hốc mắt gây ra hội chứng đỉnh hốc mắt với mù
mắt, liệt vận nhãn và đau mặt theo phân bố của
thần kinh V1 (trường hợp 3). Có thể có biến
chứng sau mổ như rò dịch não tủy qua vết mổ(1,9)
tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi không
gặp biến chứng này. Thông thường các rò dịch
não tủy sau chấn thương thường tự lành(9) hoặc
do phẫu thuật chúng tôi đã vá màng cứng hoặc
một số trường hợp lỗ rò sâu được bít bằng cân
cơ thái dương. Các biến chứng do tụ máu nội sọ
sau mổ hay tổn thương mạch máu lớn không
xảy ra trong cả 7 trường hợp của chúng tôi 1
trường hợp yếu nửa người do dị vật xuyên cạnh
thân não và 1 trường hợp liệt vận nhãn hoàn
toàn do tổn thương lúc mổ.
Tất cả trường hợp sau mổ đều được chúng
tôi chụp CT scan trong vòng 24 – 48 giờ để đảm
bảo rằng dị vật đã được lấy hết, đồng thời kiểm
tra các thương tổn nhu mô não cũng như cáo
biến chứng tụ máu nội sọ sau mổ. Theo y văn(9)
khuyến cáo những thương tổn gần với động
mạch cảnh trong như đỉnh hốc mắt, xoang hang
thì cần phải theo dõi bằng CTA hoặc MRA trong
vòng 1 đến 3 tháng sau chấn thương.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dị vật hốc mắt xuyên sọ não ‐ nhân 7 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 285
DỊ VẬT HỐC MẮT XUYÊN SỌ NÃO ‐ NHÂN 7 TRƯỜNG HỢP
Trần Thiện Khiêm*, Trần Minh Huy**,Phan thị Diễm Kiều*, Tô Huỳnh Minh Tâm*, Huỳnh Lê Phương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều trị dị vật hốc mắt xuyên sọ não
(DVHMXS).
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả. Từ tháng 1/2012 đến tháng 06/2014 có 7 trường hợp dị vật hốc
mắt xuyên sọ được chẩn đoán, điều trị và theo dõi tại khoa Ngoại thần kinh BV Chợ Rẫy.
Kết quả: Tuổi trung bình của 7 bệnh nhân nam là 25,3 tuổi (18 ‐36). Tất cả bệnh nhân đều có vết thương
vùng mắt. Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (7 trường hợp), giảm thị lực 5 trường hợp, liệt III 3 trường hợp,
hội chứng đỉnh hốc mắt có 1 trường hợp và yếu nửa người 1 trường hợp. Tất cả trường hợp đều được chụp CT
scan não, 4 trường hợp được chụp MRI cho trường hợp dị vật gỗ. Vị trí xuyên hốc mắt gồm 4 trường hợp qua
khe ổ mắt trên, lỗ ống thị giác 3 trường hợp và trần hốc mắt 1 trường hợp. Dị vật được lấy ra là 5 chiếc đũa và 3
thanh gỗ. Không có trường hợp nào tử vong. Không có biến chứng máu tụ phải mổ lại, nhiễm trùng hoặc rò dịch
não tủy sau mổ. 1 bệnh nhân hồi phục tốt sau mổ, thương tật vừa (4) và 2 thương tật nặng.
Kết luận: DVHMXS là thương tổn hiếm gặp, lâm sàng cần khám kỹ vùng mắt, có thể thấy được hoặc
không thấy dị vật. CT tái tạo mạch máu não và MRI là phương tiện hữu ích cho chẩn đoán nhất là dị vật gỗ.
Điều trị phải có sự phối hợp giữa chuyên khoa mắt và ngoại thần kinh đôi khi tai mũi họng hay hàm mặt. Phẫu
thuật rút dị vật luôn luôn phải thực hiện tại phòng mổ và đường mở sọ tùy vào đường đi của dị vật, dị vật nên
được rút ra theo đường từ ngoài mắt.
Từ khóa: Chấn thương hốc mắt xuyên sọ não, tổn thương xuyên hốc mắt, dị vật hốc mắt.
ABSTRACT
TRANSORBITAL CRANIOCEREBRAL PENETRATING INJURY BY FOREIGN BODY,
REPORT OF 7 CASES
Tran Thien Khiem, Tran Minh Huy, Huynh Le Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 285 – 291
Objective: To evaluate the clinical feature, radiology and results of surgical treatment of transorbital
penetrating intracranial injury (TPICI) by foreign body.
Methods: Retrospective and cases series, 7 patients with TPICI who was undertaken to assess for diagnosis,
treat ment and follow up at the Neurosurgery department of ChoRay Hospital from 1/2012 to 06/2014.
Results: Mean age of the 7 male patients was 25.3 years (ranging 18‐36 years). All patients had orbital
wound. Clinical features consisted of: headache (7 cases), visual decrease (5), oculomotor palsy (3), orbital apex
syndrome (1), hemiparesis (1). 100% patients were obtained head CT scan, MRI was indicated in 4 patients who
have wooden froreign body. Objects penetrate the superior orbital fissure (4 cases), the optic canal (3) and the roof
of the orbital (1). foreign bodies were removed with 5 of chopsticks and 3 cases of wooden froreign bodies. No one
died in this study. There were not any preoperative hematoma, infections, or CFS leakage. 1 patient had good
recovery outcome, moderate disability was 5 cases and heavy disability (2).
Conclusions: TPICI are uncommon lesions. The patient should have the carefully clinical examination. CT
brain angiography scanning and brain magnetic resonance imaging is useful. The treatment should do as a
* Khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Khoa ngoại thần kinh, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: Th.S, BS Trần Thiện Khiêm, ĐT: 0989299759, Email: Thienkhiembvcr@Gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 286
collaborative effort between of the neurosurgery, ophthalmology, otolaryngology, and maxillofacial surgery teams.
Removal of the foreign body should perform at operating room. The surgical approaches depend on the path
penetrating of foreign body.
Key words: Transorbital craniocerebral penetrating injury, transorbital penetrating trauma, orbital foreign
body.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị vật hốc mắt xuyên sọ (DVHMXS) là
thương tổn hiếm gặp chiếm khoảng 0,4% trong
bệnh lý chấn thương sọ não(3), nhưng nó chiếm
khoảng ¼ các trường hợp tổn thương xuyên sọ ở
người lớn và ½ ở trẻ em(9). Do đặc điểm giải
phẫu hốc mắt có dạng hình tháp tứ giác, có
những khe hở thông vào nội sọ. Dị vật thường
xuyên sọ qua trần ổ mắt do xương mỏng làm
thương tổn thùy trán, thứ hai là dị vật xuyên vào
khe ổ mắt trên, có thể thương tổn thành ngoài
xoang hang, thùy thái dương, xương bướm và
thân não, thứ ba là vị trí hiếm hơn có thể xuyên
qua ống thị giác vào vùng trên yên, có thể tổn
thương thần kinh thị và động mạch cảnh. Hậu
quả của những thương tổn này thường gây ra tử
vong và thương tật cao.
DVHMXS thường là các thương tổn phức
tạp, đòi hỏi cách tiếp cận chẩn đoán và điều trị
riêng biệt, do đó đã được một số tác giả trên thế
giới quan tâm nghiên cứu và báo cáo(3,6,9).
Trong nước có rất ít nghiên cứu về
DVHMXS. Năm 2012, Chúng tôi (H.LP) đã báo
cáo một trường hợp dị vật gỗ xuyên hốc mắt
biến chứng áp xe não(5). Bệnh viện Chợ Rẫy là
nơi tiếp nhận và điều trị bệnh với số lượng lớn,
các chấn thương phức tạp. Tuy nhiên chẩn đoán
và xử trí loại bệnh lý này còn là một thách thức.
Chúng tôi báo cáo một số trường hợp DVHMXS,
qua đó nhận định đặc điểm lâm sàng hình ảnh
học và chẩn đoán cũng như đánh giá kết quả
điều trị.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các trường hợp DVHMXS được phẫu thuật
tại BV Chợ Rẫy từ tháng 01/2012‐ 06/2014.
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả hàng loạt ca
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện
Cách thức tiến hành
Thu thập các dữ liệu dịch tễ, lâm sàng và cận
lâm sàng, kết quả phẫu thuật với mẫu bệnh án
được thiết kế sẵn cho 7 bệnh nhân DVHMXS.
KẾT QUẢ
Trong thời gian 2,5 năm, có 7 trường hợp
DVHMXS được phẫu thuật. Tất cả đều là nam
giới, tuổi từ 18 đến 36, trung bình là 25,3 tuổi. Lý
do nhập viện thường găp nhất là dị vật đâm vào
mắt (6/7 trường hợp), 1 trường hợp đau đầu và
sốt, các đặc điểm lâm sàng của DVHMXS được
trình bày trong bảng 1,2,3.
Bảng 1: Thời gian bệnh sử
Thời gian khởi bệnh đến nhập viện Số bệnh nhân (n= 7)
< 1 ngày 4
1-3 ngày 2
> 3 ngày 1
Bảng 2: Mắt bị tổn thương
Mắt bị tổn thương Số bệnh nhân (n= 7)
Mắt trái 3
Mắt phải 2
Cả 2 mắt 2
Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng Số lượng
Vết thương vùng mắt 7
Giảm thị lực 5
Liệt dây III 3
Đau đầu 7
Yếu nửa người 1
Hội chứng đỉnh hốc mắt 1
Dấu màng não 1
Tình trạng tri giác của bệnh nhân lúc nhập
viện được đánh giá bằng thang điểm Glasgow, 6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 287
trường hợp Glasgow 14‐ 15 điểm, 1 bệnh nhân lơ
mơ GCS 12 điểm. Nguyên nhân tổn thương hầu
hết là tai nạn sinh hoạt (5/7 trường hợp), 1
trường hợp tai nạn lao động và 1 do tai nạn giao
thông.
Có 4 bệnh nhân được chụp vừa CT và MRI
não, CT tái tạo mạch máu não được thực hiện
cho 3 trường hợp nghi ngờ tổn thương mạch
máu não và 1 MRA. Kết quả cho thấy không có
thương tổn mạch máu lớn trong sọ. Các thương
tổn đi kèm với dị vật gồm 1 trường hợp máu tụ
trong não, 5 trường hơp giập não kèm với xuất
huyết dưới nhện, 1 áp xe não. Các đặc điểm hình
ảnh của dị vật được trình bày trong bảng 4.
Bảng 4. Đặc điểm hình ảnh học của dị vật
ĐẶC ĐIỂM SỐ BN
Dị vật cản quang
Có 4
Không 3
Vị trí xuyên hốc mắt
Trần hốc mắt 1
Khe ổ mắt trên 4
Lỗ ống thị giác 3
Vị trí đỉnh dị vật
Cạnh xoang hang 2
Thùy trán 1
Thái dương đính đối bên 1
Thùy chẩm 1
Nhân bèo đối bên 1
Cuống não 1
Góc cầu tiểu não 1
Tất cả các trường hợp đều có dùng kháng
sinh trước mổ và duy trì sau mổ. Kháng sinh
thường được chọn là Vancomycin phối hợp với
Cephalosphorin thế hệ 3 có hoặc không có
Metronidazol. Có 3/7 bệnh nhân được dùng
corticoid trước trong và sau mổ, 2 trường hơp
dùng Solumedrol, 1 trường hợp dùng
Dexamethasone. 2 trường hợp có hội chẩn với
chuyên khoa Tai Mũi Họng, 4 trường hợp mổ
phối hợp với chuyên khoa mắt để lấy dị vật.
Đường mổ được thực hiện nhiều nhất là đường
trán 2 bên (4 trường hợp), 2 đường trán thái
dương và 1 qua trần hốc mắt. 8 dị vật được lấy
ra gồm 5 chiếc đũa, 2 thanh gỗ tre và 1 thanh gỗ
khác Không có tử vong. Kết quả được đánh
giá vào thời điểm ra viện dựa vào thang điểm
GOS cho thấy 1 bệnh nhân hồi phục tốt, 4 bệnh
nhân tàn tật vừa và 2 tàn tật nặng, các thương tật
sau mổ được trình bày trong bảng 5.
Bảng 5. Thương tật sau mổ
Thương tật Số BN
Giảm thị lực 1 mắt 3
Mù 2 mắt 2
Liệt dây III 2
Liệt vận nhãn hoàn toàn 1
Múc nội nhãn 1
Yếu nửa người 1
BÁO CÁO CA
Trường hợp 1
Bệnh nhân nam 36 tuổi là công nhân làm
việc tại xưởng gỗ, khi đang cưa gỗ thì bị mãnh
gỗ văng trúng vào mắt bên phải. Sau tai nạn
bệnh nhân được chuyển ngay đến Bệnh viện
Chợ Rẫy trong tình trạng tỉnh, các dấu hiệu
sinh tồn ổn định. Khám lâm sàng cho thấy mắt
phải có mãnh gỗ xuyên thấu gây vỡ nhãn cầu
và mất thị lực ở cả 2 mắt, không có dấu hiệu
thần kinh khu trú. Bệnh nhân được chụp CT
scan sọ não tại cấp cứu, cho thấy có 1 dị vật
không cản quang xuyên từ mắt phải qua
xương sàng vào đỉnh hốc mắt trái tận cùng ở
nhu mô não thái dương trái, kèm với máu tụ
trong não trán trái, xuất huyết dưới nhện và
quanh thân não (Hình 1A). Không thấy có tổn
thương hệ mạch máu lớn trong sọ trên hình
ảnh CT tái tạo 3D mạch máu não (Hình 1C).
Bệnh nhân được tiến hành hội chẩn giữa 3
chuyên khoa Ngoại thần kinh, Mắt, Tai Mũi
Họng. Kháng sinh dự phòng được sử dụng và
bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu phối hợp
múc nội nhãn mắt phải, và mở sọ trán 2 bên
lấy dị vật, máu tụ và giải áp trán 2 bên. Dị vật
là thanh gỗ dài khoảng 8cm. Sau mổ bệnh
nhân tỉnh với mắt phải múc nội nhãn và mắt
trái mù, không biến chứng sau mổ. CT kiểm
tra cho thấy đã lấy hết dị vật và có ít giập não
thùy thái dương bên trái và xuất huyết dưới
nhện. Bệnh nhân cũng ổn và chuyển viện
sau đó.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 288
Hình 1: Trường hợp 1, A: Dị vật, B: hình CT scan
trước mổ, C: hình CTA, D: Hình CT scan sau mổ
Trường hợp 2
Bệnh nhân nam 24 tuổi làm nghề bốc vác.
Cùng ngày nhập viện sau khi ẩu đả với người
khác bệnh nhân được đưa vào viện trong tình
trạng lơ mơ. Khám lâm sàng với sinh hiệu ổn
định, GCS 12 điểm, yếu nửa người bên phải
(sức cơ 2/5), 2 mắt bầm tím và chảy máu, vết
thương góc dưới trong mắt phải 2 cm và vết
thương góc dưới trong mắt trái 0,5 cm, xuất
huyết kết mạc 2 bên, đồng tử 2 bên 6mm và
mất phản xạ ánh sáng. CT sọ não đa lát cắt
được thực hiện cho thấy 2 dị vật dạng hình
que xuyên khe ổ mắt trên và ống thị giác vào
cạnh xoang hang, đến cạnh thân não và đến
thùy chẩm. Không thấy dấu hiệu tổn thương
mạch máu lớn trong sọ (Hình 2). Một hội chẩn
liên chuyên khoa Mắt, Ngoại thần kinh tại
phòng cấp cứu được tiến hành. Kháng sinh dự
phòng được sử dụng. Đường mở sọ trán 2 bên
được thực hiện nhằm kiểm soát thương tổn
não và dị vật được rút ra từ 2 mắt là 2 chiếc
đũa nhựa. Lâm sàng sau mổ bệnh nhân ổn
định, GCS 13 điểm, di chứng mù 2 mắt và yếu
nửa người bên phải. CT não kiểm tra cho thấy
đã lấy hết dị vật.
Hình 2: Trường hợp 2, A: Axial, B: Sagiatal, C:
Coronal, D: hình tái tạo.
Dị vật xuyên qua khe ổ mắt trên và ống thần
kinh thị giác
BÀN LUẬN
Giải phẫu hốc mắt liên quan với tổn
thương
Hốc mắt là hốc xương chứa nhãn cầu cơ
quan mắt phụ, mô mỡ, các dây thần kinh và
mạch máu cung cấp cho mắt. Nó có hình tháp
bốn mặt với đỉnh nằm phía sau, nền phía trước.
Vì vậy các dị vật có thể xuyên trực tiếp vào hốc
mắt. Thành trên hay trần hốc mắt là một vách
xương mỏng hơi lồi lên ngăn cách với hố sọ
trước. Chính vì vậy dị vật có thể xuyên qua trần
hốc mắt gây tổn thương thùy trán hoặc xâu hơn
nữa tới nhân xám não. Trong nghiên cứu của
chúng có một trường hợp xuyên trần hốc mắt
gây tổn thương thùy trán (trường hợp 5). Theo
một số nghiên cứu đây là vị trí thường gặp
nhất(1,4,6,8,9,10), tuy nhiên vị trí dị vật xuyên hốc mắt
thường gặp nhất trong nghiên cứu của chúng tôi
là qua khe ổ mắt trên (4/7 trường hợp). Điều này
có thể giải thích là do hốc mắt hình tháp với đỉnh
hướng ra sau, khe ổ mắt trên trãi dài ở góc thành
ngoài và sàn hốc mắt kéo dài tới đỉnh. Mặt khác
các dị vật lấy ra từ các bệnh nhân trong nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 289
cứu của chúng tôi chủ yếu là những chiếc đũa
hoặc những thanh gỗ nhỏ, xuyên với tốc độ
chậm nên dị vật dễ xuyên qua khe ổ mắt trên
hơn. Điều này cũng được ghi nhận trong một số
nghiên cứu khác(2,4,7,9). Sau khi xuyên khe ổ mắt
trên dị vật có thể vào thành bên xoang hang,
hạch nền, mặt trong thùy thái dương, trên gờ
xương đá qua hố sau hoặc tổn thương thân não
(trường hợp 2). Có 3 trường hợp dị vật xuyên lỗ
ống thị giác. Theo y văn đây là vị trí hiếm
gặp(9,10). Do vị trí giải phẫu đặc biệt hẹp, tuy
nhiên do trong nghiên cứu của chúng tôi chủ
yếu do chiếc đũa có kích thước nhỏ và đầu trong
nhọn nên dễ dàng xuyên vào ống thị giác. Ở vị
trí này rất dễ tổn thương thần kinh thị giác và
động mạch cảnh trong, dị vật có thể vào bể trên
yên và giao thoa.
Một vị trí hiếm gặp nữa mà chúng tôi
thường gặp là dị vật gỗ xuyên hốc mắt phải
xuyên xoang sàng qua đỉnh hốc mắt bên trái gây
mù 2 mắt (trường hợp 1). Điều này cũng được
ghi nhận trong y văn do thành trong hốc mắt là
mảnh sàng của xương sàn rất mỏng trên dị vật
có thể xuyên qua hốc mắt đối bên.
Lâm sàng
Hỏi bệnh và khám lâm sàng một cách đầy
đủ bao gồm khám toàn diện, khám mắt và
thần kinh. Chúng tôi nhận thấy tất cả 7 trường
hợp đều có thương tổn vùng mắt, tuy nhiên có
một bệnh nhân chấn thương không biết có dị
vật xuyên hốc mắt đến viện sau 1 tháng không
thấy dị vật ngoài mắt, khám mắt kỹ lại phát
hiện vết sẹo nhỏ ¼ trong mi dưới mắt phải
(trường hợp 5). Chính vì vậy không thể loại
trừ thương tổn DVHMXS mà chỉ nhìn bên
ngoài mắt và thấy nhãn cầu còn nguyên vẹn.
Điều này cũng được chú ý trong một số
nghiên cứu(1,5).
Bệnh cảnh có thể xảy ra một cách rõ ràng
ngay hốc mắt hoặc đi cùng với một đa thương,
hay một trường hợp tai nạn giao thông mà cơ
chế không rõ như trường hợp 1. Trường hợp 5,
bệnh nhân đến muộn với tình trạng sốt, đau
đầu. Khám lâm sàng được chú ý tìm dấu hiệu
viêm màng não và cần chú ý xử trí ban đầu của
tuyến trước.
Chẩn đoán hình ảnh
Trong chấn thương sọ não, CT scan luôn là
lựa chọn hàng đầu. CT scan giúp xác định
thương tổn máu tụ nội sọ hay giập não các cấu
trúc xương của vùng hốc mắt sàn sọ, xác định
được đường đi của dị vật. Một số tác giả cho
rằng CT scan không cần thiết trong những
trường hợp dị vật là mãnh kim loại lớn dễ gây ra
xão ảnh(9). Khi đó X quang sọ có thể giúp ích
trong việc xác định đường xuyên hốc mắt của dị
vật. Trong trường hợp 7 chúng tôi đều có chụp
CT scan sọ não không cản quang trước tiên và cả
7 trường hợp đều là dị vật gỗ hoặc nhựa. 4/7
trường hợp chúng tôi có chụp MRI não. MRI não
rất hữu ích trong các trường hợp dị vật gỗ, vì gỗ
khô có đậm độ tương tự như khí và gỗ ngấm
nước có đậm độ tương tự như mô mềm trên CT
scan(5,9). Làm cho chẩn đoán khó khăn hơn.
Ngoài ra trường hợp dị vật gỗ đến muộn như
trường hợp 5 cần thực hiện MRI để xác định áp
xe não tốt hơn.
Có 3 trường hợp dị vật xuyên vào lỗ ống
thị giác, gần kề động mạch cảnh trong và cạnh
xoang hang được chúng tôi chụp CT dựng
hình tái tạo mạch máu não. Kết quả cho thấy
chưa có tổn thương mạch máu lớn nội sọ.
Ngoài ra có 1 trường hợp chụp MRA và không
có trường hợp nào chúng tôi chụp mạch máu
số hóa xóa nền (DSA). Vai trò của CT tái tạo
mạch máu não được nhắc nhiều trong y văn,
giúp xác định thương tổn mạch máu lớn, nhất
là động mạch cảnh trong và khi dị vật xuyên
xoang hang. Một số trường hợp có thể hình
thành nên phình mạch máu do chấn thương,
rò động mạch cảnh xoang hoang(2,7,9). Như vậy
vấn đề quan trọng là phải nhận ra những dấu
hiệu thần kinh khu trú kết hợp với CT scan
cho thấy dị vật vùng xoang hang, hố sọ giữa,
đỉnh hốc mắt thì chỉ định chụp CTA, DSA
hoặc MRA phải được thực hiện.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 290
Điều trị
Thương tổn DVHMXS cũng như bất kỳ một
chấn thương nào khác, điều trị ban đầu cần tuân
theo nguyên tắc cấp cứu hô hấp tuần hoàn. Tình
trạng hô hấp, tuần hoàn cũng như những
thương tổn đe dọa tính mạng bệnh nhân phải
được đánh giá và xử trí kịp thời(1,4,5,9).
Sau khi đã ổn định tình trạng bệnh nhân, các
triệu chứng thần kinh và dị vật được đánh giá
một cách đầy đủ. Nguyên tắc trong xử trí
DVHMXS là không được rút dị vật ra khi chưa
chẩn đoán rõ và dị vật phải được rút tại phòng
mổ(9). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 4
trường hợp mổ cấp cứu lấy dị vật và 3 bệnh
nhân được mổ chương trình.
Kháng sinh dự phòng luôn được cho lúc
nhập viện (7 trường hợp) và cấy vi khuẩn từ dị
vật chúng tôi thực hiện chỉ 4 trường hợp và cho
kết quả vi khuẩn không mọc. Không có trường
hợp nào chúng tôi cấy yếm khí và không có soi
cấy nấm. Đa số dị vật trong nghiên cứu của
chúng tôi là gỗ và nhựa, cần phải thực hiện soi
cấy nấm, cấy kỵ khí là cần thiết. Corticoid liều
cao có vai trò làm giảm phù nề sau chấn thương
và sau mổ, tuy nhiên việc cải thiện thị lực vẫn
còn bàn cãi(9). Trong nghiên cứu của chúng tôi có
3/7 trường hợp dùng Corticoid, tuy nhiên liều
lượng chưa phù hợp và kết quả không có cãi
thiện thị lực mắt. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy
việc dùng Corticoid liều cao trong tổn thương
thị thần kinh nên được thực hiện sớm trong
những giờ đầu sau chấn thương.
Quyết định phẫu thuật DVHMXS nên có sự
kết hợp của nhiều chuyên khoa như Ngoại Thần
Kinh, Mắt hoặc Răng Hàm Mặt, Tai Mũi
Họng(1,5,6,7,8,9). Các phẫu thuật viên thần kinh xử
trí các thương tổn não, các cấu trúc mạch máu,
làm sạch dị vật, giải áp sự chèn ép thần kinh
cũng như ngăn ngừa và xử trí các thương tổn
mạch máu. Trong khi đó các phẫu thuận viên
Mắt xử lý tổn thương hốc mắt và phối hợp lấy dị
vật từ mắt. Các chuyên gia Tai Mũi Họng và
Hàm mặt có thể xử lý những thương tổn đi kèm
như gãy Lefort, các cấu trúc của mũi xoang(9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 4 trường
hợp đều có sự phối hợp giữa 2 chuyên khoa mắt
vào ngoại thần kinh để lấy dị vật, 2 trường hợp
có phối hợp với tai như mũi họng để cầm máu
mũi xoang. Các trường hợp nếu có nghi ngờ tổn
thương động mạch cảnh thì có thể phối hợp với
Xquang can thiệp nội mạch thần kinh để kiểm
soát chảy máu(3) tuy nhiên trong nghiên cứu của
chúng tôi không xảy ra điều này.
Nguyên tắc của phẫu thuật là rút bỏ được dị
vật dưới quan sát trực tiếp và phải giải áp được
cấu trúc mạch máu thần kinh một cách an toàn(9).
Sau khi dị vật được rút bỏ, phải lấy hết xương
vụn, mô hoại tử, làm sạch và vá kín màng cứng
tránh rò dịch não tủy. Đánh giá thương tổn mắt
được thực hiện bởi các chuyên gia về Mắt.
Chúng tôi lấy dị vật qua 3 đường mở sọ gồm 4
bệnh nhân mở sọ trán 2 bên, 2 bệnh nhân qua
đường trán thái dương và 1 qua trần hốc mắt.
Theo y văn(9) có đường mở sọ để lấy DVHMXS
là đường trán thái dương, đường dưới trán và
đường ổ mắt trước.Tuy nhiên nguyên tắc chọn
lựa đường mổ phải dựa vào đường đi của dị vật
và thương tổn não đồng thời phải hạn chế
nguy cơ vén não và phẫu trường cần kiểm soát
rộng. 4 trường hợp chúng tôi mở sọ trán 2 bên
là do các thương tổn ở cả 2 bên hoặc thương
tổn xuyên bán cầu đối bên. Đường ổ mắt trước
đơn giản hơn, nhanh hơn, ít xâm lấn hơn và
thời gian hồi phục nhanh hơn và chỉ áp dụng
cho thương tổn xuyên vùng trần hốc mắt đơn
giản. Trong nghiên cứu của chúng tôi không
gặp trường hợp này.
Di chứng sau tổn thương DVHMXS rất phức
tạp, có thể do bản thân dị vật làm tổn thương vỡ
nhãn cầu(9) nhưng trong nghiên cứu của chúng
tôi gặp 1 trường hợp. Dị vật xuyên lỗ ống thị
giác gây mờ mắt (3 trường hợp giảm thị lực một
mắt và mù cả 2 mắt là 2 trường hợp), liệt thần
kinh III (3 trường hợp) và khi dị vật xuyên đỉnh
hốc mắt gây ra hội chứng đỉnh hốc mắt với mù
mắt, liệt vận nhãn và đau mặt theo phân bố của
thần kinh V1 (trường hợp 3). Có thể có biến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 291
chứng sau mổ như rò dịch não tủy qua vết mổ(1,9)
tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi không
gặp biến chứng này. Thông thường các rò dịch
não tủy sau chấn thương thường tự lành(9) hoặc
do phẫu thuật chúng tôi đã vá màng cứng hoặc
một số trường hợp lỗ rò sâu được bít bằng cân
cơ thái dương. Các biến chứng do tụ máu nội sọ
sau mổ hay tổn thương mạch máu lớn không
xảy ra trong cả 7 trường hợp của chúng tôi 1
trường hợp yếu nửa người do dị vật xuyên cạnh
thân não và 1 trường hợp liệt vận nhãn hoàn
toàn do tổn thương lúc mổ.
Tất cả trường hợp sau mổ đều được chúng
tôi chụp CT scan trong vòng 24 – 48 giờ để đảm
bảo rằng dị vật đã được lấy hết, đồng thời kiểm
tra các thương tổn nhu mô não cũng như cáo
biến chứng tụ máu nội sọ sau mổ. Theo y văn(9)
khuyến cáo những thương tổn gần với động
mạch cảnh trong như đỉnh hốc mắt, xoang hang
thì cần phải theo dõi bằng CTA hoặc MRA trong
vòng 1 đến 3 tháng sau chấn thương.
KẾT LUẬN
DVHMNS là thương tổn hiếm gặp, lâm sàng
cần khám kỹ vùng mắt, có thể thấy được hoặc
không thấy dị vật. CT tái tạo mạch máu não và
MRI là phương tiện hữu ích cho chẩn đoán nhất
là dị vật gỗ. Điều trị phải có sự phối hợp giữa
chuyên khoa Mắt và Ngoại thần kinh đôi khi Tai
Mũi Họng hay hàm mặt. Phẫu thuật rút dị vật
luôn luôn phải thực hiện tại phòng mổ và đường
mở sọ tùy vào đường đi của dị vật, dị vật nên
được rút ra theo đường từ ngoài mắt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdulbaki A, Otaibi FA. (2012). Transosbital craniocerebral
Occult Pentrating Injury With Cerebral Abscess Complication.
Case reports in Opthalmological Medicine, 1 – 6.
2. Gupta SK. (2012). Juxtapontine abscess around a retained
wooden fragment following a penetrating eye infury : surgical
management via a transtentorial approach. J Neurosurg
Pediatrics, 9, 103 – 107.
3. Gupta OP, Roy K. (2013). An unsual penetrating transorbital
craniocerebral injury. The Indian Journal of neurotrauma XXX, 1
– 4.
4. Huiszoon WB, Noe PN. (2012). Fatal transorbital penetrating
intracranial injury caused by a bicycle hand brake. International
Journal of Emergency medicine, 5(34), 1 – 3.
5. Huỳnh Lê Phương. (2012). Vết thương hốc mắt sọ não do dị vật
gỗ xuyên thũng – báo cáo ca. Y học thực hành TP.Hồ Chí Minh.
Tập 16(4), 289 – 294.
6. Lin.HC, Lee HC. (2006). Management of Transorbital Brain
Injury. J Chin Med Assoc. Vol 70, (1), 36 – 38.
7. Matsuyama T, Okuchi K. (2001). Transorbital penetrating Injury
by a chopstick. Neurol Med Chir (Tokyo), 41, 345 – 348.
8. Paiva WS, Monaco B. (2010). Surgical treatment of a transorbital
penetrating brain injury. Clinical Opthalnology, 4, 1103 – 1105.
9. Schreckinginger M, Sagher O. (2011). Transorbital penetrating
injury case series, review of the literature, and proposed
management algorithum. J Neurosurg, Vol 14, 53 – 61.
10. Shin TH, Kim JH. (2012) Transorbital Penetrating Intracranial
Injury by a Chopstick. J Korean Neurosurg soc 52, 414 – 416.
Ngày nhận bài báo: 21/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 05/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- di_vat_hoc_mat_xuyen_so_nao_nhan_7_truong_hop.pdf