Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo hiệu
quả thực thi của Luật Cạnh tranh trong mối
tương quan, hòa hợp với Luật SHTT thì các
văn bản hướng dẫn trong thời gian tới, khi
quy định về các tiêu chí nhằm xác định tác
động hạn chế cạnh tranh của yêu cầu chuyển
giao ngược nên được quy định tương tự như
cách tiếp cận của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
và Châu Âu, bao gồm:
(1) Yêu cầu chuyển giao tất cả các cải
tiến kể cả cải tiến độc lập với sáng chế ban
đầu;
(2) Yêu cầu chuyển giao ngược đã
ngăn cản bên nhận chuyển giao quyền sử
dụng, hưởng lợi từ các cải tiến của mình
(trực tiếp sử dụng hoặc chuyển giao cho
người thứ 3);
(3) Yêu cầu chuyển giao ngược đã
ngăn cản bên chuyển giao quyền đăng ký sở
hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp
đối với các cải tiến đó;
(4) Trong trường hợp chuyển giao
ngược có trả phí thì không có sự tương xứng
giữa phí chuyển giao gốc với phí chuyển
giao phần cải tiến cũng như phí chuyển giao
sáng chế gốc kèm với phần cải tiến của bên
chuyển giao cho bên thứ 3
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với điều khoản chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH ĐỐI VỚI ĐIỀU KHOẢN
CHUYỂN GIAO NGƯỢC TRONG HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Bùi Thị Hằng Nga*
* Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
A grantback is a provision recognized in the contract for transfer
of intellectual property rights. That is the patentee (licensor) shall
require the potential licensee to agree to grant back to the patentee
rights to improvement patents developed by the licensee related to
the original patents. Under the provisions of intellectual property law,
this is one of the constraints for technology transfer that the licensor
is allowed to acknowledge, unless it is a request with charge free.
However, from the perspective of competition laws, the grantback
provision may be considered to violate the competition law and is
prohibited when certain conditions are satisfied, regardless of the
transfer request with charge or charge free.
Tóm tắt:
Chuyển giao ngược là một điều khoản được ghi nhận trong hợp
đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, bên chuyển giao
sẽ yêu cầu bên nhận chuyển giao phải chuyển giao toàn bộ các cải
tiến (nếu có) của công nghệ ban đầu lại cho mình. Theo quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ thì đây là một trong những ràng buộc
cho việc chuyển giao công nghệ mà bên chuyển quyền được phép
ghi nhận, trừ khi đó là yêu cầu miễn phí. Tuy nhiên, dưới góc độ
của pháp luật cạnh tranh thì điều khoản chuyển giao ngược có thể
bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh và bị cấm khi thỏa mãn một
số điều kiện nhất định, bất chấp yêu cầu chuyển giao đó là miễn
phí hay có trả phí.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Cạnh tranh, quyền sở
hữu trí tuệ, chuyển giao ngược
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 31/08/2018
Biên tập : 18/09/2018
Duyệt bài : 31 Aug. 2018
Article Infomation:
Keywords: Competition Law,
intellectual property rights, grantback
Article History:
Received : 31 Aug. 2018
Edited : 18 Sep. 2018
Approved : 25 Sep. 2018
1. Đặt vấn đề
Chuyển giao ngược (grantback) là một
điều khoản, theo đó bên chuyển giao có quyền
yêu cầu bên nhận chuyển giao phải chuyển
1 U.S Department Of Justice And The Federal Trade Commission (2007), Antitrust enforcement and intellectual property
rights: Promoting innovation and competition, tr. 91.
lại tất cả các cải tiến công nghệ hoặc các ứng
dụng liên quan được bên nhận chuyển giao
phát triển từ công nghệ được chuyển giao
trong suốt thời hạn chuyển giao1.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 4(380) T2/2019
Trên thực tế, có không ít trường hợp
các phát minh, sáng chế được phát triển, sáng
tạo dựa trên các sáng chế gốc nhằm hoàn
thiện hoặc phát triển sáng chế gốc. Dưới góc
độ pháp luật sở hữu trí tuệ (SHTT), hành vi
chuyển giao ngược có thể giúp các bên cùng
nhau hoàn thiện các phát minh, dây chuyền
kỹ thuật nhằm khai thác hiệu quả lợi ích
cạnh tranh từ việc nắm giữ các phát minh,
sáng chế. Bởi lẽ:
- Nếu không ghi nhận điều khoản
chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển
quyền SHTT thì sẽ dẫn đến thực trạng bên
nhận chuyển giao sẽ được bảo hộ đối với các
cải tiến từ phát minh, sáng chế gốc, từ đó
có thể thu lợi từ phát minh, sáng chế đó mà
không phải bỏ nhiều vốn cho hoạt động đầu
tư, nghiên cứu; ngược lại, bên sở hữu phát
minh, sáng chế gốc sẽ bị mất hết quyền lợi
dù vẫn là người nắm văn bằng bảo hộ gốc do
tính lạc hậu của phát minh, sáng chế đó. Do
vậy, việc ghi nhận điều khoản chuyển giao
ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền
SHTT là hợp lý, nhằm đảm bảo quyền lợi
cho chủ sở hữu cũng như là động lực thúc
đẩy họ chuyển giao, công khai các phát
minh, sáng chế để cộng đồng, xã hội được
thụ hưởng.
- Việc ghi nhận điều khoản chuyển
giao ngược là tiền đề nhằm nâng cao giá trị
về mặt kinh tế, cũng như công nghệ của các
phát minh, sáng chế. Bởi vì, với các ràng
buộc về việc chuyển giao ngược, các cải tiến
sẽ giúp cho các công nghệ ngày càng hoàn
thiện, giúp nâng cao giá trị của các sáng chế,
công nghệ đó2.
Luật SHTT công nhận và bảo hộ
quyền SHTT của các tổ chức, cá nhân cũng
như khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng
tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần
2 Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of Chicago
Law Review 733-748, p. 3.
3 Điều 8 Luật SHTT.
4 Xem thêm Khoản 2 Điều 144 Luật SHTT.
5 U.S Department Of Justice And The Federal Trade Commission (2007), Antitrust enforcement and intellectual property
rights: Promoting innovation and competition, p. 93.
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân3. Cho nên,
việc có ghi nhận điều khoản về chuyển giao
ngược hay không trong hoạt động chuyển
giao quyền SHTT là quyền của các bên
trong hợp đồng, trừ khi việc ghi nhận điều
khoản về chuyển giao ngược như là một
nghĩa vụ mặc nhiên của bên nhận chuyển
giao (chuyển giao miễn phí)4.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho
rằng, hành vi yêu cầu chuyển giao ngược sẽ
triệt tiêu động lực nghiên cứu, đổi mới đối
với các phát minh, sáng chế bởi lẽ bên nhận
chuyển giao sẽ không nhận được bất kỳ một
lợi ích nào từ sự cải tiến của mình đối với
các phát minh, sáng chế mà mình đã nhận
chuyển giao5. Điều đó sẽ tác động tiêu cực
đến môi trường cạnh tranh lành mạnh, đó
cũng chính là lý do không nên loại bỏ điều
khoản chuyển giao ngược ra khỏi sự xem xét
của pháp luật cạnh tranh mặc dù về nguyên
tắc, Luật Cạnh tranh sẽ không điều chỉnh đối
với hoạt động thực thi quyền SHTT thông
qua việc chuyển giao quyền SHTT, trừ
trường hợp nó vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Do vậy, theo quy định của pháp luật
cạnh tranh thì điều khoản chuyển giao ngược
cho dù không phải là miễn phí nhưng vẫn có
thể bị xem là vi phạm pháp luật trong một số
trường hợp khi thỏa mãn các tiêu chí, điều
kiện nhất định.
2. Kinh nghiệm quốc tế về điều chỉnh của
pháp luật cạnh tranh đối với điều khoản
chuyển giao ngược
Dưới góc độ pháp luật SHTT, nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ
sở hữu quyền SHTT, tạo động lực thúc đẩy
việc nghiên cứu, sáng tạo cũng như bảo đảm
tính thống nhất và bí mật của công nghệ,
pháp luật đã thừa nhận cho chủ sở hữu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 4(380) T2/2019
quyền tự do khai thác, sử dụng cũng như
định đoạt quyền SHTT thông qua phạm vi,
thời hạn bảo hộ cùng những ngoại lệ đối với
đối tượng SHTT. Tuy nhiên, điều đó không
mặc nhiên tạo nên vị thế độc quyền cho chủ
sở hữu cũng như chấp nhận mọi hành vi của
chủ thể nhằm loại bỏ sự lạm dụng của họ có
tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh
và quyền lợi người tiêu dùng. Do vậy, pháp
luật cạnh tranh được sử dụng bổ sung nhằm
đảm bảo quyền độc quyền mà pháp luật về
SHTT trao cho chủ thể quyền SHTT không
bị lạm dụng bởi các hành vi hạn chế cạnh
tranh, góp phần tạo nên hiệu quả điều chỉnh
của hệ thống pháp luật quốc gia.
Vì vậy, giống như các điều khoản
khác được ghi nhận trong hợp đồng chuyển
giao quyền SHTT, bên chuyển giao cũng sẽ
được quyền yêu cầu bên nhận chuyển giao
chuyển giao lại tất cả các cải tiến liên quan
đến công nghệ thuộc quyền sở hữu của mình
trừ trường hợp yêu cầu đó vi phạm pháp luật
cạnh tranh. Hay nói cách khác, hiệu lực và
tác động của điều khoản chuyển giao ngược
trong hợp đồng chuyển quyền SHTT cần
được xem xét và đánh giá cẩn trọng trong
mối tương quan giữa độc quyền hợp pháp
của quyền SHTT và tác động tiêu cực đối
với môi trường cạnh tranh lành mạnh khi
thực thi quyền đó của chủ thể.
Trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ,
điều khoản chuyển giao ngược không phải
là vấn đề mới trong hoạt động chuyển giao
công nghệ. Tuy nhiên phải đến năm 1947,
thông qua phán quyết đối với vụ việc của
công ty Transwrap, Tòa án Tối cao mới đặt
ra các quy tắc chung cũng như các hướng
6 Sol M. Linowitz- George W. F. Simmons, Antitrust Aspects of Grant Back Clauses in License Agreements, Cornell Law
Review Volume 43 Issue 2Winter 1958 p. 6.
7 Transparent-Wrap Mach. Corp. v. Stokes & Smith Co.
8 Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of Chicago
Law Review 733-748 p. 4.
9 Nguyên văn tác giả sử dụng là: “to be per se unlawful and unenforceable.”
10 Chuyển giao có ràng buộc là thỏa thuận yêu cầu bên nhận chuyển giao phải đáp ứng một số điều kiện nhất định để được
nhận chuyển giao.
11 Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of Chicago
Law Review 733-748, p. 5.
dẫn cụ thể nhằm xác định hiệu lực của điều
khoản chuyển giao ngược6.
Công ty Transwrap được cấp bằng
sáng chế đối với hệ thống bọc và đóng gói
giấy kiếng tự động đối với bánh kẹo, các loại
hạt và những loại hàng hóa tương tự khác7.
Sau đó, Công ty Transwrap đã chuyển giao
độc quyền đối với sáng chế này ở khu vực
Bắc Mỹ cho Công ty Stokes & Smith Co.
Trong hợp đồng chuyển giao công nghệ có
ghi nhận điều khoản: phía Công ty Stokes &
Smith có nghĩa vụ chuyển giao lại tất cả các
cải tiến đối với sáng chế này.
Sau đó, phía công ty Stokes & Smith
đã có những cải tiến đối với sáng chế này
nhưng từ chối chuyển giao lại cho phía
Transwrap. Không thể thương lượng, hòa
giải được với nhau, Công ty Transwrap đã
khởi kiện Công ty Stokes & Smith do vi
phạm nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong
hợp đồng. Tuy nhiên, phía Công ty Stokes
& Smith cho rằng điều khoản nêu trên là yêu
cầu vô lý không thể thực hiện trên thực tế8.
Thẩm phán giải quyết vụ việc trên,
Judge Hand, cho rằng điều khoản bắt buộc
chuyển giao nêu trên mặc nhiên là bất hợp
pháp nên sẽ không có giá trị ràng buộc trách
nhiệm của các bên9.
Theo đó, điều khoản này được xem
như là hành vi chuyển giao có ràng buộc10,
và nó đã vi phạm chính sách công của Liên
bang được thừa nhận trong Hiến pháp và
Luật Sáng chế “bởi khả năng bên được cấp
bằng sáng chế sẽ có được sự độc quyền hợp
pháp thông qua việc nắm giữ tất cả các yếu
tố của sáng chế ban đầu”11.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 4(380) T2/2019
Thẩm phán cũng cho rằng, giống như
mục đích của việc chuyển giao có ràng buộc,
mục đích của yêu cầu chuyển giao ngược là
mở rộng vị trí độc quyền trên thị trường. Bởi
lẽ, ngay khi hết thời hạn bảo hộ đối với sáng
chế gốc thì chủ sở hữu sẽ tiếp tục kéo dài thời
hạn độc quyền của nó một cách hợp pháp bởi
việc nắm giữ tất cả các cải tiến liên quan đến
sáng chế đó, dù trên thực tế công lao không
thuộc về họ, và điều đó là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, Tòa án Tối cao không đồng
ý với quan điểm trên vì cho rằng, các lập luận
mà thẩm phán Judge Hand đưa ra chưa xem
xét hết các khía cạnh của thỏa thuận chuyển
giao ngược, cũng như chưa đánh giá thấu
đáo lợi ích của bên chuyển giao trong mối
tương quan của độc quyền SHTT. Đồng thời
khẳng định, điều khoản chuyển giao ngược
được đưa ra bởi Transwrap trong trường hợp
trên không bị xem là vi phạm luật chống độc
quyền. Hành vi chuyển giao có ràng buộc
chỉ bị xem là vi phạm pháp luật nếu hậu
quả của nó dẫn đến sự độc quyền, hạn chế
hoạt động thương mại và công bằng12. Do
vậy, sẽ là bất hợp lý khi cho rằng, nghĩa vụ
chuyển giao ngược là hành vi mặc nhiên bị
cấm vì nó vi phạm chính sách của Liên bang
cũng như Luật Sáng chế. Thay vào đó, pháp
luật chỉ ngăn cấm nếu yêu cầu chuyển giao
ngược là kết quả của việc sử dụng một độc
quyền hợp pháp (độc quyền được ghi nhận
bởi bằng bảo hộ sáng chế) để có được một
vị trí độc quyền khác (đối với các cải tiến
mà mình không được bảo hộ). Hay nói cách
khác, yêu cầu chuyển giao ngược sẽ bị xem
là vi phạm pháp luật khi đó là kết quả của
12 Liên quan đến chuyển giao có ràng buộc xin xem thêm: Bùi Thị Hằng Nga, Ràng buộc bán kèm dưới góc nhìn của pháp
luật cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 18 (36) kỳ 2 tháng 9/2017, tr. 31.
13 Rechard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of Chicago
Law Review 733-748, p. 6.
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền13.
Đồng thời, sau khi xem xét các khía
cạnh khác có liên quan, Tòa án Tối cao đã ra
phán quyết rằng, yêu cầu chuyển giao ngược
của công ty Transwrap không vi phạm pháp
luật về chống độc quyền, bởi lẽ:
- Công ty Transwrap không có vị trí
thống lĩnh (độc quyền);
- Hành vi này của Transwrap không
có tác động tiêu cực đến môi trường thương
mại;
- Phần cải tiến không thể sử dụng tách
rời với sáng chế của Transwrap;
Bên cạnh đó, trong phán quyết nêu
trên cũng đã khẳng định điều khoản chuyển
giao ngược chỉ bị xem là vi phạm Điều 1, 2
Đạo luật Sherman khi bên chuyển giao lạm
dụng vị trí độc quyền mà mình có được từ
việc sở hữu sáng chế để yêu cầu bên nhận
chuyển giao phải chuyển giao ngược lại các
cải tiến liên quan đến sáng chế.
Lập luận này, sau đó đã được Tòa
án áp dụng trong vụ việc Kobe, Inc. v.
Dempsey Pump Co. Theo đó, bên bị đơn đã
bị cáo buộc lạm dụng sức mạnh thị trường
của mình để yêu cầu các bên nhận chuyển
giao phải chuyển giao lại tất cả các cải tiến
liên quan đến máy bơm dầu nhằm tạo dựng
vị thế độc quyền trong lĩnh vực công nghệ
bơm dầu. Sau đó, thông qua việc xem xét và
đánh giá cẩn trọng các yếu tố có liên quan,
Tòa án đã chỉ ra rằng yêu cầu chuyển giao
ngược của bên chuyển giao đã vi phạm Đạo
luật Sherman vì “lạm dụng vị trí thống lĩnh
áp đặt các điều kiện giao kết hợp đồng gây
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 4(380) T2/2019
hạn chế thương mại”14
Quan điểm trên một lần nữa được
khẳng định trong vụ việc United States
v. General Electric Co.: Công ty General
Electric (GE) sở hữu một số sáng chế đối
với đèn điện sử dụng sợi vonfram, chiếm
69% thị phần sản xuất và tiêu thụ bóng đèn
sợi đốt, đã chuyển giao công nghệ sản xuất
bóng đèn sợi đốt cho công ty Westinghouse
(nắm giữ 16% thị phần). Trong hợp đồng
chuyển giao ngoài các điều khoản liên quan
đến quyền ấn định giá, phân chia cửa hàng
phân phối thì hợp đồng có chứa đựng yêu cầu
chuyển giao ngược lại các cải tiến liên quan
đến công nghệ không loại trừ kiểu dáng của
sản phẩm. Trong vụ việc trên, Tòa án cũng
đã chỉ ra rằng công ty GE đã và đang cố gắng
độc chiếm tất cả các sáng chế liên quan đến
công nghệ sản xuất đèn sợi đốt nhằm mục
đích loại trừ tất cả các chủ thể khác tham
gia vào thị trường bằng cách đặt ra nghĩa vụ
chuyển giao ngược nhằm có được các cải
tiến kỹ thuật của bên nhận chuyển giao một
cách miễn phí hoặc có trả phí.
Thêm vào đó, Công ty Westinghouse
được xem là đối thủ cạnh tranh của GE trên
thị trường bóng đèn sợi đốt. Do đó, yêu
cầu chuyển giao toàn bộ cải tiến công nghệ
không loại trừ cả kiểu dáng sản phẩm là một
yêu cầu vô lý nhằm loại bỏ khả năng cạnh
tranh của Westinghouse đối với mình. Vậy
nên, hành vi này của GE bị xem là hành vi
vi phạm Đạo luật Sherman.
Nói tóm lại, theo quy định của pháp
luật Hoa Kỳ, yêu cầu chuyển giao ngược
trong hợp đồng chuyển giao công nghệ có
14 Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of Chicago
Law Review 733-748, p. 8.
15 William D. Coston (2013), The Patent-Antitrust Interface: Are There Any No-No’s Today?, p. 4.
16 Thông tin được đăng tải tại trang truy cập ngày 24/8/2018
bị xem là vi phạm pháp luật hay không phải
được xem xét, đánh giá một cách chi tiết,
cẩn trọng trong mối tương quan giữa độc
quyền SHTT và tác động của nó đối với môi
trường cạnh tranh. Do đó, dưới góc độ của
pháp luật cạnh tranh, điều khoản chuyển
giao ngược sẽ không mặc nhiên vi phạm
theo nguyên tắc Per Se mà phải được xem
xét theo nguyên tắc cân bằng hợp lý (Rule
of reason) dựa trên các tiêu chí:
(1) Sức mạnh thị trường của bên
chuyển giao;
(2) Mối tương quan giữa bên chuyển
giao và bên nhận chuyển giao (hai bên có
phải là đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực
công nghệ được chuyển giao hay không);
(3) Yêu cầu chuyển giao đó có phải là
chuyển giao độc quyền không;
(4) Quyền của bên nhận chuyển giao
đối với các cải tiến của mình (quyền khai
thác trực tiếp hoặc chuyển giao cho chủ thể
thứ 3);
(5) Mối liên quan giữa phần cải tiến
đối với công nghệ gốc (tách rời hay không
thể tách rời);
(6) Thời hạn thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao;
(7) Tác động của điều khoản chuyển
giao ngược đối với hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo15.
Tại Châu Âu, liên quan đến điều khoản
chuyển giao ngược, Quy chế chuyển giao
công nghệ của EU năm 2004 -TTBER16 (sửa
đổi năm 2014) quy định: Nghĩa vụ chuyển
giao ngược hoặc yêu cầu chuyển giao độc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 4(380) T2/2019
quyền những cải tiến kỹ thuật cho bên
chuyển giao là hành vi không được miễn trừ
theo quy định miễn trừ chung. Bởi lẽ, điều
khoản này sẽ ngăn cản bên nhận chuyển
giao (đồng thời là chủ sở hữu của những cải
tiến kỹ thuật quyền khai thác và hưởng lợi từ
thành quả của mình bằng cách ứng dụng các
cải tiến đó vào sản xuất hoặc chuyển giao
cho bên thứ 3)17. Quy định này không phụ
thuộc vào việc yêu cầu chuyển giao ngược
đó là miễn phí hay có trả phí.
Tuy nhiên, theo quy định của Điều 101
Hiệp ước về hoạt động của Liên minh châu
Âu (TFEU) thì việc ghi nhận điều khoản
chuyển giao ngược được xem xét như việc áp
đặt điều kiện giao kết hợp đồng và nên được
đánh giá cụ thể cho từng vụ việc trên nguyên
tắc cân bằng hợp lý giữa tác động đến môi
trường cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kỹ
thuật, bảo vệ lợi ích của các bên. Bởi lẽ, bắt
buộc chuyển giao trong một số trường hợp
lại là yêu cầu cần thiết để ngăn cản việc tiết
lộ cho các bên thứ ba bí quyết được chuyển
giao18 nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
chủ sở hữu sáng chế. Nói cách khác, theo
quy định của Điều 101 TFEU thì điều khoản
chuyển giao ngược cũng được đánh giá theo
nguyên tắc cân bằng hợp lý. Theo đó, yếu tố
để xem xét điều khoản chuyển giao ngược
có vi phạm hay không cần phải được đánh
giá theo các tiêu chí sau:
(1) Yêu cầu chuyển giao ngược là yêu
cầu chuyển giao độc quyền
Mục đích của chuyển giao độc quyền
là ngăn cản chủ thể thứ ba có khả năng
tiếp cận công nghệ. Thông qua điều đó bên
17 Điều 5(1) quy chế TTBER được đăng tải tại địa chỉ: https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/
TXT/?uri=CELEX%3A52014XC0328%2801%29 truy cập ngày 24/8/2018.
18 Ths. Nguyễn Thanh Tâm, Một số kinh nghiệm về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp nhìn từ gốc độ so sánh qua
pháp luật EU, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 6/2004.
chuyển giao (chủ sở hữu công nghệ gốc) sẽ
kéo dài thời gian độc quyền của mình ngay
cả khi hết thời hạn bảo hộ. Nói cách khác,
nếu cho phép điều khoản chuyển giao ngược
độc quyền sẽ giúp bên chuyển giao có vị thế
độc quyền một cách hợp pháp.
(2) Những cải tiến buộc chuyển giao là
những cải tiến độc lập so với công nghệ gốc.
Tính độc lập thể hiện ở chỗ, phần cải
tiến có thể đưa xem như một sáng kiến công
nghệ mới, có khả năng khai thác sử dụng
không cần dựa vào, gắn liền với công nghệ
gốc. Do đó, trong trường hợp bên chuyển
giao chứng minh được rằng những cải tiến
kỹ thuật đó là những cải tiến không thể tách
rời (tức là những cải tiến đó không có khả
năng sử dụng, khai thác nếu không gắn liền
với công nghệ gốc bằng sự cho phép của bên
chuyển giao) thì yêu cầu chuyển giao ngược
trong trường hợp này lại là hợp lý và được
chấp nhận nhằm ngăn chặn việc tiết lộ bí
quyết kỹ thuật cho bên thứ 3.
(3) Vị trí thị trường của bên yêu cầu
chuyển giao ngược
Bởi lẽ, vị trí thị trường càng mạnh thì
khả năng tác động đến môi trường cạnh tranh
càng lớn. Bên cạnh đó, nếu vị thế thị trường
của bên chuyển giao càng cao thì nó sẽ trở
thành chủ thể cạnh tranh trong hoạt động
nghiên cứu, đổi mới trong tương lai đối với
bên nhận chuyển giao. Nói cách khác, trong
trường hợp này thì công nghệ đó sẽ bị kiểm
soát bởi một số ít các chủ thể với các bằng
bảo hộ độc quyền (phần cải tiến mới trong
trường hợp này sẽ không được cấp văn bằng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 4(380) T2/2019
bảo hộ vì đã được chuyển giao lại cho bên
chuyển giao). Điều này sẽ tác động tiêu cực
đến môi trường cạnh tranh cũng như lợi ích
của khách hàng19.
Không chỉ trong hệ thống pháp luật
Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, mà hệ thống
pháp luật của các quốc gia khác như Canada,
Úc, Pháp, Trung Quốc cũng yêu cầu chuyển
giao ngược trong hợp đồng chuyển giao
quyền SHTT phải được xem xét trong mối
tương quan giữa quyền hợp pháp của chủ sở
hữu với tác động tiêu cực đến môi trường
cạnh tranh20.
Tại Trung Quốc, theo hướng dẫn
của Ủy ban Cải cách và phát triển quốc
gia (NDRC- the National Development and
Reform Commission), ngay cả khi người
cấp phép không có vị trí thống lĩnh thị
trường, các điều khoản cấp lại độc quyền
được ký kết giữa các nhà khai thác không
có mối quan hệ cạnh tranh vẫn có thể nêu
lên mối lo ngại về việc loại bỏ hoặc hạn chế
cạnh tranh phù hợp với Điều 14 của Luật
Chống độc quyền của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa (the Anti-monopoly Law of
the People's Republic of China - AML)21.
Lập luận này được khẳng định trong
trường hợp của Qualcomm - một công ty có
vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực công nghệ
truyền thông không dây, NDRC nhấn mạnh
rằng điều khoản chuyển giao ngược trong
hợp đồng chuyển giao công nghệ dù không
19 Official Journal of the European Union (2014), Guidelines on the application of Article 101 of the Treaty on the
Functioning of the European Union to technology transfer agreements, p. 33.
20 OECD (2004), Policy roundtables Intellectual Property Rights, p. 186.
21 Susan Ning, Ting Gong & Yuanshan Li1, Risks of Grant-back Provisions in Licensing Agreements: A Warning to
Patent-heavy Companies,CPI Antitrust Chronicle -February 2016.
22 Bằng sáng chế thiết yếu hoặc bằng sáng chế thiết yếu tiêu chuẩn (standard-essential patents - SEPs) là bằng sáng chế
yêu cầu sáng chế phải được sử dụng để tuân thủ một tiêu chuẩn kỹ thuật.
23 Thông tin được đăng tải tại địa chỉ website: https://www.chinalawinsight.com/2015/03/articles/corporate/antitrust-com-
petition/ndrcs-qualcomm-decision%EF%BC%9Aa-warning-to-patent-heavy-companies/ truy cập ngày 27/7/2018.
mặc nhiên vi phạm theo nguyên tắc Per se.
Tuy nhiên, yêu cầu này của Qualcomm lại vi
phạm pháp luật bởi 2 lý do:
(1) Phần yêu cầu chuyển giao ngược
không phải là một phần bắt buộc trong
bằng sáng chế kỹ thuật tiêu chuẩn của
Qualcomm22. Hay nói cách khác, những
phần cải tiến này độc lập, không phải không
thể tách rời với công nghệ đã chuyển giao.
(2) Hoạt động chuyển giao ngược lại
phải được thực hiện miễn phí
Mặc dù phía Qualcomm lập luận rằng
các yêu cầu cấp lại được thiết kế để bảo vệ
lợi ích kinh doanh của mình và bảo vệ khách
hàng của mình khỏi các hành vi vi phạm
bằng sáng chế. Tuy nhiên, NDRC đã từ chối
lập luận đó đồng thời khẳng định đó không
phải là cái cớ để Qualcomm từ chối giá trị
của những thành tựu sáng tạo mà bên nhận
cấp phép đã tạo ra cũng như vai trò, giá trị
của phần cải tiến đối với các phát minh, sáng
chế gốc.
Bên cạnh đó, NDRC cho rằng yêu cầu
chuyển giao ngược miễn phí các cải tiến kỹ
thuật cũng như các ứng dụng liên quan đến
sáng chế sẽ hạn chế động lực cho sự đổi
mới công nghệ, cản trở việc đổi mới và phát
triển công nghệ giao tiếp không dây, cũng
như loại bỏ hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị
trường công nghệ truyền thông không dây.
Do đó, yêu cầu này của Qualcomm đã vi
phạm Điều 17 (1) của AML23.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 4(380) T2/2019
3. Một số kiến nghị liên quan trong pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
với mục đích bảo hộ cho chủ sở hữu quyền
SHTT nên Luật SHTT 2005 xem việc chuyển
giao ngược là điều tất yếu nhằm đảm bảo
quyền lợi của chủ sở hữu phát minh, sáng
chế gốc. Việc yêu cầu chuyển giao ngược có
thể được thực hiện với phạm vi rộng hoặc
hẹp tùy vào mục đích và ý chí của các bên24.
Do đó, việc ghi nhận điều khoản chuyển
giao ngược trong hợp đồng chuyển giao
quyền sử dụng quyền SHTT là quyền đương
nhiên của bên chuyển giao nhằm đảm bảo
độc quyền khai thác cho chủ sở hữu sáng
chế cũng như tính đồng bộ của công nghệ,
trừ trường hợp yêu cầu chuyển giao đó phải
được thực hiện miễn phí hoặc là căn cứ để
ngăn cản bên nhận chuyển giao đăng ký bảo
hộ đối với các cải tiến đã được mình thực
hiện trong thời hạn chuyển giao:
Theo quy định của khoản 2 Điều
144 Luật SHTT, "...buộc bên được chuyển
quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên
chuyển quyền các cải tiến đối tượng sở hữu
công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo
ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp,
quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải
tiến đó”, thì yêu cầu chuyển giao ngược sẽ
được xem là hợp pháp nếu đó là chuyển
giao có trả phí bất chấp hậu quả hạn chế
cạnh tranh của nó. Trong khi đó, việc tồn
24 Phạm vi rộng là việc yêu cầu bên nhận chuyển giao phải chuyển giao lại tất cả các cải tiến có liên quan đến phát minh,
sáng chế ban đầu. Phạm vi hẹp là chỉ phải chuyển giao những phát minh, cải tiến liên quan trực tiếp đến phát minh, sáng
chế gốc.
25 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tháng vào 6/2018 chưa có hiệu lực, chưa được hướng
dẫn chi tiết thi hành.
26 Điểm d khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018.
tại điều khoản này, đặc biệt là trong trường
hợp yêu cầu chuyển giao là yêu cầu độc
quyền, sẽ trở thành tiền đề giúp bên chuyển
giao gia tăng lợi thế cạnh tranh của mình và
cũng như có được quyền lực thị trường một
cách bất hợp lý. Điều đó sẽ tác động tiêu
cực đến môi trường cạnh tranh, thậm chí gây
hạn chế cạnh tranh. Bởi lẽ, tất cả các công
sức, quyền lợi có được từ việc cải tiến công
nghệ của tất cả các bên nhận chuyển giao sẽ
đương nhiên thuộc về bên sở hữu sáng chế
ban đầu (bên chuyển giao) không chỉ trong
khoảng thời gian văn bằng bảo hộ của sáng
chế ban đầu có hiệu lực mà còn kéo dài suốt
thời gian sau đó.
Luật Cạnh tranh 2004 cũng như Luật
Cạnh tranh 201825 không đề cập trực tiếp
đến yêu cầu chuyển giao ngược trong hợp
đồng chuyển giao quyền SHTT. Tuy vậy,
xét về bản chất thì điều khoản chuyển giao
ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền
SHTTcó thể xem như là hành vi áp đặt điều
kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết
hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc
yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng
chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng26. Và sẽ
bị cấm nếu bên chuyển giao có sức mạnh
thị trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30%
trở lên trên thị trường liên quan. Trong khi
đó, Điều 26 Luật Cạnh tranh 2018 cũng đã
xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng đối
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 4(380) T2/2019
tượng quyền SHTT là một trong những yếu
tố để xác định sức mạnh thị trường. Bởi lẽ,
bí mật về công nghệ, sáng chế là một trong
những yếu tố quan trọng để giúp chủ sở hữu
có được lợi thế cạnh tranh trong quá trình
sản xuất, và cũng sẽ là yếu tố quan trọng
giúp chủ thể có được sức mạnh thị trường,
thậm chí là độc quyền trong lĩnh vực sản
xuất mà họ đang nắm giữ bí quyết kỹ thuật
công nghệ.
Với cách tiếp cận nêu trên, có thể thấy,
theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018,
yêu cầu chuyển giao ngược trong hợp đồng
chuyển giao quyền SHTT sẽ bị xem là hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
có được từ việc sở hữu quyền SHTT và mặc
nhiên bị cấm theo quy định của Luật Cạnh
tranh. Trong khi đó, như đã trình bày ở trên,
yêu cầu chuyển giao ngược sẽ là hợp lý nếu
mục đích của nó là nhằm đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của chủ sở hữu quyền SHTT hoặc
nhằm cải tiến kỹ thuật và nâng cao giá trị sử
dụng của phát minh, sáng chế, thúc đẩy hoạt
động sáng tạo. Nói cách khác, với trường
hợp này thì điều khoản chuyển giao ngược
phải được thừa nhận và khuyến khích.
Do vậy, trong mối tương quan với
Luật SHTT, pháp luật cần phải thừa nhận
yêu cầu chuyển giao ngược nếu điều đó là
cần thiết để bảo đảm tính đồng bộ, bí mật
của công nghệ được chuyển giao, và nó chỉ
bị ngăn cấm nếu thỏa mãn điều kiện:
(1) Yêu cầu chuyển giao đó phải được
thực hiện mặc nhiên, miễn phí;
(2) Hoặc (và) yêu cầu đó tác động
hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể.
Trong khi đó, Luật Cạnh tranh 2018
mới được ban hành, vẫn chưa phát sinh
hiệu lực, các văn bản hướng dẫn thi hành
vẫn chưa được ban hành. Cho nên các tiêu
chí là căn cứ để đánh giá tính hạn chế cạnh
tranh của các thỏa thuận, hành vi của các các
chủ thể trong hoạt động chuyển giao quyền
SHTT nói chung cũng như yêu cầu chuyển
giao ngược nói riêng trong trường hợp nêu
trên chưa được quy định và làm rõ.
Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo hiệu
quả thực thi của Luật Cạnh tranh trong mối
tương quan, hòa hợp với Luật SHTT thì các
văn bản hướng dẫn trong thời gian tới, khi
quy định về các tiêu chí nhằm xác định tác
động hạn chế cạnh tranh của yêu cầu chuyển
giao ngược nên được quy định tương tự như
cách tiếp cận của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
và Châu Âu, bao gồm:
(1) Yêu cầu chuyển giao tất cả các cải
tiến kể cả cải tiến độc lập với sáng chế ban
đầu;
(2) Yêu cầu chuyển giao ngược đã
ngăn cản bên nhận chuyển giao quyền sử
dụng, hưởng lợi từ các cải tiến của mình
(trực tiếp sử dụng hoặc chuyển giao cho
người thứ 3);
(3) Yêu cầu chuyển giao ngược đã
ngăn cản bên chuyển giao quyền đăng ký sở
hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp
đối với các cải tiến đó;
(4) Trong trường hợp chuyển giao
ngược có trả phí thì không có sự tương xứng
giữa phí chuyển giao gốc với phí chuyển
giao phần cải tiến cũng như phí chuyển giao
sáng chế gốc kèm với phần cải tiến của bên
chuyển giao cho bên thứ 3■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 4(380) T2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_chinh_cua_phap_luat_canh_tranh_doi_voi_dieu_khoan_chuye.pdf