Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam theo các cam kết trong tổ chức thương mại thế giới WTO và giải pháp

Vấn đề hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề không chỉ của Việt Nam mà của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển đang thực hiện công nghiệp hoá như Việt Nam, nội dung và cách thức hoàn thiện đặt ra những yêu cầu cần giải quyết về nhận thức mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch, hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế, và đặc biệt là việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy bên cạnh việc minh bạch hoá chính sách, các quốc gia thường tập trung quyền phối hợp hoàn thiện chính sách vào một cơ quan. Sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào hoàn thiện chính sách là yếu tố đảm bảo sự thành công trong việc thực hiện chính sách. Thực tiễn cho thấy Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Việt Nam không còn nhiều lựa chọn trong việc lựa chọn lộ trình hội nhập. Bài viết đã đề xuất các quan điểm và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới như tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại; hợp lý hoá lộ trình tự do hoá đối với ngành chế tạo; đẩy mạnh thu hút FDI; chủ động thu hút sự tham gia của các bộ ngành, cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách; Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế nên đóng vai trò điều phối việc phối hợp trên cơ sở gắn kết chặt chẽ chính sách này với chính sách công nghiệp; tiếp tục minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan; sử dụng hệ thống một số công cụ phi thuế quan,. Quá trình thay đổi chính sách là quá trình hoàn thiện chính sách, vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đề phù hợp với hội nhập, đặc biệt là phù hợp với các quy định của WTO.

doc26 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam theo các cam kết trong tổ chức thương mại thế giới WTO và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Phần này sẽ trình bày khái quát hệ thống công cụ của chính sách thương mại quốc tế trên bình diện nội dung và mục đích sử dụng. Theo Krugman và Obstfeld, các công cụ của chính sách thương mại quốc tế có thể được phân chia thành các công cụ thuế quan và phi thuế quan. Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét thường bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu theo dòng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế, thuế theo các ngành, lịch trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập. Thuế quan trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Các loại thuế này bao gồm thuế theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế gián tiếp tác động tới thương mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hoá, trợ cấp tín dụng xuất khẩu, quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu, khu chế xuất, khu công nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp. Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền trả cho một công ty hay một cá nhân đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể theo khối lượng hay theo giá trị. Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng hoặc giá trị một số hàng hoá có thể được nhập khẩu. Thông thường những hạn chế này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một số công ty hay cá nhân. Hạn ngạch có tác dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế song nó không mang lại nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu. Nó là một hạn ngạch thương mại do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước nhập khẩu. Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá là một quy định đòi hỏi một số bộ phận của hàng hoá cuối cùng phải được sản xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể hoá dưới dạng các đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị. Trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu nhưng dưới hình thức một khoản vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua. Quy định về mua sắm của chính phủ hay doanh nghiệp có thể hướng việc mua sắm trực tiếp vào các hàng hoá được sản xuất trong nước ngay cả khi những hàng hoá đó đắt hơn hàng nhập khẩu. Các hàng rào hành chính và kỹ thuật là việc các chính phủ sử dụng các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ tục hải quan để tạo nên những cản trở thương mại. Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp. Các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện cho các nhà sản xuất vì nó có những ưu đãi như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục hành chính thuận lợi. 1.3.Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế 1/ Nguyên tắc tương hỗ (Reciprocity) Đó là việc giành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng giữa các bên trong quan hệ kinh tế buôn bán trên cơ sở tương xứng nhau. Trên thực tế những ưu đãi và nhân nhượng theo nguyên tắc này có thể mang tính chất hình thức hoặc thực tế. Nó phụ thuộc vào so sánh lực lượng của các bên tham gia và việc áp dụng nguyên tắc này thường gây bất lợi cho bên yếu hơn và mang tính chất phân biệt đối xử với nước thứ 3. Ngày nay, việc áp dụng nguyên tác này đang dần bị thu hẹp. 2/ Nguyên tắc ngang bằng dân tộc (Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia - National Parity) Các bên tham gia cam kết dành cho hàng hoá, công dân hoặc công ty của nước ngoài những ưu đãi và quyền lợi dành cho hàng hoá, công dân hoặc công ty nước mình. Nguyên tắc này có thể được áp dụng 1 cách tự định (autonomous) và không nhất thiết bao giờ cũng mang tính chất phân biệt đối xử. Nguyên tắc này thường được áp dụng trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá, quyền lợi kinh tế của các cá nhân và doanh nghiệp, hoạt động vận tải biển... Thực tế cho thấy các nước phát triển bao giờ cũng chiếm vị trí thuận lợi hơn các nước kém phát triển. Do đó tính chất ngang bằng trên thực tế có thể chỉ là hình thức. 3/ Nguyên tức "nước được ưu đãi nhất" (Nguyên tắc tối huệ quốc - Most Favoured Nation - MFN) Các bên tham gia sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã đang và sẽ dành cho các nước khác. Cụ thể có 2 trường hợp: - Tất cả những ưu đãi và miễn giảm mà 1 bên tham gia đã đang hoặc sẽ dành cho bất kỳ 1 nước thứ 3 nào thì cũng được dành cho bên tham gia kia hưởng 1 cách không điều kiện. - Hàng hoá di chuyển từ 1 bên tham gia này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia sẽ không chịu thuế quan và các phí tổn cao hơn hoặc những thủ tục phiền toái hơn những thuế và thủ tục đã đang và sẽ được áp dụng đối với hàng hoá nhập vào từ nước thứ ba. 1.4. Các biện pháp thực hiện mục tiêu của chính sách thương mại quốc tế 1/Thuế quan Chính sách thuế quan có thể được áp dụng nhằm 2 mục đích: tài chính hoặc bảo hộ. Thuế quan của 1 nước đánh vào hàng hoá nào và mức độ cao hay thấp được biểu hiện ở biểu thuế quan. Có 2 loại biểu thuế đơn (chỉ có 1 mức thuế cho từng loại hàng nhập khẩu từ tất cả các nước) và biểu thuế kép (có từ 2 mức thuế trở lên cho mỗi loại hàng hoá). Để xây dựng được biểu thuế điều quan trọng là phải phân loại hàng hoá một cách hợp lý - đây cũng là điểm bất đồng giữa các quốc gia khác nhau. Vì vậy, các nước đã họp tại Bruc-xen và đưa ra 1 các phân loại hàng hoá thống nhất trong biểu thuế (gồm 21 mục và 99 nhóm) 2/ Các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan chính a/ Hạn ngạch (quotas): Quotas là giới hạn về số lượng (hoặc giá trị) của 1 loại hàng hoá nhất định được nhập khẩu trong 1 thời gian nhất định (thường là 1 năm). Quotas được áp dụng nhằm mục đích bảo hộ thị trường trong nước hoặc điều chỉnh cung cầu. b/ Giấy phép nhập khẩu : Giấy phép nhập khẩu giúp chính phủ kiểm soát được khối lượng nhập khẩu và can thiệp vào hoạt động ngoại thương, nó thường được áp dụng kết hợp với định mức số lượng nhập khẩu và quản lý ngoại hối. c/ Quản lý ngoại hối: Nhà nước quản lý ngoại hối nhằm hạn chế việc sử dụng ngoại hối, cân bằng cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá hối đoái, bảo vệ dự trữ ngoại hối và ngăn chặn nguồn vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài. d/ Nhà nước độc quyền xuấtnhập khẩu 1 số mặt hàng: Biện pháp này có cả 2 tác dụng hạn chế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. 1.5. Hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế Trong quá trình đàm phán gia nhập và khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia phải chấp nhận luật chơi của WTO. Nói cách khác, các quốc gia phải thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của mình. Trước hết, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các quốc gia thường sử dụng đàm phán song phương. Cụ thể là, các quốc gia phải đưa ra phạm vi cam kết mở cửa thị trường, các mức cam kết cụ thể (thường là bằng hoặc thấp hơn mức hiện hành). Thứ hai, khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia thường lựa chọn đàm phán đa phương. Khi thực hiện đàm phán đa phương, các nước đàm phán cắt giảm thuế quan theo ngành hoặc theo công thức cắt giảm thuế [42]. Việc ban hành hay tăng mới một loại thuế quan phải được cân bằng lại bằng việc giảm các loại thuế khác để bù đắp cho các nước xuất khẩu bị ảnh hưởng. Thứ ba, các quốc gia phải chỉnh sửa luật thương mại, luật hải quan và các bộ luật liên quan để đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của WTO. Các biện pháp phi thuế quan cũng phải tuân theo các quy định của WTO. Dưới đây là một số vấn đề mà các quốc gia đang phát triển phải lưu ý khi thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế: - Hạn ngạch thuế quan: Hạn ngạch thuế quan thuộc nhóm các biện pháp hạn chế định lượng (cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; hạn ngạch thuế quan; và cấp phép nhập khẩu không tự động). Hạn ngạch thuế quan là biện pháp được cho phép sử dụng trong khuôn khổ của WTO. Theo quy định về hạn ngạch thuế quan, hàng nhập khẩu nằm trong hạn ngạch được hưởng mức thuế suất thấp. - Bãi bỏ việc cấp phép nhập khẩu không tự động: Các quốc gia thành viên của WTO phải thực hiện cấp phép nhập khẩu tự động (không tạo ra các thủ tục hành chính không liên quan tới mục đích hải quan hay cơ quan hành chính thích hợp). - Thực hiện Hiệp định về trị giá hải quan: Hầu hết các thành viên của WTO đều tham gia Hiệp định về trị giá hải quan. Theo hiệp định này, các quốc gia phải tính giá thực trả hoặc phải trả khi hàng hoá được bán ra từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Các quốc gia không được áp dụng cách tính giá tối thiểu. - Giảm thiểu sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước: WTO yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử. Các quốc gia không được duy trì đặc quyền tham gia vào thương mại quốc tế đối với các doanh nghiệp nhà nước (đầu mối nhập khẩu chẳng hạn). - Hàng rào bảo hộ mới đang được sử dụng: WTO cho phép áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động vật nếu cần thiết. Điều này dẫn đến việc các nước phát triển thường áp dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT) để cản trở hàng hoá của các nước khác đưa vào nước mình. Tuy nhiên, để xác định xem một hành động có bị coi là TBT hay không thì phải thẩm tra mức trở ngại mà nó tạo ra trong thương mại quốc tế. Quá trình này không có lợi cho các nước đang phát triển. - Các biện pháp liên quan đến đầu tư (TRIMs): Các thành viên của WTO phải tuân theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong đầu tư. Theo đó, các quốc gia không được áp dụng các biện pháp về tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ chuyển lợi nhuận, ... - Các biện pháp quản lý về hành chính: Các thành viên của WTO không được áp dụng các biện pháp quản lý về hành chính gây trở ngại cho thương mại quốc tế như quy định về quảng cáo hay đặt cọc, địa điểm thông quan, ...WTO đề ra các nguyên tắc hoạt động đảm bảo không phân biệt đối xử trong thương mại theo đó bất kỳ nước thành viên nào đều được tạo điều kiện tốt nhất khi tham gia vào thị trường các nước thành viên khác. Mặc dù WTO được coi là ngôi nhà chung của thế giới thương mại, là một Liên hợp quốc về mặt kinh tế song vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến thương mại trong WTO chưa có cơ chế giải quyết như các nhóm kinh tế khu vực; môi trường và thương mại; đầu tư và thương mại; chính sách cạnh tranh; tính rõ ràng trong việc mua sắm của chính phủ; thương mại điện tử; quyền của người lao động và thương mại, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp. 1.6. Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong thương mại quốc tế 1/ Tín dụng xuất khẩu Nhà nước hoặc tư nhân dành cho nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng của nước mình. Có các loại tín dụng xuất khẩu sau: 1) Tín dụng do người xuất khẩu trực tiếp cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài; 2) Tín dụng do 1 số cơ quan tín dụng trực tiếp cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài; 3) Tín dụng do chính phủ cấp cho nước ngoài. 2/ Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu Nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Bảo đảm tín dụng xuất khẩu khiến cho nhà xuất khẩu yêu tâm và mở rộng xuất khẩu và góp phần tăng giá hàng hoá. 3/ Trợ cấp xuất khẩu Đó là những ưu đãi về mặt tài chính mà Nhà nước dành cho nhà xuất khẩu khi họ xuất được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của biện pháp này là nhằm tăng thu nhập của nhà xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. 4/ Bán phá giá hàng hoá (Dumping) Bán phá giá hàng hoá là xuất khẩu hàng hoá theo giá cả thấp hơn giá cả sản xuất hoặc theo giá rẻ mạt nhằm mục đích đánh bại đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và cuối cùng đạt được lợi nhuận tối đa. Điều kiện bán phá giá 1 loại hàng hoá nào đó là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại. Nguồn bù vào những tổn thất do bán giá rẻ gồm: 1) Lợi nhuận thu được do bán giá cao ở thị trường trong nước; 2) Trợ cấp xuất khẩu của Nhà nước; 3) Lợi nhuận thu được sau khi đã chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Đặc điểm của bán giá gia hiện nay là phần lớn do chính phủ tiến hành và tổn thất do Ngân sách của chính phủ gánh chịu. 5/ Bán phái giá hối đoái (Exchange Dumping) Bán phá giá hối đoái thể hiện ở việc xuất khẩu hàng hoá với giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất giá của đồng tiền (sự đánh sụt giá đồng tiền của nước đó so với đồng tiền của nước khác). Khác với bán phá giá hàng hoá, trong phá giá hối đoái, giá bán không thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường nước ngoài có thể cao hơn giá của thị trường nội địa và bán phá giá hối đoái xảy ra với tất cả hàng hoá 1 cách tự động. Cơ chế hoạt động của bán phá giá hối đoái là lúc đầu đồng tiền mất giá trong nước, sau đó dần dần phá giá đồng tiền trong nước đối với ngoại tệ (mất giá so với ngoại tệ), sức mua của đồng tiền trong nước cao hơn ở thị trường nước ngoài do đồng tiền mất giá đối ngoại cao hơn mất giá đối nội. Trong thời điểm đó các doanh nghiệp sản xuất thanh toán nguyên liệu, tiền lương.... với số lượng đơn vị tiền tệ được ấn định trước khi phá giá đồng tiền. Đồng thời trong xuất khẩu thành phẩm, với số ngoại tệ thu được số lợi nhuận ngoại ngạch nhiều hơn bình thường. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể bán hàng của mình trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh bằng cách thu hẹp phần lợi nhuận ngoại ngạch. Bán phá giá hối đoái có thể tiếp tục cho đến khi mất giá trong nước tăng bằng mất giá đối ngoại của đồng tiền. Đồng thời tiền của nước mà hàng hoá xuất sang không bị phá giá hoặc phá giá ở mức thấp. Bán phá giá hối đoái chỉ có thể xảy ra trong môi trường: 1) Mất giá đối ngoại của đồng tiền phải cao hơn mất giá đối nội; 2) Các nước nhập khẩu hàng hoá của nước có đồng tiền không đồng thời phá giá đồng tiền của mình, hoặc phá giá ở mức thấp hơn; 3) Các nước không dùng những biên pháp chống phá giá hoặc không áp dụng bán phá giá hối đoái. 6/ Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu khác a/ Miễn giảm thuế và hoàn lại thuế: Nhà nước quy định miễn giảm thuế quan đối với việc nhập khẩu những nguyên liệu sản xuất và hoàn lại thuế cho nhữung hàng đã được xuất khẩ. Trên cơ sở miễn giảm đó mà có thể giảm giá thành và tăng năng suất cạnh tranh của hàng xuất khẩu. b/ Chính sách chiết khẩu: Đây là nghiệp vụ cho vay của ngân hàng dưới hình thức mua kỳ phiếu hay hối phiếu chưa đến hạn. Thực tế chính là nghiệp vụ của ngân hàng cho người mua vay thông qua người bán. Nếu lãi chiết khấu hạ thì giá hàng cũng hạ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá tăng lên và mở rộng được xuất khẩu. Để đẩy mạnh được xuất khẩu, chính phủ thông qua ngân hàng hạ mức lãi chiết khấu để mở rộng xuất khẩu. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM THEO CAM KẾT WTO 2.1. Đặc điểm thương mại quốc tế của Việt Nam Tăng trưởng thương mại của Việt Nam trong thời gian vừa qua được đánh giá là một yếu tố tích cực góp phần tăng trưởng GDP tại Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP hiện đã vượt quá 100%, thể hiện mức độ liên kết mạnh mẽ của Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Các đối tác thương mại của Việt Nam đã chuyển từ Liên Xô và các nước Đông Âu (cũ) ở giai đoạn trước 1991 sang các nước châu Á và các khu vực và quốc gia khác ở giai đoạn sau 1991 đến nay. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Việt Nam đã thực hiện chuyển hướng thương mại sang các khu vực và quốc gia ngoài châu Á như Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ. Các đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam là Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia và Hồng Công (thuộc Trung Quốc). Các đối tác này chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam trong năm 2005, trong đó tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam với 5 đối tác hàng đầu lần lượt là Trung Quốc (12,6%), Nhật Bản (12,3%), EU (11,7%), Hoa Kỳ (9,8%) và Singapore (9,2%). 2.2.Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO sẽ mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nhiều cơ hội và không ít thách thức. Những cơ hội mà việc gia nhập WTO đem lại cho Việt Nam có thể khái quát như sau: - Mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu: Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường của tất cả các thành viên WTO (theo nguyên tắc MFN), tránh được những bất lợi trong các hiệp định thương mại song phương gắn với những điều kiện phi thương mại như tiêu chuẩn lao động, yêu cầu về môi trường 2.2.1. Cơ hội: - Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam được đối xử bình đẳng. - Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định sẽ giúp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong nước và nước ngoài. Cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, bãi bỏ sự phân biệt đối xử theo MFN và NT, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư vào thị trường tiêu thụ rộng. Việt Nam cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và các chính phủ nước ngoài. Việc thực hiện những cam kết về mở của thị trường dịch vụ chắc chắn cũng sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ. Đầu tư nước ngoài gia tăng sẽ đem lại những lợi ích cho nền kinh tế như: - Tạo động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp. - Tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. - Góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo.. - Giải quyết việc làm cho lao động trực tiếp và gián tiếp trong nhiều ngành kinh tế. - Góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. - Tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức bố trí sản xuất, quản lý, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm và cách thức tiếp thị, phục vụ khách hàng - Tạo điều kiện cải cách chính sách, thể chế luật pháp: + Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp trong nước, minh bạch hóa toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ các nguyên tắc của WTO; + Hệ thống pháp luật sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế; + Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở Việt Nam được đối xử công bằng khi tham gia vào thị trường của các nước thành viên WTO. - Tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết tranh chấp thương mại: + Có lợi thế hơn trong giải quyết tranh chấp thương mại, do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. + Tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như hiện nay. 2.2.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội có được, việc gia nhập WTO cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam * Thách thức đối với Chính phủ - Phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách phù hợp với các quy định của WTO: Sửa đổi và xây dựng mới khối lượng lớn văn bản luật và pháp lệnh Khuôn khổ pháp luật về kinh tế thương mại cần được hoàn thiện để hoạt động hiệu quả hơn và phù hợp hơn với các quy định và chuẩn mực quốc tế. Nội luật hóa những vấn đề mới phát sinh trong thương mại quốc tế Bỏ các phương thức quản lý không phù hợp với WTO như những lệnh cấm, hạn chế định lượng, trợ cấp không đúng qui định. Xây dựng các chính sách mới phù hợp với quy định của WTO như AMS, hỗ trợ xuất khẩu trong xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng hàng hóa, hỗ trợ cước vận tải.v.v - Nguồn thu ngân sách bị suy giảm: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách trong giai đoạn đầu. - Vấn đề cán cân thanh toán: Thâm hụt cán cân thanh toán sau khi gia nhập WTO là vấn đề lo ngại của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. - Giải quyết vấn đề phát sinh như đào tạo lại để giải quyết việc làm cho những người lao động mất việc - Việc cải cách doanh nghiệp đòi hỏi đầu tư rất nhiều về vốn, kỹ thuật và cả yếu tố con người; - Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng và bao trùm nhiều thách thức lớn trong tiến trình hội nhập. Các cán bộ Việt Nam thường hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức kinh tế thị trường, ngoại ngữ và đặc biệt là kỹ năng đàm phán; - Vấn đề an sinh xã hội: Giải quyết việc làm cho người lao động dư thừa do cải tổ ngành sản xuất trong nước để phát triển, đặc biệt đảm bảo đời sống của người nông dân; * Thách thức đối với doanh nghiệp. - Mở cửa thị trường dẫn tới cạnh tranh gay gắt trong khi doanh nghiệp Việt Nam phần lớn vốn ít, công nghệ không cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh không cao. - Doanh nghiệp không được Nhà nước bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp, hỗ trợ trái quy định của WTO; - Các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tận dụng những cơ hội tiếp cận thị trường mới do hạn chế khả năng và kiến thức hiểu biết thị trường bạn. Các nước lại có xu hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông qua các biện pháp kỹ thuật, chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường; - Cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ tăng khi các hàng rào thương mại được cắt giảm; - Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, hoặc giảm lợi nhuận vì tác động của giảm thuế mở cửa thị trường; - Doanh nghiệp Việt Nam sẽ thường vấp phải nhiều tranh chấp trong thương mại quốc tế và luôn ở thế yếu hơn. * Thách thức đối với người dân và xã hội - Giải quyết lao động dôi ra do cải cách bộ máy hành chính, cải tổ ngành công nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp phá sản, bị đóng cửa do làm ăn thua lỗ; - Khoảng cách giàu nghèo và mất công bằng trong xã hội gia tăng trong quá trình phát triển kinh tế nếu như không có sự can thiệp hợp lý của Chính phủ. - Đòi hỏi về trình độ lao động, chuyên môn, ngoại nữ, tác phong lao động công nghiệp đối với người lao động ngày càng cao hơn, đòi hỏi họ phải không ngừng học hỏi thêm. Trong bối cảnh đó, Việt Nam kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức quốc tế tiếp tục dành sự quan tâm, ủng hộ Việt Nam sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Về phía mình, Việt Nam sẽ nỗ lực trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước và đóng góp sức mình vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. 2.3. Các kết quả đạt được khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO Năm 2007, năm đầu tiên trở thành thành viên chính thức WTO, nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng 8,46%, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây: tổng GDP đạt 71,3 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 835 USD, tiếp cận ngưỡng của nước có thu nhập trung bình thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, với nông nghiệp chiếm tỷ trọng 20% GDP, còn lại là công nghiệp và dịch vụ; kim ngạch xuất khẩu đạt gần 50 tỷ USD, nhưng nhập siêu cũng gia tăng, đạt 14,12 tỷ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu. Làn sóng FDI mới bắt đầu từ vài năm trước tiếp diễn với nhịp độ nhanh hơn, với kết quả khả quan về vốn đăng ký của cả năm đạt 21,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt hơn 8 tỷ USD. Báo Malaysia Star viết: “Việt Nam đã trở thành viên nam châm với rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài - những người muốn tham dự vào tiến trình bùng nổ kinh tế của đất nước. Từ các hãng xây dựng cho đến những nhà đầu tư phát triển bất động sản và công nghiệp, dịch vụ, cơ hội là quá nhiều đối với những ai tìm kiếm mảnh đất đầu tư trong triển vọng của kinh tế Việt Nam”. Những tháng đầu năm 2008, mặc dù phải đối phó với tình hình lạm phát trong nước gia tăng và giá cả thị trường thế giới leo thang, nhất là giá xăng dầu và lương thực, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP trên 7%, kim ngạch xuất khẩu tăng trên 27,6%, trong khi nhập siêu vẫn rất lớn, bằng 61% kim ngạch xuất khẩu; FDI tăng 31% so với cùng kỳ năm trước Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hướng các sản phẩm của mình tới tiêu chuẩn quốc tế bằng cách đổi mới công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại, tiếp cận thị trường khu vực và thế giới. Ý tưởng về việc xây dựng Buôn Mê Thuật trở thành thủ đô cà phê của thế giới mặc dù cần được nghiên cứu nghiêm túc và có đủ thời gian để biến “giấc mơ” thành hiện thực, nhưng có thể coi đây là một điển hình về phương châm mới “tư duy toàn cầu, hành động quốc gia”. Đã đến lúc, người Việt Nam phải vượt qua rào cản về tư duy của một nước lạc hậu, phụ thuộc vào viện trợ tài chính và công nghệ nước ngoài để có tư duy đúng với tư cách là một thành viên bình đẳng tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa. Cuộc ganh đua giữa các dân tộc hướng tới phồn vinh và hạnh phúc tùy thuộc rất lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Lợi thế so sánh của quốc gia đã thay đổi so với 10 năm về trước: thể chế và luật pháp cần được xây dựng đồng bộ và nhất quán theo hướng kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế; xây dựng “Nhà nước phục vụ” hướng tới “Nhà nước điện tử” với đội ngũ công chức chuyên nghiệp; nguồn nhân lực có cơ cấu hợp lý về ngành nghề, trình độ và có chất lượng cao; hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội được hiện đại hóa là những yếu tố quan trọng để tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho đất nước. 2.4. Đánh giá về những bất cập trong chính sách thương mại quốc tế khi tham gia WTO 2.4.1. Thiếu tính bền vững, mất cân đối trong quản lý xuất nhập khẩu Trong công nghiệp, năm 2005 giá trị sản xuất tăng 16% nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 0,7%. Tốc độ phát triển xuất khẩu cao, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế. So với các nước ASEAN, thì mức xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn so với nhập khẩu, dẫn tới nhập siêu lớn (gần 5 tỉ USD trong năm 2005). Bên cạnh đó, mặc dù cơ cấu ngành hàng xuất khẩu đã được cải tiến nhưng còn lạc hậu, chủ yếu xuất khẩu hàng sử dụng nhiều lao động, hàng nông sản ít qua chế biến, giá trị thấp mà tính bất ổn trong xuất khẩu cao, sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Nhiều mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn như sản phẩm chăn nuôi chưa được phát huy. Xuất khẩu nước ta phụ thuộc nhiều vào 4 nhóm thị trường (Mỹ, EU, Nhật, ASEAN). Vì thế, bất cứ sự biến động nào của thị trường thế giới cũng đều ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước. Trong cơ cấu xuất nhập khẩu, tỷ lệ xuất khẩu gia công còn lớn; tỷ lệ thực hiện phân phối trực tiếp trên thị trường nước nhập khẩu còn nhỏ. Sự tác động của ngành thương mại đối với sản xuất hàng xuất khẩu còn yếu, chủ yếu mới thực hiện thương mại cái mà ta có. Rất ít các nhà kinh doanh tác động đến sản xuất bằng đơn đặt hàng thông qua những hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Vẫn chưa có tập đoàn thương mại nội địa lớn có khả năng chi phối thị trường Việt Nam và tạo được ảnh hưởng trên thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường nội địa chưa thực sự được coi trọng, chính phủ vẫn chưa xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa trong tương lai, trong khi chúng ta đang có một thị trường tiềm năng rất lớn với số dân lên tới gần 90 triệu người. Phương thức kinh doanh thương mại trên thị trường nội địa còn lạc hậu, manh mún. Quản lý thị trường nội địa chưa khoa học, còn quá nhiều kẽ hở, nên hiện tượng buôn lậu, hàng gian, hàng giả, lừa đảo trong hoạt động thương mại vẫn xảy ra, tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã chưa độc đáo, chủng loại chưa phong phú nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chúng ta còn thấp, đặc biệt là so sánh với hàng hóa của Trung Quốc. Giá thành sản phẩm còn cao do nguyên liệu chủ yếu là nhập khẩu, giá đất đai, giá dịch vụ caoHệ thống phân phối bán hàng còn lạc hậu. Chưa tạo được nhiều thương hiệu sản phẩm, dịch vụ có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu không nâng cao khả năng cạnh tranh thì chẳng những hoạt động xuất khẩu sẽ gặp khó khăn, mà còn các sản phẩm Việt Nam sẽ cạnh tranh kém so với hàng hoá của các nước trong khu vực trên thị trường nội địa. Về vấn đề này, tác giả xin đề xuất mô hình ưu tiên phát triển/bảo hộ dựa trên tiềm năng xuất khẩu và qui mô thị trường trong nước trong chương sau. 2.4.2. Thương mại Việt Nam tiếp tục bị phân biệt đối xử Về xuất khẩu hải sản, tôm, cá Tra/Ba sa, và cá ngừ (tuna) là ba sản phẩm chính của Việt Nam, tiếp tục bị trở ngại vì luật chống bán phá giá tại Hoa Kỳ. Việt Nam vẫn còn tiếp tục bị phân biệt đối xử thể hiện qua kết quả đàm phán gia nhập, Việt Nam phải đưa ra những nhượng bộ song phương với các nước thành viên WTO có vai trò then chốt như EU, Mỹ, Nhật. Như vậy, ngoài những luật lệ của WTO phải tuân thủ, ta còn phải chịu ràng buộc đối với những nhân nhượng song phương, một loại "WTO cộng" được áp dụng cho mọi thành viên khác trong WTO. Cũng bất lợi hơn so với các nước thành viên khác là dù Việt Nam đã vào WTO, nhưng các nước vẫn xem Việt Nam là nước "kinh tế phi thị trường". Thiếu một quy chế kinh tế thị trường, sản phẩm Việt Nam bán trên các thị trường thế giới rất dễ bị kiện phá giá vì người kiện đâu chịu so sánh với giá bán ở Việt Nam mà sẽ dùng giá ở bất kỳ nơi đâu có lợi cho họ. Bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ không hoàn toàn được phân xử theo cơ chế chung trong khuôn khổ quy định của WTO. Trong thỏa thuận riêng với Hoa Kỳ vừa qua, Việt Nam vẫn phải chịu cơ chế giám sát đặc biệt cho hàng dệt may, có nghĩa là hàng dệt may của Việt Nam vẫn có thể bị thiệt hại ở thị trường Hoa Kỳ. Như vậy, các nhà đầu tư lớn của Hoa Kỳ cũng sẽ phải cân nhắc kỹ rủi ro khi mở rộng đầu tư vào Việt Nam và do đó cũng tác động dây chuyền tới các nhà đầu tư khác vì họ phải tính toán đến thị trường Hoa Kỳ khi đầu tư vào Việt Nam... Hơn nữa, sự mơ hồ trong hiểu biết luật quốc tế của các doanh nghiệp, cũng như chậm trễ trong việc cập nhật, phổ biến các cam kết, luật WTO của chính phủ cũng là nguyên nhân cho các vụ kiện tụng mang tính phân biệt đối xử. 2.4.3. Bất cập về chính sách thương mại dịch vụ so sánh với qui định của WTO Tham gia WTO, một số vấn đề sau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trong các ngành dịch vụ: Các điều kiện và thủ tục cấp phép trong lĩnh vực dịch vụ hiện tại của Việt Nam có nguy cơ trở thành một rào cản đối với việc thâm nhập thị trường. Chúng ta cần đảm bảo tính minh bạch đối của các thủ tục và yêu cầu cấp phép, các thủ tục và yêu cầu xét duyệt cũng như các yêu cầu cấp phép khác. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần cung cấp thông tin đầy đủ thỏa mãn yêu cầu minh bạch về chính sách, như việc phát hành danh sách tất cả các tổ chức chịu trách nhiệm về việc cấp phép, thông qua và điều chỉnh các ngành dịch vụ, gồm các tổ chức được các nhà chức trách uỷ quyền, và cả các điều kiện và thủ tục cấp phép. Các điều kiện và thủ tục cấp phép phải được thiết lập trước, công bố chính thức và dựa trên những tiêu chuẩn khách quan; phải có tất cả các thông tin thiết yếu cho biết về cách hoàn chỉnh đơn xin cấp phép; phải có các khung thời gian và các mốc thời hạn chót thiết yếu; phải nêu rõ những cơ quan có thẩm quyền. Mọi chi phí phải tương xứng với chi phí hành chính xử lí một đơn xin cấp phép; người nộp đơn sẽ được thông báo liệu tờ đơn đã hoàn chỉnh chưa, nếu chưa thì cần bổ sung thêm điều gì; quyết định phải nhanh chóng; nếu một tờ đơn bị từ chối hoặc đã được hoàn thành, người nộp đơn cần được thông báo bằng văn bản không chậm trễ dù với bất cứ lí do nào; và việc kiểm tra để cấp phép cho các dịch vụ chuyên môn cần được sắp xếp vào những khoảng thời gian hợp lí. Các loại trợ cấp liên quan đến thương mại dịch vụ cũng cần được làm rõ hơn, theo tinh thần được đề cập trong các điều 3 và 7 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS). Như đã phân tích, các cam kết của ta trong gia nhập WTO vẫn còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Trong thương mại dịch vụ, các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ trong phần lớn trường hợp đang đóng vai trò đi trước và chi phối ngược lại bước tiến trong đổi mới chính sách thương mại dịch vụ. Điều đó làm nảy sinh những nghịch lý quan trọng khi tiến hành cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ; thứ nhất, lộ trình tự do hóa đã được thiết lập ngay cả khi chính sách chung và cơ chế quản lý thương mại dịch vụ chưa hình thành để làm cơ sở bảo đảm sự phát triển đúng hướng của thương mại đối với việc nâng cao hiệu quả của ngành kinh tế; thứ hai, trong khi nước ta lại chủ động cam kết dịch vụ trong BTA và tham gia WTO thì việc xúc tiến tự do hóa trong khuôn khổ AFAS tỏ ra chậm chạp và bế tắc. Thực tế đó đã phần nào thể hiện sự thiếu nhất quán đối với mục tiêu tự do hóa thương mại dịch vụ của nước ta và nếu như không được khắc phục kịp thời thì hạn chế đó sẽ làm tổn thương đến chính các ngành dịch vụ trong nước. Qua nghiên cứu hiện trạng, tác giả đánh giá một số hạn chế trong chính sách ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại dịch vụ nước ta trong tiến trình hội nhập khi tham gia WTO như sau: Hạn chế đầu tiên và quan trọng nhất trong thương mại dịch vụ khác với chính sách thương mại hàng hóa, chính sách thương mại dịch vụ được thực hiện thông qua hệ thống các biện pháp có ảnh hưởng đến các quan hệ trao đổi trên thị trường dịch vụ nhằm bảo hộ các doanh nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của dịch vụ nhập khẩu và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thâm nhập vào thị trường trong nước. Tuy nhiên, nhiều biện pháp có tính chất hạn chế thương mại ở nước ta không hẳn đã có mục tiêu bảo hộ các ngành dịch vụ trong nước mà xuất phát từ thực tiễn cơ chế quản lý của nhà nước đối với các ngành dịch vụ. Chính sách thương mại dịch vụ chưa được xây dựng một cách đồng bộ mà tùy thuộc vào các quyết định riêng rẽ của mỗi Bộ/Ngành chức năng căn cứ trên mục tiêu phát triển của từng ngành dịch vụ. Trong hầu hết các trường hợp, chính sách thương mại chỉ là hệ quả của chính sách phát triển ngành hơn là một chính sách thương mại với nội dung bảo hộ hay tự do hoá hoàn chỉnh. Cơ chế này hình thành dựa trên sự phân chia trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng trong từng loại dịch vụ cụ thể như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giao thông vận tải đều độc lập giám sát và quản lý đồng thời các quan hệ thương mại và các vấn đề về cơ sở vật chất, tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành. Cơ chế "chủ quản" áp dụng phổ biến trong các ngành dịch vụ đáp ứng được nhu cầu đầu tư có trọng điểm của các ngành dịch vụ. Nhưng cũng chính cơ chế đó đang nảy sinh những vấn đề xói mòn động lực kinh doanh của doanh nghiệp. Họ yên tâm trông chờ sự bảo hộ không phải từ một chính sách thương mại khách quan mà bởi cơ chế quản lý nhà nước đang hỗ trợ mình. Vấn đề thứ hai, chính sách thương mại dịch vụ còn tỏ ra thụ động trước những diễn tiến mới của quá trình hội nhập KTQT của nước ta. Nhiều quan điểm, kể cả lời tâm sự của chính tổng giám đốc WTO Pascal Lamy trong lễ kết nạp Việt Nam hôm 7/11/2006, cho rằng tự do hóa thương mại có thể làm mất công ăn, việc làm, mất khả năng kiểm soát của nhà nước trong các ngành quan trọng, nhất là sự can thiệp của nhà nước vào thị trường tài chính, tiền tệ. Quan điểm đó không phải là không có căn cứ nếu như các cơ quan chức năng chưa chuẩn bị các biện pháp và khung khổ pháp lý cần thiết để bảo đảm tính hiệu quả và sự giám sát nhà nước trong ngành dịch vụ. Cam kết quốc tế với lộ trình như hiện nay tuy đã bao hàm những qui tắc nhất định về thương mại dịch vụ nhưng chưa đủ để trở thành một hệ thống chặt chẽ bảo đảm sự phát triển bền vừng của ngành dịch vụ. Có thể đưa ra một số hạn chế trong quản lý như sau: - Chưa chủ động tạo dựng khuôn khổ pháp lý, định hướng và thúc đẩy thương mại dịch vụ Việt Nam, khuyến khích sự tập trung tư bản, thu hút công nghệ, kỹ thuật và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, nhà nước đóng vai trò lớn trong vấn đề này với việc định hướng, thực hiện các đầu tư lớn, qui mô để thiết lập một hệ thống hạ tầng phù hợp nhất cho từng loại dịch vụ. - Chậm ban hành tiêu chuẩn hóa chất lượng dịch vụ, như qui định trách nhiệm của doanh nghiệp, tiêu chuẩn bằng cấp...v.v để thuận lợi hóa cho hoạt động thương mại dịch vụ; - Các cơ quan quản lý chủ yếu vẫn tập trung chuyển đổi chính sách cho phù hợp với cam kết quốc tế mà chậm không lường trước những vấn đề phát sinh và ban hành những biện pháp bảo đảm sự ổn định của các ngành dịch vụ trong dài hạn như kiểm soát độc quyền, khuyến khích cạnh tranh, ngăn chặn hành vi gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY 3.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách thương mại quốc tế là công việc liên quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan liên quan, đặc biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại). Nghị quyết 07 của Ban chấp hành trung ương Đảng ngày 27 tháng 1 năm 2001 đã đưa ra rất rõ ràng quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Về mặt lý thuyết, Việt Nam không cần thiết phải giải quyết các vấn đề liên quan đến nhận thức hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bất cập thể hiện trong quá trình thực hiện là cách hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn chưa thống nhất. Thực tế này dẫn đến hai hiện tượng. Một là sự chần chừ trong quyết định liên quan đến cam kết của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế. Hai là đưa ra các quyết định chính sách không nhất quán (không chỉ giữa các cơ quan khác nhau mà ngay cả trong một cơ quan). Một biểu hiện khác là diễn giải khác nhau của “tranh thủ ngoại lực” và “phát huy nội lực”. Việc giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế lại chưa được thống nhất giữa các cơ quan liên quan. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tài chính và Bộ Thương mại chủ động đưa ra các ngành và lộ trình hội nhập các ngành cho phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Bên cạnh đó, Bộ Công nghiệp và các bộ khác mong muốn trợ giúp các doanh nghiệp mà mình quản lý theo ngành dọc, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc Bộ. Điều này dẫn đến những quan điểm và nỗ lực khác nhau trong quá trình thực hiện chính sách thương mại quốc tế. Mục tiêu của chính sách thương mại quốc tế rõ ràng là nhằm vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nếu không có sự thống nhất thì những diễn giải khác nhau sẽ làm giảm tác động tích cực của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Để thực hiện tốt công việc này, trước hết, Chính phủ cần chỉ đạo thống nhất mục tiêu và phương pháp công nghiệp hoá và phương pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển thị trường trong nước cần được chủ động giải quyết, trong đó chỉ rõ mục tiêu và vị trí của chính sách thương mại quốc tế. Kinh nghiệm của Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc và Hoa Kỳ cho thấy các quốc gia này xác định rõ ràng mục tiêu và vị trí của Chính sách thương mại quốc tế. Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cần chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như cách thức hỗ trợ các ngành hướng vào xuất khẩu và cách thức hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo việc duy trì ổn định các chính sách hỗ trợ. Mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên thực tế đã đạt được sự thống nhất từ các bộ, ngành (đặc biệt cho các ngành hướng vào xuất khẩu). Mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là đối với các ngành hướng vào thị trường nội địa (thay thế nhập khẩu), là nội dung cần nhiều sự phối hợp giữa các bộ, ngành. Các giải pháp chủ yếu về xuất nhập khẩu hiện mới chỉ tập trung nhiều cho xuất khẩu còn việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành thay thế nhập khẩu (thông qua chính sách thương mại quốc tế) chưa đạt được sự thống nhất giữa các bên liên quan. Chẳng hạn, những vấn đề như cách điều chỉnh biểu thuế ngành công nghiệp điện tử, cách điều chỉnh biểu thuế ngành thép cần được đưa vào như những nội dung ưu tiên trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Tất cả các biện pháp này cần đặt trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi. Đối với các bộ ngành, đặc biệt là Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, và Bộ Tài chính, việc thống nhất về cách thức hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là công việc cần được thực hiện. Trong quá trình thực hiện công việc này, sự tham gia của các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp và sự chủ trì của một cơ quan là hết sức cần thiết. 3.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế 3.2.1. Tiếp tục minh bạch hóa và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi biên thuế trong trường hợp khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế của Việt Nam đang được thay đổi theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này thể hiện ở những cam kết và thực hiện cam kết của Việt Nam trong AFTA, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, điều chỉnh hệ thống thuế cho phù hợp với các quy định của WTO,... cũng như những thay đổi, điều chỉnh thuế gián tiếp (thuế tiêu thụ đặc biệt của ô tô, quy định chi tiết thi hành thuế VAT). Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong thực hiện các cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này. Bộ Tài chính có thể xem xét vận dụng kinh nghiệm của Thái Lan như áp mức thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu trong một số trường hợp khẩn cấp hay khi có yêu cầu từ các hiệp hội, các bộ ngành khác. Chẳng hạn, việc vận dụng linh hoạt biểu thuế Việt Nam, nếu áp dụng theo kinh nghiệm của Thái Lan, có thể giải quyết được những vấn đề về nhập khẩu thép kém chất lượng. Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hóa thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tăng tính dự đoán được trong việc điều chỉnh thuế. Đây là những nội dung được ưu tiên trong số các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nêu ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 (xử lý tốt mối quan hệ nhà nước – hiệp hội – doanh nghiệp và hoàn thiện hệ thống thuế, phí) 3.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan Bộ Thương mại nên là cơ quan chủ trì hệ thống hóa các biện pháp đang được các cơ quan khác nhau sử dụng như Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ Tài chính (mua sắm của chính phủ), Ngân hàng Phát triển (tín dụng xuất khẩu), các bộ ngành khác (các biện pháp hành chính). Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cần chủ trình phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp chủ động tăng cường sử dụng nhiều hơn và sử dụng có lựa chọn một số công cụ phi thuế quan như hạn ngạch thuế quan, các khoản mua sắm của chính phủ, giấy phép nhập khẩu. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong thời gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp xuất khẩu và thương mại liên quan đến đầu tư (TRIMs) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong khuôn khổ WTO phân loại trợ cấp xuất khẩu thành ba loại: trợ cấp bị cấm (trợ cấp đèn đỏ); trợ cấp không thể bị kiện (trợ cấp đèn xanh); và trợ cấp có thể bị kiện (trợ cấp đèn vàng). Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thưởng xuất khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm trong khuôn khổ WTO nên trong tương lai không thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ trợ các hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại) được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy nhiên, khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi (tiếp tục duy trì các khuyến khích xuất khẩu) vì là nước đang phát triển có GNP bình quân đầu người dưới 1000 đôla Mỹ một năm. 3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập Đây là công việc không chỉ của Bộ Thương mại mà cả các bộ ngành khác và đặc biệt là các hiệp hội ngành hàng. Việt Nam phải sẵn sàng đương đầu với các tranh chấp thương mại. Việt Nam không thể tránh khỏi việc tham gia vào các tranh chấp thương mại như trợ cấp, chống bán phá giá, biên tính thuế,... khi gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại còn được sử dụng như một phần trong số các công cụ gây ảnh hưởng chính trị từ các nước lớn. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp, các hiệp hội và các bộ ngành kể trên cần có kế hoạch sẵn sàng đương đầu với các tranh chấp liên quan đến thương mại như chống trợ cấp hay chống bán phá giá. Việt Nam cần làm nhiều việc để chủ động giảm thiểu tác động tiêu cực của các tranh chấp này. 3.2.4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần được thay đổi. Nhà nước không thể hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp mà phải thông qua các hiệp hội để thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển, ... Tại Việt Nam, cách thức doanh nghiệp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách cũng cần được tăng cường. Các doanh nghiệp tham gia rất có hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn Việt Nam cho thấy, Việt Nam hiện đã có sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình hoạch định và hoàn thiện chính sách song tồn tại dưới các hình thức khác nhau như gặp mặt Thủ tướng với doanh nghiệp, gặp mặt Bộ trưởng với doanh nghiệp, thư trao đổi giữa Bộ trưởng với doanh nghiệp và doanh nghiệp với Bộ trưởng, các cuộc hội thảo, đào tạo do các bộ, ngành và hiệp hội chuyên ngành tổ chức. Tuy nhiên, kết quả thu được từ các kênh này không hệ thống và không hướng đích. Trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những doanh nghiệp này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết quả nghiên cứu và gợi ý chính sách cho Bộ Thương mại và các bộ ngành, cho Uỷ ban quốc gia về hợptác kinh tế quốc tế và cho các nhóm làm việc đề cập ở trên. KẾT LUẬN Vấn đề hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề không chỉ của Việt Nam mà của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển đang thực hiện công nghiệp hoá như Việt Nam, nội dung và cách thức hoàn thiện đặt ra những yêu cầu cần giải quyết về nhận thức mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch, hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế, và đặc biệt là việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy bên cạnh việc minh bạch hoá chính sách, các quốc gia thường tập trung quyền phối hợp hoàn thiện chính sách vào một cơ quan. Sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào hoàn thiện chính sách là yếu tố đảm bảo sự thành công trong việc thực hiện chính sách. Thực tiễn cho thấy Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Việt Nam không còn nhiều lựa chọn trong việc lựa chọn lộ trình hội nhập. Bài viết đã đề xuất các quan điểm và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới như tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại; hợp lý hoá lộ trình tự do hoá đối với ngành chế tạo; đẩy mạnh thu hút FDI; chủ động thu hút sự tham gia của các bộ ngành, cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách; Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế nên đóng vai trò điều phối việc phối hợp trên cơ sở gắn kết chặt chẽ chính sách này với chính sách công nghiệp; tiếp tục minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan; sử dụng hệ thống một số công cụ phi thuế quan,... Quá trình thay đổi chính sách là quá trình hoàn thiện chính sách, vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đề phù hợp với hội nhập, đặc biệt là phù hợp với các quy định của WTO. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bản luận án “ Thương mại quốc tế của Việt Nam” của Mai thế cường. 2. Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Quang Trung: Tổ chức thương mại thế giới và vấn đề gia nhập của Việt Nam. 3. Bài viết trên Vietnamnet cập nhật ngày 19/5/2005: Chính sách thương mại quốc tế và tự do thương mai hoá. 4. “Việt Nam gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức” – Bài viết trên Vnexpress.net 5. “Công bố toàn văn cam kết WTO: - Bài viết trên Vnexpress.net 6. “Cam kết của Việt Nam trong WTO về kinh tế phi thị trường” – Cập nhật ngày 11/8/2008 trên vinanet 7. “Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam” (Tin từ Vụ KTĐP-BNG và các báo ĐT, TBKT tháng 10/2006) 8. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8412.doc
Tài liệu liên quan