Mức gây hại của tuyến trùng trên rễ
Chỉ số hại của tuyến trùng trên rễ dao động từ 0 đến 7,016, với mức gây hại phổ
biến từ 1,754 đến mức 5,262 (Hình 3).
Theo Zeck (1971); Bridge và Page (1980) thì chỉ số hại này đã có sự xuất hiện nốt
sưng ở hầu hết các rễ phụ và rễ cấp 2 và một phần đã gây tổn thương lên rễ chính của cây.
Ngưỡng gây hại này có thể làm tổn thương đến trên 50% hệ rễ của khoai tây.
4. KẾT LUẬN
Từ kết quả trên, rút ra các kết luận sau:
• Đã xác định được sáu giống tuyến trùng thuộc năm họ và một bộ tuyến trùng
ký sinh gây hại trên thực vật bao gồm Helicotylenchus, Meloidogyne,
Pratylenchus, Globodera, Criconemella, và Ditylenchus;TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
101
• Mật số tuyến trùng trong đất phổ biến từ 500 đến 2,000 cá thể trong 50cm3
đất và 200 đến 2,204 cá thể trong 5 gam rễ và chỉ số hại phổ biến trên rễ khoai
tây trồng tại Đà Lạt là từ mức 1,754 đến mức 5,262. Đây là ngưỡng gây hại
có thể gây nốt sưng và tổn thương đến hơn 50% hệ rễ của khoai tây.
Với kết quả nghiên cứu trên, người nông dân cần có biện pháp canh tác cây trồng
phù hợp để giảm thiểu tác hại của tuyến trùng gây hại trên khoai tây cụ thể không nên
trồng khoai tây trong nhiều vụ liên tiếp, không luân canh cây cùng họ cà và không luân
canh khoai tây với cà rốt
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều tra thành phần tuyến trùng hại khoai tây (solanum tuberosum) tại Đà Lạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 9, Số 2, 2019 94–103
94
ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN TUYẾN TRÙNG HẠI KHOAI TÂY
(Solanum tuberosum) TẠI ĐÀ LẠT
Lê Thị Ngọca, Trần Trung Kiêna, Nguyễn Ngọc Kiều Oanha,
Hoàng Thị Thu Thảoa, Lê Bá Lêa, Hồ Thị Thu Hòaa, Trần Thị Minh Loana*
aKhoa Nông Lâm, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ: Email: loanttm@dlu.edu.vn
Lịch sử bài báo
Nhận ngày 15 tháng 06 năm 2017 | Chỉnh sửa ngày 09 tháng 11 năm 2017
Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017
Tóm tắt
Điều tra xác định thành phần tuyến trùng ký sinh thực vật bằng mô tả hình thái tuyến trùng
tuổi hai và tuyến trùng trưởng thành. Xác định mật số tuyến trùng trong đất và trong rễ khoai
tây bằng phương pháp Baermann cải biên, mức độ gây hại của tuyến trùng bằng phương
pháp của Bridge và Page (1980). Qua quá trình điều tra đã xác định được sáu giống thuộc
năm họ và một bộ tuyến trùng thực vật ký sinh gây hại trên khoai tây. Trong đó giống
Helicotylenchus có tần suất xuất hiện cao nhất với 93.33%, Meloidogyne có tần suất xuất
hiện 83.33%, Pratylenchus có tần suất xuất hiện 50%, và Criconemella có tần suất xuất hiện
33.33%, Ditylenchus có tần suất xuất hiện 30%, Globodera có tần suất xuất hiện 20% trong
tổng số 30 vườn được điều tra. Mật số tuyến trùng ký sinh gây hại trong đất phổ biến ở
khoảng từ 500 cá thể đến 3,000 cá thể trong 50cm3 đất, trong rễ từ 200 đến 2,204 cá thể và
mức độ gây hại là 1,754 đến mức 5,262.
Từ khóa: Globodera; Helicotylenchus; Khoai tây; Meloidogyne; Pratylenchus; Tuyến trùng
ký sinh thực vật.
DOI:
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt
Bản quyền © 2019 (Các) Tác giả.
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
95
SURVEY OF PLANT PARASITIC NEMATODES ON POTATOES
IN DALAT
Le Thi Ngoca, Tran Trung Kiena, Nguyen Ngoc Kieu Oanha,
Hoang Thi Thu Thaoa, Le Ba Lea, Ho Thi Thu Hoaa, Tran Thi Minh Loana*
aThe Faculty of Agriculture Forestry, Dalat University, Lamdong, Vietnam
*Corresponding author: Email: loanttm@dlu.edu.vn
Article history
Received: June 15th, 2017 | Received in revised form: November 9th, 2017
Accepted: November 15th, 2017
Abstract
Plant-parasitic nematodes on potato were identified by morphology of juveniles and adults.
Extraction of vermiform nematodes in soil and roots was made by modified Baermann
technique and root gall index was dertermined following Bridge and Page (1980) chart.
Results show that there were six genus, five families and one order of parasitic-plant
nematodes in soil. The ratio of Helicotylenchus was the highest (93.33%), followed by
Meloidogyne (83.33%), Pratylenchus (50%), Criconemella (33.33%), Ditylenchus (30%),
and Globodera at only 20%. Density of plant parasitic nematodes ranged from 500
individuals to 3,000 individuals per 50 cm3 of soil, 200 to 2,204 individuals per 5 grams of
roots. Root gall index ranged from 1,754 to 5,262.
Keywords: Globodera; Helicotylenchus; Meloidogyne; Plant parasitic nematodes; Potato;
Pratylenchus.
DOI:
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article
Copyright © 2019 The author(s).
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0
Lê Thị Ngọc, Trần Trung Kiên, Nguyễn Ngọc Kiều Oanh, và ctg.
96
1. MỞ ĐẦU
Khoai tây là cây lương thực có nhu cầu và mức tiêu thụ cao trên thế giới, được
xếp hạng thứ tư sau lúa nước, lúa mì, và ngô (Minor & Bond, 2016). Theo số liệu của Tổ
chức Nông lương Liên hiệp quốc năm 2014, diện tích khoai tây trên thế giới là 19,098,328
ha với tổng sản lượng 381 triệu tấn (FAOSTAT, 2017). Năm 2014, Việt Nam có tổng
diện tích trồng khoai tây khoảng 22,823 ha. Tuy nhiên diện tích trồng khoai tây tập trung
chủ yếu ở một số tỉnh thành phía bắc và Lâm Đồng. Tại Lâm Đồng, diện tích trồng khoai
tây vào khoảng 1,715 ha, trong đó diện tích tập trung chủ yếu ở Đà Lạt với diện tích 913.9
ha chiếm 53% diện tích canh tác toàn tỉnh (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh
Lâm Đồng, 2016).
Khoai tây là cây trồng rất mẫn cảm với các loại dịch bệnh, côn trùng, và tuyến
trùng gây hại, trong đó tuyến trùng là nhóm dịch hại quan trọng (Mugniéry & Phillips,
2007). Tuyến trùng là nhóm ký sinh quan trọng, làm tổn thương trực tiếp với cây trồng
và có tác dụng gián tiếp đến việc lây nhiễm của các loại nấm, vi khuẩn, và véc tơ truyền
virus. Ngoài ra, các nhóm tuyến trùng tự do trong đất có vai trò quan trọng có liên quan
đến chu trình dinh dưỡng và bền vững sinh thái trong đất (Palomares, Oliveria, & Blok,
2014). Hàng năm, tuyến trùng ký sinh thực vật có thể giảm thiệt hại về năng suất lên đến
100 tỷ đô la ở nước Mỹ và khoảng 125 tỷ đô la trên toàn thế giới (Chitwood, 2003).
Vì khoai tây là cây trồng có vai trò quan trọng trong nông nghiệp, nên đã có nhiều
nghiên cứu và công bố về các nhóm tuyến trùng ký sinh quan trọng trên đối tượng này
(Alphey, Woodford, & Gordon, 1986; Cadima & ctg., 2014; Kimpinski, 1987; Minor &
Bond, 2016). Tuy nhiên, việc điều tra xác định thành phần gây hại và các biện pháp phòng
trừ chủ yếu tập trung trên các nhóm tuyến trùng ký sinh quan trọng như tuyến trùng bào
nang (Gray, Curtis, & Jones, 2001), tuyến trùng nốt sưng (Wesemael, Taning, Viaene, &
Moens, 2014), tuyến trùng thối rễ (Kimpinski, 1987), tuyến trùng gây bối rễ, còi cọc và
ít khả năng tạo củ (Wale, Platt, & Cattlin, 2008). Các nhóm tuyến trùng ký sinh còn lại
cũng được xếp vào nhóm tuyến trùng ký sinh gây hại quan trọng như Ditylenchcus sp.,
Scutellonema sp., và Nacobbus (Bridge & Starr, 2007; Luc, Shikora, & Bridge, 2005; &
Palomares & ctg., 2014).
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về tuyến trùng chưa nhiều, chủ yếu điều tra xác
định thành phần loài tuyến trùng trên một số cây trồng như cà rốt (Nguyễn, Lê, Nguyễn,
& Trịnh, 2016), lạc (Nguyễn, Lê, & Nguyễn, 1994), gừng (Trần, 2012), cây dược liệu
(Nguyễn, Nguyễn, Lê, & Trịnh, 2015), và cây cà phê (Trần & Nguyễn, 2011). Hiện nay,
chưa có tài liệu công bố độc lập về thành phần tuyến trùng ký sinh trên khoai tây ở Lâm
Đồng. Chỉ có một số nghiên cứu về thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên một số cây
rau ở miền nam Việt Nam và Đà Lạt, trong đó có điều tra về thành phần tuyến trùng ký
sinh trên khoai tây (Bin, 1990; Khuong, 1983).
Khoai tây là một trong những cây trồng quan trọng ở Lâm Đồng và tuyến trùng
cũng là một trong những đối tượng dịch hại phổ biến và gây thiệt hại về năng suất và chất
lượng cho khoai tây. Vì thế nghiên cứu thành phần tuyến trùng ký sinh thực vật gây hại
trên khoai tây có vai trò quan trọng trong việc xác định biện pháp phòng trừ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
97
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu là đất trồng khoai tây và rễ khoai tây được thu thập từ 30 vườn
trồng khoai tây ở các phường 7, 8, xã Xuân Thọ, Xuân Trường, và Trạm Hành thuộc
thành phố Đà Lạt.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Mẫu đất và rễ được tiến hành lấy từ các điểm riêng biệt, theo phương pháp đánh
dấu bản đồ, theo qui tắc hình zích zắc (Bezooijen, 2006). Mẫu đất được lấy từ vùng rễ ở
độ sâu khoảng 5 đến 10cm, đảm bảo đủ khối lượng mỗi mẫu đất khoảng 500g và mẫu rễ
khoảng 5g (Ravichandra, 2010).
Mức độ gây hại của tuyến trùng nốt sưng được xác định theo phương pháp của
Bridge và Page (1980); Zeck (1971). Mức độ nhiễm tuyến trùng nốt sưng được tác giả
xếp hạng từ 0 đến 10. Cách mô tả mức độ gây hại như sau: Mức 0 là không có nốt sưng;
Mức 1 là có một vài nốt sưng nhỏ rất khó tìm thấy; Mức 2 là những nốt nhỏ có thể nhìn
thấy dễ dàng, rễ chính không có nốt sưng; Mức 3 có một vài nốt sưng lớn, rễ chính không
có nốt sưng; Mức 4 có nốt sưng lớn nhưng rễ chính không có nốt sưng; Mức 5 có khoảng
50% rễ bị xâm nhiễm, một phần của rễ chính có nốt sưng, giảm rễ tơ; Mức 6 là nhìn thấy
các nốt sưng trên rễ chính; Mức 7 là phần lớn các rễ bị u sưng; Mức 8 là tất cả các rễ
chính đều bị u sưng; Mức 9 là u sưng nghiêm trọng rễ chính; và Mức 10 là tất cả các rễ
đều bị sưng nghiêm trọng, cây thường chết.
Tách chiết và xác định mật số tuyến trùng ký sinh trong đất bằng phương pháp
Baermann cải biên (Hooper, Hallmann, & Subbotin, 2005; Staniland, 1954): Đất lấy về
phòng thí nghiệm, được rây qua rây có kích thước 2mm rồi trộn đều trên giấy báo và đong
đủ 50cm3 trên cốc đong có thể tích 50cm3. Sau đó đặt đất lên rây có lót giấy lọc sữa ở
trên và được đặt trên các đĩa có đường kính 18cm, dàn đều đất trên giấy lọc. Đổ nước từ
từ cho đất vừa ngấm nước, tránh đổ trực tiếp lên đất. Để yên trong vòng 48 giờ, tiến hành
tách chiết và đếm tuyến trùng trong đất trên kính lúp có độ phóng đại 40 lần.
Tách chiết và xác định mật số tuyến trùng trong rễ bằng phương pháp Baemann
cải biên (Hooper, Hallmann, & Subbotin, 2005; Staniland, 1954). Rễ sau khi lấy về được
rửa qua nước, để ráo, cân đủ 5g rễ trên cân kỹ thuật có độ chính xác 0.001g. Sau đó cắt
rễ ra thành từng đoạn nhỏ khoảng 1 đến 2cm, cho lên rây có lót giấy lọc sữa và đặt trên
đĩa. Cho nước thấm đều rễ. Thu tuyến trùng sau 48 giờ ủ.
Làm tiêu bản và bảo quản mẫu: Sử dụng vật dụng chuyên dụng để bắt tuyến trùng
và làm tiêu bản cố định để bảo quản mẫu trong hỗn hợp Formalin + Glycerine (Bezooijen,
2006) Tiêu bản được quan sát dưới kính hiển vi có độ phóng đại lần lượt là 4X, 10X,
40X, và 100X. Phân loại tuyến trùng bằng phương pháp mô tả hình thái tuyến trùng tuổi
2 (J2) hoặc tuyến trùng trưởng thành.
Lê Thị Ngọc, Trần Trung Kiên, Nguyễn Ngọc Kiều Oanh, và ctg.
98
2.3. Xử lý số liệu
Số liệu được tổng hợp và thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel 2010 và xử
lý thống kê ANOVA bằng phần mềm MSTATC.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần tuyến trùng ký sinh thực vật trên khoai tây
Kết quả điều tra thành phần tuyến trùng của 30 vườn trồng trên cây khoai tây trồng
tại thành phố Đà Lạt được thể hiện qua Bảng 1.
Bảng 1. Thành phần tuyến trùng ký sinh thực vật trên khoai tây
STT Phân loại các giống tuyến trùng ký sinh Tần suất (%)
Bộ Tylenchida Thorne, 1949
Họ Hoplolaimidae Filipjev, 1934
1 Globodera Skarbilovich, 1959 20.00
2 Helicotylenchus Steiner, 1945 93.33
Họ Meloidogynidae Skarbilovich, 1959
3 Meloidogyne Göldi, 1887 83.33
Họ Pratylenchidae Thorne, 1949
4 Pratylenchus Filipjev, 1936 50.00
Họ Criconematidae Taylor, 1936
5 Criconemella1 Hofmänner & Menzel, 1914 33.33
Họ Anguinidae Nicoll, 1935 (1926)
6 Ditylenchus (Filipjev, 1936) 30.00
Chi chú: 1Criconemoides.
Kết quả điều tra xác định được sáu giống tuyến trùng ký sinh thực vật thuộc năm
họ và một bộ gây hại trên khoai tây. Trong đó với tần suất xuất hiện nhiều nhất là giống
Helicotylenchus với tần suất xuất hiện 93.33%, tiếp theo là Meloidogyne (83.33%),
Pratylenchus (50%). Giống Globodera với tần suất xuất hiện thấp nhất, chỉ chiếm 20%
tổng số mẫu điều tra.
Xét về mức độ gây hại thì nhóm tuyến trùng nội ký sinh cố định gây sần rễ và
tuyến trùng bào nang có mức độ gây hại và gây tổn thất về năng suất cũng như chất lượng
của khoai tây nhiều nhất. Tuyến trùng bào nang được xếp vào nhóm có dịch hại chính
trên khoai tây (Ravichandra, 2014). Về giống tuyến trùng Globodera đã tìm thấy ba loài
gây hại trên khoai tây là G. rostochiensis, G. pallida, và G. ellingtonae (Palomares & ctg.,
2014; Ravichandra, 2014; & Perry, Moens, & Jones, 2018) Tuyến trùng bào nang xâm
nhiễm vào rễ, gây ra các tổn thương rễ và tạo tiền đề các các loại nấm gây thối rễ, gây
héo phát triển (Palomares, & ctg., 2014). Còn giống tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne là
nhóm tuyến trùng quan trọng nhất, có phổ ký chủ rộng, gây thiệt hại về kinh tế cho các
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
99
loại cây rồng, đặc biệt là cây trồng ở vùng có khí hậu ấm (Palomares & ctg., 2014). Đã
có gần 100 loài công bố về giống tuyến trùng nốt sưng gây hại trên các cây trồng khác
nhau trên thế giới (Karssen, Wesemael, & Moens, 2013), tuy nhiên chỉ có sáu loài tuyến
trùng nốt sưng gây hại trên khoai tây bao gồm M. incognita, M. Javanica, M. hapla,
M.chitwoodi và M. fallax (Palomares & ctg., 2014). Trong đó loài M. incognita và M.
javanica gây hại trên khoai tây ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, đã
tìm thấy loài M. arenaria trên khoai tây (Nguyễn & Nguyễn, 2000).
Tuyến trùng nội ký sinh di chuyển Pratylenchus là nhóm tuyến trùng ký sinh quan
trọng trên các loại cây trồng khác nhau và cũng là loại gây hại phổ biến trên khoai tây.
Đã ghi nhận có chín loài tuyến trùng thối rễ gây hại trên khoai tây bao gồm P. brachyurus,
P. coffea, P. crenatus, P. neglectus, P. thornei, P. scribneri, P. penetrans, P. flakkensis,
và P. vulnus. Ở những vùng nhiệt đới P. brachyurus và P. coffeae là hai loài gây hại phổ
biến trên khoai tây (Palomares & ctg., 2014). Ditylenchus là nhóm tuyến trùng hại rễ, hầu
hết vòng đời của chúng là xâm nhập vào bên trong rễ và củ (Bridge & Starr, 2007). Khi
xâm nhập vào rễ nhóm tuyến trùng này thường gây thối rễ (Ravichandra, 2014). Ở Việt
Nam đã xác nhận được loài D. ausaffi trong đất và rễ khoai tây (Nguyễn & Nguyễn, 2000)
Hai nhóm tuyến trùng ngoại ký sinh di chuyển là Helicotylenchus và Criconemella
phổ biến rộng khắp trên thế giới và có phổ ký chủ rộng (Ravichandra, 2014). Tuy hai
giống tuyến trùng này có tần suất bắt gặp cao nhưng mức độ gây thiệt hại về mặt năng
suất và kinh tế không nhiều. Ở Việt Nam, phát hiện 30 loài thuộc giống Helicotylenchus
ký sinh trên các loại cây trồng khác nhau, trong đó có năm loài bao gồm H. cornurus, H.
crassatus, H. digonicus, H. exallus, và H. vulgaris xung quanh vùng rễ khoai tây ở Việt
Nam (Nguyễn & Nguyễn, 2000). Còn giống Criconemella chưa phát hiện loài nào xung
quanh vùng rễ khoai tây.
3.2. Mật số tuyến trùng trong đất
Kết quả điều tra mật số tuyến trùng trên đất được thể hiện qua Hình 1.
Hình 1. Số lượng tuyến trùng trong 50cm3 đất
Mật số tuyến trùng ký sinh thực vật trong đất dao động từ 245 cá thể đến trên
3,331 cá thể trong 50cm3 đất. Trong đó, mật số tuyến trùng phổ biến vào khoảng từ 1,000
đến 2,000 cá thể trong 50cm3 đất. Với số lượng tuyến trùng ở mức này có thể gây hại đến
nặng đến 50% hệ rễ của cây. Theo Perry, Moens, và Starr (2009) thì với ngưỡng tuyến
trùng nốt sưng chỉ khoảng hai cá thể trên 1 gram đất thì đã gây hại đối với cây trồng.
Lê Thị Ngọc, Trần Trung Kiên, Nguyễn Ngọc Kiều Oanh, và ctg.
100
3.3. Mật số tuyến trùng trong rễ
Kết quả điều tra mật số tuyến trùng trong 5g rễ được thể hiện qua Hình 2.
Hình 2. Mật số tuyến trùng trong 5g rễ
Mật số tuyến trùng trong 5g rễ dao động từ 80 đến 4,328 cá thể. Trong đó mật số
tuyến trùng phổ biến ở mức từ 200 đến 2,204 cá thể có tần suất xuất hiện cao nhất. Với
mật số này thì rễ khoai tây bị tuyến trùng gây hại khá lớn và thể hiện những triệu chứng
điển hình trên rễ của khoai tây như có nhiều vết thương, nốt sưng xuất hiện trên rễ chính
và rễ phụ.
3.4. Mức gây hại của tuyến trùng trên rễ
Chỉ số hại của tuyến trùng trên rễ dao động từ 0 đến 7,016, với mức gây hại phổ
biến từ 1,754 đến mức 5,262 (Hình 3).
Hình 3. Mức gây hại của tuyến trùng
Theo Zeck (1971); Bridge và Page (1980) thì chỉ số hại này đã có sự xuất hiện nốt
sưng ở hầu hết các rễ phụ và rễ cấp 2 và một phần đã gây tổn thương lên rễ chính của cây.
Ngưỡng gây hại này có thể làm tổn thương đến trên 50% hệ rễ của khoai tây.
4. KẾT LUẬN
Từ kết quả trên, rút ra các kết luận sau:
• Đã xác định được sáu giống tuyến trùng thuộc năm họ và một bộ tuyến trùng
ký sinh gây hại trên thực vật bao gồm Helicotylenchus, Meloidogyne,
Pratylenchus, Globodera, Criconemella, và Ditylenchus;
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
101
• Mật số tuyến trùng trong đất phổ biến từ 500 đến 2,000 cá thể trong 50cm3
đất và 200 đến 2,204 cá thể trong 5 gam rễ và chỉ số hại phổ biến trên rễ khoai
tây trồng tại Đà Lạt là từ mức 1,754 đến mức 5,262. Đây là ngưỡng gây hại
có thể gây nốt sưng và tổn thương đến hơn 50% hệ rễ của khoai tây.
Với kết quả nghiên cứu trên, người nông dân cần có biện pháp canh tác cây trồng
phù hợp để giảm thiểu tác hại của tuyến trùng gây hại trên khoai tây cụ thể không nên
trồng khoai tây trong nhiều vụ liên tiếp, không luân canh cây cùng họ cà và không luân
canh khoai tây với cà rốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alphey, T. J. W., Woodford, J. A. T., & Gordon, S. C. (1986). Field and laboratory studies
on the control of nematode and aphid virus vectors in potatoes by pesticides
applied as side-bands. Crop Protection, 5(2), 114-121.
Bezooijen, J. V. (2006). Methods and techniques for nematology. Retrieved from http://
www.nematologia.com.br/files/tematicos/5.pdf.
Bin, F. T. (1990). Gall nematodes of vegetables and potatoes in Dalat (Tei Nguen Plateau,
Vietnam) and description of Meloidogyne cynariensis, a parasite of artichokes.
Zoologicheskii Zhurnal, 69(4), 128-131.
Bridge, J., & Page, L. J. (1980). Estimation of root-knot nematode infestation levels on
roots using a rating chart. Tropical Pest Management, 26(3), 296-298.
Bridge, J., & Starr, J. L. (2007). Plant nematodes of agricultural importance. Barcelona,
Spain: Manson Publishing.
Cadima, X., Zonneveld, M. V., Scheldeman, X., Castañeda, N., Patiño, F., Beltran, M.,
& Damme, P. V. (2014). Endemic wild potato (Solanum spp.) biodiversity status
in Bolivia: Reasons for conservation concerns. Journal for Nature Conservation,
22(2), 113-131.
Chitwood, D. J. (2003). Research on plant-parasitic nematode biology conducted by the
United States department of Agriculture - Agricultural Research Service. Pest
Management Science, 59, 748-753.
FAOSTAT. (2017). Crop. Retrieved from
Gray, L. J., Curtis, R. H., & Jones, J. T. (2001). Characterisation of a collagen gene
subfamily from the potato cyst nematode Globodera pallida. Gene, 263(1-2), 67-
75.
Hooper, D. J., Hallmann, J., & Subbotin, S. A. (2005). Methods for extraction, processing
and detection of plant and soil nematodes. In M. Luc, R. A. Sikora, & J. Bridge
(Eds.), Plant parasitic nematodes in subtropical and tropical agriculture.
Wallingford, UK: CAB International.
Karssen, G., Wesemael, W., & Moens, M. (2013). Root-knot nematodes. In M. M. Perry
(Eds.), Plant nematology. London, UK: CABI Publishing.
Lê Thị Ngọc, Trần Trung Kiên, Nguyễn Ngọc Kiều Oanh, và ctg.
102
Khuong, N. B. (1983). Plant parasitic nematodes of south Vietnam. Journal of
Nematology, 15(2), 319- 323.
Kimpinski, J. (1987). Nematodes associated with potato in priince edward island and new
brunswick. Annual of Applied Nematology, 1, 17-19.
Luc, M., Shikora, R. A., & Bridge, J. (2005). Plant parasitic nematodes in subtropical
and tropical agriculture (2nd ed.). London, UK: CABI Publishing.
Minor, T., & Bond, J. K. (2016). Potatoes survey. Retrieved from https://www.
ers.usda.gov/topics/crops/vegetables-pulses/potatoes.aspx.
Mugniéry, D., & Phillips, M. S. (2007). The nematode parasites of potato. In D.
Vreugdenhil, J. Bradshaw, C. Gebhardt, F. Govers, D. K. L. Mackerron, M. A.
Taylor, & H. A. Ross (Eds.), Potato biology and biotechnology (pp. 569-594).
Amsterdam, Nederland: Elsevier Science.
Nguyễn, H. T., Nguyễn, T. D., Lê, T. M. L., & Trịnh, Q. P. (2015). Bước đầu khảo sát
tuyến trùng ký sinh thực vật trên một số cây dược liệu tại Đông Triều, Quảng
Ninh. Bài báo được trình bày tại Hội nghị Khoa học Toàn quốc về Sinh thái và
Tài nguyên Sinh vật, Việt Nam.
Nguyễn, N. C., & Nguyễn, V. T. (2000). Động vật chí Việt Nam (Tập 4). Hà Nội, Việt
Nam: NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Nguyễn, T. D., Lê, T. M. L., Nguyễn, H. T., & Trịnh, Q. P. (2016). Bước đầu điều tra
thành phần loài tuyến trùng ký sinh gây hại trên cà rốt ở Hải Dương. Tạp chí Sinh
học, 38(1), 6-13.
Nguyễn, V. V., Lê, V. T., & Nguyễn, X. H. (1994). Thành phần tuyến trùng hại lạc ở
miền Bắc Việt Nam. Tạp chí Bảo vệ Thực vật, (3), 1-4.
Palomares, R. J. E., Oliveria, C. M. G., & Blok, V. C. (2014). Plant parasitic nematodes
of potato. In R. Navarre & M. J. Pavek (Eds.), The potato botany, production, and
uses (pp. 149-161). London, UK: CABI Publishing.
Perry, R. N., Moens, M., & Jones, J. T. (2018). Cyst nematodes. London, UK: CABI
Publishing.
Perry, R. N., Moens, M., & Starr, J. L. (2009). Root knot nematodes. London, UK: CABI
Publishing.
Ravichandra, N. G. (2010). Methods and techniques in plant nematology. New Delhi,
India: PHI learning Private Limited.
Ravichandra, N. G. (2014). Horticultural nematology. Berlin, Germany: Springer
Publishing.
Rodríguez, K. R., & Pope, M. H. (1981). A simple incubation method for exaction of
nematodes from soil. Nematropica, 11(2), 175-185.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng. ( 2016). Biểu tổng hợp trồng
trọt tỉnh Lâm Đồng. Lâm Đồng, Việt Nam: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn tỉnh Lâm Đồng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN CÔNG NGHỆ]
103
Staniland, L. N. (1954). A modification of the Baermann funnel technique for the
collection of nematodes from plant material. Journal of Helminthology, 18(1/2),
115-117.
Trần, T. T. H., & Nguyễn, T. T. (2011). Nghiên cứu thành phần và mật số tuyến trùng
gây hại trên cây hồ tiêu tại Cam Lộ, Quảng Trị. Tạp chí Khoa học Đại học Huế,
67(4), 5-12.
Trần, V. P. (2012). Thành phần tuyến trùng ký sinh trên gừng tại An Giang. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, (1), 262-267.
Wale, S., Platt, H. W. B., & Cattlin, N. (2008). Diseases, pests, and disorders of potatoes.
London, UK: Manson Publishing.
Wesemael, W. M. L., Taning, L. M., Viaene, N., & Moens, M. (2014). Life cycle and
damage of the root-knot nematode Meloidogyne minor on potato, Solanum
tuberosum. Nematology, 16, 185-192.
Zeck, W. M. (1971). A rating schem for field evaluation of root-knot nematode
infestation. Pflanzenschurtz Nachrichten, 24, 142-144.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tra_thanh_phan_tuyen_trung_hai_khoai_tay_solanum_tubero.pdf