KẾT LUẬN
Theo cách tiếp cận của sử học vĩ mô có thể thấy trong
tiến trình lịch sử nhân loại đã tồn tại rất nhiều dịch
bệnh nguy hiểm, trong đó đáng kể như đậu mùa, dịch
hạch, dịch tả và cúm. Qua so sánh, đối chiếu các trận
dịch bệnh trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau cũng
thấy được rằng dịch hạch và đậu mùa là những dịch
bệnh đã bùng phát, lây lan và trở thành nỗi khiếp sợ
đối với nhân loại thời cổ-trung đại và cận đại. Trong
khi đó, dịch tả và cúm lại là những dịch bệnh đã hoành
hành dữ dội vào thời cận đại và hiện đại. Nói tóm
lại, dịch bệnh không chỉ đơn thuần là vấn đề về sức
khỏe và miễn dịch cơ thể của con người mà còn là
thách thức không ngừng đối với xã hội loài người, các
dân tộc, chính phủ và các nền văn minh trong lịch
sử. Dịch bệnh tác động đến cáckhía cạnh kinh tế, xã
hội, chính trị, quân sự và cả văn hóa. Nó làm thay
đổi cách thức vận hành bộ máy nhà nước, lối sống xã
hội, các phong tục tập quán, thậm chí đôi khi quyết
định cả vận mệnh của một cộng đồng hay một nền
văn minh. Trong thời kỳ hiện đại, khi quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa diễn ra nhanh
chóng, cùng với sự biến đổi khí hậu thì tác động của
dịch bệnh cũng ngày càng lớn hơn. Giống như nhiều
thiên tai khác, loài người buộc phải đối mặt với những
thách thức từ dịch bệnh một cách thường xuyên và
liên tục. Cũng vì thế mà phản ứng và cách thức đối
phó với dịch bệnh của loài người ngày càng tiến triển
theo thời gian. Từ các biện pháp phòng ngừa dịch
bệnh tới cách ly và điều trị, loài người đã đạt được
những thành tựu cơ bản. Cùng với các tiến bộ trong
y học, nhiều loại dịch bệnh cơ bản đã được đẩy lùi và
hoặc suy giảm không còn khả năng bùng phát thành
đại dịch. Chẳng hạn, với việc chế tạo ra vắc-xin đậu
mùa và vắc-xin dịch hạch thể hạch, bệnh đậu mùa và
bệnh dịch hạch vốn là nỗi khiếp sợ đối với nhân loại
trong nhiều thế kỷ đã được chế ngự thành công.Dù
vậy vẫn còn rất nhiều dịch bệnh tồn tại, đang và sẽ tiếp
tục xảy ra, buộc nhân loại phải học cách sống chung
và đối phó ngày càng hữu hiệu hơn.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch bệnh trong lịch sử nhân loại: Nguồn gốc, tác động và biện pháp ứng phó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến và sự nghiêm trọng của các bệnh truyền nhiễm
lây truyền từ vật chủ và trung gian của chúng, vì nhiều
loài vật chủ mang mầm bệnh rất nhạy cảm với nhiệt
độ và độ ẩm môi trường. Bên cạnh thiên tai do biến
đổi khí hậu, sự biến đổi củamôi trường sinh thái cũng
làmột trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện
của dịch bệnh. Việc sử dụng đất, khai thác tài nguyên
thiên nhiên, chặt phá rừng và cải tạo đất rừng thành
đất nông nghiệp trồng trọt trong hàng ngàn năm lịch
sử của loài người làm cho hệ sinh thái bị đảo lộn dẫn
tới mất cân bằng môi trường sống của các loài sinh
vật, khiến mầm bệnh từ môi trường tự nhiên xâm
nhập vào con người [ 2, tr. 193-197]. Trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa diễn
ra như hiện nay thì quá trình biến đổi này càng mạnh
mẽ hơn.
Bên cạnh yếu tố tự nhiên thì yếu tố xã hội cũng đóng
vai trò quan trọngtrong việc xuất hiện và lây lan của
dịch bệnh. Bởi yếu tố tự nhiên chỉ giữ vai trò hoàn
cảnh, tức nguyên nhân khách quan, chỉ đến khi có các
yếu tố xã hội gây ra bởi con người, tức nguyên nhân
chủquan thì dịch bệnhmới có thể ảnhhưởng trực tiếp
đến xã hội. Các hoạt động sản xuất của con người tác
động vào tự nhiên dẫn tới những tác động ngược lại
của tự nhiên vào con người như một hệ quả tất yếu.
Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa khiến cho các
đô thị trở nên đông đúc, chật chội, điều kiện vệ sinh
kém, môi trường sống xung quanh bị ô nhiễm giúp
mầm bệnh dễ dàng sinh sôi và phát tán. Chiến tranh,
loạn lạc, bất ổn chính trị - xã hội cũng góp phần dẫn
tới sự bùng phát và lây lan của dịch bệnh. Đó là do
trong hoàn cảnh xã hội rối ren, việc ngăn ngừa sự lây
lan của dịch bệnh trở nên kém hiệu quả. Tình trạng
di cư do loạn lạc, chiến tranh thì góp phần giúp cho
mầm bệnh lây lan nhanh chóng hơn.
Tóm lại, sự bùng phát và lây lan của các dịch bệnh phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố sinh học, điều kiện tự
nhiên, môi trường và điều kiện xã hội. Tuy nhiên,
trong quá khứ do những hiểu biết của con người về
dịch bệnh và sự lây lan của chúng còn hạn chế nên
quan niệm về nguồn gốc dịch bệnh cũng rất khác biệt.
Chẳng hạn ở phương Tây thời cổ đại, dịch bệnh xảy
ra được cho là do hệ quả của chuỗi các thiên tai như
động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, sao chổi và nhật thực xảy
ra trước đó. Theo quan niệm củamột số nhà y họcHy
Lạp và LaMã cổ đại là Hippocrates (460-370 TCN) và
Galen vùng Pergamon (129-200) thì “miasma” - loại
khí độc ô nhiễm do động đất, hỏa hoạn hay sao chổi
gây ra là nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh [7, tr. 2].
Những quan niệm như vậy vẫn còn tồn tại đến thời
trung đại. Sự xuất hiện của dịch bệnh còn gắn liền với
đức tin tôn giáo về vai trò của các thế lực siêu nhiên
hay trách nhiệm đạo đức cá nhân và cộng đồng trong
việc gây ra dịch bệnh[8, tr. 27]. Còn ở phương Đông,
theo quan niệm của y học truyền thống Trung Quốc
thì môi trường được xem là nguyên nhân cơ bản của
các loại bệnh tật và những rối loạn trong cơ thể con
người là biểu hiện tức thời của nó. Theo quan niệm
này, bệnh tật được tạo ra bởi khí độc trongmôi trường
gọi là “lệ khí”, nó xâm nhập vào cơ thể con người và
phá vỡ sự cân bằng hài hòa bên trong cơ thể, từ đó gây
ra bệnh tật. Sự cân bằng này thường được diễn tả qua
thuyết ngũ hành, âm- dương và 12 huyệt[9, tr. 115].
727
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
Nói một cách khác, dịch bệnh theo tư tưởng dịch tễ
học truyền thống của TrungQuốc là kết quả từ những
bất thường trong chu kỳ của khí.Những quan niệm và
cách thức diễn giải về nguồn gốc dịch bệnh như trên
cho thấy hiểu biết của con người về bản chất thực sự
của dịch bệnh trong quá khứ vẫn còn rất hạn chế. Dẫu
vậy, chúng vẫn mang những giá trị nhất định về mặt
tri thức, giúp cho nhân loại sau này khám phá được
đúng đắn nguồn gốc và bản chất của dịch bệnh.
Tổngquanvềdịchbệnh trong tiến trình lịch
sử nhân loại
Trong tiến trình lịch sử nhân loại từ thượng cổ chí kim
đã có vô số dịch bệnh xảy ra, ảnh hưởng rất lớn đến
các xã hội, các dân tộc và các nền văn minh. Những
ghi chép sớm nhất về dịch bệnh đã được biết tới từ
thời cổ đại. Từ thế kỷ XI trước Công nguyên đến nay,
đã có ít nhất 555 trận dịch quy mô lớn xảy ra được
ghi nhận trong lịch sử [10, tr. 475-489]. Các loại bệnh
thường xuất hiện và trở thành nỗi ám ảnh đối với lịch
sử nhân loại là dịch hạch, đậu mùa, dịch tả và cúm
[11, tr. 13]. Phần này trình bày tổng quan về sự bùng
phát của những dịch bệnh lớn trong lịch sử nhân loại
(Xem: Bảng 1).
Dịch bệnh thời kỳ cổ đại
Trậndịch sớmnhất thời cổ đại được biết đến là vào thế
kỷXI trướcCôngnguyên tại khu vực ngày nay là Israel
[10, tr. 475]. Trong Kinh Cựu Ước và các cổ thư như
SáchXuất hành (Book of Exodus) hay Sử thi Iliad cũng
đã có các đề cập đến dịch bệnh và các thể bệnh truyền
nhiễm [2, tr. 198]. Tuy nhiên, chỉ bắt đầu từ thế kỷ V
trước Công nguyên trở đi thì mới có những miêu tả
cụ thể về dịch bệnh thời cổ đại. Có thể kể đến trận
dịch ở Athens (430-426 TCN) bùng phát trong cuộc
chiến tranh Peloponnese (431-404 TCN) giữa Athens
và Sparta. Đây cũng là dịch bệnh được mô tả sớm
nhất trong lịch sử châu Âu [2, tr. 531]. Dựa theo ghi
chép của nhà sử học Thucydides - cũng là tác giả của
cuốn Lịch sử chiến tranh Peloponnese, thì trận dịch này
bắt nguồn từ Ai Cập, lan tới Ba Tư rồi sau đó lan đến
Hy Lạp. Mặc dù Thucydides đã tường thuật các triệu
chứng của dịch bệnh nhưng danh tính chính xác của
nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Nhiều giả thuyết cho
rằng nó có thể là sốt thương hàn, đậu mùa hoặc bệnh
sởi [9, tr. 1]. Cũng có ý kiến cho rằng đó là bệnh dịch
hạch thể hạch (bubonic plague) [12, tr. 18] song rốt
cuộc vẫn chưa xác định được một cách chắc chắnc.
Trận dịch này có hai đợt bùng phát lớn vào các năm
cCùng với dịch hạch thể viêm phổi (pneumonic plague) và dịch
hạch thể nhiễm trùng huyết (septicemic plague), dịch hạch thể hạch
là một trong ba thể chính của bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia
pestis gây ra.
430-428 và 427-426 TCN [ 13, tr. 6]. Khoảng 25-35%
dân số của Athens thời bấy giờ đã bị thiệt mạng bởi
trận dịch này [9, tr. 1].
Trong lịch sử đế chế La Mã có hai trận dịch lớn xảy
ra, đó là đại dịch Antonine (166-190 CN) và trận dịch
Cyprian (251-270). Theo ghi chép của Galen (Aelius
Galenus), vị thầy thuốc nổi danh nhất của La Mã thời
đó thì trận dịch Antonine về cơ bản là bệnh đậu mùa
[2, tr. 536]. Nó bùng phát ở Lưỡng Hà vào năm 165
hoặc đầu năm 166 Công nguyên, trong thời gian xảy
ra cuộc chiến tranh giữa La Mã với Parthian (Ba Tư).
Ban đầu nó lan tới Ba Tư, sau đó theo chân những
binh lính La Mã trở về Rome để từ đó lan rộng ra
khắp bán đảo Ý. Hoàng đế La Mã khi đó là Marcus
Aurelius đã chết vì dịch bệnh này vào năm 180. Dịch
bệnhmột lần nữa bùng phát vào năm189, chủ yếu xảy
ra ở Rome và Ý. Đại dịch Antonine được xem là một
trong những dịch bệnh có tác động mạnh mẽ, làm
rung chuyển đế chế LaMã. Theo các ghi chép thời đó,
có khoảng 30.000 người chết tại Rome vào năm 165.
Còn trong đợt bùng phát năm 189, mỗi ngày có đến
2000 người chết[9, tr. 18]. Tỷ lệ tử vong vào khoảng
7-10% [2, tr. 536].
Trận dịch Cyprian thì được đặt theo tên của giám
mụcCarthage là Cyprian, nhân chứng sống trong trận
dịch. Nó cũng được biết đến với tên gọi dịch bệnhAu-
relian[12, tr. 19]. Dịch bệnh lan tràn khắp Ai Cập và
Alexandria vào năm 251, rồi lan tới Rome trong cùng
năm đó, dẫn đến cái chết của hoàng đế La Mã là Hos-
tilianus. Đến năm 252 nó lan tới Carthage. Sau đó nó
còn bùng phát vài lần vào các năm 256, 259, 262 và
270[2, tr. 537].
Ngoài việc dẫn tới đại dịch Antonine ở La Mã, bệnh
đậu mùa cũng đã được biết đến ở nhiều khu vực khác
trên thế giới thời cổ đại. Miêu tả trong giấy papyrus
Ebers ở Ai Cập được cho là một trong những ghi chép
đầu tiên về bệnh đậumùa ởCậnĐông. PharaonRam-
ses V trị vì Ai Cập thời Tân vương quốc cũng được
cho là chết vì bệnh đậu mùa [13, tr. 131]. Còn ghi
chép sớm nhất về bệnh đậu mùa ở Trung Quốc là bởi
một thầy thuốc tên Cát Hồng vào năm 342[ 2, tr. 677-
678]. Có tài liệu cho rằng bệnh đậu mùa lần đầu xuất
hiện ở Trung Quốc vào nửa sau thế kỷ III trước Công
nguyên do các bộ tộc du mục Hung Nô mang tới [ 14,
tr. 6]. Bệnh đậu mùa cũng đã được biết đến từ hàng
ngàn năm trước ở Ấn Độ, được miêu tả trong các y
văn tiếng Phạn (Sanskrit) như Sushruta Samhita[8, tr.
73].
Dịch bệnh thời kỳ Trung Cổ
Sang thời trung cổ, một trong những dịch bệnh gây
chết chóc và trở thành nỗi ám ảnh đối với nhân loại
thời kỳ này là bệnh dịch hạch.
728
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
Đại dịch hạch thứ nhất xảy ra vào thời sơ kỳ trung
đại, với lần bùng phát đầu tiên vào năm 541, sau đó là
chuỗi 18 lần bùng phát liên tiếp kéo dài đến tận năm
750, tức trung bình cứ 11,6 năm lại có một trận dịch
xảy ra [ 2, tr. 532]. Vì đợt bùng phát đầu tiên xảy ra vào
thời trị vì của hoàng đế Byzantine là Justinian I (527-
565) nên tên gọi của cả đại dịch đã được đặt theo tên
vị hoàng đế là đại dịch Justinian[9, tr. 23]. Loại bệnh
gây ra đại dịch này được cho là dịch hạch thể hạch
có nguồn gốc từ châu Phi, sau đó theo tuyến đường
thương mại hàng hải lây lan ra khắp vùng Địa Trung
Hải, từ đế chế Byzantine đến lãnh thổ Hồi giáo và khu
vực Tây Nam Âu[2, tr. 532]. Số người chết trong các
đợt bùng phát của đại dịch này rất lớn, lần lượt là 20%
dân số Constantinople (đợt dịch năm 542), 35% dân
số Ai Cập (năm 744) và 25% dân số Basra (Iraq, năm
749)[22, tr. 533], dẫn đến một cuộc khủng hoảng
nhân khẩu thời bấy giờ. Một vài tài liệu ước tính tổng
số người thiệt mạng do đại dịch này từ 20 lên đến 50
triệu người [ 3, tr. 35].
Đại dịch hạch thứ hai, bắt đầu từ khu vực Trung Á
vào những năm 1330 và lan rộng ra phía tây từ năm
1347. Đây là đại dịch do bệnh dịch hạch thể hạch
gây ra lớn nhất trong lịch sử nhân loại, kéo dài gần
500 năm với nhiều đợt bùng phát liên tiếp qua nhiều
thế kỷ, đến tận những năm 1840 mới hoàn toàn kết
thúc[9, tr. 46]. Trong đợt bùng phát ở Châu Âu vào
những năm 1347-1353, nó được biết đến với tên gọi
“Cái Chết Đen” [3, tr. 36]. Thuật ngữ này xuất phát
từ atra mors trong tiếng Latin nghĩa là cái chết khủng
khiếp hoặc cái chết đen[ 2, tr. 57]. Về nguồn gốc
và thời điểm bùng phát của làn sóng đại dịch này,
một số ý kiến cho rằng nó bắt nguồn từ Trung Á vào
những năm 1330 sau đó lan ra khắp Châu Á, Châu Âu
và Bắc Phi. Cũng có quan điểm cho rằng dịch bệnh
xuất hiện đầu tiên vào năm 1346 trong lãnh thổ của
Kim trướngHãn quốc.Từ năm 1347, nó lây lan nhanh
chóng, mầm bệnh đã theo tuyến giao thương hàng
hải, từ bán đảo Crimea qua Biển Đen lan đến Con-
stantinople. Từ đây, dịch bệnh xâm nhập vào Tiểu Á,
đảo Cyprus, Alexandria (Ai Cập), đảo Crete, Hy Lạp,
Venice, vùng biển Adriatic, Sicily và Genoa (Ý). Từ
Genoa, dịch bệnh tiếp tục lây lan sang Tây Ban Nha
và Pháp vào năm 1348. Tiếp đó, nó lây lan sang Anh,
Đức, lên phía bắc tới khu vực biển Baltic năm 1349 và
các công quốc ởNga vào năm1351-1352[ 9, tr. 41-43].
Người ta ước tính rằng “Cái Chết Đen” đã giết chết 25
triệu người chỉ trong vòng 2 năm từ năm 1348 đến
1350, gồm 1/3 dân số của Châu Âu và Trung Đông.
Tỷ lệ tử vong đối với người nhiễm bệnh không dưới
70% [ 12, tr. 22-23].
Ngoài bệnh dịch hạch, bệnh đậu mùa được biết từ
thời cổ đại tiếp tục gây ra các trận dịch vào thời Trung
Cổ, đáng kể nhất là dịch đậu mùa xảy ra ở Nhật Bản
vào thế kỷVII-VIII.Mầmbệnh do các thủy thủ Trung
Quốc và Tân La (Triều Tiên) mang đến, gần như hủy
diệt thành Nara trong đợt dịch năm 735. Từ thế kỷ X
trở đi thì đậumùa trở thành bệnh đặc hữu địa phương
của Nhật Bản với các đợt bùng phát rải rác vào các
năm 915, 925, 947, 993, 998 và ở những thời điểm tiếp
theo như 1209, 1277, 1311, 1361, 1424, 1452, 1454,
1522 và 1550 [14, tr. 7].
Dịch bệnh thời kỳ cận đại
Từ thế kỷ XVI, đậu mùa trở thành căn bệnh gây chết
chóc không chỉ ở Châu Âu mà còn ở khắp các thuộc
địa của thực dân châu Âu trên thế giới, tạo ra tác động
đáng kể ở thời cận đại. Mặc dù đã phân lập theo địa
phương và thời gian trở thành bệnh đặc hữu song
thỉnh thoảng nó vẫn bùng phát thành dịch bệnh khắp
châu lục. Chẳng hạn vào năm 1614, bệnh đậu mùa
lan rộng khắp Pháp, Đức, Ý, Anh, Ba Lan, Hà Lan,
đảo Crete vàThổNhĩ Kỳ[2, tr. 675]. Sự nghiêm trọng
của căn bệnh này ở chỗ không chỉ có trẻ em vốn là đối
tượng chủ yếu bị nhiễm bệnh do chưa đượcmiễn dịch
lần đầu, mà ngay cả người trưởng thành, gồm thành
viên của các hoàng tộc ở châuÂu cũng bị nhiễm bệnh,
nhiều người trong đó đã chết vì đậu mùad [14, tr. 10].
Như hệ quả của các cuộc phát kiến địa lý, với việc
khám phá ra Tân Thế giới là sự “trao đổi Columbus”
- thuật ngữ dùng để diễn tả sự tiếp xúc giữa châu Âu
với châu Mỹ, mang lại sự trao đổi quy mô lớn các hệ
thực vật, động vật, văn hóa, con người, kĩ nghệ và cả
bệnh dịch giữa Tân Thế giới và Cựu Thế giới [ 3, tr.
102]. Có rất ít bằng chứng cho thấy sự tồn tại của
dịch bệnh ở châu Mỹ thời tiền Columbus [12, tr. 77].
Chính sự tách biệt giữa châu Mỹ với phần còn lại của
thế giới trong hàng ngàn năm đã giúp người bản địa
châuMỹ ít chịu bệnh dịch hơn. Các loại bệnh như đậu
mùa và bệnh sởi đã theo chân những người châu Âu
tới châu Mỹ. Đây là những bệnh ngoại nhập đối với
người bản địa châu Mỹ thời đó, thứ mà họ hoàn toàn
thiếu sự miễn dịch. Là một khía cạnh của “sự trao đổi
Columbus”, từ năm 1493 cho đến cuối thế kỷ XVI, lục
địa châu Mỹ đã trải qua một loạt các dịch bệnh khác
nhau với ảnh hưởng thảm khốc tới dân số và các nền
văn minh nơi này [ 9, tr. 79].
Đậu mùa xuất hiện lần đầu tiên ở Tân Thế giới vào
khoảng năm 1517-1518 tại vùng Hispaniola[ 2, tr.
659]. Kết quả là người dân bản địa nơi này đã trải
qua bệnh dịch với cái chết kinh hoàng chưa từng thấy.
dCụ thể vua Louis XV của Pháp, Sa hoàng Peter II của Nga, hoàng
đế Joseph I của đế chế Habsburg, vua Luis I của Tây Ban Nha và nữ
hoàngMary II của Anh đã chết vì đậu mùa. Vua Louis XIV của Pháp
và vua Charles II của Anh cũng bị nhiễm bệnh nhưng may mắn sống
sót.
729
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
Từ năm 1492 đến năm 1520, dân số bản địa ở đây
đã giảm từ 1 triệu xuống chỉ còn 15.000 [ 3, tr. 103].
Đậumùa lây truyền đếnMexico vào tháng 5 năm1520
và gây ra bệnh dịch cho người Aztec ở Tenochtitlan.
Khi Hernán Cortés chinh phục nơi này (tháng 8 năm
1521), một nửa cư dân ở đây đã chết vì dịch bệnh.
Ngoài ra, 18 triệu người trong tổng số 25 triệu người
khi đó của Mexico cũng đã chết vì bệnh đậu mùa và
bệnh sởi [12, tr. 78]. Đậumùa lan tới đế chế Inca giữa
các năm 1524 và 1527, giết chết gần 200.000 người
trên tổng số 6 triệu dân, bao gồmcả hoàng đế Inca [ 14,
tr. 25]. Bệnh đậu mùa đã lây lan khắp Trung Mỹ vào
những năm 1520, kế đó là bệnh sởi vào những năm
1530, sốt phát ban hoặc dịch hạch phổi vào những
năm 1540. Đậu mùa, cúm và sởi cũng gây ra dịch
bệnh ở vùng Andes trong những năm 1550-1560[ 8,
tr. 79].
Tiếp theo sau bệnh đậu mùa, lịch sử nhân loại thời
cận đại cũng chứng kiến những tác động rất nghiêm
trọng của bệnh dịch tả do vi khuẩn Vibrio cholerae
gây ra. Tuy là căn bệnh có nguồn gốc cổ xưa ở vùng
Nam Á, nhưng đến thế kỷ XIX thì dịch tảtrở thành
dịch bệnh phổ biến nhất khi bùng phát thành các làn
sóng đại dịch liên tiếp [2, tr. 92]. Có tổng cộng 5 đợt
đại dịch do bệnh dịch tả gây ra trong thế kỷ XIX, lần
lượt vào các năm 1817-1824; 1827-1835; 1839-1856;
1863-1875 và 1881-1896[8, tr. 102]. Bắt nguồn từ
Bengal và là căn bệnh đặc hữu của châu Á lây truyền
qua nguồn nước, dịch tả bắt đầu lây lan nhanh vào
đầu thế kỷ XIX do sự tăng cường hoạt động quân sự
và thương mại của người Anh ở khu vực này. Mầm
bệnh theo chân binh lính và các con tàu của người
Anh đã lây lan khắp nơi trên thế giới[2, tr. 101]. Ở
đợt bùng phát lần đầu tiên, chỉ trong vài tháng ở Cal-
cutta đã có 10.000 người chết, 5000 binh línhAnh đồn
trú ở đây cũng thiệt mạng vì dịch tả. Nó hoành hành
khắp Ấn Độ, rồi lan tới Trung Quốc thông qua cảng
phía tây Quảng Đông vào năm 1820, sau đó tới lưu
vực Dương Tử trong các năm 1822-1824. Ở Choson
(Triều Tiên), vào năm 1821 có từ 10.000 đến 100.000
người chết. Dịch tả cũng lan tới Nhật Bản qua cảng
Nagasaki năm 1822. Ở Đông Nam Á, dịch tả lan tới
Philippines, Borneo và Java. Ở Java có 100.000 người
chết vào năm 1820e. Ở đợt bùng phát thứ hai, nó dẫn
đến 31.474 người chết ở Anh (tháng 10 năm 1831),
eDịch tả cũng đã lây lan và gây ra dịch bệnh ở Việt Nam thời
Nguyễn. Có thể xem Li Tana, “Epidemics in Late Pre-Modern Viet-
nam andTheir LinkswithHerNeighbours”, bài tham luận tại hội thảo
Imperial China and Its Southern Neighbours, tổ chức bởi Institute of
Southeast Asian Studies tại Singapore, 28-29 tháng 06, 2012. Bài viết
này sau đó đã được rút gọn và in trong tuyển tập cùng tên hội thảo.
Li Tana, “Epidemics, Trade, and Local Worship in Vietnam, Leizhou
Peninsula, and Hainan Island” in Imperial China and Its Southern
Neighbours (Victor H. Mair, Liam Kelly eds.), ISEAS-Yusof Ishak In-
stitute, 2015, 194-213.
102.000 người chết ở Pháp (1832), 150.000 người chết
ở Mỹ (1832-1849). Dịch tả cũng theo các đoàn hành
hương gây ra dịch bệnh ở bán đảo Ả Rập và khu vực
Cận Đông. Còn trong đợt bùng phát thứ ba, dịch tả
lây lan khắpẢRập,ThổNhĩ Kỳ và châu Âu. Trong các
năm 1854-1855, có 146.000 người ở Pháp và 248.514
người ở Ý đã chết vì dịch tả. Nó cũng lây lan khắp
châu Á và thậm chí sang cả châu Phi [ 2, tr. 98-101].
Không chỉ có dịch tả, trong thế kỷ XIX nhân loại còn
phải đối mặt với đại dịch hạch thứ ba và cũng là cuối
cùng của bệnh dịch hạch sau hai đại dịch đã xảy ra vào
thời Trung Cổ. Lần đại dịch này cũng bắt nguồn từ
Trung Á và bùng phát tại TrungQuốc đại lục vào năm
1855. Nó hoành hành ở Quảng Đông và Hong Kong
vào năm 1894, sau đó theo đường thương mại hàng
hải lây lan đến các cảng thị trên thế giới như Hon-
olulu, Sydney, Auckland, Cape Town, Naples và San
Francisco. Thái Lan, Đông Dương, Manila, Java, Mãn
Châu và Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng. Đại dịch cũng
lan đến ẤnĐộ, nơi có từ 13 đến 15 triệu người chết từ
năm 1898 đến 1910. Trước khi chấm dứt hoàn toàn,
ước chừng 20 triệu người đã chết vì đại dịch hạch trên
phạm vi cả năm châu lục[3, tr. 38-39]. Đáng lưu ý,
trong lần đại dịch thứ ba này nhờ những tiến bộ về y
học lúc bấy giờcùng với công sức nghiên cứu của bác
sĩ Alexandre Yersinfmàvào năm1894, tác nhân gây ra
dịch bệnh đã được xác định. Để vinh danh đóng góp
của bác sĩ Yersin, tên của loài vi khuẩn gây bệnh dịch
hạch đã được đặt theo tên của ông làYersinia pestis[12,
tr. 24-25].
Dịch bệnh thời kỳ hiện đại
Ở thời kỳ hiện đại, trong vòng chỉ hơn 100 năm qua
nhân loại đã phải đối mặt với hàng loạt dịch bệnh liên
tiếp xảy ra. Đầu tiên là đại dịch cúm 1918-1919g, do
virus H1N1 thuộc chủng virus cúm A gây rah. Dù
khoảng ba thập niên trước đó đã từng xảy ra một
đại dịch cúm (1889-1890), nhưng đại dịch cúm 1918-
1919 với sự chết chóc khủng khiếp mà nó gây ra đã
trở thành biến cố toàn cầu được quan tâm nhiều hơn
cả. Đại dịch cúm 1918-1919 hay bị gọi nhầm là dịch
cúm Tây Ban Nha (Spanish flu hay Spanish influenza)
fBác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) là người từng làm việc với
bác sĩ Louis Pasteur lừng danh tại Paris và cũng là người gắn bó cuộc
đời, sự nghiệp với đất nước Việt Nam.
gThuật ngữ cúm (influenza) trong tiếng Ý có nghĩa là ảnh hưởng,
nhằm đề cập đến ảnh hưởng có hại cho sức khỏe của con người, lần
đầu tiên được sử dụng cho một dịch bệnh xảy ra ở Florence (Ý) vào
năm 1580.
hCó tất cả ba chủng virus cúm lưu hành là A, B và C. Cả ba loại
này đều có thể gây bệnh cho người, trong đó loại C lây nhiễm cho
người và lợn; loại B chỉ gây bệnh cho người; còn loại A thì gây bệnh
cho cả người, lợn và các động vật có vú khác, nhưng đặc hữu ở cả
chim nhà và chim hoang dã. Chủng virus cúm A biến đổi nhanh và
nhiều hơn hai loại còn lại nên là nguyên nhân gây bệnh mới và rất dễ
lây lan.
730
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
do Tây Ban Nha là nước đầu tiên công bố các báo cáo
về thiệt hại do dịch bệnh gây ra [ 12, tr. 104].
Đại dịch cúm này lan rộng khắp thế giới từ tháng 3
năm 1918 và kéo dài đến tháng 5 năm 1919 [13, tr.
197]. Dịch bệnh có thể bắt nguồn từ Trung Á với biểu
hiện rõ ràng từ tháng 6 năm 1918. Nhưng một vài lý
thuyết khác thì cho rằng sự bùng phát đầu tiên là ở
Fort Riley, Kansas, Mỹ vào tháng 3 năm 1918 [ 2, tr.
314-315]. Đại dịch đã càn quét thế giới qua ba đợt,
trong đó đợt thứ hai là nghiêm trọng nhất. Sau khi
bùng phát vào tháng 3 năm 1918, nó lan tới Tây Âu và
Trung Quốc vào tháng 4, Ấn Độ vào tháng 5, tới Bắc
Âu, Úc và Đông NamÁ vào tháng 6. Đợt thứ hai diễn
ra từ giữa đến cuối mùa thu năm 1918. Nó bùng phát
tại Pháp vào tháng 8 và nhanh chóng lây lan sang bên
kia bờ Đại Tây Dương cũng như xuống bờ biển Tây
Phi. Toàn bộ nước Mỹ, châu Âu và hầu như Nam Á,
Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Nó cũng lây
lan tới cả những vùng đất hẻo lánh ở Siberia và các
đảo trên Thái Bình Dương. Đợt thứ ba diễn ra vào
mùa xuân năm 1919 nhưng ít nghiêm trọng hơn so
với đợt thứ hai [ 9, tr. 385-386]. Đại dịch cúm 1918-
1919 được xem là đại dịch tàn khốc nhất trong lịch sử
nhân loại bởi số người chết trong đại dịch này nhiều
hơn bất cứ trận đại dịch nào khác đã xảy ra trước đó
[2, tr. 316].Tác động của nó rất khủng khiếp. Trong 46
tuần tàn phá, 46% số ca tử vong tại Mỹ là do dịch cúm
hoặc các biến chứng của nó. Khoảng 50 triệu người đã
chết trong đại dịch, bao gồm 675.000 người ở Mỹ và
có lẽ từ 18 đến 20 triệu người chỉ riêng ở ẤnĐộ [ 9, tr.
385]. Điều đáng nói là đại dịch cúm bùng phát trong
giai đoạnThế chiến thứ I và đỉnh dịch trùng khớp với
thời điểmchiến tranh kết thúc vào tháng 11năm1918.
Điều kiện tồi tệ vốn có của chiến tranh được cho là đã
góp phần làm cho dịch bệnh lây lan nhanh hơn [ 13,
tr. 199].
Sau đại dịch cúm 1918-1919, nhân loại còn trải qua
nhiều đợt đại dịch cúm khác, chẳng hạn như “cúm
châu Á hay cúm Trung Quốc (H2N2)” xảy ra vào các
năm 1957-1958, khiến gần 2 triệu người chết; “cúm
HongKong (H3N2)” năm1968-1969 với 1 triệu người
chết[2, tr. 307].Còn đợt đại dịch cúm gần đây nhất
xảy ra vào năm 2009-2010 cũng do virus H1N1 gây
ra khiến cho hơn 150.000 người chết (chỉ riêngMỹ có
đến gần 10.000 người chết) [ 8, tr. 130].
Một dịch bệnh đáng lưu ý khác, xuất hiện từ những
thập niên cuối của thế kỷ XX là HIV/AIDS (được
viết tắt từ Human Immunodeficiency Virus Infec-
tion/Acquired Immunodeficiency Syndrome), tức hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do virus HIV
(Human Immunodeficiency Virus) gây ra. Nó được
ghi nhận lần đầu tiên tại Mỹ vào tháng 6 năm 1981
[9, tr. 439]. Tác nhân gây bệnh đến năm 1984 mới
được xác định và đã được đặt tên là HIV vào năm
1986. Sau đó, tên của căn bệnh cũng được Trung tâm
Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (U.S.
Centers for Disease Control and Prevention, viết tắt
là CDC) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố
vào năm 1987 [ 2, tr. 285]. Không giống như các
dịch bệnh khác thường chỉ bùng phát và lây lan trong
một khoảng thời gian nhất định (dịch bệnh cấp tính),
HIV/AIDS là một dịch bệnh mãn tính. Do đó tác
động của nó thường không biểu hiện trong nhất thời
mà kéo dài nhiều thập kỷ, trở thành “căn bệnh thế
kỷ”, để lại những hệ lụy lâu dài đối với xã hội loài
người về nhiều mặt. Kể từ thời điểm đầu tiên được
ghi nhận,đến nayHIV/AIDS đã lây lan hầu khắp thế
giới. Từ năm1981 đến năm2006, trên toàn thế giới đã
có hơn 25 triệu người chết vì HIV/AIDS. Hiện nay nó
vẫnlà dịch bệnhđang lưu hành và lây lan.Theo thống
kê của WHO, vào tháng 11 năm 2006 trên thế giới có
2,9 triệu người chết vì các bệnh liên quan đến AIDS
và ước tính có 39,5 triệu người đang sống chung với
HIV/AIDS. WHO cũng cho biết chỉ riêng trong năm
2006 có 4,3 triệu ca nhiễm mới. 65% trong số đó xảy
ra ở vùng Hạ Sahara, Châu Phi [2, tr. 289].
Không chỉ cúm và HIV/AIDS, bước sang thế kỷ XXI
trên thế giới lại xuất hiện một dịch bệnh mới nguy
hiểm là SARS (viết tắt từ Severe Acute Respiratory
Syndrome, tức hội chứng hô hấp cấp tính nặng) do
virus SARS-CoV, một chủng virus corona gây ra[12,
tr. 221]. Kể từ khi ca bệnh đầu tiên được xác nhận
tại miền nam Trung Quốc tháng 11 năm 2002, SARS
đã nhanh chóng lây lan khắp thế giới. Từ tháng 2
đến tháng 7 năm 2003, có 8000 người trên thế giới bị
nhiễm bệnh, với ít nhất 774 người chết. Các ca bệnh
đơn lẻ tiếp tục được ghi nhận ở Trung Quốc và Đài
Loan cho đến tháng 4 năm 2004 [ 2, tr. 620].
Chưa đầy hai thập niên sau đó, vào cuối năm2019một
dịch bệnh khác do virus SARS-CoV-2 thuộc chủng
virus coronamới xuất hiện, bắt đầu từ VũHán, Trung
Quốc, lây lan ra khắp thế giới thành đại dịch COVID-
19. Đại dịch này hiện vẫn đang diễn ra và chưa có dấu
hiệu suy giảm.Tính đến đầu tháng 12 năm 2020, toàn
thế giới đã có gần 69 triệu ca nhiễm và hơn 1,5 triệu
người chếti . Trong đóMỹ, ẤnĐộ và Brazil là những ổ
dịch lớn nhất thế giới với hàng triệu ca nhiễm. Cómột
số giả thuyết đặt ra về vai trò của yếu tố khí hậu và điều
kiện địa lý trong sự bùng phát của đại dịch COVID-
19, chẳng hạn “hành lang dịch bệnh COVID-19” ở
khu vực Bắc bán cầu, nơi lần lượt xuất hiện những
ổ dịch lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ý, Tây Ban
Nha, Anh, Pháp, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, rồi Mỹ và sau đó
là Brazil, Ấn Độj . Tuy nhiên, do là chủng virus gây
iTheo dữ liệu cập nhật đến ngày 09 tháng 12 năm 2020 bởi Coro-
navirus Resource Center thuộc Đại học Johns Hopkins.
jhttps://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3551767
(truy cập ngày 20 tháng 07 năm 2020).
731
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
Bảng 1: Một số trận đại dịch trong lịch sử nhân loại
Thời kỳ lịch sử Tên đại dịch Năm bùng phát Khu vực
Cổ đại Đại dịch Antonine 166-190 CN Lưỡng Hà, Ba Tư, La Mã
Trung Cổ Đại dịch Justinian 541-544 CN Tây Á, Bắc Phi, Tây Âu
“Cái Chết Đen” 1347-1353 Tây Á, Bắc Phi, Châu Âu,
Trung Quốc, Ấn Độ
Cận đại Đậu mùa Thế kỷ XVI Châu Mỹ
Dịch tả Thế kỷ XIX Lục địa Á-Âu, Châu Mỹ
Đại dịch hạch Á châu Nửa sau thế kỷ XIX Châu Á-Thái Bình Dương
Hiện đại Đại dịch cúm 1918-1919 Toàn thế giới
HIV/AIDS Những năm 1980 đến nay Toàn thế giới
Đại dịch cúm 2009-2010 Toàn thế giới
Đại dịch COVID-19 Cuối năm2019 đến hiện tại
(2020)
Toàn thế giới
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
bệnh mới nên hiểu biết của con người và của các nhà
khoa học về SARS-CoV-2 vẫn còn rất ít. Tốc độ lây
nhiễm của dịch bệnh ngày càng tăng: từ lúc ca nhiễm
đầu tiên được công bố đến khi thế giới có 1 triệu ca
nhiễm mất hơn 3 tháng, nhưng chỉ chưa đầy 3 tháng
tiếp theo từ 1 triệu ca nhiễm nó đã tăng lên thành 10
triệu ca nhiễm, tức gấp 10 lần so với ban đầu.Dịch
bệnh cũng đangtác động đến nhiều mặt của đời sống
kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa trên toàn thế giới.
Đại dịch COVID-19 đã đặt nhân loại vào thách thức
chưa từng có trong vòng 100 năm qua kể từ sau đại
dịch cúm 1918-1919.
ẢNHHƯỞNG CỦADỊCH BỆNHĐỐI
VỚI LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
Dịch bệnh có những ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội
loài người, nó không chỉ tác động đối với sức khỏe
hay tính mạng của con người mà còn tác động trên
cácphương diện nhân khẩu, kinh tế, chính trị, quân
sự,văn hóa và cả tâm lý, đời sống tinh thần. Trong bài
viết này chủ yếu đề cập tới tác động của dịch bệnh trên
ba khía cạnh chính là về nhân khẩu, kinh tế và chính
trị.
Về mặt nhân khẩu,
Như đã trình bày ở trên, các trận dịch bệnhxảy ra
trong lịch sử nhân loại từ thời cổ đại đến thời hiện
đại đã khiến cho hàng triệu người thiệt mạng. Nó dẫn
tới sự sụt giảm dân số nghiêm trọng ở nơi xảy ra dịch
bệnh, từ đó tác độngmạnhmẽ đến cơ cấu dân số, làm
thay đổi quy mô nhân khẩu. Chẳng hạn trong trận
dịch Justinian, một số nhân chứng đương thời như
Procopius xứ Caesarea đã mô tả rằng đây là “một dịch
bệnh mà toàn bộ loài người gần như bị tiêu diệt” [3,
tr. 35]. Còn với “Cái Chết Đen”, chỉ trong đợt bùng
phát đầu tiên giữa các năm 1347 và 1353, ước tính
dịch bệnh đã giết chết gần 1/2 dân số của châu lục,
tạo ra thứ mà các nhà sử học gọi là “thảm họa tồi tệ
nhất từng xảy ra ở Châu Âu” [ 3, tr. 38]. Dịch bệnh
bùng phát ở TânThế giới sau các cuộc phát kiến địa lý
thì được xem là yếu tố đóng vai trò đáng kể trong việc
diệt chủng người bản địa châu Mỹ.Chúng là nguyên
nhân làm suy giảm từ 80 đến 95% dân số bản địa ở
cao nguyên trung tâm Mexico chỉ trong một thế kỷ
[13, tr. 139]. Dân số của Mexico đã giảm từ 25 triệu
người trước khi người Tây Ban Nha đến, xuống còn
16.800.000 người một thập kỷ sau đó. Ở khu vực An-
des (Nam Mỹ), dân số từ hai đến ba mươi bảy triệu
vào năm 1532, đã suy giảm từ 70 đến 98% vào đầu
thập niên 1620. Ngay cả khi lựa chọn mức ước tính
thấp nhất thì sự hủy diệt người bản địa châu Mỹ do
dịch bệnh vẫn vô cùng lớn, khiến nhà sử học David
Noble Cook gọi đó là thảm họa lớn nhất trong lịch sử
nhân loại [8, tr. 79].Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại
không xảy ra nhiều trận dịch bệnh có tác động nhân
khẩu quan trọng và lâu dài như vậy. Thông thường,
dịch bệnh có mối liên hệ với sự bùng nổ dân số trước
và sau đó. Khi dân số gia tăng quá mức, dịch bệnh
bùng phát làm suy giảm nhân khẩu. Sau các trận dịch
bệnh thì dân số lại gia tăng trở lại. Nó được xem như
mộtquy luật, cách tạo hóa tái thiết lập sự cân bằng đối
với môi trường sống xung quanh con người. Như vậy,
các dịch bệnh có vai trò đáng kể trong việc định hình
lại cơ cấu hay quy mô dân số của từng quốc gia và
khu vực - những nơi chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
732
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
Nhưng đối với HIV/AIDS - một dịch bệnh mãn tính
thì nó lại trở thànhmộtminh chứng khác biệt của quy
luật này. Tác động về mặt nhân khẩu của HIV/AIDS
không như các đại dịch khác. Nó không làm suy giảm
dân số trong nhất thờimà để lại hậu quả lâu dài vềmặt
tuổi thọ. Điển hình là khu vực Hạ Sahara ở Châu Phi,
dưới áp lực của HIV/AIDS tuổi thọ của người dân ở
nhiều quốc gia thuộc khu vực này đã giảm mạnh. Từ
đó nó dẫn đến rất nhiều hệ lụy khác về mặt kinh tế,
xã hội [ 9, tr. 440].
Về mặt kinh tế,
Những tác động đáng kể của dịch bệnh đối với kinh
tế có thể thấy rõ ở số người thiệt mạng do dịch bệnh
dẫn tới việc thiếu hụt nguồn lao động, khiến cho năng
suất sản xuất sụt giảm. Chưa kể trong thời gian dịch
bệnh xảy ra, các hoạt động sản xuất,tiêu dùng cũng bị
đình đốn và ngưng trệ. Tất cả các yếu tố này góp phần
dẫn tới trạng thái suy thoái của nền kinh tế trong và
sau dịch bệnh. Có thể dẫn chứng vài ví dụ cụ thể sau
đây: Trong đợt bùng phát vào năm 542 của trận dịch
Justinian, dân số của Constantinople (Istanbul) bị suy
giảm đáng kể khiến cho hoạt động sản xuất bị đình
trệ, phường hội đóng cửa. Trong khi đó, mùa màng
không được chăm bón, vụ mùa thất bát, dẫn tới việc
nạn đói bùng phát [15, tr. 38]. Vào thời kỳ “Cái Chết
Đen”, tình hình cũng tương tự khi các cánh đồng bị
bỏ hoang do người chết bệnh, việc sản xuất ngưng trệ
khiến giá cả tăng cao, làm cho đời sống của những
người sống sót sau dịch bệnh càng trở nên khó khăn.
Việc thiếu hụt nguồn lao động sản xuất cũng khiến
cho tiền lương tăng cao [ 12, tr. 22-23]. Tuy nhiên,
bên cạnh tác động tiêu cực “Cái Chết Đen” cũng được
cho là có tác động “tích cực” nhất định đến nền kinh
tế Châu Âu thời bấy giờ. Đó là bởi trước khi dịch
bệnh bùng phát, ở Châu Âu xảy ra tình trạng dân số
tăng quá mức khiến cho lượng lương thực thực phẩm
không đủ nhu cầu đáp ứng. Sau khi dịch bệnh xảy ra,
với việc dân số sụt giảmđã giúp cho nguồn lương thực
đáp ứng được nhu cầu [ 15, tr. 38].
Trong thời kỳ hiện đại, tác động về mặt kinh tế của
dịch bệnh thường được biểu hiện ở việc nền kinh tế
mất ổn định, lao dốc hoặc suy thoái kéo dài. Cụ thể,
đại dịch cúm 1918-1919 được cho là một trong số
những nguyên nhân dẫn tới suy thoái kinh tế trong
những năm 1920. Các báo cáo vào thời điểm đó chỉ
ra rằng đại dịch cúm đã làm suy giảm nền kinh tế về
cả hai khía cạnh cung và cầu, thể hiện qua việc giảm
năng suất, thiếu nguồn lao động và giảm nhu cầu đối
với hàng hóa bán lẻ [16, tr. 10]. Nhiều phương diện
khác của nền kinh tế thế giới thời bấy giờ như hoạt
động khai thác than, đồng, đóng tàu, dệt may và cả
giải trí cũng bị tác động đáng kể [ 16, tr. 40-45]. Đối
với sự bùng phát của SARS vào năm 2003 nó đã khiến
cho tăng trưởng bình quân hàng năm của TrungQuốc
giảm1%và của khu vựcĐôngNamÁgiảm0,5%. Còn
mức thu nhập của khu vực Đông Á và Đông Nam Á
thì thiệt hại từ 12,3 đến 28,4 tỷ USD [ 17, tr. 7].
Về mặt chính trị,
Các trận dịch bệnh trong lịch sử nhân loại không chỉ
tác động đến các khía cạnh nhân khẩu và đời sống
kinh tế - xã hội mà còn tác động rất lớn đến chính trị.
Nó làm thay đổi cách thức vận hành bộmáy nhà nước
trong và sau khi dịch bệnh bùng phát (nhằm điều tiết
và ứng phó với dịch bệnh), đôi khi quyết định cả vận
mệnh chính trị củamột triều đại, một đế chế hay cộng
đồng trong lịch sử. Từ cuộc chiến tranh Peloponnese
ở Hy Lạp cổ đại, các cuộc viễn chinh của Alexan-
der đại đế, các cuộc Thập tự chinh và chiến tranh
Trăm năm thời Trung cổ đến Thế chiến thứ I đều ít
nhiều chịu ảnh hưởng bởi các trận dịch bệnh do dịch
hạch, sốt rét, sốt thương hàn và cúm gây ra. Một vài
ví dụ điển hình như: trận dịch ở Athens (430-426
TCN) bùng phát trong thời kỳ chiến tranh Pelopon-
nese được cho là có tác động đến cán cân quyền lực
giữa hai thành bang Athens và Sparta ở Hy Lạp [ 13,
tr. 11-13].Đại dịch Justinian thì có tác động chính
trị đáng kể đối với đế chế Byzantine. Nó đã chặng
đứng “renovatio imperii Romanorum” tức tham vọng
trung hưng đế chế La Mã của hoàng đế Justinian I [ 8,
tr. 27]. Lúc bấy giờ, Justinian I đã hoàn tất việc chinh
phục Bắc Phi, Ý và một phần bán đảo Iberia, qua đó
tái tạo lại phần lớn phạm vi ảnh hưởng xưa kia ở Địa
Trung Hải của đế chế La Mã. Nhưng dịch bệnh cùng
nhiều yếu tố khác đã khiến cho tham vọng này không
thể trở thành hiện thực. Tỷ lệ tử vong cao do dịch
bệnh làm dân số giảm, kinh tế suy thoái khiến nguồn
nhân lực cần thiết cho việc bảo vệ các vùng lãnh thổ
mới chiếm được của Byzantine bị hao mòn. Nó đã
tạo cơ hội cho người Slav di cư vào bán đảo Balkan
và người German Lombards tiến vào bán đảo Ý, đồng
thời đẩymạnh sự bành trướng của người Ả Rập ở Bắc
Phi và phía tây Địa Trung Hải [ 7, tr. 4]. “Cái Chết
Đen” thì xảy ra đồng thời với sự khởi đầu củamột thời
kỳ biến đổi khí hậu được gọi là “Tiểu Băng Hà” (Lit-
tle Ice Age) trên phạm vi toàn cầu. Dịch bệnh, thời
tiết giá lạnh thất thường cùng với “Chiến tranh Trăm
năm” - một trong những cuộc chiến tranh kéo dài và
lớn nhất Châu Âu thời Trung cổ đã khiến cho thế kỷ
XIV trở thành thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử Châu
Âu [3, tr. 56]. Ngoài ra, bầu không khí chính trị ngột
ngạt, tình hình xã hội bất ổn sau đại dịch cũng dẫn tới
hai cuộc khởi nghĩa nông dân lớn là cuộc khởi nghĩa
của Jacquire ở Pháp vào năm 1358 và củaWat Tyler ở
Anh năm 1381 [ 15, tr. 37].
Về tác động chính trị của dịch bệnh góp phần dẫn đến
sự diệt vong củamột triều đại hay đế chế có thể kể đến
733
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
trường hợp nhà Minh ở Trung Quốc và các nền văn
minh bản địa ở Tân Thế giới. Sự bùng phát thường
xuyên của các trận dịch bệnh vào cuối thời Minh là
một trong những yếu tố làm cho triều đại này suy yếu,
dẫn tới việc bại vong trước cuộc khởi nghĩa của Lý Tự
Thành và các cuộc tấn công xâm lược ở biên giới đông
bắc của quânMãn Châu [15, tr. 36]. Tương tự,sự xuất
hiện của đậu mùa cùng các dịch bệnh khác do sự trao
đổi Columbus đã tạo ra những biến đổi môi trường
bệnh tật phức tạp với tác động hết sức đáng kể ở Tân
Thế giới. Dịch bệnh chính là thứ đã góp phần hủy diệt
các nền vănminh bản địa châuMỹ, trong đó có hai đế
chế Aztec và Inca. Nó làm suy giảm dân số, gây xáo
trộn chính trị - xã hội, dẫn đến việc hai đế chế này dễ
dàng bị diệt vong trước sự xâm lược của thực dân Tây
Ban Nha [ 8, tr. 78].
Tóm lại, những phân tích và dẫn chứng trên đây đã
cho thấy các tác động đáng kể của dịch bệnh trong
lịch sử đối với xã hội loài người trên nhiều phương
diện, trước hết là về nhân khẩu, kinh tế và chính trị.
Bên cạnh đó, dịch bệnh còn tác động đến cả mặt văn
hóa, đời sống tâm linh, tín ngưỡng và tinh thần (tâm
lý lo sợ dịch bệnh) và cả truyền thông tin tức (tin giả
trong dịch bệnh).
CÁC BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ VỚI DỊCH
BỆNH
Cũng như các thiên tai khác, sự xuất hiện của nhiều
loại dịch bệnh xuyên suốt tiến trình lịch sử nhân loại
đã buộc loài người trong quá khứ phải có các cách
thức, biện pháp ứng phó để thích nghi và sinh tồn.
Những biện pháp ứng phó với dịch bệnh được thể
hiện qua hai cấp cơ bản: phản ứng của nhà nước hay
chính phủ và phản ứng của xã hội hay cộng đồng.
Chúng bao gồm các biện pháp cứu trợ, chữa trị trong
lúc dịch bệnh xảy ra và các biện pháp khắc phục hậu
quả sau khi dịch bệnh kết thúc. Về biện pháp cứu trợ
và chữa trị bao gồm việc điều trị cho người bệnh, cấp
phát thuốc, cấp tiền và hỗ trợ chôn cất người chết.
Còn biện pháp khắc phục hậu quả thường gồm việc
miễn, giảm thuế, sưu dịch, lao dịch và hỗ trợ tái thiết
ổn định cuộc sống cho người dân nơi bị ảnh hưởng
bởi dịch bệnh. Nói chung đó là những biện pháp ứng
phó về mặt y tế và xã hội.
Ngoài ra, trong quá khứ khi hiểu biết của con người về
bệnh tật còn hạn chế và niềm tin cho rằng dịch bệnh
xảy ra là do sự trừng phạt củaThượngĐếđối với tội lỗi
của con người dâng cao thì các phản ứng bằng niềm
tin tôn giáo còn chồng chéo với các biện pháp về y
tế và xã hội. Đó là biện pháp ứng phó với dịch bệnh
về mặt tinh thần.Chẳng hạn, ở phương Tây vào thời
TrungCổ sự thống trị gầnnhư tuyệt đối của thuyết khí
độc “miasma” khiến cho người ta tin rằng dịch bệnh
lây qua hơi thở của người nhiễm bệnh. Do đó, việc
phòng ngừa và điều trị bệnh dịch chủ yếu là đốt các
loại thảo mộc để làm sạch không khí cũng như điều
chỉnh chế độ ăn uống nhằm duy trì cân bằng sức đề
kháng[2, tr. 59]. Mọi người đối phó với dịch bệnh
theo cách tốt nhất mà họ có thể: cố gắng thanh lọc
không khí mà họ tin rằng đã bị hỏng bằng lửa và khói
hương, cầu nguyện và tổ chức đám rước, sử dụng bùa
hộmệnh vàma thuật, các tín đồ Kitô thì ký dấu thánh
giá trên nhà của họ và các vật dụng khác, nhiều người
còn chạy trốn để tránh khí độc hại [7, tr. 4]. Trong đó,
việc cầu nguyện nhằm tìm kiếm sự cứu rỗi đóng vai
trò khá quan trọng trong việc ứng phó với dịch bệnh
về mặt tinh thần. Tại nhiều vùng ở Châu Âu vào thời
kỳ “Cái Chết Đen” phong trào “flagellum” (roi da) đã
phát triểnmạnhmẽ trong thời gian dài. Những nhóm
người hành hương đi từ thị trấn này đến thị trấn khác
và tự hành hạ bản thân bằng roi như một sự đền tội
về mặt thân thể để bổ sung cho những lời nguyện cầu
cứu rỗi[2, tr. 58]. Còn ở các quốc gia phương Đông
như TrungQuốc, ngoài các biện pháp ứng phó thực tế
về mặt y học, người Trung Quốc còn tổ chức cầu đảo,
cúng tế, lập lễ kỳ yên nhằm khẩn cầu sự ban phước
và thương xót của các đấng siêu nhiên trước tai dịch,
mong dịch bệnh được kiểm soát. Nó cho thấy quan
niệm của người dân thời đó về dịch bệnh xuất phát từ
sự suy đồi của nền tảng đạo đức xã hội và cần phải có
sự khẩn cầu để dịch bệnh chóng qua [9, tr. 117].
Bên cạnh những biện pháp ứng phó với dịch bệnh,
loài người từ rất sớm cũng đã quan tâm đến các biện
pháp phòng ngừa dịch bệnh. Đáng lưu ý hơn cả là
việc cách ly bắt đầu được áp dụng trong thời kỳ “Cái
ChếtĐen”. Thuật ngữ cách ly quarantine hay quaranta
giorni có nguồn gốc từ tiếngÝnghĩa là bốnmươi, hàm
ý chỉ việc cách ly bốnmươi ngày đủ để các triệu chứng
bộc phát và điều trị bệnh[ 12, tr. 22]. Việc cách ly và
phong tỏa đầu tiên diễn ra ở xứ Ragusa trên vùng biển
Adriatic vào năm 1377 đối với các thuyền bè có nguy
cơ lây nhiễm [18, tr. 15]. Trong thời kỳ thuộc địaChâu
Âu, cách ly và kiểm dịch đã trở thành tiêu chuẩn ở các
thành thị và đồn đồn ởTây bán cầu nhưmột cách thức
để đối phó với các dịch bệnh như sốt vàng da, dịch tả,
đậu mùa và sốt phát ban [2, tr. 585]. Ngày nay, cách
ly đã trở nên phổ biến rộng khắp trên thế giới và trở
thành tiêu chuẩn bắt buộc quan trọng để đối phó với
các dịch bệnh truyền nhiễm mỗi khi chúng xảy ra.
Ngoài việc cách ly, phong tỏa thì việc tiêm chủng
nhằm tạo miễn dịch trong cơ thể như một cách thức
ngừa dịch bệnh hữu hiệu đã được biết đến từ rất sớm.
Chẳng hạn,vàothế kỷ X người Trung Quốc đã thực
hiện các biện pháp ngăn ngừa bệnh đậu mùa bằng kĩ
thuật tương tự hình thức tiêm chủng ngày nay, chẳng
734
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
hạnđưa vàomũimộtmiếng vải với chất nhầy củamụn
đậu mùa hoặc thổi bột khô từ mụn đậu mùa vào mũi
thông qua ống thổi [2, tr. 678]. Phương pháp này tiếp
tục được sử dụng ở một số khu vực của Trung Quốc
thời Tống và Minh. Người Ấn Độ cũng thực hành kĩ
thuật này từ thời cổ đại. Họ dùng kim được làm ẩm
bằng mủ đậu mùa để đâm vào ngoại biên của các cơ
bắp. Kĩ thuật này cũng được biết đến ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 1714, một bác sĩ Hy Lạp là Emmanuel Ti-
monis sống ở Istanbul đã trình bày một bài viết phác
thảo thành công của kĩ thuật tiêm chủng đếnHiệp hội
Hoàng gia Anh và nó đã được xuất bản trong ấn phẩm
Society’s Philosophical Transactions [2, p. 743]. Đáng
lưu ý vào năm 1796, bác sĩ người Anh Edward Jenner
đã trở thành người đầu tiên trên thế giới chế tạo thành
công vắc-xin và sử dụng kĩ thuật tiêm chủng (vaccina-
tion) để ngăn ngừa bệnh đậu mùa. Thuật ngữ vắc-xin
(vaccine) có nguồn gốc từ tên gọi của virus Variolae
vaccinae gây ra bệnh đậu bò (cowpox) nhưng lại có
tác dụng chủng ngừa bệnh đậu mùa trên người. Kể
từ đó cho đến nay, nhiều loại vắc-xin phòng ngừa các
bệnh dịch đã được khámphá. Chẳng hạn vắc-xin dịch
hạch thể hạch (1897), ho gà (1912), bạch hầu (1923),
bệnh lao (1927), uốn ván (1927), sốt vàng da (1935),
sởi (1964), quai bị (1967), rubella (1970) và viêm gan
B (1981), v.v[2, p. 745]. Mặc dù chưa phải là tất
cả bởi vì vẫn còn rất nhiều dịch bệnh chưa có vắc-xin
hoặc thuốc đặc trị nhưng nó cho thấy những nỗ lực
và thành tựu của loài người trong việc đối phó với các
dịch bệnh. Từ quan niệm dịch bệnh gây ra bởi khí
độc đến việc cách ly và điều chế ra vắc-xin ngừa bệnh
rõ ràng là cả một quá trình tiến bộ lớn trong lịch sử
nhân loại.
KẾT LUẬN
Theo cách tiếp cận của sử học vĩ mô có thể thấy trong
tiến trình lịch sử nhân loại đã tồn tại rất nhiều dịch
bệnh nguy hiểm, trong đó đáng kể như đậumùa, dịch
hạch, dịch tả và cúm. Qua so sánh, đối chiếu các trận
dịch bệnh trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau cũng
thấy được rằng dịch hạch và đậu mùa là những dịch
bệnh đã bùng phát, lây lan và trở thành nỗi khiếp sợ
đối với nhân loại thời cổ-trung đại và cận đại. Trong
khi đó, dịch tả và cúm lại là nhữngdịch bệnhđã hoành
hành dữ dội vào thời cận đại và hiện đại. Nói tóm
lại, dịch bệnh không chỉ đơn thuần là vấn đề về sức
khỏe và miễn dịch cơ thể của con người mà còn là
thách thức không ngừng đối với xã hội loài người, các
dân tộc, chính phủ và các nền văn minh trong lịch
sử. Dịch bệnh tác động đến cáckhía cạnh kinh tế, xã
hội, chính trị, quân sự và cả văn hóa. Nó làm thay
đổi cách thức vận hành bộ máy nhà nước, lối sống xã
hội, các phong tục tập quán, thậm chí đôi khi quyết
định cả vận mệnh của một cộng đồng hay một nền
văn minh. Trong thời kỳ hiện đại, khi quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa diễn ra nhanh
chóng, cùng với sự biến đổi khí hậu thì tác động của
dịch bệnh cũng ngày càng lớn hơn. Giống như nhiều
thiên tai khác, loài người buộc phải đốimặt với những
thách thức từ dịch bệnh một cách thường xuyên và
liên tục. Cũng vì thế mà phản ứng và cách thức đối
phó với dịch bệnh của loài người ngày càng tiến triển
theo thời gian. Từ các biện pháp phòng ngừa dịch
bệnh tới cách ly và điều trị, loài người đã đạt được
những thành tựu cơ bản. Cùng với các tiến bộ trong
y học, nhiều loại dịch bệnh cơ bản đã được đẩy lùi và
hoặc suy giảm không còn khả năng bùng phát thành
đại dịch. Chẳng hạn, với việc chế tạo ra vắc-xin đậu
mùa và vắc-xin dịch hạch thể hạch, bệnh đậu mùa và
bệnh dịch hạch vốn là nỗi khiếp sợ đối với nhân loại
trong nhiều thế kỷ đã được chế ngự thành công.Dù
vậy vẫn còn rất nhiều dịch bệnh tồn tại, đang và sẽ tiếp
tục xảy ra, buộc nhân loại phải học cách sống chung
và đối phó ngày càng hữu hiệu hơn.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
AIDS: Acquired Immunodeficiency Syndrome
CN: Công nguyên
COVID-19: Coronavirus Disease 19
HIV: Human Immunodeficiency Virus
SARS: Severe Acute Respiratory Syndrome
SARS-CoV: Severe Acute Respiratory Syndrome
Coronavirus
SARS-CoV2: Severe Acute Respiratory Syndrome
Coronavirus 2
TCN: Trước Công nguyên
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về lợi
ích.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Bài viết tổng hợp những thông tin cơ bản về các dịch
bệnh trong tiến trình lịch sử nhân loại. Qua đó giúp
cho người đọc hiểu rõ những tác động của bệnh dịch
đối với lịch sử loài người, đồng thời giúp người đọc
hiểu rõkhái niệm, nguồn gốc, nguyên nhân của dịch
bệnh và biện pháp ứng phó với dịch bệnh.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Porta M, editor. A Dictionary of Epidemiology. 6th ed. New
York: Oxford University Press. 2014;.
2. Byrne JP, editor. Encyclopedia of Pestilence, Pandemics, and
Plagues Connecticut: Greenwood Press. 2008;.
3. Snowden FM. Epidemics and Society: From the Black Death
to the Present New Haven and London: Yale University Press.
2019;Available from: https://doi.org/10.2307/j.ctvqc6gg5.
735
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):725-737
4. Galtung J, Inayatullah S. Macrohistory and Macrohistorians:
Perspectives on Individual, Social, and Civilizational Change
Connecticut: Praeger. 1997;.
5. Nash R. American Environmental History: A New Teaching
Frontier. Pacific Historical Review. 1972;41(3):362–372. Avail-
able from: https://doi.org/10.2307/3637864.
6. Hughes JD. Çevresel Tarih Nedir? İstanbul: Tarih Vakfı Yurt
Yayınları. 2019;.
7. Byrne JP. The Black Death Connecticut: Greenwood Press.
2004;.
8. Aberth J. Plagues in World History New York: Rowman & Lit-
tlefield Publisher INC. 2011;.
9. Hays JN. Epidemics and Pandemics: Their Impacts on Human
History California: ABC-CLIO. 2005;.
10. Kohn GC, editor. Encyclopedia of Plague and Pestilence: From
Ancient Times to the Present New York: Facts On File. 2008;.
11. Kılıç O. Eskiçağdan YakınçağaGenel Hatlarıyla Dünyada veOs-
manlı Devleti’nde Salgın Hastalıklar Elazığ: Fırat Üniversitesi
Orta Doğu Araştırmaları Merkezi Yayınları. 2004;.
12. M.D. AJB. Plagues and Poxes: The Impact of HumanHistory on
Epidemic Disease New York: Demos. 2004;.
13. Seaman R, editor. Epidemics and War: The Impact of Disease
on Major Conflicts in History California: ABC-CLIO. 2018;.
14. Kotar SL, Gessler JE. Smallpox: A History North Carolina: Mc-
Farland & Company. 2013;.
15. Kılıç O. Tarihte Küresel Salgın Hastalıklar ve Toplum Hayatına
Etkileri. In Şeker M, Özer A, Korkut C, editors. Küresel Salgının
Anatomisi: İnsan ve Toplumun Geleceği. Ankara: Türkiye Bil-
imler Akademisi. 2020;p. 13–54.
16. Correia S, Luck S, Verner E. Pandemics Depress the Economy,
Public Health Interventions Do Not: Evidence from the 1918
Flu. Social Science Research Network Journal. 2020;p. 1–55.
Available from: https://doi.org/10.2139/ssrn.3561560.
17. Qiu W, et al. The Pandemic and Its Impacts. Health, Culture
and Society. 2016-2017;p. 9–10. Available from: https://doi.
org/10.5195/HCS.2017.221.
18. Ranger T, Slack P. Epidemics and Ideas: Essay on the His-
torical Perception of Pestilence London: Cambridge Uni-
versity Press. 1992;Available from: https://doi.org/10.1017/
CBO9780511563645.
736
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 4(4):725-737
Open Access Full Text Article Review Article
Istanbul University, Turkey
Correspondence
Lu Vi An, Istanbul University, Turkey
Email: luvianbt@gmail.com
History
Received: 31/7/2020
Accepted: 09/12/2020
Published: 20/12/2020
DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.612
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Epidemics and pandemics in human history: Origins, effects and
responsemeasures
Lu Vi An*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Epidemics and pandemics are kind of the regular disasters that not only threaten human health,
but also affect economy, social and politic life of many societies and civilizations. In the timeline
of human history, there have long been a lot of catastrophic epidemics, rapidly spreading all over
the world, leading to massive deaths and becoming horrible challenges to human existence. They
included the plague of Antonine in Ancient Rome; the Justinian pandemic and ``the Black Death'' in
the Medieval period; the pandemic of cholera and the Asian plague in the modern age; the 1918-
1919 flu pandemic, the HIV/AIDS pandemic, the influenza pandemic in 2009 and the COVID-19
pandemic in 2019-2020. The main infectious diseases that cause pandemics in human history are
plagued, smallpox, cholera and flu. By approaching the macrohistory and environmental history,
the article made some overviews of epidemics and pandemics in human history from ancient ages
to modern ages. Firstly, the article researches the terms ``epidemic, pandemic" and their levels.
Next, the article analyzes the origins of epidemics and pandemics, the causes of their appearance,
including biological factors, natural conditions and social conditions. Then, the article presents the
outbreaks, spreads and impacts of some significant epidemics and pandemics in human history.
Hence, the article also initially evaluates some response measures to epidemics and pandemics in
history.
Key words: epidemics, pandemics, disasters, macrohistory, human history
Cite this article : An L V. Epidemics and pandemics in human history: Origins, effects and response
measures. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):725-737.
737
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dich_benh_trong_lich_su_nhan_loai_nguon_goc_tac_dong_va_bien.pdf